Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn
1) [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/gialong.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Vua Gia Long (vị vua sáng lập triều Nguyễn)[/COLOR]
2) [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/hoang-tu-canh.jpg[/IMG]
H[COLOR="#008080"]oàng tử Cảnh (h́nh vẽ bên Pháp bởi họa sĩ Maupérin vào năm 1787)[/COLOR]
3)[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/vua_Minh_Mang.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Vua Minh Mạng, trị v́ (1820-1840)[/COLOR]
[SIZE=2][I]* Trong số hàng trăm phi tần, vua Minh Mạng chỉ sủng ái bà Hiền phi Ngô Thị Chính và và Lệ tân Nguyễn Gia Thị. Bà Ngô Thị Chính đă sinh cho vua 5 hoàng tử và 4 công chúa[/I][/SIZE].
4) Vua Thiệu Trị, trị v́ (1841 - 1847)
* [IMG]http://www.art2all.net/chude/namphuong/ba_tudu_t.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức[/COLOR]
5) [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/vua_Tu_Duc.jpg[/IMG]
Vua Tự Đức (1847-1883)
(c̣n tiếp)
Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn
(tiếp theo)
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/cac_ba_vo_vua_TuDuc.jpg[/IMG]
Oái oăm thay! vua Tự Đức không có con để truyền ngôi; v́ thuở nhỏ Vua Tự Đức mang bệnh Đậu mùa nên bị tuyệt tự!
Vua Tự Đức xin nhận 3 người con trai của 2 người em làm con nuôi.
6) Vua Tự Đức băng hà, truyền ngôi lại cho người con (nuôi) trưởng là Ưng Chân và theo di chiếu có đoạn ghi:
"[I][COLOR="#008080"]V́ tiên liệu Trẫm đă nuôi sẵn ba con. Ưng Chân lớn tuổi nhất, từ lâu đă đến tuổi trưởng thành, tuy nhiên mắt hơi có tật, dù xưa nay vẫn dấu kín, sợ sau nầy không c̣n thấy sáng, tánh lại hiếu dâm, v́ tâm tính rất xấu, không chắc đảm đương nổi việc lớn. Nhưng đất nước cần có vua lớn tuổi. Trong thời thế khó khăn nầy không dùng Ưng Chân th́ dùng ai ? ...[/COLOR][/I]"
7) Ưng Chân lên ngôi lấy hiệu là [B]Dục Đức[/B], lên ngôi được 3 ngày, 1883 (v́ bị hai ông Phụ chính Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyết phế với sự ngầm thuận của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ).
Truất phế Dục Đức rồi, hai ông Phụ chính Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết tôn em của vua Tự Đức là Lạng Quốc Công, tên là Hường Dật, lên làm vua, đặt niên hiệu là [B]Hiệp Hoà[/B].
8) Vua Hiệp Hoà, trị v́ được 4 tháng (1883), biết hai Quan Phụ chính Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết lộng quyền; Vua Hiệp Hoà t́m cách giảm bớt quyền bính của Tường và Thuyết, do đó Vua Hiệp Hoà bị ép uống thuốc độc mà chết.
9) Dưỡng Thiện, tên là Ưng Đăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Đức lên ngôi vua lấy niên hiệu là [B]Kiến Phúc[/B], trị v́ được 6 tháng (1884). Vua chỉ có 15 tuổi, mọi việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả. Sau đó Vua Kiến Phúc bị Nguyễn văn Tường bỏ độc dược vào thuốc trị bệnh mà chết.
