Tiểu Sử và các tác phẩm văn học của nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh
[IMG]http://i45.tinypic.com/wlzn9l.jpg[/IMG]
Chân Dung Nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh 1900-1943
[IMG]http://i48.tinypic.com/15dxqtv.gif[/IMG]
[IMG]http://i50.tinypic.com/r87134.png[/IMG]
Logo : Đại Học Đường Sorbonn - Pháp Quốc
[IMG]http://i45.tinypic.com/2vb8s3t.jpg[/IMG]
Nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh sinh ngày 15/9/1900 tại xă Long Thượng, huyện Cần Giuộc-Long An
Tốt nghiệp Tú Tài Trường Chasseloup Laubat, tại Sài G̣n khi 16 tuổi -1916
Tốt nghiệp Luật tại Trường Cao đẳng Pháp thuộc Đại học Đông Dương tại Hà Nội khi 18 tuổi -1918
Năm 1918, ông sang Paris (Pháp), học đại học ngành luật tại Đại học đường Sorbonne. Hai năm sau, ông đă Tôt nghiệp Tối ưu , được cấp bằng cử nhân Luật hạng xuất sắc khi 20 tuổi . Trong thời gian này, người thanh niên Nguyễn An Ninh bắt đầu tham gia tích cực trong phong trào yêu nước của người Việt Nam tại Pháp.
Ngày 3/10/1923,Nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh về nước, tham gia hoạt động cách mạng chống lại chính quyền thực dân Pháp.
Ngày 10/12/1923, ông lập ra tờ báo La Cloche Fêleé (Tiếng chuông rè) bằng tiếng Pháp, phát hành công khai ở Sài G̣n. Đây là một trong những tờ báo đầu tiên thuộc ḍng báo chí công khai trực tiếp phê phán mạnh mẽ chính quyền thực dân Pháp, đồng thời giới thiệu quảng bá cho các tư tưởng cách mạng
Năm 1926, ông bị chính quyền thực dân bắt giam 2 năm. Sau khi ra tù, ông sáng lập ra Thanh niên Cao vọng Đảng, một tổ chức yêu nước hoạt động theo nguyên tắc hội kín ở Nam Kỳ. Ông c̣n phối hợp với các Lănh tụ của Hội Việt Nam cách mệnh Thanh niên trong vận động quần chúng và phát triển tổ chức của Hội. Ông lại bị thực dân Pháp bắt vào cuối năm 1928.
...
Sau khi ra tù lần thứ hai (1931),Nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh tiếp tục tham gia các hoạt động yêu nước và cách mạng. Cuối tháng 4/1932 ,Nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh lập ra tờ báo công khai bằng tiếng Pháp La Lutte (Tranh đấu). Đây là tờ báo cách mạng rất có uy tín ở Sài G̣n và Nam Kỳ. Nguyễn An Ninh phát động phong trào "Đông Dương đại hội", một phong trào đấu tranh mang tính chất quần chúng rộng răi. , đặc biệt là trên mặt trận tư tưởng, văn hoá, báo chí và các cuộc vận động tranh cử.
Ngày 4/10/1939, Nguyễn An Ninh bị thực dân Pháp bắt. Sau đó, ông bị kết án 5 năm tù và 10 năm lưu đày biệt xứ. Chúng đưa ông ra giam giữ tại nhà tù Côn Đảo. Ông hy sinh ngày 14/8/1943 tại Côn Đảo.
**
Từ một sinh viên của Đại học Đông Dương, người thanh niên Nguyễn An Ninh trở thành một chiến sĩ, một Lănh tụ Cách Mạng có uy tín lớn và có ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào yêu nước Việt Nam trong suốt gần 2 thập kỷ (từ 1923 đến 1943). Ông c̣n là nhà tư tưởng, nhà văn hoá và nhà báo lớn. Những tác phẩm của ông về tư tưởng chính trị, về tôn giáo và về văn hoá có ảnh hưởng sâu rộng đối với diễn tŕnh lịch sử văn hoá - tư tưởng Việt Nam cận đại. Ông là một trong những người tiêu biểu nhất của lớp trí thức dũng cảm dấn thân, xả thân, đem hết tài năng, dũng khí và tính mạng cống hiến cho sự nghiệp Cách mạng đấu tranh giành Độc lập và Tự do cho Dân tộc Việt Nam .
Tác Phẩm Văn Học :
Ngoài những bài diễn thuyết, bài báo bằng tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, ông c̣n soạn các sách:
Nước Pháp ở Đông Dương (La France en Indochine) 1925
Hai Bà Trưng (tuồng hát) 1928
Tôn giáo 1932
Phê b́nh Phật giáo 1937.
Dân ước (dịch những đoạn chính trong quyển Contrat social của Rousseau vào năm 1923).
Bài thơ cuối cùng : Sống và Chết
**Nhận xét của Tiến sĩ sử học Pháp Daniel Héméry:
" Nguyễn An Ninh là Người có ảnh hưởng lớn đến trí thức miền Nam Việt Nam trong những năm 1920, 1940, Người đă thức tỉnh cả một thế hệ "
Bài Thơ Cuối Cùng
Sống và chết
Sống mà vô dụng,sống làm chi
Sống chẳng lương tâm, sống ích ǵ?
Sống trái đạo người, người thêm tủi
Sống quên ơn nước, nước càng khi.
Sống tai như điếc, ḷng đâm thẹn
Sống mắt dường đui, dạ thấy kỳ
Sống sao nên phải, cho nên sống
Sống để muôn đời, sử tạc ghi
Chết sao danh tiếng vẫn c̣n hoài
Chết đáng là người đủ mắt tai
Chết được dựng h́nh tên chẳng mục
Chết đưa vào sử chứ không phai
Chết đó, rơ ràng danh sống măi
Chết đây, chỉ chết cái h́nh hài
Chết v́ Tổ quốc, đời khen ngợi
Chết cho hậu thế, đẹp tương lai
Phan Văn Hùm & Nguyễn Trung Nguyệt” và “ Ngục Trung Kư Sự của Bảo Lương”
[IMG]http://i50.tinypic.com/x5vwxi.jpg[/IMG]
Chân Dung Nhà Cách Mạng Viêt Nam Phan Văn Hùm ( 9 tháng 4 năm 1902 - năm 1946), bút danh Phù Dao là Nhà Văn , Nhà Báo nổi tiếng bị Cộng Sản thủ tiêu 1946
[IMG]http://i48.tinypic.com/15dxqtv.gif[/IMG]
[IMG]http://i50.tinypic.com/r87134.png[/IMG]
Logo : Đại Học Đường Sorbonn - Pháp Quốc
[IMG]http://i45.tinypic.com/2vb8s3t.jpg[/IMG]
Phan Văn Hùm & Nguyễn Trung Nguyệt” và “ Ngục Trung Kư Sự của Bảo Lương”
Thế Phong
Lời dẫn:
….đây là 2 bài: “(trong” Tản mạn văn chương / Thế Phong( bản thảo) , mà ” tác gia Nguyễn Q. Thắng” đă sử dụng 2 phần:” Bảo Lương Nữ sĩ..” và “ Nguyễn Đức Quỳnh”
Bài 1:” Xướng họa Phan văn Hùm & Nguyễn Trung Nguyệt.(*)
1.- Tiểu sử:
Phan Văn Hùm sinh 1902 ở Búng ( Lái Thiêu, con trưởng trong một gia đ́nh trung lưu ở Thủ Dầu Một ( tỉnh B́nh Dương bây giờ). Gia đ́nh có 3 anh chị em: bà Phan Thị Năm, ông Phan văn Hóa, riêng Phan Văn Hùm bị phe đối lập cộng sản thủ tiêu vào năm 1946.
Phan Văn Hùm c̣n có họ gần xa với Đồ Chiểu, nhà ái quốc, nhà thơ tiến bộ miền Nam, tác giả” Lục vân tiên “ – đă chống đối Pháp ngay từ khi thực dân mới đặt chân lên đất nước ta .
Phan văn Hùm đậu bằng Thành chung xong, ra Hà Nội theo học ngành Công chính. Tốt nghiệp, ông trở về Nam Bộ làm vườn, không ra làm việc với chính phủ Pháp. Năm 1929, lấy cớ là bạn Nguyễn An Ninh, thực dân bắt , giam tù ông tại Khám lớn Sài G̣n. Năm 1933, ông qua Pháp du học, theo ban triết tại Đại học đường Sorbonne(Paris), về nước, đứng trong hàng ngũ những nhà ái quốc tranh đấu: Nguyển An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch.. đồng thời xin xuất bản báo pháp ngữ ” La lutte” và” Đồng Nai”( Việt ngữ).
