TQ có muốn hoà thuận với VN không?.
Sau khi hiệp ước ḥa b́nh giữa Việt Nam và Trung Quốc được kư kết vào năm 1991, tưởng như t́nh h́nh đă b́nh thường hóa, thông qua quan hệ buôn bán ngày càng tăng giữa hai nước láng giềng. Nhưng cuộc tranh chấp vẫn tiếp tục xảy ra, hầu như nó không được sự chú ư của dư luận thế giới cho đến mấy tuần trở lại đây. Nhưng lần này không xảy ra trên đất liền mà là trên biển.
Ngay từ năm 1974 giữa Việt Nam và Trung Quốc đă có những khủng hoảng dữ dội trên lĩnh vực ngoại giao xung quanh vấn đề chủ quyền quần đảo Trường Sa. Bên cạnh Việt Nam và CHND Trung Hoa, những nước và vùng lănh thổ khác cũng lên tiếng đ̣i chủ quyền đối với quần đảo này. Đó là Đài Loan, Philippines, Indonesia và Brunei. Quần đảo Trường Sa nằm rất xa địa phận Trung Quốc, nó nằm giữa Việt Nam và Philippines.
Năm 1988 giới lănh đạo CHND Trung Hoa quyết định trực tiếp chiếm một số đảo thuộc Trường Sa, họ đă huy động lực lượng hải quân và thực hiện chiến dịch đánh chiếm. Trong cuộc hải chiến năm 1988, hải quân Trung Quốc đă đánh ch́m hai tàu Việt Nam và dùng quân chiếm 7 đảo ở Trường Sa. Trong trận chiến đó 70 chiến sĩ Việt Nam đă thiệt mạng. Sau đó Trung Quốc cho xây căn cứ quân sự trên mỏm Fiery – Cross. Theo nguồn tin Mỹ cung cấp, cho đến nay đă có khoảng 1000 lính đóng trên 10 ḥn đảo mà Trung Quốc đă chiếm.
Tham vọng bành trướng của Trung Quốc
Quan điểm của phía Trung Quốc là toàn bộ quần đảo Trường Sa và những đảo Hoàng Sa nằm ở phía bắc, cách bờ biển phía đông Việt Nam 325 km là một bộ phận của tỉnh Hải Nam. Mặc dù diện tích không lớn nhưng hiện tại hai quần đảo này là trung tâm điểm cho sự tham vọng bành trướng của Trung Quốc. Lư do được dự đoán là ở trong vùng này có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt rất lớn.
Trước sau như một, Trung Quốc vẫn đ̣i chủ quyền phần lớn Biển Đông và đă nhiều lần dùng vũ lực tấn công tàu thăm ḍ của tập đoàn dầu khí Việt Nam Petrovietnam – bất chấp công ước quốc tế.
Cái gọi là “Đường lưỡi ḅ chín đoạn” do Trung Quốc tuyên bố chiếm hơn 80% Biển Đông, gói trọn quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trung Quốc muốn chứng minh toàn bộ vùng biển giữa Hải Nam, Việt Nam, Indonesia và Philippines là vùng quyền lợi của ḿnh. Điều đó đă vi phạm luật biển quốc tế (Hiệp ước về luật biển UNCLOS, 1982). Và đồng thời nó cũng không phản ánh tinh thần của Hiệp ước do chính Trung Quốc đă kư với các nước ASEAN năm 2002 về quyền khai thác biển (Declaration on Conduct of Parties in the South China SEA, DOC).
Tranh chấp đang xảy ra
Gần đây sự tranh chấp đă đạt mức độ căng thẳng đến kịch tính:
Ngày 26 tháng 5 năm 2011 hải quân Trung Quốc tấn công vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và cắt cáp của tàu thăm ḍ dầu khí Binh Minh. Ngày 9 tháng 6 năm 2011 tàu quân sự Trung Quốc đă cắt cáp tàu thám hiểm “Viking 2” của Việt Nam. Và vụ này cũng xảy ra trong vùng đặc khu kinh tế của Việt Nam, tức là trong vùng 200 hải lư cách bờ. Trong giới hạn này, bất cứ nước nào cũng có quyền thăm ḍ và khai thác tài nguyên hợp pháp.
Ngày 8 tháng 6 năm 2011 Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đă tuyên bố về vấn đề này:
Việt Nam dũng cảm tiếp tục khẳng định chủ quyền của ḿnh, quyền tối thượng và thẩm quyền đối với lănh hải và các đảo của Tổ quốc.
