TỔ QUỐC DANH DỰ TRÁCH NHIỆM - NGŨ HỔ TƯỚNG TUẪN TIẾT
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/vn_flag.gif[/IMG][/CENTER]
Hằng năm mỗi khi hoa đào, hoa mai hé nụ đón mùa xuân đến, rồi mùa xuân trôi qua, ngày tang tóc đau thương của toàn thể dân tộc Việt Nam ngày 30/4 lại đến, Ngày 30/4/2011 năm nay ltrong loạt bài này, bằng những tư liệu tìm được, tôi muốn nói về những cái chết oai hùng của 5 Vị Tướng VNCH Tuẫn Tiết, Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG, Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn, Thiếu Tá Vơ Đằng Phương Thiếu tá quận trưởng Bồng Sơn Hoàng Lê Cương (1972) … và hàng trăm ngàn chiến sĩ vô danh khác, đă tự sát để giữ tṛn khí tiết, không để lọt vào tay kẻ thù làm nhục. Họ nêu những gương hy sinh cao quư, tiết liệt, lịch sử ghi nhớ muôn đời để tưởng nhớ và tri ân Những anh hùng liệt sĩ của Quân Lực Việt Nam Công Hòa đă bỏ ḿnh v́ nước.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/toquocghion_5tuong_vnch_a.jpg[/IMG]
[IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Nguyenkhoanam.jpg[/IMG]
[B]Thiếu Tướng NGUYỄN KHOA NAM[/B]
[IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/phamvphu2.jpg[/IMG]
[B]Thiếu Tướng PHAM VĂN PHÚ[/B]
[IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Levanhung.jpg[/IMG]
[B]Chuẩn Tướng LÊ VĂN HƯNG[/B]
[IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/TuongLeNguyenVy.jpg[/IMG]
[B]Chuẩn Tướng LÊ NGUYÊN VỸ[/B]
[IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/tranvanhai.jpg[/IMG]
[B]Chuẩn Tướng TRẦN VĂN HAI[/B]
[IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/hongoccan_01.jpg[/IMG]
[B]Đại Tá HỒ NGỌC CẨN[/B]
[/CENTER]
[I]Còn tiếp ...[/I]
Thiếu Tướng NGUYỄN KHOA NAM
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/001-Bia_Truoc-Color.jpg[/IMG][/CENTER]
Tiểu Sử Tướng Nguyễn Khoa Nam
Tướng Nguyễn Khoa Nam sinh tại Đà Nẵng ngày 23 tháng 9 năm 1927, gốc làng An Cựu Tây, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, xuất thân từ một gia đ́nh văn học, tôn sùng đạo Phật.
Thân phụ ông là cụ Nguyễn Khoa Túc, Thanh Tra Học Chánh thời Pháp thuộc tại Đà Nẵng, hồi hưu năm 1941. Thân mẫu ông là cụ Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc ḍng Tuy Lư Vương. Trong nhiều khía cạnh, ông được thừa hưởng tất cả tinh anh của hai bên nội, ngoại.
Ông là con trai giữa trong gia đ́nh có năm anh em, nhưng hai anh lớn mất sớm, đến năm 1975 chỉ c̣n lại ba chị em. Chị ông là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm, phục vụ trong ngành Y Tế tại Sài G̣n và đă hồi hưu. Em trai là ông Nguyễn Khoa Phước, phục vụ trong ngành Giáo Dục và cũng là cựu Nghị Sĩ dưới chế độ Việt Nam Cộng Ḥa.
Tướng Nguyễn Khoa Nam đậu bằng Thành Chung Pháp năm 1944 sau đó bằng Tú Tài I năm 1946. Tốt nghiệp Trường Hành Chánh Huế, ông làm việc tại Sở Ngân Sách Trung Việt cấp bậc Chủ Sự Pḥng từ năm 1951.
Cũng như nhiều thanh niên cùng lứa tuổi, ông đă bị gọi động viên, gia nhập khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 4 năm 1953. Măn khóa hồi tháng 10 năm 1953, ông đă gia nhập binh chủng Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy. Trong suốt thời gian từ tháng 12 năm 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước vào tháng 7 năm 1954, trên cương vị một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Thiếu Úy Nam đă tham gia nhiều cuộc hành quân trên chiến trường Bắc Việt.
Vào mùa hè năm 1955, là Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, Trung Úy Nam đă tham gia chiến dịch hành quân tảo thanh lực lượng B́nh Xuyên ra khỏi Thủ Đô Sài G̣n. Cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Kỹ Thuật Dù. Trong thời gian này ông được cử đi viếng thăm các trung tâm huấn luyện Nhảy Dù tại Pau (Pháp) và tại Nhật. Đầu năm 1961, ông được thăng cấp Đại Úy. Năm 1962, Đại Úy Nam được đề cử tham dự khóa học về Chiến Tranh Rừng Rậm tại Fort Braggs rồi năm1963, khóa Bộ Binh Cao Cấp tại Fort Benning, Hoa Kỳ.
Cuối năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Tháng 2 năm 1966, đơn vị ông tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngăi do Sư Đoàn 2 Bộ Binh tổ chức nhằm tấn công một đơn vị của Sư đoàn 2 Bắc Việt và do chiến công này Thiếu Tá Nam được trao tặng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Sau đó, ông được vinh thăng Trung Tá và được đề cử giữ chức vụ Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù. Cuối năm 1967, chiến đoàn Dù do ông chỉ huy đă chiến thắng trận đánh đồi 1416 Ngok Van ở Kontum, tiêu diệt một Trung Đoàn Chủ Lực Bắc Việt. Ông được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và là sĩ quan thứ hai của Sư Đoàn Nhảy Dù, sau Trung Tướng Đỗ Cao Trí, được trao tặng huy chương cao quư này lúc c̣n mang cấp bậc trung tá. Ông cũng được gắn huy chương Distinguished Service Medal của Tổng Thống Hoa Kỳ.
Đầu năm Mậu Thân 1968, các chiến đoàn Dù được nâng cấp thành các lữ đoàn. Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù được điều động về Sài G̣n tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sài G̣n - Chợ Lớn và ông được vinh thăng Đại Tá trong thời gian này.
Đầu năm 1970, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Giữa năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng Nhiệm Chức tại mặt trận, cho đến tháng 10 năm 1971 th́ được vinh thăng Chuẩn Tướng Thực Thụ. Năm 1972, ông được vinh thăng Thiếu Tướng Nhiệm Chức và tháng 10 năm 1973 được lên Thiếu Tướng Thực Thụ.
Vào tháng 11 năm 1974, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu 4 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn IV-Quân Khu 4, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă quyết định không đầu hàng địch và đă tuẫn tiết vào sáng ngày 1 tháng 5 để bảo toàn khí tiết của một vị tướng lănh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Ông tự sát khi mới 48 tuổi.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Nguyen_Khoa_Nam_78.jpg[/IMG][/CENTER]
Thương tiếc viết về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam
Cuối tháng 3 năm 1998, anh Thời cựu SVSQ khóa III Thủ Đức đến nhà tôi mượn tấm ảnh của Tướng Nguyễn Khoa Nam và tặng tôi một số đặc san NKN do các anh đồng khoa ấn hành từ mấy năm nay. Anh Thời đă yêu cầu tôi viết vài hàng về anh Nam, người anh ruột của tôi. Tôi xúc động vô cùng ! Từ mấy năm nay, tôi không muốn viết về anh Nam nữa, tôi muốn để cho tâm tư lắng xuống và nỗi buồn chia cắt ruột thịt sẽ vơi theo thời gian, nhưng với anh Thời và cũng như tất cả các anh cựu khóa III Thủ Đức, tôi không thể từ chối được v́ các anh là bạn của anh tôi. Đến giờ phút này, các anh đă ngoài 70, c̣n ngồi lại với nhau để viết cho nhau và cho các chiến hữu QLVNCH những tâm t́nh, những kinh nghiệm, đó là điều đáng quư. Tôi kính trọng các anh là ở chổ đó. Những ǵ tôi viết ở đây về Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam là của chính tôi biết, những ǵ do anh em sĩ quan hay bạn kể lại, nhất là suốt 12 năm trong lao tù Cộng sản, có lẽ tôi muốn kể ra. Thời gian Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam ở trong quân ngũ, từ 1953 đến 1975, tôi rất ít biết v́ anh em tôi phải xa nhau, mỗi người một lănh vực, mỗi người một hoàn cảnh.
1. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, gốc Làng An Cựu Tây, Huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Thành phố Tourane (Đà Nẵng) ngày 23 tháng 9 dl năm 1927.
Gia đ́nh chúng tôi có nhiều anh em nhưng các anh lớn đều mất sớm, đến năm 1975, chúng tôi c̣n một bà chị là Nguyễn Khoa Diệu Khâm, năm nay 82 tuổi đang ở Sàig̣n. Anh Nam và tôi là em út. Anh Nam lớn hơn tôi 8 tuổi, đúng hơn là 7 năm, 7 tháng. Ông thân sinh chúng tôi trước là Thanh Tra Học Chánh tại Đà Nẵng thường gọi là Cụ Thái Thường Nguyễn Khoa Túc, về hưu năm 1941 và về nghỉ hưu tại Huế. Mẹ chúng tôi là bà Công Tôn Nữ Mộc Cẩn, thuộc ḍng Tuy Lúy Vương.
2. Anh Nam học Tiểu học tại Trường Ecole des Garcons thành phố Đà Nẵng, từ năm 1933 đến năm 1939 ra Huế tiếp tục học Lycée Khải Định và ở nội trú. Anh đậu bằng Thành Chung năm 1943 và tiếp tục học lên đến Nhị Cấp. Đến năm 1946, chiến tranh bùng nổ, cả gia đ́nh chúng tôi phải tản cư, lúc bấy giờ anh đă 19 tuổi, định theo kháng chiến trong hàng ngũ Thanh Niên Tiền Phong nhưng Mẹ tôi giữ lại. Năm 1947, hồi cư, anh Nam tiếp tục học lớp Đệ Nhị Toán nhưng sau đó theo học lớp Hành Chánh tại Huế, năm 1951 anh giữ chức chủ sự Tài Chánh cho đến năm 1953 th́ được gọi nhập ngũ Khóa III Thủ Đức. Lúc đó tôi có giấy gọi v́ đă đủ 18 tuổi được miễn v́ c̣n vài tháng nữa tôi phải thi Tú Tài 2.
3. Tháng 9 năm 1953, tôi vào Sàig̣n theo học Faculté des Sciences (Université de Saigon) th́ gặp anh Nam, chủ nhật nào hai anh em chúng tôi cũng gặp nhau, chiều Chủ Nhật, tôi đưa anh lên nhà thương Grall, ở đó có xe của quân trường chở về Thủ Đức.
Tháng 10 năm 1953, anh ra trường t́nh nguyện vào binh chủng Nhảy Dù, đi học chuyên nghiệp rồi theo đơn vị ra Bắc luôn, tôi không hề hay biết ǵ cả (lúc này cha mẹ tôi mất rồi nên anh làm theo ư thích của ḿnh). Măi đến khi nhận được thư anh từ một KBC ngoài Bắc, tôi mới biết anh ở trong đơn vị Nhảy Dù đang hành quân ngoài đó.
Tôi không có ư kiến ǵ v́ biết tính anh tôi khi quyết định rồi thi không thay đổi được.
Tháng 8 năm 1954, sau hội nghị Genève, anh theo đơn vị vào Sàig̣n, tôi đến thăm thấy anh mang lon Trung Uùy. Tôi có hỏi anh năm nay 27 tuổi rồi, ḥa b́nh rồi, có tính chuyện vợ con không? Anh cười và nói "Ḿnh nhảy dù, lấy ai th́ người đó dễ trở thành quả phụ, tội lắm". Tôi biết anh không muốn lấy vợ. Về sau này, bà con, cô bác làm mai mối cho anh nhiều nơi xứng đáng, rồi anh cũng lờ đi.
Năm 1955, anh làm Đại Đội Trưởng thuộc TĐ7ND và hành quân đánh B́nh Xuyên tại Sàig̣n. Sau đó anh được thăng Đại Úy và Sư Đoàn Dù cử anh đi học kỹ thuật ở PAU (Pháp) khoảng 8 tháng. Lúc này anh có mua được một căn phố nhỏ, một pḥng ngủ, một pḥng khách ở Cư Xá Nhảy Dù trước Trường Đua Phú Thọ. Anh vẫn ở căn nhà này, không sửa sang cho đến 30-4-75. Thật ra th́ ít khi về đây phần lớn thời gian ở trong đơn vị, và lại về nhà một ḿnh cũng buồn lắm, có lẽ ở đơn vị vui hơn. Tháng 5 năm 1975, tôi có xuống thăm căn nhà này nhưng thấy hai thằng quân quản đứng đó nên tôi bỏ đi luôn.
Năm 1956, anh Nam ở Pháp về làm Đại Đội Trưởng kỹ thuật Dù trong trại Hoàng Hoa Thám. Anh mang Đại úy từ 1955-1964, qua đầu năm 1965 anh giữ chức Tiểu Đoàn trưởng TĐ5ND, tôi mới thấy anh lên Thiếu Tá.
Từ lúc nắm TĐ5ND, anh đi hành quân khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Năm 1966, khoảng tháng 3, TĐ5ND tham dự cuộc hành quân Liên Kết 66 tại Quảng Ngăi do Sư Đoàn 22 Bộ binh tổ chức anh có về thăm gia đ́nh tôi. Anh rất thương các cháu con tôi và có th́ giờ rảnh là về nhà tôi tấm rửa, ăn cơm và thăm các cháu. Thời gian này, tôi là Hiệu Trưởng trường Trung học Đệ Nhất Cấp Trần Quốc Tuấn Quảng Ngăi.
Đây là lúc anh em chúng tôi gặp nhau nhiều nhất cả thời gian sau này. Thấy anh có vẻ buồn dù ta đang thắng, tôi hỏi anh, anh nói: "Chiến tranh đem lại chết chóc và đau thương, hàng trăm xác Việt Cộng 15, 16 tuổi phơi thây trên núi Tṛn, bên đơn vị ḿnh có mười mấy bạn phải hy sinh, tội quá, vợ con họ ở nhà chắc đau khổ lắm. Kỳ này về phải lo cho gia đ́nh tử sĩ". Lần đó, anh được ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Sau đó tháng 5 năm 1966, TĐ5ND đi Huế về vụ Phật Giáo, cũng là điều bất đắc dĩ.
Năm 1967, thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ3ND. Lữ Đoàn được nổi danh với trận đánh đồi Ngok Van ở Kontum. Cuối năm 1967, anh được thăng cấp Đại Tá với Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.