Năm 1937, ra ứng cử Hội đồng Quản hạt. ( Conseiller Colonial) .
Năm 1939 Phan Văn Hùm lại bi vào tù, v́ cho đăng một bài báo trên tờ” La lutte”.
Năm 1942 ra tù lại bị bắt giam, bị đưa đi quản thúc tại Tân Uyên ( Biên Ḥa).
2.- Tác phẩm:
Tác phẩm chính đă xuất bản: “ Biện chứng pháp”, “ Phật giáo triết học”, “ ( Nxb Tân Việt, 1940) ,” Vương dương Minh” ( Tân Việt 1944), “Ngư tiều vấn đáp” …. Và nhiều bài khảo cứu viết bằng pháp ngữ, việt ngữ giá trị đăng trên tạp chí” Tri tân”, “Thanh nghị”… ( Hà Nội ).
Trong tác phẩm” Ngồi tù Khám lớn” ( Nxb Bảo Tồn, Saigon 1929), lên án bọn thực dân, qua thiên hồi kư tự sự về ngày tháng bị giam cầm. Tác giả quan niệm “vào tù” – tinh thần sẽ nát hay cứng rắn như đồng”- mượn lời Nguyễn An Ninh :” “En prison, le coeur se brise ou se bronze”.
Phan Văn Hùm với đường lối chính trị” tả đối lập” ở bước đầu, về sau ,tư tưởng tác giả lại hướng về cội nguồn dựa trên lập trường dân tộc. Ông là nhà cách mệnh, tư tưởng gia tiến bộ, giàu ḷng yêu nước t́m cách giải phóng tố quốc thoát ách nô lệ thực dân Pháp. Tác phầm Phan Văn Hùm đều là sách giá trị, giúp ích cho chúng ta đi sâu vào các vấn đề quốc tế, quốc gia. Ban đầu, ông tin rắng, qua đường lối” tả đối lập” sẽ đem lại ước vọng giải phóng quốc gia. ( Biện chứng pháp ) sau lại quay về triết học Đông phương, t́m cội nguồn dân tộc để giài thoát đất nước .( Phật giáo triết học, Vương dương Minh). Ông là một tư tưởng gia uyên thâm, nhà cách mệnh sáng chói, nhà văn biên khảo uyên thâm với tinh thần bác học, sát cánh TạThu Thâu, Nguyễn An Ninh .
3.- Thời đoạn sáng tác bài thơ” Tù Khám lớn”:
Năm 1929, Phan Văn Hùm bị bắt tại Bến Lức cùng Nguyễn An Ninh, sau thực dân đưa về giam tại Khám lớn. Cùng lúc ấy, một vụ án mạng xảy ra ở số nhà 7 Barbier Tân Định, ( nay là đường Thạch Thị Thanh, quận 1 – Sài G̣n), nạn nhân bị ám sát , rồi bị thiêu đốt rất thảm khốc. Vụ ám sát v́ lư do chính trị do chủ mưu Nguyễn Trung Nguyệt ( trong nhóm Phan Văn Hùm) thanh trừng một đảng viên phản đảng. Trong câu chuyện vào tù Khám lớn, Phan Văn Hùm sáng tác bài thơ Đường luật, sau nữ chiến sĩ có phương danh Bảo Lương-Nguyễn Trung Nguyệt có” bài họa “ đáp lễ,
Bài “ xướng “:
“Trăng tṛn” đâu sợ đám mây mù
Một bức trinh thơ giả ư ngu
Chịu tiếng lẳng lơ nhiều khuất phục
Biết ḿnh trong sạch chẳng tâm tu
Anh hùng há luận cơn thành bại
Chí sĩ đành cam kiếp tội tù
Chỉ tiếc anh thơ công lỡ dở
Thiếu người ra chấp búa Tŕnh- Chu.
PHAN VĂN HÙM.
Bài thơ gửi nữ chiến sĩ Nguyễn Trung Nguyệt của Phan Văn Hùm- vừa được nhắc ở trên- ở thời đoạn đó, các báo Saigon đều cho “ vụ án chính trị”, chứ không hẳn là một “ vụ án t́nh” mà dư luận xôn xao- và khởi sự từ nữ chiến sĩ Nguyễn Trung Nguyệt.
Phan Văn Hùm cho người đọc thấy chi tiết trong bài họa ( câu 2 + 3)- nữ chiến sĩ có sắc đẹp, dùng mỹ nhân kế hạ sát tên đảngviên phản đảng. Trước ṭa án, Nguyễn Trung Nguyệt , ngoài sự chịu đựng h́nh phạt án, c̣n gánh thêm dư luận: một người nữ có sắc đẹp giết người t́nh phụ bạc. Tiểu kế kia chỉ là màn che đậy đại sự ẩn ch́m bên trong:
” một nữ chiến sĩ xử tử một đảng viên phản đảng, phản quốc, để làm gương buộc kẻ yếu hèn phải kinh khiếp”.
Phan Văn Hùm ca tụng Nguyễn Trung Nguyệt - môt bậc anh thơ, một trang thiếu nữ tuyệt sắc, một người yêu nước can đảm- đúng là bậc chí sĩ khinh thường tù tội, đứng trên dư luận… tất cả chỉ để chứng minh tấm ḷng một người dân yêu tự do, tranh thủ giành độc lập khi đất nước bị nô lệ.
Phan Văn Hùm như c̣n một niềm ân hận nhỏ.. đó là nhà ái quốc kia đă tiếc thay tuổi thanh xuân một trang anh thơ sắc tài nửa đường lỡ dở…
Bài thơ không chỉ đẹp lời, chau chuốt tứ, nội dung vững vàng, tư tưởng kiên định, một ḷng, một dạ chống đối chính sách thực dân- mà nhà đại ái quốc Phan Văn Hùm cảm phục, sáng tác thơ riêng tặng Bảo Lương.
Hiện nay, nữ chiến sĩ yêu nước ấy c̣n tại thế- chị Nguyễn Trung Nguyệt vào trạc khoảng 60. (năm 1959).
Bài” họa “Bảo Lương đối đáp bài “ xướng” Phan văn Hùm :
“ Lao lung dài chật khói mây mù
Thất bại đành cam lựa trí ngu
Cơm lức sơ sài tâm rán luyện
Áo xanh tơ tải chi công tu
Sông non ngót đă trăm năm tội
Nước lửa đành cam mấy kiếp tù!
Ánh Thái dương c̣n, c̣n ước vọng
Tre tàn măng mọc dễ ǵ tru !”
BẢO LƯƠNG- NGUYỄN TRUNG NGUYỆT.
Chúng tôi không nhớ đă đọc trong một cuốn sách nào - khi một nhà văn cách mạng bàn luận về văn chương cách mạng- đại ư nói:” văn thơ cách mạng phải từ nhà làm cách mạng viết ra” mới thực sự có giá trị !.
André Malraux 24 tuổi, từng là cố vấn chính trị Tưởng Giới Thạch - th́ Malraux mới có thể mô tả chân dung nhân vật như Tchen, Borodine, Garine- đưa vào tiểu thuyết” La condition humaine”.( sách dịch mang tựa” Thân phận con người”). Nội dung là chính yếu, nghệ thuật viết, kỹ thuật thứ yếu. Nếu Malraux không là cố vấn chính tri Tưởng - hẳn sẽ không có tác phẩm ” Thân phận con người”. Tuy vậy, cuốn tiểu thuyết vẫn không bị xếp loại” dở bút pháp”- như các nhà phê b́nh văn chương tây từng định giá.
Đó là điều tương tự vừa bàn luận, khi b́nh hai bài” xướng “Phan VănHùm và” họa” Bảo Lương-Nguyễn Trung Nguyệt- theo tôi, nội dung kiên định vững vàng ,nhưng bút pháp chưa thể coi tuyệt hảo !.
Trở lại bài họa Bảo Lương- tác gỉa nói lên được ư diễn tả ở nội dung – như một nhà thơ cổ điển Pháp quan niệm: giá trị chính yếu phải kể nội dung, c̣n bút pháp xếp loại “ tầm tầm” là khả thi rồi .