10) [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/HAMNGHI.JPG[/IMG]
Vua Hàm Nghi, trị v́ (1884-1885)
* [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Dam_cuoi_vua_HamNghi3.jpg[/IMG]
Đám cưới của Vua Hàm Nghi (1904)
([COLOR="#008080"][I]Sau khi Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ người kế vị là Chánh Mông, con nuôi thứ 2 của Vua Tự Đức, nhưng hai Quan Phụ chính đă chọn Ưng Lịch là em ruột ông Chánh Mông mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, v́ e ngại Chánh Mông lớn tuổi sẽ không để Tường và Thuyết chuyên quyền[/I][/COLOR])
(c̣n tiếp)
Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn
(Tiếp theo)
11) [IMG]http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcT_lRRvFmtNms9ebA7d8al5ziSWYsB6acaHVr1kMLPK4O5cRYND1w[/IMG]
Vua Đồng Khánh, trị v́ (1885-1889)
([COLOR="#008080"][I]Vua Đồng Khánh là Chánh Mông, con nuôi thứ 2 của Vua Tự Đức . Chánh Mông lên ngôi vua là do ông De Champeaux (đại diện Thống tướng De Courcy) yết kiến Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, xin cho Chánh Mông kế vị Vua Hàm Nghi (v́ lúc ấy Tường & Thuyết đă đem Vua Hàm Nghi trốn ở Quảng Trị[/I]).[/COLOR]
12) [IMG]http://t0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQ8GA_Pr5h6Kro3_GgZ_x3mefEB3Bx8U-u749IVQFaai_WmPeZIpw[/IMG][IMG]http://t2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRrFzbuyNII3lZZT0hXTBJAPW3FTAtJdChwX9h3Ov4LqMtLgN5L[/IMG]
Vua Thành Thái, trị v́ (1889-1907)
([I][COLOR="#008080"]Vua Đồng Khánh băng hà, con trai mới có 3 tuổi không thể kế v́ nên triều đ́nh Huế và Khâm sứ Rheinart đồng ư tôn người con của Vua Dục Đức là Bửu Lân lên ngôi, hiệu là Thành Thái.[/COLOR][/I])
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Hue_deux_reines.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Hai người vợ của Vua Thành Thái[/COLOR]
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Thu-phi-Nguyen-Thi-Dinh.JPG[/IMG]
[COLOR="#008080"]Bà Nguyễn Thị Định, thứ phi của cựu hoàng Thành Thái, mẹ của vua Duy Tân [/COLOR]
(c̣n tiếp)
Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn
(Tiếp theo)
[COLOR="#008080"]Pháp biết Vua Thành Thái t́m cách chống Pháp nên chúng vu khống Vua bị điên, để rồi truất phế Vua Thành Thái và đem giam Nhà vua tại Vũng Tàu. Đến năm 1919, Pháp chuyển Vua Thành Thái sang đảo La Réunion bên Phi Châu, an trí, đi cùng là Vua Duy Tân (sau nầy)[/COLOR].
13) [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Roi-Duy-Tan.jpg[/IMG]
Vua Duy Tân (5-9-1907)
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Duy-Tan.JPG[/IMG]
[COLOR="#008080"]Vua Duy Tân, trị v́ (1907-1916), h́nh chụp năm Vua Duy Tân 30 tuổi[/COLOR]
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Vuong-phi-Mai-Thi-Vang.JPG[/IMG]
[COLOR="#008080"]Bà vương phi Mai Thị Vàng, một trong những thứ phi của vua Duy Tân (năm 72 tuổi) [/COLOR]
(c̣n tiếp)
Vua Dục Đức và gă ăn mày cùng chung một huyệt mộ
Vua Dục Đức và gă ăn mày cùng chung một huyệt mộ
Tháng 6 năm Quư Mùi (1883) vua Tự Đức mất, để di chiếu cho người con nuôi lớn của ḿnh là Nguyễn Phúc Ưng Chân lên nối ngôi. Thế nhưng ngay trong lễ đăng quan, nhiều đại thần đứng đầu là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường v́ không ưa nên vin vào cớ di chiếu có đoạn nói mắt Ưng Chân có tật, rồi giam lỏng ông, sau đó phế truất. Về danh nghĩa, Ưng Chân ở trên ngôi báu chưa đầy 3 ngày.
Trở thành một tù nhân, Ưng Chân bị đem giam ở ngôi nhà học của ḿnh trước đây là Dục Đức Đường nên sử sách thường lấy tên đó để gọi vua là Dục Đức. Về sau ông bị giam tại ngục thất phủ Thừa Thiên, bị bỏ đói cho đến chết vào tháng 9 năm Giáp Thân (1884), thi thể bó trong một chiếc chiếu rách. Hai người lính và và một viên suất đội gánh xác đi chôn trong một ngày mưa gió. Đến đầu làng An Cựu ở ngoại thành Huế th́ dây bị đứt, xác vua rơi xuống cạnh một khe nước nông, người ta tin rằng, ông đă “tự chọn” nơi yên nghỉ của ḿnh tại đó nên chôn cất qua loa cho xong.
[IMG]http://bee.net.vn/dataimages/201105/original/images696819_xl_bidinhvatamvuaducduc.jpg[/IMG]
V́ không được quan tâm, chăm sóc, ngôi mộ dần tàn lụi như đất bằng, chẳng ai c̣n nhớ đó là mộ vua. Không lâu sau, có một ông lăo ăn mày qua đấy bị kiệt sức và chết gục trên nấm mộ Dục Đức. Dân địa phương đă chôn người ăn mày ngay trên mộ vua mà không hay biết. Về sau, con của Dục Đức bất ngờ được lên ngôi, lấy hiệu là Thành Thái.