Năm 1968, LĐ3ND về Sàig̣n tham gia trong trận Mậu Thân 1 và 2 ở ven đô Đô Thành Sàig̣n Chợ Lớn.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Nguyen_Khoa_Nam_70.jpg[/IMG]
Trung Tá Nguyễn Khoa Nam, Lữ Đ̣an Trưởng LĐ3ND đang hướng dẫn Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đ̣an Nhảy Dù xem các chiến lợi phẩm tịch thu được của địch vào Tết Mậu Thân 1968
[IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Nguyen_Khoa_Nam_71.jpg[/IMG]
Dân chúng đang xem vũ khí triễn lăm của Sư Đ̣an Nhảy Dù tịch thu của địch trong trận Tết Mậu Thân 1968[/CENTER]
Năm 1969, được cử giữ chức Tư Lệnh SĐ7BB kiêm Tư Lệnh Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Tháng 11 năm 1969, được vinh thăng Chuẩn Tướng nhiệm chức tại Mặt Trận. Đến tháng 10 năm 1971 được thăng chức Chuẩn Tướng thực thụ.
- Năm 1972, được thăng cấp Thiếu Tướng nhiệm chức.
- Tháng 10 năm 1973 được thăng cấp Thiếu Tướng thực thụ.
Tháng 11 năm 1974, được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV Vùng IV Chiến Thuật cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chiều ngày 1 tháng 5 năm 1975, Trung Úy Danh Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lên Sàig̣n tin cho chị tôi là bà Diệu Khâm biết là Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă tuẫn tiết. Trung Úy Danh nói thêm Thiếu Tướng tự sát vào khoảng nữa đêm 30-4-75 rạng 1-5-75. Ông ngồi trên chiếc ghế bành, mặc quân phục đại lễ với đầy đủ huân chương. Ông dùng tay mặt cầm khẩu Colt 45 bắn vào màng tang bên phải, máu thấm đầy quân phục, đầu ngă sang bên trái. Trên bàn giấy, chiếc cặp của Thiếu Tướng có một số giấy tờ và khoảng 40.000$ tiền Việt Nam. Bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng và một số Chiến hữu lo tẩm liệm và đưa ra an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ ngày 1 tháng 5 năm 1975.
Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1975, chị tôi là bà Diệu Khâm và cô con gái xuống Cần Thơ làm mộ bia Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Tháng 3 năm 1994, người em dâu là bà Nguyễn Khoa Phước từ Sàig̣n về Cần Thơ xin hốt cốt lúc này tôi (Phước) đang ở tù tại trại Nam Hà - Ba Sao). Khi hài cốt được đưa lên, nhà tôi thấy c̣n nguyên bộ xương, đặc biệt hàm răng c̣n rất tốt chưa trám và hư hỏng cái nào, một thẻ bài quân nhân có tên Nguyễn Khoa Nam, một quyển kinh Phật đựng trong bao nylon và một khẩu Browning, bộ xương đă được thiêu liền khi đó, khi thiêu xong tro hài cốt được gia đ́nh đựng trong b́nh sứ, đem về Sàig̣n ngay hôm đó.
Vài ngày sau lễ phục tang được tổ chức tại Chùa Già Lam với sự tham dự đông đủ thân nhân và bà con nội ngoại. Hiện nay tro hài cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được đặt thờ tại chùa Già Lam, đường Lê Quang Định, quận G̣ Vấp, Tỉnh Gia Định.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/tro_cot_tuong_nam.jpg[/IMG][/CENTER]
Nếu nói về con người của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là một chuyện rất khó v́ anh em tôi tuổi cách xa nhau.
Trong gia đ́nh, Tướng Nguyễn Khoa Nam là một người ít nói, thích sống riêng một ḿnh, nhiều lúc có tâm sự ǵ cũng không nói với ai nên có vẻ khó hiểu.
Thời kỳ c̣n làm công chức cũng như khi nắm quyền chỉ huy trong quân đội, tôi thấy Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam sốt sắng với mọi người nhưng lạnh nhạt với bà con thân thuộc, nhiều bà con đă chê trách khi cần nhờ vả việc ǵ.
Tôi nghĩ Thiếu Tướng Nam có t́nh cảm nhưng t́nh cảm san sẻ đồng đều cho mọi người nhất là những người nghèo khổ như gia đ́nh binh sĩ. Bà con đến nhờ vả việc ǵ, ông không tiếp. Là một quân nhân thuần túy. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam không muốn chính trị, tôn giáo xen vào quân đội. Hồi c̣n làm Tư Lệnh SĐ7BB, có một lần một vị Thượng Tọa đến nhờ một việc mà Thiếu Tướng Nam không tiếp, các Cha, các Thầy cũng vậy thôi.
Thiếu Tướng Nam là một nghệ sĩ; hồi nhỏ, lúc c̣n học ở bậc Trung học, đă là một Họa sĩ. Năm 1945, tranh vẽ đă được trưng bầy ở Triển lăm, trong các năm tản cư 1946-1947 suốt ngày ông say mê bên khung vải, tranh vẽ đủ loại sơn dầu, sơn bột, ch́. Cũng là một người có khiếu về âm nhạc và có tŕnh độ kư âm khá.
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ nhỏ luôn luôn thích sống cô đơn, thấm nhuần tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo, ông luôn luôn lầm bầm "Sắc Sắc, Không Không", làm việc có trách nhiệm và chịu khó học hỏi.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Tuong_Nam_Le_Phat.jpg[/IMG][/CENTER]
Hồi Kư: Những Kỷ Niệm Gia Đ́nh Với Tướng Nguyễn Khoa Nam
Rời quê hương đă 25 năm mà h́nh ảnh cậu tôi thỉnh thoảng vẩn hiện về trong giấc ngủ chập chờn. Những kư ức về cậu tôi như là một bức tranh chấm phá. Cậu như là một thế giới riêng đối với tất cả mọi người.
C̣n nhớ lúc tôi khoảng 6,7 tuổi, gia đ́nh ông ngoại chúng tôi ở bến đ̣ Chợ Dinh. Nhà trên dành cho ông ngoại c̣n tất cả ở những căn nhà dưới. Gần đó là chùa Bà La của ḍng họ Nguyễn Khoa. Là cháu ngoại đầu tiên, được ông ngoại cưng nhất. Thỉnh thoảng ông bảo mẹ tôi đưa lên nhà trên để ông cho ăn vài món dành cho ông. Cạnh nhà là một cây mộc lan rất lớn, đến mùa cả trăm cánh hoa nở ra thơm ngát cả vườn. Sau nhà là một vườn cam quít rồi đến một thửa đất rộng trồng bắp, sắn, rau cải tùy mùa. Cạnh sông là một nhà cḥi cao mà trong những trưa hè nóng nực, mấy cậu cháu chúng tôi thường leo lên ngủ trưa để hưởng gió mát từ sông thổi vào.
Vào khoảng năm 51, chúng tôi dọn lên nhà số 64 đường Gia Hội, sau này đổi tên là đường Chi Lăng, ngay lối đi vào đường Trung Bộ. Cậu lúc này đă đi làm việc trong thành nội. Cậu giống như một ông công tử đất Thần Kinh, luôn luôn mặc đồ bộ màu trắng và đặt cơm từ nhà hàng Morin. Cũng giống như ông ngoại, thỉnh thoảng cậu gọi tôi vào cho thưởng thức vài món ăn Tây. Trong ṿng gia đ́nh, ngoài cậu c̣n có anh Hiệp và anh Cẩm. Anh Hiệp là con bác Kinh, người anh kết nghỉa với ông già tôi. Anh Cẩm là chồng chị Yến, con của cậu Sỉ. Anh Hiệp đi Thiết Giáp, anh Cẩm chọn Pháo Binh. Sau này, cả ba đều trở thành những tướng lảnh của QLVNCH.