Nội dung bài họa, Nguyễn Trung Nguyệt than kiếp nô lệ, như” sông non ngót đă trăm năm tội”, “ Cái” tội” như Bảo Lương quan niệm, đó là ách thống trị tấy đầy đọa, th́ đành chấp nhận cảnh” cơm lức sơ sài tâm rán luyện” phục thù với’ chí công tu”.
Nguyễn Trung Nguyệt tự khuyên bản thân nuôi ước vọng:
” Ánh Thái dương c̣n, c̣n ước vọng “
… tặng bậc anh hùng hào kiệt đă quên thân, hy sinh đời nhỏ bé cho chí lớn,thờ phụng tổ quốc. Vả hàm ư ẩn ch́m dành tặng nhà đại ái quốc Phan Văn Hùm- nói chung, hay riêng đều được cả- anh hùng chí lớn như ánh mặt trời, hẳn đất trời sao có thể bị diệt vong- bởi tre tàn th́ măng lại mọc:
“ Tre tàn măng mọc, dễ ǵ tru ?!”
…về quan niệm người yêu nước (trước 1945), Nguyễn Trung Nguyệt cho rằng:
“vấn đề đánh đuổi xâm lăng, giành độc lập là ưu tiên hàng đầu, tất cả c̣n lại là thứ yếu. Căm thù thực dân Pháp là vấn đề chính- vấn đề hàng đầu phải đem ra thảo luận ngay trong cương lĩnh bất cứ ai được mệnh danh nhà ái quốc của bất cứ đất nước nào đang bị thống trị. “
Ở đất nước Trung hoa, sau thời nhà ái quốc Tôn Dật Tiên qua đời, sự tập hợp đảng phái, không phân biệt đường lối chính trị - mục tiêu chính khi ấy là đuổi Nhật khỏi bờ cơi Hoa lục. Chẳng khác ǵ ở nước ta – 1946 - đuổi Pháp là mục tiêu chính được ghi hàng đầu ở chương tŕnh nghị sự.
Trở lại trường hợp Tạ Thu Thâu, Thái Văn Tam, Huỳnh Văn Phương, Phan Văn Hùm, ..- lấy” tả đối lập” làm phương tiện muu cầu giải phóng dân tộc. Chúng tôi phỏng đoán rằng- phải chăng những ngày cuối cùng - Phan văn Hùm bị rơi vào trường hợp trên- nên đưa lư tưởng ẩn ch́m trong văn chương- lấy dân tộc làm chủ đề- chẳng là một minh chứng cứu văn sử dụng” phương tiện sai” mất phương hướng “ cứu cánh dân tộc”sao ?
Cả đến Bảo Lương-Nguyễn Trung Nguyệt- không tránh nổi sa lầy, khi sử dụng” phương tiện sai” – và đúng dịp một nhà báo phỏng vấn, chị cơ hội xả tâm sự :
-“…Anh nên biết người dân thời ấy là sống dưới chế độ nô lệ, mục phiêu tranh đấu là vận động độc lập quốc gia. C̣n ra vấn đề mầu sắc chính trị, thú thật với các anh, người thành thật yêu nước không bao giờ để ư đến ( cái khác), ( cốt làm sao cho ) nước nhà phải độc lập đă….”
4.- Tổng luận:
Nhắc lại trang oanh liệt các nhà ái quốc- nhất là bậc anh hùng sáng thế, anh thơ tiên phong- chúng tôi không bao giờ dám phán đoán” hành động, thái độ” thời gian cũ, song hành với ư niệm, nhận định ở thời gian hiện tại. Nếu làm vậy, nào khác ǵ
” …ḿnh hôm nay phủ nhận thơ ấu hôm qua tự kết luận giá trị hôm nay tất hơn hẳn quá khứ…”.
Song một vài ư kiến bầy tỏ trên kia- chúng tôi chỉ có ư ngoái nh́n lại kinh nghiệm người đi trước sa hầm, hố- kẻ đi sau, biết, sẽ tránh sa lầy- có vậy, mới” bon bon một đường thênh thang thẳng tới”.
“.. nếu một Goethe và Schille ở “ thời hoàng kim tư tưởng” (Sturm und drung)- cho rằng: “ Goethe có nổi danh hơn Schiller đi nữa- bởi Goethe dựa vào kinh nghiệm sống cùng song hành với lư luận. C̣n Schiller lại chỉ hoàn toàn dựa trên nghiên cứu lư luận mà thôi !” ( Il y arrive par une seule voie spéculative”).
Trở lại sứ mệnh làm nhà cách mệnh, nhà văn hóa, nhà thơ Phan Văn Hùm- tôi phải khẳng định một điều không thể khác hơn:
“ Phan Văn Hùm đă góp cho văn học Việtnam ( thế kỷ XX) những trang bất tử văn chương, tư tưởng cách mệnh mẫu mực “ - .đồng hành kề cận - một Bảo Lương-Nguyễn Trung Nguyệt- người nữ chiến sĩ có công lớn trong đời cách mạng Phan Văn Hùm, nói riêng, với lịch sử cách mệnh, nói chung, v́,một bài thơ hay được truyền tụng, một câu thơ hay được nhắc nhở- hẳn lớp hậu sinh không thể quên:
“…. Sông non ngót đă trăm năm tội
Nước lửa đành cam mấy kiếp tù
Ánh thái dương c̣n, c̣n ước vọng
Tre tàn măng mọc dễ ǵ tru !?”
BẢO LƯƠNG-NGUYỄN TRUNG NGUYỆT.
Sài G̣n 1959.
(* đă đăng trên tạp chí” Văn Hóa Á Châu”, số tháng 9/ 1959 ( Chủ nhiệm: Nguyễn Đăng Thục).
Bài 2:“ NGỤC TRUNG KƯ SỰ” CỦA BẢO LƯƠNG
Bài 2:“ NGỤC TRUNG KƯ SỰ” CỦA BẢO LƯƠNG .(* *)
Sau một thời gian bài” xướng, họa’ của Phan Văn Hùm & Bảo Lương-Nguyễn Trung Nguyệt đăng trên tạp chí” Văn Hóa Á Châu”- tôi gặp phóng viên Nguyễn Ngu Í, anh cho biết địa chỉ Bảo Lương-Nguyễn Trung Nguyệt.
Không trực tiếp gặp, tôi gửi thư, xin thêm một ít bài thơ nữa. Nghĩ rằng, một bài” xướng, họa” kia, chưa có thể kết luận thi nghiệp một người. Tôi băn khoăn măi vấn để có nên kết luận vội vàng:
“ Bảo Lương chỉ với một bài “ họa” đă xứng danh nữ thi sĩ ?”.
Nhớ tới một nhận định phân chia ngôi vị “thi sĩ chuyên nghiệp”và như thế na2othi2 được gọi là ” nhà văn ( thơ) ngẫu nhiên ?“.
Émile Henriot đă từng bàn về” nhà văn, thơ ngẫu nhiên” – ông gọi họ “écrivain occsionnel”- với dẫn chứng cụ thể, như Napoléon 1er chẳng hạn, bẩm sinh đâu có phải là thi, văn sĩ? – hoặc tương tự như Vayban, César, De Gaulle cũng vậy .
… Họ sinh ra đời là nhà chính trị, quân vương, tổng thống. Rồi có người trong bọn họ tự viết về kinh nghiệm từng trải cuộc đời, có kẻ không viết được lại thuê “ chấp bút” - th́ sản phẩm kia có đượ gọi là” tác phẩm nghệ thuật’?
Émile Henrio lại đưa ra một kết luận về họ:
“… nên gọi họ “nhà văn ngẫu nhiên” -tạm dịch” écrivain occsaionnel”).
Lịch sử văn chương nước ta cũng có loại người như vậy: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, có thể trước kia là Nguyễn Trăi, Trần Hưng Đạo vv..
Tất nhiên không thể gọi là thi nhân, văn sĩ được, bởi họ chỉ “ngẫu nhiên” mà trở thành’ nhà văn “ mà thôi.
Frederich Nietzsche khởi sự: một thi nhân tài tử, với tất cả nhiệt t́nh, sau nà bỏ dở nửa chừng, bởi không tin thơ phú có thể thay đổi được vận mệnh con người- ông đành rứt ruột từ bỏ, quay sang triết học. C̣n NguyễnTrăi, Trần Hưng Đạo… th́ không phải vậy .