Theo chỉ dẫn của những người am tường sự việc, Thành Thái t́m được mộ của vua cha. Khi cải táng, lại thấy trong mộ có hai bộ xương nên đành lấp lại và cho xây dựng lăng mộ tại đó vào đầu năm Canh Dần (1890) và đặt tên là An Lăng. Đó là lăng mộ chứa cả thi hài của ông vua xấu số và ông lăo ăn mày tốt số.
Bee.net.vn
Vua Bảo Đại từng bị t́nh địch bắn găy chân
[B]Vua Bảo Đại từng bị t́nh địch bắn găy chân
[/B]
Vua Bảo Đại là vị hoàng đế đa t́nh. Khó tính hết được đă có biết bao người phụ nữ đủ các dân tộc, quốc tịch đi qua cuộc đời ông.
[IMG]http://bee.net.vn/dataimages/201105/original/images699379_B_.jpg[/IMG]
V́ đa t́nh quá mà không ít lần Bảo Đại suưt rước họa vào thân. Sau khi làm lễ cưới với bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương hoàng hậu), không lâu sau ông vua này lại đi “du hí” khắp nơi. Có lần lên Đà Lạt thăm thú cô nhân t́nh da trắng mắt xanh, Bảo Đại bị ông chồng Tây của cô ta nổi cơn ghen, vác súng đuổi bắn gẫy chân khiến cho Toàn quyền Đông Dương là Jean Decoux vội cho máy bay chở vua về Sài G̣n chữa trị và tuyên bố rằng vua đi săn, bị “vấp ngă xuống hố bẫy cọp”. V́ chuyện này mà một viên quan về hưu đă làm bài thơ trào phúng, trong đó có câu: “Bà đầm chuộng lạ cần gia vị/Hoàng thượng ăn quen hẳn bén mùi/Thôi Chử ngày xưa c̣n thí mạng/Nữa là chỉ mất tư xương thôi”.
Tính trăng hoa của Bảo Đại không chỉ gây rắc rối cho ông mà c̣n khiến một số người khác bị vạ lây. Tác giả Lucien Bodart trong cuốn sách Chiến tranh Đông Dương – Sự nhục nhă (xuất bản năm 1973 tại Paris) có đoạn viết: “Nam Phương ghen tuông đă có ư định cho lái xe bắn lén vào những kẻ đang t́nh tự ở Đà Lạt. Bà Decoux, vợ quan Toàn quyền đă phải hi sinh thân ḿnh trong vụ đáng buồn này. Bà đă đi nhanh đến chỗ hẹn ḥ để ngăn một vụ án mạng có thể xảy ra”.
[IMG]http://bee.net.vn/dataimages/201105/original/images699380_mt.jpg[/IMG]
Án mạng th́ không xảy ra nhưng phu nhân Toàn quyền v́ phóng xe quá nhanh để ngăn vụ bắn Bảo Đại và người t́nh nên đă thiệt mạng v́ tai nạn. Bà được chôn tại khuôn viên nhà thờ Vinh Sơn (nay nằm trên đường Ngô Quyền, phường 6, TP Đà Lạt )
Bee.net.vn
Tư Liệu Lịch Sử: Các Vua Triều Nguyễn
(tiếp theo và hết)
14) [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Roi-Khai-Dinh.jpg[/IMG]
Vua Khải Định, trị v́ (1916-1925)
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/KhaiDinh_bureau.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Ngôi vị của Vua Duy Tân bị truất phế, triều đ́nh Huế và toà Khâm sứ Pháp đưa người con trưởng của Vua Đồng Khánh, Nguyễn Phúc Tuấn (Nguyễn Phúc Bửu Đảo) lên ngôi vua, hiệu Khải Định.
Đến năm 1919, Duy Tân bị Pháp đầy đi đảo Réunion cùng với vua cha Thành Thái.[/COLOR]
15) [IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/Prince_VinhThuy.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Hoàng tử Vĩnh Thuỵ, thời niên thiếu - (Vua Bảo Đại sau này)[/COLOR]
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/bao-dai1.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Hoàng tử Vĩnh Thuỵ (1925)[/COLOR]
[IMG]http://bee.net.vn/dataimages/200910/original/images140180_vua%20bao%20dai.jpg[/IMG]
[COLOR="#008080"]Vua Bảo Đại và đoàn hộ giá[/COLOR]
Vua Khải Định băng hà, Hoàng tử Vĩnh Thuỵ được tôn lên làm vua, hiệu là Bảo Đại .