Măn khóa 3 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cậu t́nh nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù. Vài người trong gia đ́nh nói rằng đúng ra cậu là một nghệ sỉ hơn là quân nhân. Cậu có khiếu về hội họa, vẻ truyền thần và phong cảnh rất xuất sắc. Cậu cũng có khiếu về âm nhạc và giỏi về ngoại ngử, cả Anh và Pháp. Nghe nói cậu có yêu một người đẹp nhưng về sau người này đi Pháp lấy chồng bác sỉ, từ đó cậu không lập gia đ́nh với ai cả. Trong tranh vẻ của cậu có phảng phất h́nh bóng của cô này. Có lẻ đây cũng là một vài huyền thoại trong cuộc đời của cậu.
Trong khoảng thời gian cuối 1953 cho đến ngày chia đôi đất nước, cậu chỉ huy một đơn vị nhảy dù tham dự các cuộc hành quân ở Bắc Việt và trở về Nam sau hiệp định Genẽve.
Năm 62, sau khi tốt nghiệp trường Sỉ Quan Hải Quân Nha Trang, lên thăm cậu tại Sài G̣n, cậu nói: "Đúng ra ngành Bác Sỉ thích hợp với mi hơn, để cậu nói với ông Quyền xem ông có thể giúp mi đi học Quân Y được không?" Cậu thường dùng chử "mi" của người Huế khi gọi tôi. Cậu là bạn học của HQ Đại Tá Hồ Tấn Quyền lúc đó là Tư Lệnh Hải Quân. Tôi cũng chẳng để ư đến chuyện này cho lắm. Sau đó Đại Tá Quyền là người đầu tiên bị đàn em sát hại trong cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm vào cuối năm 63.
Cậu ở trong cấp bậc Đại Úy khá lâu. Vài người nói rằng là Sĩ Quan Nhảy Dù mà cậu rất ít nói, cũng không ăn nhậu với bạn đồng ngũ nên đôi khi bị hiểu lầm từ cấp chỉ huy cũng như bạn bè.
Đến năm 66, hai cậu cháu có cơ hội gặp nhau ở Đà Nẵng lúc cậu chỉ huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang hành quân tại Quảng Ngăi.
Sau trận chiến thắng lẫy lừng của Lử Đoàn 3 Nhảy Dù tại đồi Ngọc Văn, Kontum mà các anh em nhảy dù nói đùa là đồi Ngóc Văng, cậu được Tổng Thống Thiệu cho lựa chọn một trong 3 chức vụ: Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia hay Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Cậu nói rằng Sư Đoàn 1 của Thiếu Tướng Trưởng quá xuất sắc, không thể làm hơn đưọc, vả lại ở Huế nhiều bà con quá c̣n ngành Cảnh Sát th́ không thích hợp với ḿnh. Với Sư Đoàn 7 ḿnh có nhiều cơ hội hơn. Cậu đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh kể từ 1969.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Nguyen_Khoa_Nam_72.jpg[/IMG]
Căn cứ Đồng Tâm Bộ Tư Lệnh Sư Đ̣an 7 Bộ Binh[/CENTER]
Hai vợ chồng tôi có xuống thăm cậu ở Đồng Tâm vào đầu năm 70, cậu bảo ra ngoài dinh Tư Lệnh tại Mỷ Tho mà ở. Ông Thượng Sĩ quản gia mừng rỡ khi có khách: "Ông Tướng ít khi tiếp bà con, thỉnh thoảng mới ra Mỹ Tho một lần".
Cuối năm 1971, tôi được thuyên chuyển về chỉ huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm Hải Quân trong nhiệm vụ yểm trợ cho hai Trung Đoàn 11, 12 Bộ Binh hoạt động trong khu vực Mỹ Tho và Kiến Hoà sau hơn một năm chỉ huy Liên Đoàn 3 Thủy Bộ yểm trợ cho Trung Đoàn 32 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh trong chiến dịch U Minh. Cậu do dự khá lâu v́ không muốn tôi ở gần cậu. Thỉnh thoảng, cậu gọi tôi qua pḥng hành quân Sư Đoàn vào buổi tối. Hai cậu cháu có dịp nói chuyện gia đ́nh cũng như những lời chỉ bảo. Cậu thuờng dặn ḍ: "Mi c̣n trẻ, ở đơn vị chiến đấu nhiều, tương lai tốt, đừng để dính vào những chuyện rắc rối".
Một câu nói mà tôi vẩn c̣n nhớ măi đến ngày hôm nay. Khi nói chuyện về tham nhũng, cậu trầm ngâm nói: "Trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, ḿnh không tham nhũng không có nghĩa là đàn em ḿnh không tham nhũng, nhưng họ chỉ làm ăn vừa đủ sống. Nếu ḿnh tham nhũng th́ họ phải ăn gấp ba: một cho họ, một cho ḿnh, một cho xếp ḿnh. Bổn phận của cấp chỉ huy là phải giữ ḿnh trong sạch". Tôi nhớ lại thời gian c̣n hành quân ở Cà Mâu, trong một lần mời Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Đại Tá Thiều dùng cơm ở Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, hai ông thầy tranh luận về vấn đề tham nhủng. Phó Đề Đốc Minh cho rằng miền Nam không thắng được Cộng Sản là v́ tham nhủng. Ông chỉ cần độ mười ngàn người trong sạch cùng lư tưởng là có thể đánh bức được Cộng Sản. Đại tá Thiều cựi trả lời nhẹ nhàng: "Bạn nói đúng trên lư thuyết. Trong thời chiến tranh, chỉ sống nhờ ngoại viện, một người lính hay cảnh sát lương chỉ đủ sống mươi ngày. Nếu không kiếm chác thêm để nuôi vợ con th́ họ đói hết chẳng c̣n ai để đánh Cộng Sản". Tôi chỉ biết ngồi cười không góp ư kiến. Cả hai ông thầy đều đúng trong một vài khía cạnh nào đó.
Thỉnh thoảng nhận được trợ cấp từ Phủ Tổng Thống, cậu chia hết cho các Trung Đoàn. Trong những lần hành quân phối hợp, vài vị Trung Đoàn Trưởng nói đùa rằng tiền ông Tưóng cho ít quá, không biết thế nào chia cho đàn em.
Cậu ở trong một trailer đơn giản do Quân Lực Mỹ để lại và hầu như ăn chay trường. Hàng tháng cậu đều gởi tiền về cho mẹ tôi. Thỉnh thoảng bà già vợ xuống Đồng Tâm thăm chúng tôi, bà thường nấu đồ chay mời cậu. Cậu thường nói: "Ḿnh ăn chay để đở chết lính".
Cũng trong thời gian này, có dự tính giới thiệu một người bà con của bà Tổng Thống cho cậu. Tôi hỏi cậu chuyện này. Cậu cười: "Làm bà con với Tổng Thống th́ khó làm việc lắm".
Có vài điều mà khi c̣n ở Việt Nam, tôi không muốn chia xẻ với cấp chỉ huy. Mỗi lần có đoàn công voa Cửa Tiểu - Nam Vang là có lệnh điều động từ pḥng hành quân Sư Đoàn qua Kiến Ḥa phối hợp với Trung Đoàn 12, bỏ trống sông Tiền Giang cho dến khi đoàn công voa đi qua khỏi khu vực hoạt động của Sư Đoàn. Cậu chỉ nói thoáng qua về những hoạt động t́nh báo chiến lược có từ thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm với sự phối hợp của Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Đài Loan. Những hoạt động này đ̣i hỏi ngân sách riêng không thể phổ biến đưọc.