Trở lại trường hợp Bảo Lương - xuất thân không mang cốt cách thi nhân, dầu biết “ ti toe” xướng họa” dăm ba bài khi tuổi c̣n nhỏ. Bắt đầu bằng “ bài họa” Đường luật. -họa” thơ bạn của cha, lại dám cả gan sửa “ tứ, thay chữ” – không ngờ bị phát hiện- ‘ nàng thơ tài tử” phải” họa, lại” dịch” trực diện” bạn của cha- ông Nguyễn Văn Ṭng. Thoát hiểm” họa, ’ Bảo Lương trở thành” nhà thơ ngẫu nhiên”- khi tác giả bị thực dân giam giữ tại Khám đường Lagrandière ( Khám Lớn)- lấy’ thi phú” làm bạn tù khuây giải”.
Dưới đây trích lục in lại một số bài tiêu biểu của Bảo Lương (do tác giả cung cấp bản thảo). cũng chẳng cần tranh căi, v́ thơ có nội dung viết về” tù” sắc nét, có cá tính độc đáo.
Trong thư tay đề ngày 23 / 3 / 1960, Bảo Lương gửi từ bưu cục Sài G̣n, tác giả kể lại thuở ban đầu làm thơ “ xướng họa” ra sao? , thật là lư thú:
“…Tôi, Bảo Lương- Nguyễn Trung Nguyệt, con lớn của Nguyễn Hồng Nhơn và Đào Thị Châu. Cha tôi ( thường) hay khoe ( về ) con gái- và chính ông đă dạy tôi làm thi. Cha tôi thường nói với bạn thân rằng:” con gái tôi biết làm thi ( đấy) !” Khi kia, có bạn là ông Ṭng đến chơi, t́nh cờ cầm tập” Xướng Họa Gia Thi” của cha tôi, ông tái mặt, khi thấy bài thi của ông bị sửa ba chữ. Ông hỏi, thân phụ tôi phải xin lỗi, v́( đứa) con lớn sửa ( mà) không cho ông hay! Ông Ṭng không giận , nhưng ông buộc phải kêu tôi lên (để) hỏi. Thế là tôi bị” một cuộc cấp tốc thẩm vấn”. Ông bảo:
-Cháu sửa thi bác đó à? Nếu quả thật là cháu sửa, th́ hăy họa vần, như thế mới chứng thật, và bác mới tha tội làm tàng vô lễ !
Cha tôi lúc ấy rất khó chiu, v́ thừa biết bạn nghi cho ḿnh sửa. Và nếu con gái ḿnh không họa được ngay trước sự nóng nảy này của bạn, th́ cái án “ tá gà” khó mà tránh được ! Cha tôi cứ ngó chằm chặp về phía tôi. – nhưng ông Tổ Thi cũng thương hại cho mớ tuổi xanh rờn háo thắng của tôi.
THI CỦA ÔNG T̉NG
Số mạng nơi đâu lựa phải cầu?
Vào hàng trí sĩ trí mưu sâu
Anh hùng nào nại là thời thế!
Hào kiệt toan sao tứng tóc râu
Nhân nghĩa giữa trần toan tính lấy,
Lợi danh trên thế khó chi sầu,
Nghiêng tai ướm hỏi trang hào kiệt:
Thong thả mày xanh đến đáo đầu .
NGUYỄN VĂN T̉NG
Tam B́nh, 1925
HỌA
Số mạng không tin phải cương cấu,
Mong sao vẹn vẻ nghĩa ân sâu
Phong sương sá quản c̣n xanh tóc,
Cung kiếm đừng nao dẫu bạc râu !
Non nước những toan đền quốc hận
Cầm thi tạm mượn giải tâm sầu,
Can thường theo thú an vui phận,
Món nợ nam nhi hẹn buổi đầu..!
NGUYỄN TRUNG NGUYỆT
Phước Long, 1925.
Tôi (Nguyễn Trung Nguyệt) nín thở, nghe ông bảo:
-Bác nghĩ rằng cháu họa sẵn từ lâu. Vậy đây là bài của cụ Tây Hồ, nhơn dịp cụ mới về, cháu họa đi- cụ làm từ ngày c̣n ở Côn Lôn.
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bẩy đống
Ra tay đập bể mấy trăm ḥn,
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời th́ lỡ bước,
Gian nan nào sá sự con con !
PHAN TÂY HỒ ( Côn Lôn)
Nhớ xưa tiền bối khổ Côn Lôn
V́ muốn đền xong nợ nước non,
Tát bể, chẳng sờn gàu nửa cánh,
Dời non , chi ngại đá muôn ḥn?
Với thân, sá quản đôi c̣ng sắt
Cùng nước, nào phải một tấm son !
Nhiệt huyết thắm tươi gan tuấn kiệt
Bại thành âu cũng chuyện con con !
NGUYỄN TRUNG NGUYỆT
Cái án” tá gà” của cha tôi được phá, ông nở mũi, tôi vừa như trút ( được) gánh nặng; th́ ông lại khoe:
-… cháu nó vừa tập” làm thi” bằng chữ Hán, tŕnh anh xem chơi.
Thế là tôi ( lại) bị kêu lại. Ông Ṭng cười, nghi( ngờ), bảo:
- Cháu làm được bằng chữ Hán, giỏi đó. Đây bác muốn cháu dịch liền, phải cho sát nghĩa, nếu không cái án” tá gà” lại lớn bằng hai.
Cha tôi lại chằm chặp ngó về phía tôi, bác muốn phá chơi ( đó thôi)! Bác đọc một câu, rồi bắt dịch( tức th́)- nhưng tôi th́ lại sợ lộn “ bằng”,” trắc”, sợ bị rầy, nên xin dịch nguyên bài :
tạm dịch:
Ngă hề vong quốc mạc tri thương?
Dĩ liệu tài năng bất tự cường,
Yên cảm hồng nhan đương phận sự
Diệc đồng xích huyết đốt quê hương
Ngoại bang khởi chí trù cơ kế
Gia nội b́nh tâm thị kỷ cương
Yểm lụy hàm sầu thiên kỷ ích?
Trí tri hành tại cánh lưu phương.
Ta sao mất nước chẳng buồn thương ?
Bởi xét tài năng chửa tự cường !
Dám tưởng má đào cam phận sự ?
Cũng liều máu đỏ đáp quê hương!
Nước ngoài chí dấy lo mưu kế
Nhà hăy an ḷng vẹn kỷ cương
Nuốt lệ ngậm hờn bao giúp ích?
Làm nơi chỗ biết ngơ t́m phương.
NGUYỄN TRUNG NGUYỆT dịch.
Khi nghe xong, bác ( Ṭng) kêu trời và cười ngất. Bác nói:
-“Diệc đồng” mà nó dám dịch” cũng liều”, “ yên cảm” mà dịch” dám tưởng”. nhưng thôi, hăy lại ( đây) mà viết, coi chữ” phương nào”, rồi bác sẽ tuyên bố…
Tôi biết ḿnh sai rồi, nhưng( vẫn) lại phải rón rén, viết chữ”phương hướng” làm cho bác cười x̣a, (khiến) cha tôi ngẩn ngơ.
*
Qua bài” họa”’ Thi của ông Ṭng”, người đọc nhận ra ngay ḷng yêu nước nhiệt thành, chí khí đầy kiêu hănh của Bảo Lương- Chỉ là một người nữ, dám bỏ nhà, cha mẹ, an chị em nhập lực lượng cách mạng, chống đối thực dân Pháp, mọi người thán phục ! :
Nghiêng tai ướm hỏi trang hào kiệt ?
Món nợ nam nhi hẹn buổi đầu!
Song, chỉ ở một khía cạnh nào đó, dầu tinh hoa mấy, vẫn chưa thể gọi là” thi nhân” đúng nghĩa” thi nhân”. Rất sẵn sàng nghiêng ḿnh kính cẩn gương anh dũng giành độc lập cho xứ sở. Ai từng đọc qua đời tranh đấu Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm- hẳn không dễ quên cách ứng xử kiêu hănh của họ - trí thức tốt nghiệp đại học mẫu quốc, từ bỏ bổng lộc, lương cao công việc tốt, không ham danh, chức tước- lao vào con đường tranh đấu cam go- cùng đường th́ có lúc anh hùng Nguyễn An Ninh cũng phải đi dạo bán dầu cù- là độ nhật .