Đến ngày 24 tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền, yêu cầu Vua Bảo Đại thoái vị .
Vua Bảo Đại quyết định công bố chiếu thoái vị vào ngày 25/8; sang ngày 26/8 Vua Bảo Đại làm lễ thoái vị ở Thế Miếu; từ đó Triều đại Nguyễn chấm dứt, sau 143 năm trị v́ (1802-1945).
Nước Việt Nam lật qua trang sử mới kế tiếp ...
[B]Phú Yên[/B]
[SIZE=2]Tổng lược theo tài liệu trên internet[/SIZE]
Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN
[B]Lịch sử tóm tắt của triều đại nhà NGUYỄN[/B]
Các bạn đă từng đọc qua sách sử Việt Nam chắc hẵn đă để ư là các ông vua có rất nhiều tên, hiệu và chắc các bạn cũng đă có lần tự hỏi là làm ǵ mà phải có nhiều tên như thế ? Trước khi đi vào phần lịch sử, tôi nghĩ cũng nên nhắc lại vài điều căn bản.
Thời vua chúa lúc dân ta chưa biết Tây lịch, để xác định thời gian cho một dữ kiện đă xăy ra, dân ta dùng niên hiệu của ông vua đương thời.
Niên hiệu : Khi một ông vua lên ngôi đều tự lấy cho ḿnh một niên hiệu để đánh dấu cái giai đoạn mà ḿnh trị v́ và tất cả những dữ kiện xảy ra sẽ được ghi lại so với cái niên hiệu của ḿnh. Thí dụ người ta nói "Tự Đức năm thứ 2", "Minh Mạng năm thứ 6", .... (thay v́ năm 1848, năm 1825, ...) Với cách ghi thời gian kiểu nầy th́ có cái lợi là biết câu chuyện đó xảy ra dưới thời vua nào nhưng cái bất lợi là khó mà biết được cái nào xảy ra trước cái nào xảy ra sau nếu không giỏi sử học.
Miếu hiệu : Tên hiệu của ông vua đă chết. Khi một ông vua đă mất, ông vua sau lên kế vị và đặt miếu hiệu cho vị vua trước như là phong chức tước hay tôn vinh người quá cố. Ví dụ, miếu hiệu của vua Gia Long là Thế Tổ, miếu hiệu vua Minh Mạng là Thánh Tổ. Dĩ nhiên có nhiều ông vua không có miếu hiệu.
Tên Húy: Tên thật do cha mẹ đặt khi mới sanh, một người có thể có nhiều tên húy, thường được người ta kiêng không gọi đến. Ví dụ tên húy của vua Minh Mạng là Đảm (Nguyễn Phúc Đảm), tên húy của vua Tự Đức là Hồng Nhậm (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm). Xưa người ḿnh thường hay kỵ húy, kiêng, tránh không được nhắc đến tên. Ví dụ vua Minh Mạng có bà phi tên là Hồ Thị Hoa. V́ kỵ húy bà nên cầu Hoa ở Sài G̣n đă được đổi tên lại là cầu Bông.
Ngoài những loại tên nầy, các vua c̣n có thể có nhiều chức tước khác nhau !
Mục lục:
Vua Gia Long
Hoàng tử Cảnh
Vua Minh Mạng
Vua Thiệu Trị
Vua Tự Đức
Vua Dục Đức
Vua Hiệp Hoà
Vua Kiến Phúc
Vua Hàm Nghi
Vua Đồng Khánh
Vua Thành Thái
Vua Duy Tân
Vua Khải Định
Vua Bảo Đại
Niên hiệu
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/gialong_small.jpg[/IMG]
Gia Long
Năm sanh, năm mất
1762-1820
Giai đoạn trị v́
1802-1820
Miếu hiệu
Thế Tổ Cao Hoàng Đế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Ánh
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm Ất Dậu (1765), Chúa Vũ Nghuyễn Phúc Khoát mất. Quyền thần Trương Phúc Loan chuyên quyền thay Chúa đổi ngôi, đưa Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi Chúa để dễ bề khống chế. Từ đó Đàng Trong bắt đầu đi vào con đường suy thoái, sưu cao thuế nặng, khắp nơi đều vang lên tiếng than oán và cuối cùng dẫn đến việc ba anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa năm Quí Tỵ (1773). Lợi dụng lúc Đàng Trong có nội loạn, Chúa Trịnh xua quân qua sông Linh Giang tấn công Phú Xuân (Huế). Phú Xuân thất thủ, tôi chúa họ Nguyễn phải chạy vào Gia Định, chấm dứt sự nghiệp của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Trong số người chạy loạn có Nguyễn Ánh lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Nguyễn Ánh là con của hoàng tử Nguyễn Phúc Côn và bà Nguyễn Thị Hoàng. Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh) sinh ngày 15 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1762), thuở thiếu thời đă tỏ ra là một con người có chí và thông minh v́ thế rất được Chúa yêu, tuy c̣n nhỏ nhưng ông được Chúa phong cho chức Chưởng sứ, ông đă tỏ ra là một tướng cầm quân có tài.