Đây là khoảng thời gian thoải mái nhất trong đời binh nghiệp. Sự liên hệ với cậu đă giúp tôi vượt qua rất nhiều khó khăn, giữ được sự trong sạch của ḿnh mà không đụng chạm đến chuyện người khác. Tuy nhiên, đến cuối năm 72, một sỉ quan đàn em có gốc gác ở Mỷ Tho gặp tôi ngỏ ư hoán chuyển về Liên Đoàn Đặc Nhiệm tại Bến Lức. Thấy ḿnh ở chức vụ cũng khá lâu, tôi nói cho cậu biết ư định của ḿnh. Cậu chỉ mỉm cựi không nói năng ǵ hết. Tôi về Hạm Đội thay v́ Liên Đoàn Đặc Nhiệm tại Bến Lức do trục trặc kỷ thuật tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Rời Mỷ Tho được mấy tháng là xảy ra vụ c̣i hụ Long An mà báo chí thời đó có cơ hội tấn công chính quyền về vấn đề tham nhũng và buôn lậu. Vài anh em trong Hải Quân nói đùa rằng tôi đẻ bọc điều, vụ ǵ cũng tai qua nạn khỏi nhưng họ không biết rằng những chịu đựng mà tôi phải vượt qua v́ đựng binh nghiệp của ḿnh. Vài lần nói chuyện phiếm với anh em: "Trong thời tao loạn, khôn cũng chết, dại cũng chết, biết nhiều khi cũng ngất ngư".
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/Nguyen_Khoa_Nam_74.jpg[/IMG]
Lễ kỷ niệm 18 năm thành lập Sư Đ̣an 7 Bộ Binh[/CENTER]
Về Hạm Đội được gần một năm th́ lại được biệt phái ra Đà Nẵng cùng với HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc v́ t́nh h́nh sôi động tại Hoàng Sa. Sau khi Hoàng Sa bị Trung Cộng cưỡng chiếm, tôi được chuyển qua làm Chỉ Huy Trưởng Hải Đội I Duyên Pḥng. Có vài nguồn tin nói rằng Hải Đội sẽ là đơn vị đầu tiên đưọc trang bị các PTF nhưng sau đó mọi chuyện im luôn. Cậu vẫn tiếp tục dặn ḍ: "Mi ráng cẩn thận, Đà Nẳng không khác ǵ Vũng Tàu, Mỷ Tho đâu". Vụ buôn lậu Mỹ Khê xảy ra sau đó, lại một lần lao đao.
Cuối năm 74, được tin cậu đuợc bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV kiêm Vùng 4 Chiến Thuật trong khi ở Vùng 1 những biến chuyển dồn dập báo hiệu ngày tàn của cuộc chiến càng ngày càng đến gần. Tôi qua năn nỉ riêng Đại Tá Thiều cho sửa tất cả các chiến đĩnh của Hải Đội.
Đà Nẵng hỗn loạn trong trong những ngày cuối tháng 3 và sau cơn mưa pháo vào Tiên Sa đêm 29, Quân Đoàn I cũng như Vùng I Duyên Hải xem như tan hàng. Trong những ngày cuối cùng ở Vũng Tàu sau khi di tản từ Đà Nẵng và Cam Ranh, với tâm lư hoang mang và chán nản đến cùng cực, tôi cố gắng liên lạc lần cuối với cậu xem cậu có đồng ư để tôi về Cần Thơ không. Cậu chỉ cho một Sỉ Quan nhắn tôi cứ ở Vũng Tàu. Có lẻ cậu đă nh́n đưọc ngày tàn của cuộc chiến và những điều bất hạnh sẽ giáng lên đầu quân dân miền Nam.
Qua Hoa Kỳ đang ở trại tỵ nạn th́ những người qua sau cho biết cậu đă tự sát để khỏi đầu hàng địch quân. Cậu cũng như vài Tướng Lảnh khác của miền Nam đă chọn cái chết để giữ tṛn khí tiết của người tướng không c̣n giữ được thành. Dù rằng với một Quân Đoàn IV đang c̣n nguyên vẹn, cậu đă không ra lệnh tử chiến để cứu sanh mạng của hàng trăm ngàn quân dân vô tội.
Trong thời gian về Việt Nam làm việc cho một dự án tài trợ ngắn hạn, tôi thường lên chùa Già Lam ở G̣ Vấp thắp vài nén hương trước bàn thờ thân phụ tôi và cậu. Nh́n nét mặt nghiêm trang của cậu trong bộ quân phục Nhảy Dù, những kỷ niệm gia đ́nh lại hiện về trong tâm tưởng. Cậu vẫn sống măi trong ḷng quê hương và dân tộc.
Nguyễn Thái Dương
Còn tiếp ...
Xin được gửi tăng một bài thơ nhỏ của tôi đến cố Thiếu Tướng!
Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam
Trời ngàn tinh tú tiễn anh hùng
Đời liệt oanh đó cùng đức trung
Măi măi chói ḷa v́ chánh tướng
Lưu danh sử sách dạ can trường
THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ
[I]Thiếu tướng Phạm Văn Phú (1929-1975) là Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đă tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.[/I]
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/phamvphu2-1.jpg[/IMG][/CENTER]
[B]Tiểu sử[/B]
Ông sinh năm 1929 tại Hà Đông.
Năm 1953, Phạm Văn Phú tốt nghiệp Học viện Vơ bị Liên quân Đà Lạt khóa 6, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy dù của quân đội Liên Hiệp Pháp.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp và bị Việt Minh bắt giam cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều quân nhân khác. [1]
Sau Hiệp định Geneve, ông được trao trả và phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng ḥa.
Năm 1962, Phạm Văn Phú thăng cấp Thiếu tá và giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn Quan sát 77 Lực lượng Đặc biệt.
Năm 1964, Phạm Văn Phú được thăng Trung tá và giữ chức Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt.
Năm 1966, được thăng cấp Đại tá, giữ chức Tư lệnh Phó Sư đoàn 2 Bộ binh sau đó làm Tư lệnh Phó Sư đoàn 1 Bộ binh.
Năm 1968, Phạm Văn Phú được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 và năm 1969 được thăng cấp Chuẩn tướng.
Năm 1970, ông giữ chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và sau đó được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Năm 1971, ông được thăng Thiếu tướng.
Năm 1974, Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật.
Giữa tháng 4 năm 1975, trong khi ông lâm bệnh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đổ hết trách nhiệm về việc thất thủ ở Cao Nguyên lên vai tướng Phú.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Phú tự sát bằng cách uống một liều thuốc cực mạnh và chết vào trưa ngày 30 tháng 4, sau khi Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/04phamvanphu.jpg[/IMG][/CENTER]
[B]Vinh Danh Thiếu Tướng Phạm Văn Phú,[/B]
Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài G̣n, người ta đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II & Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đă uống thuốc độc chết cùng với vận nước. Từ cái ngày người bị trọng thương và sa vào tay giặc ở Điện Biên Phủ tháng 5.1954, rồi được trả về cho Việt Nam Cộng Ḥa sau ngày kư Hiệp Định Geneva 20.7.1954, Thiếu Tướng Phú đă thề với ḷng là người thà chết chứ không chịu nhục nhă lọt vào tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy người đă giữ trọn, người chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan khuất về cuộc triệt thoái Quân Khu II không mong muốn. C̣n nhớ tại trận Điện Biên Phủ, toàn tiểu đoàn của Đại Úy Phú chỉ c̣n có 100 tay súng mà phải ngăn chống một số lượng quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với địch và giành lại được hơn 100 thước chiến hào. Đại Úy Phú và một số các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngă và một vài giờ sau đó bị sa vào tay giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của Đại Úy Phú tái phát và ông mang bệnh lao.