Chúng tôi giới thiệu “ Ngục trung kư sự” của Bảo Lương- Nguyễn Trung Nguyệt- tập thơ nữ chiến sĩ rất can đảm,anh hùng”-“ làm thi “ không phải” mang nghiệp vào thân”mà ghi chép điều cảm được, nh́n thấy, bất b́nh trước guồng máy thực dân đàn áp, từ nhỡn quan một dân bị bảo hộ, trở thành chiến sĩ làm cách mệnh có một không hai : Bảo Lương- NguyễnTrung Nguyệt.
Trích thơ:
I.- CHẾ ĐỘ LỬA
Chế độ” cặp rằng” quá nghiệt cay !
Xét người bóc lột đă quen tay
Lính vừa quay gót đà vơ vét
Cạy cả răng vàng, cả móc tai.
Đám bóp, thói quen của” cặp rằng”
Em nuôi mấy đứa chạy lăng xăng
Đứa lo nấu nướng, lo mền chiếu
Đứa lại quạt hầu, đứa xếp khăn.
Đánh chẳng ra tiền chẳng chịu thôi
S ống trên cái chết đă quen rồi !
Kiếp tù nhận lấy muôn vàn khổ
Khổ với” cặp rằng” dám hở môi ?
Không tiền, lột áo đứng giang tay
Trông tựa cánh chim, ngặt khó bay !
Liệng’ đạn ca” th́ rơi loảng xoảng
Kẻ cười ngặt nghẽo, kẻ chau mày !
Đồ thăm, lễ vật, phải dâng lên
Cọp mẹ, cọp con, đủ bốn bên
Dư lại, dành phần cho cop” mén”,
Uổng công cha mẹ chạy tiền đem!
Cọp chẳng sợ ǵ Khám Lớn đâu
Uống ăn quần áo đủ nhu cầu,
Bạc vang bóc lột thêm đấy túi
Khỏi mất tiền thuê có kẻ hầu!
Thực dân biết rơ “ lăng nhăng”
Song vẫn làm ngơ để” cặp rằng”
Lợi dụng khiến sai, cùng dọ dẫm
Rập ŕnh ḍ bẫy, hết ḷng săn
Xă hội gom tṛn một khám vuông
Người hiền bị dữ hiếp luôn luôn
Chán tai đua lẻo, lời đanh đá
Ở lộn ăn chung đă nhăo tuồng.
Mỗi người mỗi ư chẳng nhường ai
Sớm thượng chân, chiều lại hạ tay
Nghinh ngó khác chi gà cáp độ
Một phen đối chọi một chua cay.
*
Gà cùng một mẹ không thương
Cựa so cho bén vết thương cho dài
Tại ḿnh nào có trách ai
Trách ai ? Nhưng bởi ḿnh sai mới là !
Người tham dục lợi chọi gà,
Gà ham cao thấp mới là đá nhau
Sắm tuồng, bôi mắt,cắt mao
Lông da chưa lột lẽ nào lại quên ?
Thực dân thủ đoạn đảo điên
Dẻo dai, mềm cứng, lợi quyền cho mê
Mê mỏi, đáng trách, đáng chê
Mà người câu nhử gớm ghê bội phần! .
*
Tám chục năm trường kết quả đây
Lầm than, thất lộc, cảnh tù đầy
Đáp ơn, giết bố, ḱa con thảo
Báo nghĩa, lừa chồng, nọ vợ ngay
Đùm bọc nỏ cần, như khác giống
Hành hà chẳng tiếc, sá chung loài
“ Ngu dân” chánh sách, đà phơi tỏ
Lửa chẳng qua cho, dối đặng ai ?
Khám Lớn Saigon 1931-1932
2.- MƯA ĐÊM.
( kư ức một nữ tù nhân của thời thực dân-
trong khám đường Lagrandière cũ.)
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Gió reo buồn xào xạc cành me
Dư âm đưa đến người nghe
Càng gieo nặng giọt, càng se cuộn ḷng.
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Lặng nh́n nhau, phờ phạc như nhau !
Chẳng ai nói với ai nào !
Cảnh chua xót quá, lời nào cho cân !
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Tưởng nỗi niềm tạm gác đă yên
Do đâu cảnh lại trêu phiền
Cuốn phim dĩ văng bỗng liền hiện ra.
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Nhớ mẹ cha tuổi tác đă cao
Bấy lâu ấm lạnh thế nào ?
Khỏi cơn gió dữ mưa rào hay không ?
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Đàn em thơ ngơ ngác dường nào !
Có nên má phấn môi đào ?
Có nên gia thất mụn nào hay chưa ?
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Nhớ lại người lưu lạc phương xa
Ra thân” yêu nước’ tội à?
Đầu xanh chân yếu dễ mà sống ra !
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Chốn bể trời tù rạc ra sao ?
Hẳn đang thử thách anh hào,
Ṃ trai, đập đá, tay nào chẳng kinh !
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Thương quê hương tan nát ḷng sôi !
Thương cho đầu bạc con côi !
Già đau, trẻ đói, khúc nôi năo nề !
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Trông trẻ thơ nhớn nhác càng thương,
Mịt mờ u ám thê lương,
Chút thân bé bỏng tai ương chẳng từ !
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Mỗi giọt sầu mỗi nát ḷng thêm.
Lạ lùng cho cái mưa đêm,
Nhắc người không xót nỗi niềm gần xa.
Ngoài tường kín mưa sa lác đác…
Một đời tù đă nát vàng tan
Tương lai mong một huy ḥang,
Ngh́n thu giống Việt ngang tàng nhượng ai ?
Khám Lớn 1931-1932.
3.- BÀNG HOÀNG.
Mây nước bên tường chảy róc re
Thèm thuồng cố chịu, lắng tai nghe…
Thua à ? Sống măi trong nồng nực
Mấy tiết mùa qua, cũng tưởng hè!
Bịnh hoạn lan tràn, tội trẻ con,
Chạnh nh́n luống xót những mầm non,
Nghĩ ḿnh lận đận thân tù tội
Thương để mà… thương, để héo hon…
Tiếng trống lầu chuông đă đổ canh,
Lính hô vang tiếng bốn bên thành.
Đế giầy sát gạch nghe kinh khiếp
Ch́a khóa “ Âm ty” mỗi khúc nhanh .
Bên tường bỗng tiếng reo liên thanh
Ơi hỡi ! chú cai, mở cửa nhanh !
Con bé làm kinh đà lạnh ngắt .
Mở ḷng sinh phúc, ác sao đành !
Chưa rồi lại tiếng réo bên này !
Sản phu lâm bồn đến lúc đây,
Xéo véo xăn văn lui lại tới,
Chị em sốt ruột đứng bao vây.
Đưa uống” cabanon” tạm ở yên,
Đỡ giùm nên tớ phải làm liền
Sương đêm mát mẻ đầy trăng sáng,
Đời chốn lao lung, một phút tiên !
Trong vắt trời khuya đẹp tự nhiên,
Ngân giang sông bạc. Thực, hay huyền ?
Một luồng gió thoảng vừa bay bụi
Nửa cánh trăng liềm, đủ rọi duyên.
Hoa nở đầy sân, đầy uất hận,
Đá xây mấy cấp, mấy ưu phiền !
Cảnh dù luyến khách, ta đâu hưởng !
Ôi ! khóa xuân xanh chí chưa tuyền !
*
Nỗi người đau đớn chưa yên,
Nỗi ḿnh đau đớn dần khuyên vơi ḿnh,
Non sông nhớ cảnh hữu t́nh
Đồng tâm nhớ đến bạn ḿnh lại thương.
Hăi hùng trước nỗi tai ương,
Song thân có bớt buồn thương chăng là !
Thu về, gió vút mưa sa !
Hỡi đoàn chim Nhạn biết là có an ?
C̣n đây nặng mối sầu mang,
Mây bay ước nguyện, mước tràn công linh !
Đành cam sống kiếp hư sinh
Đói, cơm gạo lức, lạnh, ḿnh áo xanh !
Vào ra mấy thước loanh quanh
Óc moi đă nát, tơ mành chừa ra !
Tạm quên ! Thôi cũng là nhà !
Tâm can xưa ấy, xương da cũ này !
Sắt ṃn một mảnh trơ tay,
Gắng công mài giũa ắt ngày được dao.
Đă thân thử thách ba đào,
Đă ḿnh trong cái gian lao của đời !
Bể sầu sâu thẳm dễ vơi!
Non sầu cao vọi, liệu đời có tha ?
Đă đi, đi trót đây mà !
KHÁM LỚN Saigon 1931-1938 .
BẢO LƯƠNG –NGUYỄN TRUNG NGUYỆT.