Năm Tân Dậu (1777), Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Định, Chúa tôi họ Nguyễn phải bỏ thành kéo tàn quân chạy về Định Tường, Cần Thơ. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, bắt được và giết Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Ánh bắt đầu một cuộc sống long đong và vất vả.
Vài năm sau, Nguyễn Ánh lấy lại được Sài Côn (Saigon) rồi tiến ra lấy lại B́nh Thuận. Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Ánh lên ngôi Vương ở Gia Định. Năm Nhâm Dần (1782), thấy thế lực Nguyễn Vương ngày càng mạnh, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào đánh, Saigon thất thủ, Nguyễn Vương lại bôn tẩu về Hà Tiên rồi chạy ra đảo Phú Quốc.
Nguyễn Vương vốn là con người có chí nên ông bất chấp gian khổ, canh cánh trong ḷng một mối thù phục quốc. Chính v́ thế nên khi biết được Giám mục Pháp Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), người có uy tín và thế lực tại Pháp thời bấy giờ đang ở Đàng Trong , Nguyễn Vương không ngần ngại cho mời giám mục tới và nhờ giám mục làm sứ giả trong việc cầu viện Pháp. Nguyễn Vương đă để cho con trưởng của ḿnh là Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi theo Giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp làm con tin.
Trong thơ cho Vua Pháp (Louis XVI), Nguyễn Vương xin Pháp giúp 1.500 lính và tàu bè, súng ống, vật dụng. Để đền bù, Pháp được độc quyền buôn bán ở nước Việt Nam, nhường cho nước Pháp đảo Côn Lôn (Côn đảo), và cảng Hội An (có sách nói là cảng Đà Nẵng).
Giám mục Bá Đa Lộc kư được hiệp ước Versailles với Pháp ngày 28-11-1787, vua Pháp giao trách nhiệm thi hành hiệp ước cho một ông tướng đống quân ở Ấn Độ nhưng ông nầy không thích Giám mục Bá Đa Lộc nên nói ra với vua Pháp và cũng v́ nước Pháp đang bị nội loạn nên rốt cuộc vua Pháp không thi hành hiệp ước. Chờ măi không được, Giám mục Bá Đa Lộc bỏ tiền riêng để mướn một số lính đánh thuê rồi trở về Việt Nam. Năm 1789 th́ Hoàng tử về đến Gia Định.
Khi đưa con đi rồi Nguyễn Vương cũng từ giă mẹ và vợ để sang Xiêm La (Thái Lan) cầu cứu. Tới tháng 6 năm 1784 th́ vua Xiêm cho tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 20 vạn quân và 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Lúc đầu quân Xiêm đại thắng chiếm nhiều tỉnh Kiên Giang, Trà Ôn, Sa Đéc. Sau đích thân Nguyễn Huệ đem đại quân vào đánh, quân Xiêm thua bỏ chạy về nước, Nguyễn Vương cũng chạy theo về Xiêm La lánh nạn.
Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh tiến chiếm Phú Xuân rồi rồi thừa thắng tiến ra Thăng Long (Hà Nội) diệt họ Trịnh. Việc Nguyễn Huệ ra Bắc làm cho Nguyễn Nhạc (anh của Nguyễn Huệ) nghi ngờ nên cũng vội vă đem quân ra Bắc, hai anh em gặp nhau ở Thăng Long rồi cùng về. Nguyễn Huệ được đóng quân ở Phú Xuân và được phong là Bắc B́nh Vương. Từ đó anh em Tây Sơn đă có mầm móng bất hoà, nhiều lần hai anh em đă đem quân đánh nhau.