Định mệnh vẫn c̣n muốn cho người anh hùng được sống, để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc, sau tháng 7.1954 Đại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Ḥa. Vị Tướng mảnh khảnh người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đă nhanh chóng trở thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau hết Tư Lệnh Quân Đoàn II & Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này, Thiếu Tướng Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia, mà đă vượt ra khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông.
Người ta cho rằng việc thất thủ Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có thể dùng quân luật và quân lệnh để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút quân, thậm chí đặt ông vào t́nh trạng bất khiển dụng v́ lư do sức khỏe ngay trong ngày 14.3.1975, hai ngày trước khi Quân Đoàn II rút quân ra khỏi cao nguyên. Thiếu Tướng Phú đau ḷng theo dơi các mũi tiến quân của địch, như những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết hai phần ba lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của ḿnh cũng co ngắn lại cùng với số mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu mốc đă tràn ngập khắp phố phường Sài G̣n trong ngày 30.4.1975, người chọn cái chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rơ ư chí bất khuất của người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Còn tiếp ...
Tư Lệnh QĐ 2 Phạm Văn Phú, Ngày Cuối Tại Quân Khu II
[B]T́nh h́nh mặt trận Khánh Ḥa-Ninh Thuận[/B]
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/02phamvanphu-193x302.jpg[/IMG][/CENTER]
Sau khi chiếm Tuy Ḥa và các quận tỉnh Phú Yên vào rạng sáng ngày2 tháng 4/1975, Cộng quân gia tăng áp lực tại mặt trận KhánhḤa-Ninh Thuận. Vào thời gian này, lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 chỉ c̣n trông cậy vào 2 tiểu đoàn vừa tái chỉnh trang củaSư đoàn 23 Bộ binh và một 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 40 thuộc Sư đoàn 22 Bộ binh (đơn vị của Trung đoàn 40 có mặt tại Khánh Ḥa tư trước tháng 4/1975), 2 tiểu đoàn Biệt động quân. Các tiểu đoàn nói trên chỉ c̣n khoảng 2/3 số quân sĩ tại hàng.
Cũng như nhiều thành phố khác tại Quân khu 2 (Vùng 2), trong suốtthời gian từ cuối tháng 3 đến những ngày đầu tháng 4, Nha Trangkhông tránh được sự hỗn loạn, nhốn nháo. Trong ngày 2 tháng4/1975, không có lực lượng nào có đủ sức duy tŕ trật tự cả an ninh trong thành phố. Theo tài liệu của Đại Tướng Cao Văn Viênth́ Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 vẫn tiếp tục hoạt động tại Nha Trang đến hết ngày 2/4/1975. Tuy nhiên theo hồi kư của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2, th́ tối ngày1/4/1975, Tướng Phú và một số sĩ quan đă ngủ lại tại bộ chỉ huycủa một tiểu đoàn Địa phương quân pḥng thủ căn cứ Không quân ởPhan Rang. Trong hai ngày đầu của tháng 4/1975, trận chiến đă diễn ra tại một số nơi trong địa phận tỉnh Khánh Ḥa, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào một số doanh trại quân đội gần Nha Trang.
Rạng sáng ngày 3/4/1975, Cộng quân bắt đầu tung quân tiến chiếmNha Trang, 7 giờ sáng cùng ngày Bộ Tổng tham mưu ở Sài G̣n nhận được báo cáo là Cộng quân đă kiểm soát thành phố Nha Trang. Cùng thời gian này, thành phố Cam Ranh cũng bắt đầu di tản. Tại Ninh Thuận, gần một nửa số tiểu đoàn Địa phương quân tỉnh NinhThuận đă triệt thoái khỏi vị trí pḥng thủ. Tuy nhiên nhờ có các tiểu đoàn Nhảy Dù đương pḥng ngự gần Phan Rang nên Cộng quân không mở được những cuộc tấn công vào thị xă này.
[B]* Những giờ cuối cùng của Tư lệnh Quân đoàn 2[/B]
Những giờ cuối cùng của Thiếu Tướng Phú tại Nha Trang đầy bi tráng. Trong nhật kư hành quân mang sang Mỹ được và được phổ biếntrong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Thiếu tá Phạm Huấn – sĩ quan Báo chí-đă ghi lại một số sự kiện xảy ra cho vị tư lệnh Quân đoàn 2 với nội dung được tóm lược như sau:
5 giờ 50 chiều ngày 1/4/1975, Thiếu tướng Phú vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân ở Nha Trang, nhưng vị tư lệnh Sư đoàn này đi vắng. Ôngphải ngồi ngồi đợi, 20 phút sau th́ Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân và Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng, Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân, bước vào. Lúc bấygiờ , Thiếu tướng Phú ngồi ở chiếc ghế sát bàn của Tư lệnh của Sư đoàn 2 Không quân. Tướng Lượng và Tướng Oánh thấy Thiếu tướng Phú không chào hỏi và tới ngồi ở bàn khác đối diện. Thấy thái độ và cách xử sự khác thường của vị tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân, một
trong 2 sư đoàn Không quân thống thuộc quyền điều động của bộ tư lệnh Quânđoàn 2, Thiếu tướng Phú hơi ngạc nhiên nhưng rồi ông chợt hiểu. Ông hỏiTướng Lượng:
-Có chuyện ǵ xảy ra?
Chuẩn tướng Lượng không trả lời, mặt lầm ĺ. C̣n Chuẩn Tướng Oánh, với giọng từ tốn, lễ độ nói với Thiếu tướng Phú:
-Tôi muốn thưa với Thiếu tướng tôi được chỉ định làm Tư lệnh Mặt trận Nha Trang, v́ Quân đoàn 2 không c̣n nữa. Tướng Phú mặt biếnsắc, hỏi dồn:
-Lệnh ai? Anh nhận lệnh ai?
Tướng Oánh vẫn điềm đạm, chậm răi nói: Thưa Thiếu tướng, lệnh của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam, của Trung tướng Đồng Văn Khuyên từ Sài G̣n.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/phamvphu2.jpg[/IMG][/CENTER]
Nghe Tướng Oánh tŕnh bày, Tướng Phú cảm thấy danh dự bị tổn thương, v́ theo tổ chức quân đội, người có quyền ra lệnh cho ông là Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, c̣n Trung tướng Khuyên là Tham mưu trưởng, không có quyền ra lệnh cho các Tư lệnh Quân đoàn, về vai vế và quyền hạn th́ Tư lệnh quân đoàn và Tư lệnh quân chủng chỉ xếp sau Tổng tham mưu trưởng. 18 giờ 40 Tướng Phú dùng điện thoại tại văn pḥng Tướng Lượng để gọi về Sài G̣n gặp trung Tướng Khuyên. Ngay từ câu đầu tiên, Tướng Phú đă hét lên trong ống liên hợp:
-Trung tướng hỏi tôi đi đâu à? Tôi bay chỉ huy.
Sau một hồi tranh cải, Tướng Phú nói lớn:
-Tôi là Tư lệnh Quân đoàn. Đi đâu, đó là quyền của tôi. TrungTướng Thuần (Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan) cùng đi trên máybay chỉ huy của tôi mấy tiếng đồng hồ, nhưng tôi không cần trungTướng phải tin. Và tôi cũng không phải tŕnh Trung tướng.