(trong NGỤC TRUNG BÚT KƯ của Bảo Lương-NGUYỄN TRUNG NGUYỆT - bản thảo ).
( trích “ TẢN MẠN VĂN CHƯƠNG” – ( tiểu luận - viết từ 1952 đến 1975 –bản thảo chưa in) .
Thế Phong
Tiểu sử đầy đủ Nhà Cách mạng ,Nhà Nghiên cứu Phan Văn Hùm , và các Tác phẩm
[IMG]http://i47.tinypic.com/15fgo75.jpg[/IMG]
Chọ Bến Thành năm 1930
[IMG]http://i47.tinypic.com/15694k4.jpg[/IMG]
Mặt Tiền Khám Lớn Sài G̣n Thập Niên 20-30 Thế Kỷ 20
[IMG]http://i46.tinypic.com/jrpgs9.jpg[/IMG]
Sài G̣n - Góc Gia Long - Công Lư, bên trái là Khám Lớn (Maison Centrale), bên phải là Ṭa Án
[IMG]http://i47.tinypic.com/j81x82.jpg[/IMG]
May Chém đặt trước cổng Khám Lớn mỗi khi có cuộc hành quyết
(cuối thế kỷ XIX)
[IMG]http://i45.tinypic.com/35hnuxy.jpg[/IMG]
Bản Đồ Khám Lớn Sài G̣n
Khám lớn Sài G̣n nằm trong ô B2 của bản đồ, phía nam Ṭa án (số 16) và phía tây Dinh Thống đốc (số 11), ba ṭa nhà này họp thành “Tam giác Quỷ” nổi tiếng thời thực dân. Khu đất này h́nh thang, hai cạnh song song là Rue de la Grandière ( Gia Long trước 1975 ,nay là đường Lư Tự Trọng), Rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn), hai cạnh kia là Rue Filippini (Nguyễn Trung Trực) và Rue Mac Mahon ( Công Lư sau 1975 là Nam Kỳ Khởi Nghĩa ). Nay là Thư viện Quốc Gia ( Quận 1).
**
"Khám Lớn nằm ch́nh ́nh giữa Sài G̣n trên diện tích non mẫu, bên phải của Toà án, bên trái của dinh Thống đốc. Tường dày chừng bốn năm tấc, dưới đá trên gạch, cao chừng bảy, tám thước, chơm chởm miểng chai bên trên, bốn góc là bốn cḥi canh luôn luôn có lính Âu Phi gác và giữ cổng một cửa duy nhất. Ở cổng, bất cứ ai vào đây cũng đụng một cái đầu chúa ngục đúc bằng xi măng, to tướng, miệng sơn đỏ ḷm, răng lởm chởm thấy mà ghê: các tử tù th́ bị hành h́nh dưới mắt của tử thần này… Cổng sắt hai lớp, có một đội cai ngục tây và mă tà nam túc trực. Chính giữa sân trong, một lầu chuông cao nh́n xuống toàn bộ các buồng có cửa song sắt chứa nổi một ngàn tù nhân. Suốt gần tám mươi năm chưa nghe nói có một người tù nào trốn khỏi Khám Lớn. Năm 1916, nghĩa quân Thiên địa hội của Nguyễn Hữu Trí đông mấy trăm người vũ trang bằng gươm dao, búa tạ, chày vồ, không phá nổi cửa khám, tường khám nhằm giải thoát “hoàng đế” Phan Xích Long và chính trị phạm, rốt cuộc phải rút lui thất bại. Khám Lớn vững chắc lắm. Vậy mà từ năm 1937, chính quyền thực dân thấy cần phải xây thêm một cái khám nhỏ riêng biệt trong ṿng thành của cái Khám Lớn; khám nhỏ đó, Tây gọi là Bâtiment S; S là “spécial”, đặc biệt, là “biệt thự S”, để nhốt riêng vài ba bốn người tù chính trị mà chính quyền thực dânc cho là nguy hiểm đặc biệt "
Nhà Cách mạng ,Nhà Nghiên cứu Phan Văn Hùm bút danh Phù Dao, Huỳnh U Mai, Tân Việt quê ở làng Búng, huyện Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một, nay là thị xă Thủ Dầu Một, tỉnh B́nh Dương .Vợ chính của ông là bà Dương Thị Lại (1905-1992) và con của ông là Phan Phục Hổ (1928-1948) Hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Phan Kiều Dương (1930 - ...) và vợ thứ là bà Mai Huỳnh Hoa (1910-1987), con là Phan Nhuận Mai (1936 - ...) và nhà văn Phan Tùng Mai (1938-2002).
Ông xuất thân trong một gia đ́nh tiểu Điền chủ. Thuở nhỏ, ông học trường Chasseloup Laubat, Sài G̣n, sau khi đỗ trung học ra Hà Nội học ngành công chánh. Sau khi tốt nghiệp ông trở về Nam, không ra làm việc cho thực dân mà lui về quê đọc sách, liên lạc với các nhà yêu nước thời bấy giờ như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Mai Bạch Ngọc, Nguyễn Văn Bá...
Năm 1929, ông bị thực dân bắt v́ bị vu cáo là “Đánh lính kín”. Trong tù, ông viết quyển Ngồi tù Khám lớn vạch tội thực dân Pháp cố t́nh vu khống và gài bẫy bắt nhà yêu nước Nguyễn An Ninh; đồng thời lên án chế độ cai trị tàn nhẫn và nhà tù hà khắc của thực dân ở Đông Dương.
Năm 1930, ông ra tù và sang Pháp du học chuyên về triết học tại trường Đại học đường Sorbonne Paris Pháp Quốc .
Tốt nghiệp năm 1933 và về nước hợp tác với các nhà Cách mạng Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử... xuất bản báo La Lutte, Đồng Nai làm cơ quan công khai đấu tranh chống thực dân Pháp tại Sài G̣n.
Tại Sài G̣n, ông không làm công chức, mà chỉ viết báo và dạy học tại các trường tư thục, cùng Phan Văn Chánh, Nguyễn Phi Oanh, Tạ Thu Thâu... Ông thường xuyên viết bài đăng trên các báo: Mai, Phụ nữ tân văn, Việt Thanh, Dân Quyền, Thần Chung, Văn Lang...
Năm 1936, ông cùng Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo đắc cử vào Hội đồng Thành phố Sài G̣n.
Từ khi đắc cử, có tiếng nói công khai trong Hội đồng Thành phố, nhóm ông đă tạo được thanh thế đáng kể nên thực dân rất căm ghét, luôn t́m cách cách chức ông và các đồng viện có cùng lập trường, quan điểm với ông. Khi vận động tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài G̣n, có người mừng ông bài thơ sau:
Kỳ này tranh cử có ông Hùm
Mang danh là cọp ít “cà um”.
Kém ăn kém nói tuy tài giỏi,
Tài giỏi làm thinh cũng ngă ùm”
(NVĐ)
Năm 1939, ông ứng cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ và đắc cử nhưng bị thực dân gian lận. Do một số bài báo đăng trên các báo, nhất là báo La Lutte, ông bị thực dân bắt giam và kết án đày đi Côn Đảo.
Năm 1942, ông được trả tự do, nhưng vẫn bị quản thúc tại Tân Uyên (Biên Ḥa).
Sau Cách mạng mùa Thu 1945, ông tham gia kháng chiến tại Sài G̣n. Ông bị Cộng Sản thủ tiêu vào đầu năm 1946 tại miền Đông Nam Bộ.
Ngoài một nhà hoạt động chính trị, Phan Văn Hùm c̣n là một nhà nghiên cứu nghiêm túc. Thuở sinh thời, ông từng xuất bản nhiều sách.
Tác phẩm
•Ngồi tù Khám lớn (báo Thần Chung XB. 1929)
•Biện chứng Pháp (Đỗ Phương Quế, 1937)
•Nỗi ḷng Đồ Chiểu (Tân Việt 1943)
•Phật giáo triết học (Tân Việt, 1943)
•Luận tùng (Tân Việt, 1944)
•Vương Dương Minh (Tân Việt, 1944)
•Phong Kiến là ǵ? (1946)
•Tiền bạc (1946)
•Dương Từ Hà Mậu (1944 - Tân Việt) chú thích, phiên âm.