V́ ham tranh quyền nên anh em Tây Sơn đă không ngó ngàng ǵ đến các xứ Đàng Trong nhất là từ Qui Nhơn (B́nh Định) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Vương đă cùng với các bộ tướng củ, tháng 9 năm Đinh Mùi (1787), trở về nước. Nguyễn Vương đă được dân miền Nam giúp đở rất nhiều, có nhiều tướng giỏi đến pḥ như Vơ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Vương đă lớn mạnh. Đông Định Vương Nguyễn Lữ phải bỏ Gia Định trở về Qui Nhơn. Nguyễn Vương lấy toàn bộ xứ Gia Định đặt làm bản doanh rồi bắt đầu tổ chức việc cai trị. Năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Vương cho đắp lại thành Gia Định theo kiểu bát quái có 8 cửa xây bằng đá ong.
Thấy Nguyễn Vương lớn mạnh, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782) vua Thái Đức Nguyễn Nhạc nhà Tây Sơn đem quân vào đánh nhưng bị quân Nguyễn Vương đánh lui. Kể từ đó về sau, quân Tây Sơn luôn thất bại khi đem quân vào đánh.
Ở Phú Xuân, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ lại tiến quân ra Bắc diệt nhà Lê rồi cho Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm ở lại để cai trị Bắc Hà. Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang đánh. Được tin, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế ở Phú Xuân lấy hiệu là Quang Trung thống lănh đại quân tiến ra Bắc đánh tan 20 vạn quân nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị phải chạy thoát thân bỏ quên cả ấn tín.
Năm Nhâm Tư (1792) vua Quang Trung băng hà, con là Quang Toảng lên ngôi mới 10 tuổi, v́ thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy vong.
Được tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Vương rất vui mừng, đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forçant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lănh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v...
Cuộc chiến kéo dài đến năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Vương chiếm lại được Phú Xuân, và ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhăm Tuất (1802) Nguyễn Vương lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long. Lên ngôi xong vua Gia Long đưa quân tiến ra đất Bắc, quân Tây Sơn tan ră lần hồi. Đến tháng 6 cùng năm th́ vua Gia Long đă thống nhất được sơn hà, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.
Ngài ra lệnh quật mả vua Nguyễn Nhạc và vua Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi c̣n đầu th́ đem bỏ giam trong ngục tối (có sách viết là đốt thây thành tro rồi đổ xuống sông, c̣n sọ th́ làm gáo đựng nước tiểu).
Vua sai sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam-Việt, nhưng v́ đất Nam-Việt đă có bên Tàu đời nhà Triệu ngày trước nên Thanh triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt-Nam để cho khỏi lầm với tên củ.
Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi Hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, th́ con lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu.
Bỏ chức Tể tướng, lập ra 6 bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư:
-Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc, v.v...
-Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc, v.v...
-Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử, v.v...
-Bộ Binh : coi việc binh lính, v.v...
-Bộ H́nh : coi việc pháp luật, v.v...
-Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự, v.v...
Ngài lập Văn Miếu ở các trấn thờ đức Khổng Tử. Mở trường lớn ở Kinh đô để dạy con các quan và các sĩ-tử (sau nầy vua Minh Mạng đổi tên là Quốc Tử Giám). Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan...
Vua Gia Long không theo đạo Thiên Chúa dù Ngài rất biết ơn Giám mục Bá Đa Lộc và có nhiều thiện cảm với các giáo sĩ, nhưng Hoàng tử Cảnh đă theo đạo khi ở chung với Giám mục Bá Đa Lộc. Một lá thư của Cha Lelabousse viết vào tháng 6-1792 cho biết : "Trong buổi lễ được tổ chức vào khoăng cuối tháng 7-1789, Hoàng tử Cảnh nhất định không đến lạy trước bàn thờ tổ tiên đă làm cho Nguyễn Vương đau khổ tủi nhục và tức giận, vứt bỏ phẩm phục, mũ niệm, nói rằng ông là một người cha bất hạnh".
Nhưng vua vẫn một ḷng kính trọng Giám mục, trong một lá thư của Giám mục viết cho Hội truyền giáo hải ngoại năm 1795, Giám mục kể rằng trong năm đó có mười chín ông quan trong triều đ́nh viết sớ đưa lên cho Nguyễn Ánh xin Ngài thận trọng đừng để Giám mục lo việc giáo huấn Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Vương nổi trận lôi đ́nh, vứt sớ xuống đất và kể những công trạng của Giám mục đối với gia đ́nh và sự nghiệp của Vương. Nguyễn Ánh hăm dọa là sẽ phạt thẳng tay những người có ư nghĩ xấu nầy. Xong Vương vào hậu cung kể lại cho vợ nghe và hai người quyết định là giấu chuyện nầy không cho Giám mục biết.
