-
[B]BỤI TRẦN – 5[/B]
Sau khi trở lại "hậu cứ" vài hôm th́ tôi được cùng với tuyên úy Seelig tháp tùng đại tá chỉ huy trưởng lữ đoàn dùng trực thăng bay "quan sát chiến trường." Tôi phải thầm cảm phục khả năng ngụy trang của TQLC Mỹ, chiếc trực thăng chỉ bay ở cao độ vài trăm thước, nhưng tôi đă không thể nh́n thấy các đơn vị đang đóng rải rác ven những vách núi, họ đă xử dụng các lưới ngụy trang rất hữu hiệu. Căn cứ 29 Palms khá vuông vức, mỗi chiều dài đến trên dưới 30 miles, (diện tích khoảng gần 1000 dặm vuông) với những rặng núi đá h́nh nan quạt, rất thuận tiện cho việc huấn luyện sa mạc và không-bộ chiến, cũng như dùng bom đạn thật.
Sau hai tuần huấn luyện, "D-day" (ngày khởi đầu cuộc đổ bộ, hay trận chiến) đă đến, tôi không được đi với các thiết giáp của ḿnh mà phải nhập với bộ chỉ huy tiền phương của lữ đoàn. Theo lư thuyết hành quân, bộ chỉ huy này có thể sẽ bị tấn công bằng hơi độc nên mọi người phải đeo mặt nạ hay giữ nó kè kè bên hông cả ngày! Đi với bộ chỉ huy, không mấy hứng thú! Tôi đă xin phép cấp trên và cuối cùng, được cùng đi với vị tuyên úy của đơn vị pháo binh. Nhóm chúng tôi, hai tuyên úy và hai phụ tá, đă ra "mặt trận" từ chiều hôm trước để có thể thăm viếng các pháo đội, tôi đă kịp dâng hai thánh lễ cho hai đơn vị (đúng như tinh thần quân đội Mỹ trước khi lâm chiến.) Một thánh lễ dưới lưới ngụy trang và bàn thờ là những thùng đạn chồng lên nhau; lễ thứ hai, trời đă tối, tôi phải dùng đến bốn cây nến "hóa học" (chem-lites, chemical lights), không có lửa, nhưng chỉ do tác dụng hóa học gây nên ánh sáng, mới đủ để đọc sách.
Hồi chiều, viên thượng sĩ thường vụ pháo đội đă đưa một anh lính đến giới thiệu với tôi: "Sir, xin giới thiệu ‘Mr. Nguyễn’ này nữa." Th́ ra trong đơn vị có một anh PFC (Private First Class, binh nhất) cũng họ Nguyễn. Tôi đă vui vẻ chào thăm và lát sau, khi chỉ c̣n hai người, tôi đă hỏi người lính bằng tiếng Việt: "Bên nhà, quê anh ở tỉnh nào?" Người binh nhất của binh chủng thiện chiến hàng đầu trên thế giới, TQLC Hoa Kỳ, đă cho tôi một ngạc nhiên: "Dạ, gia đ́nh ‘cháu’ đi từ Hải Pḥng!" Đúng vậy, anh ta đă cùng bố mẹ và gia đ́nh vượt biên từ hải cảng nổi tiếng đó ở miền Bắc, đến trại tị nạn Hồng Kông trước khi được vào Mỹ. Lại thêm một kỳ duyên, một "cháu ngoan" đích thực đă được đổi đời, tôi nghĩ. Anh này chỉ quen với lối xưng hô quân đội bằng Anh ngữ, nên khi lúc tôi hỏi bằng tiếng Việt, anh ta xưng "cháu" là "lễ độ" lắm rồi!
Nh́n vào khẩu đại bác 155 mm loại mới, M198, trông nhẹ hơn cây "đầu bạc" cũ có từ thời Đệ Nhị Thế Chiến, M114, nhiều, nhưng tôi vẫn không "phục" mấy. Tôi hỏi viên trung úy pháo binh đứng gần đó: "Trong thời chiến tranh ở Việt Nam, tầm xa của loại súng 155mm này đă không bằng các khẩu 130 mm của NVA (North Vietnamese Army, quân CSBV), tại sao các anh c̣n dùng nó nữa?" Người sĩ quan trẻ mỉm cười trả lời: "Sir nói đúng, nhưng hiện tại chúng tôi đang dùng các loại đạn mới, có thể đương đầu được với tất cả các loại đại bác do Nga hay Trung Cộng chế tạo. Loại đạn mới này có hai tầng, sau khi ra khỏi ṇng súng và bay được khoảng 22 cây số, đầu đạn sẽ tự động khai hỏa tầng thứ hai và tiếp tục bay đi như một hỏa tiễn nhiều cây số nữa. Anh ta tiếp: "Nhưng các loại đạn này…hơi đắt, gần 30 ngàn đô-la một trái!" Tôi thầm nghĩ: "Có thế chứ, địch có thể pháo ta, mà ta không phản pháo được th́ hỏng to c̣n ǵ! Nhưng giá một qủa đạn, bằng giá một chiếc xe hơi loại tốt, kể cũng đắt thật! Thảo nào các sĩ quan trong bộ chỉ huy lữ đoàn đă kháo với nhau rằng cuộc tập trận này sẽ tốn đến hơn 120 triệu mỹ kim!"