•Ngư Tiều vấn đáp y thuật (Tân Việt, 1953 chú thích phiên âm)
•Tuyển tập Phan Văn Hùm (2002, Văn Hóa)
Và có rất nhiều bài đăng trên các báo Tri Tân, Văn Lang, Đồng Nai, Phụ nữ tân văn...
– Ngồi tù khám lớn (Báo Thần Chung xuất bản, 1929) là một bản cáo trạng lên án chế độ nhà tù hà khắc của thực dân Pháp áp đặt trên đất nước ta mà họ từng rêu rao là “Khai hóa” “Bảo hộ” cho Việt Nam. Sau đây là bài Lời mở đầu của tác giả. :
“Ban đầu tôi muốn nín.
Ó-ré lên có hơi tức một chút.
Nhưng mà không nín được với ḷng. Bao giờ nhớ tới cái ngục kia cùng đau đớn.
In ra có ư nghĩa ǵ? Ư nghĩa ǵ, tự người đọc chắc cũng đă nhận rơ.
Có một người bạn cố giao, đọc Thần Chung, gặp tôi mà phàn nàn: “Kêu mấy cũng vô ích. Phải chi tôi hay, tôi không cho anh viết đâu”.
Anh bạn tôi lầm. Trung thật với con mắt tôi, với lỗ tai tôi, với lương tâm tôi, tôi chỉ cần viết được đúng sự thật. Sự thật phanh bày ra đó, người đọc, đọc qua, muốn suy nghĩ sao cũng được.
Lư luận thường, tia mặt trời phát tán như rẽ quạt (Théoriquement divergents). Nhưng mà trong một cái pḥng tối, có khoét hai lỗ nhỏ cách nhau, cho mặt trời giọi vào, ta sẽ thấy hai tia mặt trời b́nh hành (parallèles) như đường rầy xe lửa.
Tôi nói hai tia ấy rẽ quạt, mà người khác nói b́nh hành. Người ấy có lí của người ấy. Sau khi thí nghiệm ra, người ấy càng có lí, càng chứng giải được rơ ràng hai tia mặt trời b́nh hành. Cái chơn tướng đi ngang qua thị giác (illusion optique) có biến dụng. Tôi không căi.
Cho nên, sự thật phanh bày ra đó, người đọc, đọc qua, muốn suy nghĩ sao cũng được.
Lại có người nói, tôi có ư than thân.
Tôi, th́ tôi muốn quan sát cả một khám tù.
Trong các người tù, tôi là một. Mà tôi là một người tù của tôi biết rơ hơn. Cho nên, có khi tôi nói đến tôi. Đó cũng là một cách bổ khuyết cho các chỗ không thể quan sát rơ nơi người như về t́nh cảm.
Một người bạn đồng chí chê tôi c̣n nhiều khách khí. Khách khí xin thú nhận rằng có, nhưng đă trót đăng tải lên báo rồi; bây giờ in ra thành tập, thời cũng không sửa lại chi, cho mất cái sự thật t́nh.
Ngoài những điều trên đây, tôi có mấy câu bàn luận con con, cũng là mon men mà viết thử; cậy đă có tri kỉ thùy thanh.
Tôi cũng xin người, (Trong tập này tôi thử dùng một người? Tiếng này xưng hô với đối thoại nhân; tức là ème personne - Không phân biệt tôn ti thượng hạ nam nữ ǵ cả. Nhất thiết đối thoại nhân (ở đây là người đương đọc) đều xưng là người cùng như chữ “vous” trong tiếng Tây) hiểu giùm một chỗ này: Là cảnh dơ tôi tả ra sau, và mấy tiếng tục tôi dùng trong khi tả cảnh dơ ấy.
Hoặc dạy rằng: viết sự tục ra đây rất khiếm nhă. Tôi nghĩ rằng: sự tục có người làm được. Như có người không làm được, cũng nói được. Như có người không nói được, cũng nghe mà chịu được. Như có người không nghe mà chịu được, cũng nghĩ đến được. Như có người không nghĩ đến được, cũng biết rằng sự tục ấy có chung quanh ḿnh. Biết rằng sự tục ấy có chung quanh ḿnh, nghĩ đến sự tục được, nghe sự tục mà chịu được, làm sự tục được, sao lại không cho viết sự tục ra, là nghĩa làm sao? Không muốn cho viết sự tục ấy, mà không làm cho sự tục ấy mất đi, là giả ngụy đạo đức, là một cách trốn tránh cái chân tướng xấu xa của sự đời, không có dơng nghị dám ngó ngay vào mặt nó mà xem.
Người ta nói con tây, mỗi khi uống nước phải quậy cho đục vũng rồi mới dám uống, là v́ nó sợ cái bóng xấu xí của nó, mà không dám nh́n. Kẻ giả ngụy đạo đức chừng cũng như con tây quậy nước vũng kia.
Không muốn cho viết sự tục ấy, mà không làm cho sự tục ấy mất đi, lại cũng như một người nhà giàu to, không muốn vào một cái nhà tranh rách, trong đó vợ chồng, con cái phải ở chung với ḅ chó, heo và một đống phân tẩm nước đái; lại cũng như một cái thành tŕ lớn, sợ mất vẻ đẹp đẽ, mà phải đuổi ra ngoài thành, những kẻ ăn mày ăn xin, phong, cùi, đui, sứt, găy cẳng, cụt tay, coi ô dề ghê gớm nhớp nhờm.
Xin người hăy nhận giùm, văn chương đầy những “kinh hoa, thủy nguyệt, liễu tứ, trầm hương” là đồ đại xa xỉ phẩm (grand luxe) để riêng cho một hạng người có đặc quyền đặc lợi (privilégié) trong xă hội thượng lưu (haute société) mà thôi. Người ta gọi văn chương ấy là “nghệ thuật vị nghệ thuật” (l’art pour l’art). Nếu tôi có quyền khuyên, tôi sẽ khuyên ai có thiên tài làm nghệ thuật, hăy làm “nghệ thuật vị nhân sinh” (l’art pour la vie) như ông Romain Rolland chủ trương. Mà không phải tôi sẽ khuyên ai làm văn chương dâm uế (littérature pornographique), nhưng tôi chỉ nói rằng: cái áo lụa Bombay, ướp dầu thơm Coty, khả ái thật, mà phải làm sao cho cái áo vải nhuộm và của người trồng cao su trên Hớn Quản, sẽ trở nên là cái áo lụa Bombay ướp dầu thơm Coty.
Ông thầy thuốc không được gớm ghê hờm, người có tâm với xă hội phải là ông thầy thuốc.
Xin người làm ông thầy thuốc. Mai sau phong thuần tục mỹ, thiên hạ thái b́nh, ta sẽ làm văn chương “thủy nguyệt kính hoa”.
Mà cái đó đẹp.”
Sài G̣n
NT
Xuân Diệu đă chết trong tim tôi.
Ngày xưa c̣n nhỏ chúng tôi được học về thơ cuả Xuân Diệu. Những áng văn thơ làm say đắm ḷng người. Chúng tôi thần tượng XD biết mấy, một đại thi sĩ VN. Cho đến sau ngày 30/4 tôi đọc những bài thơ cuả XD, tôi đă thất vọng vô cùng, tôi không c̣n tin rằng một người tao nhă lịch lăm như ông lại có thể sáng tác ra những bài thơ khát máu đến thế. Thần tượng trong tôi vội xụp đổ, tôi ghê tởm và xa lánh. Từ ngày ấy không bao giờ tôi đọc thơ cuả XD nữa. Dưới đây là một bài thơ điển h́nh
Anh em ơi quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đ́nh làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi
Xuân Diệu
Những Bài Thơ T́nh Hoá -Lư -Toán Học
Những Bài Thơ T́nh Hoá -Lư -Toán Học
Thơ T́nh Hoá -Lư
Ta yêu em bằng t́nh yêu hóa học.
Xin em đừng dùng vật lư để yêu ta
Hăy phản ứng và cùng ta liên kết.
Chớ đừng dùng lực F đẩy ta ra.
Ta sẽ cố nung t́nh cho cạn nước.
Để men yêu nồng độ lên cao.
Ta sẽ cố bổ sung nhiều xúc tác.
Để chúng ḿnh sớm được bên nhau.
Xin em đừng đo P ḷng ta nhé.
Đừng ép ta đo áp lực con tim.
Hay lôi kéo để vui xem ma sát.
V́ như thế tim ḷng ta tan nát.
T́nh cháy thành bụi cát tàn tro...!
T́nh Yêu Toán Học
Bài Thơ số 1
Anh yêu em từ dương vô cực.