Ngày 19 tháng 12 năm Canh Th́n (3-2-1820) vua Gia Long băng hà thọ 58 tuổi (theo Trần Trọng Kim th́ Ngài mất năm 1819).
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/hoang-tu-canh_small.jpg[/IMG]
Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh sanh ngày 2 tháng 3 năm Canh Tư (6-4-1780) tại Gia Định, con của Nguyễn Ánh và bà Tống Thị Lan (sau là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu).
Năm 4 tuổi, Hoàng tử được gởi theo Giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, tới năm 1789 mới trở về với gia đ́nh. Mùa xuân năm Quí Sửu (1792) Hoàng tử lên 14 tuổi, Nguyễn Vương lập ông làm Đông Cung, phong chức Nguyên Súy Quận công, chọn các đại thần giúp đở để ông quen chuyện chính trị. Trong các phụ đạo (thầy dạy) có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Tùng Châu.
Năm Đinh Tỵ (1797) ông theo Nguyễn Vương đi đánh Qui Nhơn, rồi đáng Quản Nam, khi quân trở về Thái tử tâu xin cho soạn Hiển trung chư thần liệt truyện để chép truyện các bậc tôi trung đời trước để khuyến khích mọi người , được Nguyễn Vương chấp thuận.
Mùa Xuân năm Tân Dậu Thái tử bị bệnh đậu mùa và mất vào ngày 7 tháng 2 năm Tân Dậu (20-3-1801), thọ 22 tuổi. Ông có hai người con trai. Con trưởng là Nguyễn Phúc Mỹ Đường (c̣n có tên là Đán), con thứ là Nguyễn Phúc Mỹ Thùy (c̣n có tên là Kính). Ông Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là cháu năm đời của Hoàng tử Cảnh.
[IMG]http://nguyentl.free.fr/autrefois/famille-royale/vua_Minh_Mang_small.jpg[/IMG]
Niên hiệu
Minh Mạng
Năm sanh, năm mất
1791-1840
Giai đoạn trị v́
1820-1840
Miếu hiệu
Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Kiểu, Nguyễn Phúc Đảm
Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, sanh năm Tân Hợi (1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định, con thứ tư của vua Gia Long và bà Thuận Thiên Trần Hoàng hậu. Khi Hoàng tử Cảnh mất th́ Ngài được lập làm Thái tử, khi vua Gia Long băng hà, theo di chiếu Ngài lên nối ngôi, lúc nầy đă 30 tuổi và đổi niên hiệu là Minh Mạng.
Ngài tiếp tục việc tu sửa lại kinh thành Huế, công tŕnh kiến trúc quan trọng nhất dưới thời Minh Mạng là cửa Ngọ Môn. Các sách đều khen ông là một nhà vua văn vơ kiêm toàn (nhưng theo một lá thư của một vị Giám mục người Pháp th́ Vua không có tài văn chương ǵ cả mà chỉ do các ông quan nịnh bợ Vua hùa theo ca tụng). Vua Minh Mạng bắt đầu một cuộc cải cách từ nội trị đến ngoại giao.
Về mặt nội trị, nhà vua bỏ hầu hết các dinh, các trấn mà thành lập các tỉnh (31 tỉnh), thành lập Nội các và Cơ mật viện để cùng với vua bàn chuyện nước (tới thời Bảo Đại mới bị giải tán). Lập Quốc Tử Giám. Bắt đầu mở các khóa thi Hội, thi Đ́nh để lấy tiến sĩ (tới thời Khải Định mới bị giải tán). Lập Quốc sử quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Phát thưởng cho những ai t́m được sách củ hay làm ra sách mới v.v...
Các nước láng giềng xa gần đều gởi sứ thần đến thông hiếu và vua cũng cử nhiều phái đoàn đến các nước đó để ban giao. Năm Mậu Tuất (1838) vua Minh Mạng đổi tên nước là Đại Nam.
Ngài không thích đạo Thiên Chúa nên không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước, Ngài có ra dụ (sắc lệnh) nói rằng : "Đạo phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc ḷng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo". Lúc bấy giờ không phải là một ḿnh vua ghét đạo Thiên Chúa mà thôi, phần nhiều những quan lại cũng đều một ư cả, cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm. Nhưng mà dẫu cắm thế nào mặc ḷng, vẫn có người đi giảng đạo Thiên Chúa, nhà vua lấy điều đó làm trái phép nên ra dụ lần nữa nói rằng ai bắt được giáo sĩ đem nộp th́ được thưởng. Năm ấy ở Huế có một người giáo sĩ phải xử giảo, và các nơi cũng rối loạn v́ sự bắt đạo và giết đạo. Việc cấm đạo nầy cứ dai-đẳng măi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.