19 giờ 45 phút cùng ngày, Tướng Phú ra trực thăng bay về PhanRang. Khi ông vừa ngồi lên xe Jeep để ra băi đậu trực thăng, th́một sự việc bất ngờ xảy ra. Một xe chở đầy lính và vũ khí phóng tới, một Thiếu tá Không quân nhẩy xuống nói lớn:
-Tại sao, tại sao, các ông là Tướng lại bỏ lính chạy. Ai pḥng thủ căn cứ này.
Khi đó, Thiếu tá Huấn cùng đi với Tướng Phú, đă ngồi đè lên ngườiTướng Phú, và chĩa khẩu AR 18 về phía người sĩ quan này và nói:”Anh không được vô lễ, ông Tướng Tư lệnh Quân đoàn không có nhiệm vụ phải pḥng thủ căn cứ Không quân”. Cuối cùng th́ mọi việc êm xuôi, Tướng Phú hiểu được sự phẫn nộ của vị sĩ quan Không quân và những người lính đi cùng.
[B]* Quân đoàn 2 bàn giao phần lănh thổ c̣n lại cho Quân đoàn 3.[/B]
Đêm 1 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phú nằm dưới chân núi, trên một cái giường bố, tại ban chỉ huy của một tiểu đoàn Địa phương quân Ninh Thuận, pḥng thủ căn cứ Phan Rang. 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng 1/1975, Tướng Phú bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” ở Phan Thiết chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, để thảo luận về việc bàn giao phần lănh thổ c̣n lại của Quân đoàn 2 & Quân khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân đoàn 3.
Theo kế hoạch,Quân đoàn 3 chính thức phụ trách tuyến Ninh Thuận-B́nh Thuận từ ngày 3/4/1975. Vào giờ này, Bộ Tham mưu của Thiếu tướng Phú chỉ c̣n lại Thiếu tá Vinh,chánh văn pḥng; Thiếu tá Hóa, tùy viên; Thiếu tá Huấn, sĩ quan báo chí và Đại tá Đức, Quyền Tư lệnh Sư đoàn 23BB.
Đúng 2 giờ 12 phút chiều cùng ngày, Thiếu tá Hóa tŕnh vơ’i Tướng Phú là trực thăng của Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi Thiếu tá Hóavừa quay gót, Thiếu Tướng Phú rút khẩu súng ngắn ra khỏi vỏ, nhưng tiếng hét thất thanh của Đại tá Đức vang lên: “ThiếuTướng!”, ngay sau đó, khẩu súng trên tay Tướng Phú bi. Đại tá Đức gạt bắn xuống đất. Tướng Phú không chết trong ngày 2 tháng4/1975, nhưng 28 ngày sau ông đă tự sát tại Sài G̣n.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/01phamvanphu_nvt.jpg[/IMG][/CENTER]
[B]* Cuộc hội ngộ cuối cùng của hai vi. Tư lệnh Quân đoàn:[/B]
Cũng theo nhật kư của Thiếu tá Huấn, trước đó vào 5 giơ` chiều ngày 30 tháng 3/1975, Tướng Phú đă bay ra Cam Ranh, để cùng với Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, Tư lệnh Hải quân Vùng hai duyên hải, đi trên một soái hạm chỉ huy ra vùng biển ngoài Cam Ranh để đónTrung tướng Trưởng đang bị bệnh nằm trên tàu HQ 404 từ Cam Ranh vào (Tướng Trưởng đă phải bơi từ bờ để ra tàu hải quân đậu ngoài biển). Trên tàu lúc này có rất đông chiến binh Thủy quân Lục chiến từ Quân khu 1 vào. Tướng Phú và Phó Đề đốc Minh phải khó lắm mới lách xuống được chỗ Tướng Trưởng nằm dưỡng bệnh.
Theo ghi nhận của Thiếu tá Huấn, có mặt vào giờ phút đó, th́ lúc này TướngTrươ?ng thở thoi thóp nhờ b́nh nước biển. Quanh Trung tướng Trưởng có Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng), Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh trưởng Thừa Thiên. Tướng Phú ghé sát tai Tướng Trưởng hỏi hai lần, nhưng sắc diện Tướng Trưởng không thay đổi. Nhưng rồi có một giây Tướng Trưởng ngước nh́n lên. Đôi mắt như muốn bật máu v́ uất ức. Chi tiết về cuộc gặp gở này cũng đă được Hải quân Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, hạm trưởng HQ 404 kể lại trong một bài viết phổ biến vào năm 1995. Có một điểm khác biệt về mốc thời gian là tài liệu của Trung tá Nhơn th́ lại ghi là cuộc gặp gở giữa Tướng Phú và Tướng Trưởng diễn ra vào tối ngày 1/4/1975, (nhật kư của Thiếu tá Huấn ghi là 5 giờ chiều 30/3/1975, như đă tŕnh bày ở trên). Trong khi đó theo lời kể của một số sĩ quan đi theo Tướng Trưởng, HQ 404 rời Đà Nẵng ngày29/3/1975 và đến chiều ngày 30/3/1975 th́ đă vào vùng biển ở ngoài Cam Ranh.
Theo lời của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, tối ngày 1/4/1975, Tướng Phú đă đi tàu nhỏ cập vào chiến hạm để lên tàu thăm và nói chuyện với Tướng Trưởng. T́nh cờ khi vào pḥnglấy hồ sơ, ông Nhơn đă nghe câu nói của Tướng Phú: “Dù sao đi nữa tôi cũng c̣n vài tiểu khu ở đây với tôi chiến đấu”. Cũng cần ghinhận rằng Tướng Phú đă có một thời gian làm việc chung với Tướng Trưởng : năm 1967, khi c̣n là đại tá, ông là Tư lệnh phó Sư đoàn 1 do Tướng Trưởng làm tư lệnh; năm 1972, khi Trung tướng Trưởng là Tư lệnh Quân đoàn 1 th́ Tướng Phú là Tư lệnh Sư đoàn 1 thuộc Quânđoàn này). Cuộc gặp gỡ của hai vị tư lệnh Quân đoàn diễn ra đúng 10 phút. Sau đó, Thiếu tướng Phú đứng nghiêm chào từ biệt Trung tướng Trưởng.Rồi ông bước nhanh ra khỏi căn pḥng nhỏ của chiến hạm, những sự kiện bi tráng chờ đợi ông, người hùng Điện Biên Phủ năm nào!
Vương Hồng Anh
Những Ngày Cuối Cùng của Tướng PHẠM VĂN PHÚ
[B]Những Ngày Cuối Cùng của Tướng PHẠM VĂN PHÚ[/B]
Năm 1960, được tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Cuối năm 1962, thăng cấp Thiếu Tá và giữ chức vụ Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Quan Sát 77 Lực Lượng Đặc Biệt. Giữa tháng 5/1964, ông đă chỉ huy liên đoàn này đánh tan Trung Đoàn 765 Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần cuối năm 1964, ông được thăng Trung Tá và giữ chức tham mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. Một năm sau, ông được thăng Đại Tá nhiệm chức.