Đài truyền h́nh trung ương Đức ARD đưa tin về vấn đề này ngày 15 tháng 6 năm 2011 trong mục “Sự kiện trong ngày” (Tagesschau):
Mới cách đây mấy ngày lại xảy ra một vụ tiếp theo, một tàu hải giám Trung Quốc đă cắt cáp của một tàu thuộc tập đoàn dầu khí Việt Nam. Hà Nội trả lời bằng công bố tập trận trên biển. Ở Hà Nội, hàng trăm người đă xuống đường để bày tỏ tinh thần đoàn kết với chính phủ của họ. Trước Đại sứ quán Trung Quốc, những khẩu hiệu được ghép từ những chữ cái rời với nội dung: “Chúng tôi, 85 triệu dân Việt Nam, phản đối những hành động của Trung Quốc gây ra trong vùng chủ quyền của chúng tôi”.
Sự hiếu chiến của Trung Quốc không những hướng mũi tấn công vào Việt Nam mà c̣n tấn công cả các tàu của Philippines và các nước khác ở Đông Nam Á. Ngay từ ngày 2 tháng 3 đă xảy ra vụ gọi là vụ Reed – Bank, trong đó một tàu thăm ḍ của Ph lippines bị hai tàu hải giám Trung Quốc đe dọa ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa và bắt phải ngay lập tức rời khỏi vùng này.
Tóm lại
Chính sách cố t́nh khiêu khích nói trên đang gây nguy hiểm cho sự ổn định và an ninh của toàn bộ khu vực Châu Á – Thái B́nh Dương và như vậy ảnh hưởng đến toàn thế giới. Chính v́ thế, t́nh h́nh thời sự ở Biển Đông đối với chúng tôi ở Châu Âu xa xôi cũng là một đề tài quan trọng.
Tất cả các nước ASEAN hăy cùng với Liên Hiệp Quốc cần phải chặn đứng tham vọng bành trướng nói trên và bắt Trung Quốc phải tôn trọng những Hiệp ước mà chính họ đă cầm bút kư.
Nguyễn Thế Tuyền (Chemnitz, CHLB Đức) chuyển ngữ
Phỏng vấn Ông Vũ Cao Phan.
Vài năm gần đây ngày càng có nhiều các tàu đánh cá của phía Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ, tịch thu hết lưới cụ rồi đ̣i tiền chuộc. Như năm ngoái chẳng hạn, hàng chục tàu thuyền, hàng trăm ngư dân khu vực miền Trung bị bắt giữ. Đây vốn là vùng đánh cá truyền thống lâu đời và yên lành của ngư dân Việt Nam, bây giờ bỗng nhiên liên tục xảy ra những sự việc như vậy.
Có lần tivi Việt Nam chiếu cảnh hàng trăm thân nhân của những người đánh cá đứng, ngồi lam lũ trên bờ biển khóc lóc ngóng lo chồng con trở về đă gây ra rất nhiều bức xúc trong dư luận xă hội (điều này chắc các bạn Trung Quốc không biết).
Nhà đương cục Việt Nam đă nhiều lần tiếp xúc với phía Trung Quốc về vấn đề đó nhưng hầu như không được đáp ứng. Lần này Trung Quốc hành động mạnh hơn th́ phản ứng của Việt Nam cũng buộc phải mạnh hơn, không có ǵ quá bất thường.
Trong tinh thần ấy, tôi nghĩ, phát biểu của lănh đạo Việt Nam cũng chỉ là những phản ứng tự vệ, đâu có phải là lời lẽ đe dọa chiến tranh như các bạn vừa suy luận.
C̣n nếu gọi đây là một sự leo thang th́ phải thấy là Việt Nam leo theo các bạn Trung Quốc. Đúng thế đấy, phía Trung Quốc luôn luôn leo lên trước.
Các sự kiện ở biển Đông cho thấy có cả màu sắc tranh chấp về kinh tế lẫn tranh chấp chủ quyền. Quan sát khách quan th́ thấy Trưng Quốc có vẻ nghiêng về lư do kinh tế, c̣n Việt Nam nghiêng về lư do chủ quyền nhiều hơn. Cách nh́n vấn đề như vậy sẽ giải thích được tại sao Việt Nam không mặn mà lắm với việc "gác tranh chấp, cùng khai thác".