Cũng v́ việc cấm đạo Thiên Chúa cho nên sự buôn bán với người nước ngoài cũng bị cản trở v́ Triều đ́nh thấy thỉnh thoảng khi có chiếc tàu buôn lại th́ lại có một vài người giáo sĩ Thiên Chúa giáo trên đó nên càng lạnh nhạt với người nước ngoài. Vua từ chối không tiếp một tàu ngoại quốc nào cả ngay cả tàu Pháp. Hai ông quan người Pháp (Chaigneau và Vannier) làm trong triều đ́nh từ thời Gia Long thấy vua Minh Mạng có vẻ không thích người ngoại quốc nên cũng xin từ chức rồi đem gia đ́nh trở về Pháp.
Sau nầy vua Pháp có gởi sứ giả sang xin ban giao với Việt Nam nhưng vua Minh Mạng không tiếp, nước ta coi như bế quan tỏa cảng từ đó.
Vua Minh Mạng mất năm Canh Tí (1840), thọ 50 tuổi, trị v́ được 21 năm
Niên hiệu
Thiệu Trị
Năm sanh, năm mất
1807-1847
Giai đoạn trị v́
1841-1847
Miếu hiệu
Hiến Tổ Chương Hoàng Đế
Tên Húy
Nguyễn Phúc Tuyền, Nguyễn Phúc Miên Tông
Vua Minh Mạng băng hà, người con trưởng của vua là Hoàng Tử Nguyễn Phúc Tuyền, húy là Miên Tông sinh năm Đinh Măo (1807) được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Mọi việc đều noi theo cũ không có ǵ đổi mới.
Ông nổi tiếng là ông vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là hai bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả hai bài không tŕnh bài theo lối thường mà viết thành năm cái ṿng tṛn đồng tâm, mổi ṿng tṛn có một số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nh́n vào như một "trận đồ bát quái", vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai kiếm ra được hết.
Dưới thời nầy đất Nam-kỳ có nhiều giặc giă, dân Chân-Lạp nổi loạn và quân Tiêm-La sang đánh phá, vua phải dùng binh đánh dẹp măi tới năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) mới yên được.
Từ khi vua Thiệu Thị lên ngôi th́ việc cấm đạo Thiên Chúa mới nguôi đi được một ít, nhưng triều đ́nh vẫn ghét đạo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn c̣n bị giam ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroïne, ông nầy đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ năm (1845) có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra.
Năm Ất Tỵ (1847) quan nước Pháp biết rằng ở Huế không c̣n giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới. Lúc hai bên c̣n đang thương nghị về việc ấy th́ quan nước Pháp thấy thuyền của ta đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta đấp đồn lũy, mới nghi có sự âm mưu ǵ chăng bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.
Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận vô cùng, lại có dụ (sắc lệnh) ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Vài tháng sau th́ vua lâm bệnh nặng.
Nguyễn Phúc Hồng Bảo là con trưởng của vua Thiệu Trị (nhưng lại không phải là con của chánh phi Phạm Thị Hằng mà là con của bà phi Đinh Thị Hạnh). Bảo vốn là người ham chơi, không chịu học hành, tổi ngày chỉ lo đánh bạc. Vua Thiệu Trị có la rầy nhiều lần nhưng không được.
Khi vua lâm bệnh nặng, cho đ̣i các quan đại thần vào trối. Trương Đăng Quế, Vơ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào chầu. Ngài phán rằng Hồng Bảo tuy lớn nhưng ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không đặng, con thứ hai là Hồng Nhậm, thông minh, ham học giống vua có thể cai trị nước được. Vua yêu cầu các quan phải thi hành tờ di chiếu của vua để lại. Triều thần khóc, bái lạy và gọi Hồng Nhậm đến trao ấn và kiếm. Hồng Bảo được tin, tức giận đem thân binh vào nhưng bị quan Phạm Thế Lịch đem quân cản lại chỉ để cho một ḿnh Hồng Bảo vào mà thôi. Hồng Bảo vào gặp vua lạy lục, vua quay mặt đi không trả lời, Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa Hồng Bảo ra hậu cung và cầm giữ ở đó. Mấy ngày sau th́ vua băng hà tại điện Càn Thành (1847), làm vua được 7 năm, thọ 40 tuổi (theo Nguyễn Phúc tộc gia phả).