Đầu năm 1966, không hiểu v́ lư do ǵ, ông bị vị Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt tŕnh Bộ Quốc Pḥng thâu hồi cấp Đại Tá nhiệm chức và thuyên chuyển ra miền Trung, giữ chức Phụ Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, giữa năm 1966, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, xử lư thường vụ Tư Lệnh Sư Đoàn này. (Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lăm, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 1 Vùng 1 Chiến Thuật vào cuối tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư Đoàn 1 Bộ Binh làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm 1969, được thăng cấp Chuẩn Tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, Chuẩn Tướng Phú được cử thay thế Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt.
Gần cuối tháng 8/1970, Tướng Phú được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thay thế Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, được cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4. Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu Tướng tại mặt trận sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai Đại Tá được thăng cấp chuẩn tướng: Đại Tá Vũ Văn Giai — Tư Lệnh phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Đại Tá Hồ Trung Hậu — Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đă điều động, phối trí các trung đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh giữ vững pḥng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9/1972, ông bàn giao Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Đại Tá Điềm, Tư Lệnh Phó, xử lư thường vụ. Từ 1973 đến tháng 10/1974, ông giữ chức chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn luyện Quang Trung.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/pvp.jpg[/IMG][/CENTER]
Tháng 11/1974, thể theo đề nghị của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă kư sắc lệnh cử ông giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn.(Tướng Toàn trở lại binh chủng Thiết giáp, giữ chức chỉ huy trưởng).
Nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 không phải do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại Tướng Cao Văn Viên — Tổng tham mưu trưởng — đề nghị, nên Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để điều hành bộ Tư Lệnh. Thông thường, các Tư Lệnh Quân Đoàn được quyền chọn lựa tham mưu trưởng, sau đó, bộ Tổng tham mưu sẽ ban hành quyết định hợp thức hóa, thế nhưng Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă bị bộ Tổng tham mưu “hạn chế” các quyền hạn dành cho Tư Lệnh Quân Đoàn. Khi Tướng Phú nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 2, vị tham mưu trưởng đương nhiệm là Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm.(Trong thời gian từ 1967 đến tháng 6/1968, khi Tướng Phú c̣n mang cấp Đại Tá và giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh th́ tướng Cẩm c̣n là Trung Tá, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn này).
Trong những tuần lễ đầu tiên, Tướng Phú đă hai lần đề nghị hai vị Đại Tá giữ chức vụ tham mưu trưởng Quân Đoàn thay chuẩn tướng Cẩm được bổ nhiệm làm Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh Quân Đoàn 2, nhưng cả hai lần đều bị Trung Tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân tŕnh với Đại Tướng Cao Văn Viên bác bỏ. Cuối cùng, theo đề nghị của Trung Tướng Khuyên, Đại Tướng Cao Văn Viên đă bổ nhiệm Đại Tá Lê Khắc Lư, nguyên tham mưu trưởng bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 1 giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2. Dù vị tham mưu trưởng không do ḿnh chọn lựa, nhưng Tướng Phú đă tin dùng và ủy nhiệm cho Đại Tá Lê Khắc Lư nhiều quyền hạn trong việc điều hành Bộ Tư Lệnh.
Trước khi cuộc chiến Cao Nguyên (năm 1975) bùng nổ, Tướng Phú được Đại Tá Trịnh Tiếu, Trưởng Pḥng 2 Quân Đoàn tŕnh bày về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu v́ sao, Tướng Phú không tin và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, c̣n Ban Mê Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân muốn tạo thế trận nghi binh. Trận chiến Ban Mê Thuột đă bùng nổ vào rạng sáng ngày 10 tháng 3/1975.
Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14 tháng 3/1975, trong một cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Sau khi lực lượng Quân Đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang, 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ quan thân tín đă bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” để chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu — Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 3 — tới nhận bàn giao phần lănh thổ cuối cùng của Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Vào giờ phút đó, quanh Tướng Phú chỉ có: Đại Tá Đức –nguyên Phụ Tá Tư Lệnh Quân Đoàn 2 đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu Tá Vinh, chánh văn pḥng; Thiếu Tá Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu Tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí. Chính tại đây, Tướng Phú đă có quyết định tự sát, nhưng Đại Tá Đức đă kịp thời cản ông. Theo lời kể của Thiếu Tá Phạm Huấn, vào lúc 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu Tá Hóa tới tŕnh cho Tướng Phú là trực thăng của Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu Tá Huấn đứng gần Tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi Thiếu Tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn ṇng ra khỏi vỏ. Nhưng tiếng hét thất thanh của Đại Tá Đức: “Thiếu Tướng”. Khẩu súng trên tay Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Sự việc này xảy ra quá bất ngờ…
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/05phu.jpg[/IMG]
Hình gia đình Tướng Phạm Văn Phú[/CENTER]
Giữa tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh, vào điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Ḥa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại Tá Phạm Văn Chung, cựu Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, nguyên tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Quảng Nam, đă vào thăm Tướng Trưởng và Tướng Phú đang nằm dưỡng bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại Tá Chung đă nghe Tướng Phú trăn trối, và kể lại như sau:
…Rời pḥng Trung Tướng Trưởng, tôi (Đại Tá Chung) qua pḥng kế bên cạnh là pḥng của Thiếu Tướng Phú, cũng đang nằm dưỡng bệnh kế đó. Bước vào pḥng tôi thấy Thiếu Tướng Phú đứng dậy ngay và bắt tay tôi bằng một giọng hằn học, tức tối: “Anh Chung, anh từng hành quân với tôi đă lâu…”
Nói đến đây Thiếu Tướng Phú ôm tôi và khóc tiếp với giọng nghẹn ngào, tức tối:
“…mà đêm qua, Tổng Thống Thiệu lên đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lănh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ về hỏi Trung Tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung Tướng của anh nữa đấy, tôi đă xin Tổng Thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi giá, Tổng Thống không chịu, bắt tôi phải rút… có cả Đại Tướng Viên và Đại Tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng Thống nói chuyện với toàn dân đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục”.
Tôi (Đại Tá Chung) không khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức của một vị đàn anh đáng kính như Thiếu Tướng Phú, nên tôi hết lời an ủi và khuyên Thiếu Tướng hăy b́nh tỉnh và nên tĩnh dưỡng.
[CENTER][IMG]http://i285.photobucket.com/albums/ll63/nguoibatcao/06phu3.jpg[/IMG][/CENTER]
Đó là lần cuối cùng Đại Tá Chung gặp Tướng Phú. Sáng ngày 29 tháng 4/1975, tại căn nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ t́m cách di tản, Tướng Phú đă uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Người em trai của bà Phú sau khi biết tin này đă chạy tới vào cho bà biết.
Cả gia đ́nh quay về. Theo lời kể của con trai Tướng Phú, đă vượt biên sang Mỹ, những giờ cuối của Tướng Phú được ghi nhận như sau: Nhờ có các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng Tướng Phú mê man liên miên, măi đến trưa ngày 30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi người vợ đang ngồi cạnh:
- T́nh h́nh đến đâu rồi?
Bà Phú nói:
- Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản đă vào tới Sài G̣n!
Nghe xong Tướng Phú nhắm mắt lại và “ra đi”.
[U][SIZE="4"][B][I]Thông tin thêm:[/I][/B][/SIZE][/U]
Bà quả phụ Thiếu Tướng Phạm Văn Phú qua đời tại San Jose 2/12/2011 &
Phu nhân Cố Thiếu Tướng PHẠM VĂN PHÚ
Khuê danh ĐỖ THỊ LÂM ĐỆ
Pháp danh Từ Ân
đă tạ thế ngày 12 tháng 2 năm 2011
tại San Jose – California, USA
Hưởng thọ 77 tuổi
Kỳ sau: [B][SIZE="4"]Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng[/SIZE][/B]