Lư do thứ nhất là tài nguyên th́ có hạn, một khi khai thác hết rồi điều ǵ sẽ xảy ra? Liên quan đến nó là lư do thứ hai: "gác tranh chấp, cùng khai thác" mà các bạn vừa nêu mới chỉ là một nửa lời căn dặn của ông Đặng Tiểu B́nh mà nguyên văn là: "Chủ quyền của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác", có đúng không?
Như thế có nghĩa là khi đă cạn kiệt tài nguyên khai thác rồi, Việt Nam chẳng c̣n ǵ và Trung Quốc th́ vẫn c̣n cái cơ bản là "chủ quyền"! Mà những ḥn đảo và vùng biển ấy đâu chỉ có giá trị về tài nguyên?
Tôi ủng hộ việc hai nước cùng hợp tác khai thác tài nguyên ở biển Đông nhưng ít nhất trước đó cũng phải làm sáng tỏ đến một mức độ nhất định nào đó (nếu chưa hoàn toàn) vấn đề chủ quyền.
Nếu cho tôi được phát triển theo ư ḿnh th́ tôi nói rằng, bản chất của cuộc tranh chấp này là chính trị.
Quan hệ Việt - Trung không yên tĩnh đă từ mấy chục năm nay rồi và nó là một ḍng gần như liên tục, trước khi xuất hiện vấn đề biển đảo những năm gần đây, có phải vậy không? Để giải quyết nó, các nhà lănh đạo cần phải ngồi lại với nhau, ở cấp cao nhất ấy, một cách b́nh đẳng, b́nh tĩnh, thẳng thắn và chân thành.
Thực tế là quyền lợi quốc gia cao hơn ư thức hệ. Chúng ta nên thẳng thắn nh́n nhận vậy để khỏi dối ḷng nhau.
TS Vũ Cao Phan
Nhưng chính phủ các bạn lại tuyên bố Hoàng Sa dứt khoát là của Trung Quốc, không phải là vấn đề có thể đưa ra đàm phán. Vậy th́ c̣n cái ǵ nữa để mà "song phương" ở đây? Chính tuyên bố ấy của Trung Quốc đă đóng sập cánh cửa "con đường song phương".
Thứ hai là, chúng ta thường nói đến sự tương đồng văn hóa giữa hai nước như là một lợi thế cho việc chung sống hữu nghị bên nhau giữa hai dân tộc. Điều đó đúng một phần, nhưng mặt khác, văn hóa Việt Nam, nhất là văn hóa ứng xử có sự khác biệt với lớn Trung Quốc.
Nếu văn hóa ứng xử của người Trung Quốc là mạnh mẽ, dứt khoát, quyết đoán (và do đó thường áp đặt?), nặng về lư trí, th́ văn hóa ứng xử của người Việt Nam là nhẹ nhàng, khoan dung, nặng về t́nh, ơn th́ nhớ lâu, oán th́ không giữ. H́nh như các bạn Trung Quốc chưa hiểu được điều này ở người Việt Nam. Cần phải hiểu được như vậy th́ quan hệ giữa hai bên mới dễ dàng.
Nói như thế v́ tôi thấy rằng, cách ứng xử nặng nề của phía Trung Quốc đối với Việt Nam đă và đang đẩy những người Việt Nam vốn rất yêu quư Trung Quốc ra xa các bạn, chứ không phải là Việt Nam cố đi t́m những liên minh ma quỷ để chống Trung Quốc.
Thứ ba là, quan hệ giữa hai nước chúng ta thậm chí phải trở nên đặc biệt v́ chúng ta có sự tương đồng văn hóa, lịch sử, là láng giềng không thể cắt rời, từng hoạn nạn có nhau (bản thân tôi là một người lính trong chiến tranh, tôi không thể nào quên sự giúp đỡ chí t́nh của nhân dân Trung Quốc về cả vũ khí, lương thực mà ḿnh trực tiếp được sử dụng).
Hai nước chúng ta lại đang cùng cải cách mở cửa, phát triển kinh tế. Chừng ấy lư do là quá đủ để quan hệ này trở nên hiếm có, trở nên đặc biệt.
Nhưng theo ư kiến cá nhân tôi th́ không cần nhấn mạnh điểm tương đồng này. Giữa các nước có cùng ư thức hệ kiểu này vẫn xảy ra xung đột, chiến tranh v́ quyền lợi quốc gia như chúng ta đă biết đấy thôi.
Thực tế là quyền lợi quốc gia cao hơn ư thức hệ. Chúng ta nên thẳng thắn nh́n nhận vậy để khỏi dối ḷng nhau.
Nguồn: bbc.co.uk