T́nh đôi ḿnh lấp ló góc alpha.
Anh yêu em đâu có như người ta.
Ghét cực tiểu c̣n anh yêu cực đại.
Thề yêu em yêu trọn đời yêu măi.
Chẳng thể nào phai nhạt đến bằng không.
Anh yêu em hơn bác học Poat-sông.
Yêu con số hơn cả thân ḿnh nữa.
T́nh đôi ta chẳng thể nào tan vỡ.
Như tiên đề tồn tại măi em ơi.
T́nh đôi ta c̣n măi đến muôn đời.
Như định lư được chứng minh khảo nghiệm.
.......
Bài Thơ số 2 :
Đuờng t́nh yêu như đồ thị hàm số.
Măi ṿng vèo Sin, Cos, lại Cos, Sin
Anh mong t́m thấy một khoảng rơ ràng.
Hy vọng có nghiệm t́nh em trong đó.
Đôi mắt em là phuơng tŕnh bỏ ngỏ.
Rèm mi cong nghiêng một góc Alpha.
Anh nh́n em tuởng giới hạn đă nhoà.
Nhưng than ôi! Toạ độ t́nh vụt tắt.
Anh thẫn thờ về trong hiu hắt.
Nhận ra ḿnh chỉ phận nghiệm ngoại lai.
Thế mà anh cứ ngỡ ḿnh Ymax.
Nước mắt rơi hay đồ thị tuôn dài.
Anh măi chôn hồn ḿnh trong đơn điệu.
Trong không gian ảo vọng khối đa chiều.
Giới hạn ấy làm sao nhoà em nhỉ.
Suốt đời ḿnh chỉ tiệm cận mà thôi.
Bài Thơ số 3
Đường vào tim em như đồ thị
hàm số
Uốn ngoằn nghèo hệ toạ độ hàm
sin
Anh yêu em bằng cách lấy trung
b́nh
Dáng kiêu sa chia đôi cùng cá
tính.
Anh với em, hai đường thẳng
song song
Biết nhau đấy, nào có mong gặp
mặt
Đến chân trời, anh tin nó sẽ cắt
Dù bây giờ, em c̣n ngoảnh mặt
quay đi.
Em đă nói bất đẳng thức cô sin
Cả hai số đều phải dương mới
được
Đôi môi em, cong h́nh hàm số
ngược
Anh ước ḿnh được là tiệm cận
cho em.
Ánh mắt em, lát cắt vàng sắc lẹm
Cứa ḷng anh đứt trọn vẹn từ
tâm,
T́nh yêu em, phương tŕnh vô số
ẩn
Anh là nghiệm duy nhất của đời
em.
EM
Em nói em yêu những đường
tṛn
Ngàn đời không tính được số pi
Hơn nữa đường tṛn luôn hoàn
hảo
Anh bảo tṛn trịa để làm chi?
Em nói em yêu toán dựng h́nh
Tuần tự các bước đúng như in
Anh nói cuộc sống không cần
thế
Mà cần những bài toán chứng
minh.
Em nói em yêu những phương
tŕnh
Cân bằng, sóng gió chẳng rung
rinh
Anh bảo cũng cần bất đẳng thức
Để thấy giá trị của phương tŕnh.
Em nói em yêu tuổi chúng ḿnh
Hai đứa chung nhau một niềm
tin
Anh bảo bây giờ em mới đúng
Anh với em, chung một chữ t́nh.
Tay trái cầm chiếc com pa
Tay phải cầm thước đi ra đi vào
Lấy hơi, em nói như gào
Rằng anh học thế không vào,
đúng thôi.
Đạo hàm ai lại nhân đôi
Tích phân trở lại nó dôi ra liền
Giới hạn th́ nhớ lấy biên
Tích phân xác định trong miền
không gian
Đồ thị trục dọc trục ngang
Không cần nhớ hết mà hoang
mang ḿnh
Đến khi gặp phải phương tŕnh
Không khai căn được th́ b́nh
phương lên
Với bất phương tŕnh, không
nên!
Cần xem xét dấu mới nên nhân
vào…
Miệng em vẫn nói như gào
Anh đâu hiểu được câu nào? Bó
tay
Em ơi anh nói câu này
Hay là em cố đổi thay tính t́nh
Ai nh́n hai đứa chúng ḿnh
Tất nhiên sẽ bảo “Không b́nh
thường đâu”
Ai đời cọc lại dắt trâu
Thế gian như thế biết đâu mà
lường?
Bài Thơ số 4
T̀NH YÊU TOÁN HỌC
Anh viết thư tặng người em gái
nhỏ
Kỷ niệm ngày chung học mái
trường xưa
Khi gặp em anh biết nói ǵ đây ?
V́ ta ở song song từ vô cực
Rồi một hôm ta đồng quy tại gốc
Em mỉm cười tiếp tuyến bên anh
Anh vội vàng phân tích nét hoa
tươi
Và nhận thấy rằng em xinh cực
đại
Em chưa hiểu anh đành ḷng
phải giải
Bài toán h́nh bằng quĩ tích
tương giao
Nh́n em cười anh định nghĩa
t́nh yêu
Nhưng chỉ gặp một phương
tŕnh vô nghiệm
Chưa hẹn ḥ mà ḷng như bất
biến
Chưa thân nhau ta đă thấy so le
Trót yêu rồi công thức có cần ghi
Về hệ luận ái t́nh không ẩn số
Em không muốn anh cũng tăng
tốc độ
Em hững hờ anh lại biến thiên
nhanh
Chắc là em xác định tuổi thư sinh
Yêu là chết là triệt tiêu tất cả
T́nh tiệm cận riêng anh buồn
khó tả
Nỗi cô đơn không giới hạn ngày
mai
Anh mong em đưa điều kiện
tương lai
Cho anh sống với cơi ḷng đơn
giản
Anh với em t́nh yêu ta đồng
dạng
Sống bên nhau chắc tỉ số cân
bằng
Anh nghĩ rằng khỏi biện luận
lăng nhăng
Mà chỉ lấy tiên đề ra áp dụng
Anh có thể chứng minh điều đó
đúng
V́ t́nh ta như ngàn điểm điều
hoà
Nếu b́nh phương rồi lại lấy căn
ra
Th́ chẳng khác điểm nào trong
quỹ tích .
Bài Thơ số 5
Yêu là ǵ cho tôi xin định nghĩa ,
Yêu chính là t́nh cảm của chiều
cao.
Hai tâm hồn đồng dạng yêu
nhau ,
Rồi từ đó suy ra định lư .
Yêu nối tiếp khi t́nh yêu chung
thủy ,
Yêu dối lừa khi hai góc phụ
nhau .
Người yêu thật yêu rồi sẽ khổ
đau ,
T́nh đổ vở khi có đường phân
giác .
Muốn trùng bề mặt của t́nh yêu ,
Th́ phải lấy h́nh chiếu của nụ
cười ,
Đem nhân với chiều dài của góc
mặt .
Anh biết em trong phương tŕnh
hoá học ,
Và quen em khi phản ứng cân
bằng .
Từ phương tŕnh oxy_hoá
mangan ,
T́nh hai đứa hoà trong dung
dịch .
Và xa em khi hoà axit ,
Và quen em khi phản ứng cân
bằng ./.
Bài Thơ số 6
T̀M EM
Phương tŕnh nào đưa ta về chung lối
Định lư nào sao vẫn măi ngăn đôi
Biến số yêu nên t́nh măi hai nơi
Điểm vô cực làm sao ta gặp được
Đạo hàm kia có nào đâu nghiệm trước
Để lũy thừa chẳng gom lại t́nh thơ
Gia tốc kia chưa đủ vẫn phải chờ
Đường giao tiếp may ra c̣n gặp gỡ
Nhưng em ơi! Góc độ yêu quá nhỏ !
Nên vẫn hoài không chứa đủ t́nh ta
Tại nghịch biến cho t́nh măi chia xa
Giới hạn chi cho t́nh yêu đóng khép
Lục lăng kia cạnh nhiều nhưng rất đẹp
Tại t́nh là tâm điểm chứa bên trong
Nên đường quanh vẫn măi chạy ḷng ṿng
Điểm hội tụ vẫn hoài không với tới
Em cũng biết tung, hoành chia hai lối
Để t́nh là những đường thẳng song song
Điểm gặp nhau vô cực chỉ hoài công
Đường nghịch số thôi đành chia hai ngả