Kể từ năm 2005, quân đội Mỹ đă dùng một lại đại bác 155 mm mới, M777, và vào năm 2007, họ lại dùng một loại đạn mà mục tiêu được định vị bằng GPS và điều khiển quán tính rất hiện đại (như hỏa tiễn hành tŕnh – cruise missile) mang tên M982, Excalibur. Loại đạn này vô cùng chính xác và tầm tác xạ khoảng 60 cây số, dĩ nhiên là nó c̣n đắt hơn loại đạn hai tầng kể trên, mỗi quả giá đến 54 ngàn đô la.
Trên chuyến bay trở lại với "thế giới văn minh," trong những suy tư tản mạn, tôi thầm cảm tạ Ơn Trên đă cho nước Việt được ḥa b́nh; nếu không, những thanh niên Việt Nam anh đă gặp có thể đă phải đối đầu với nhau như những kẻ thù ở một chiến trường nào đó: Trị-Thiên, Tam Biên, hay miền đồng bằng sông Cửu? Nhưng được ḥa b́nh mà thiếu tự do th́ nền ḥa b́nh ấy đă hoàn toàn chưa? Có đúng với ước vọng của toàn dân là được "Quốc thái, Dân an" không?
Tôi không tin là những người thanh niên Việt Nam đă gia nhập TQLC, binh chủng "đến trước, về sau" (First to come, Last to leave), vất vả và nguy hiểm trăm chiều, chỉ với lư do t́m học bổng. Tôi muốn nghĩ rằng họ đă gia nhập TQLC v́ cái hào hùng, cái đặc biệt và hấp dẫn của binh chủng này đối với những người trai trẻ. Hơn nữa, có thể c̣n một lư do xa hơn, tôi nhớ có lần anh đă xem một phim nói về TQLC, "A Few Good Men," trong phim đó, một luật sư đă hỏi người bạn đồng nghiệp của ḿnh: "Tại sao chị lại thích lính TQLC như vậy?" Người nữ luật sư trả lời rằng, “Tôi thích họ v́ họ đă ôm súng, đứng trên bức tường canh gác và nói với tôi: ‘Chị hăy nghỉ yên đêm nay, không ai có thể làm hại chị, trong phiên gác của chúng tôi!’" Những thanh niên nam, nữ người Việt đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ chắc chắn đă biết rằng họ không chỉ chiến đấu cho riêng họ hay cho quốc gia Mỹ, nhưng c̣n cho chính gia đ́nh họ và gần hai triệu đồng bào Việt Nam khác đă nhận sự tiếp đón rộng răi của đất nước này. Nền dân chủ và sự tự do, đôi khi đến quá lố ở Hoa Kỳ, không phải là những món quà tặng miễn phí, những điều tự nhiên sẵn có, chúng đă và đang được ǵn giữ bởi mồ hôi, bởi nước mắt, và nếu cần, bằng máu của gần hai triệu quân nhân đang trấn đóng rải rác khắp thế giới. Tôi muốn nghĩ rằng những thanh niên nam, nữ người Việt phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ, cũng đang bồng súng trên bức tường đó và nói với đồng bào ḿnh rằng: "Bà con hăy yên tâm vui hưởng tự do, dân chủ, đừng lo sợ, v́ đă có chúng tôi đây!" Riêng tôi, tôi nghĩ rằng những người con của Mẹ Việt Nam ấy cũng rất đáng được hưởng sự chăm sóc tinh thần bởi chính những tuyên úy đồng hương của họ. Bộ Quốc Pḥng Mỹ, ở thời điểm 2014, đă nhận thêm các tuyên úy Phật giáo, như họ đă thực hiện đối với Do Thái giáo và gần đây là Hồi giáo.
Nh́n qua khung cửa sổ máy bay, trong bầu khí lặng gió của mùa Hè, cả thành phố Los Angeles như đang bị che phủ bởi một đám mây khổng lồ… màu đất, tôi bỗng buột miệng: "Bụi trần!"
[CENTER][IMG]http://i63.tinypic.com/qy5rps.jpg[/IMG]
H́nh 1: Đại bác 155 mm cũ kiểu M114
[IMG]http://i64.tinypic.com/2j4aqrk.jpg[/IMG]
H́nh 2: Kiểu M198
[IMG]http://i68.tinypic.com/2rdgkud.jpg[/IMG]
H́nh 3: Kiểu M777
[IMG]http://i68.tinypic.com/21abeb.jpg[/IMG]
H́nh 4: Đạn mới Excalibur, đi được 60 km và giá 54 ngàn đô-la.[/CENTER]
-
[CENTER][B][COLOR="#B22222"]CUỐN THEO MỆNH NUÓC :[/COLOR][/B][/CENTER]
[B]ĐI BIỂN – 1 [/B]
Chiếc máy bay dân sự được quân đội thuê bao (chartered), chở gần hai trăm quân nhân, đă cất cánh trong một buổi tối từ phi trường quốc tế Philadelphia trực chỉ hướng Đông. Tôi thấy ngạc nhiên v́ tại sao họ không bay lên phía Đông-Bắc rồi theo ven biển qua Nova Scotia, Newfoundland, Iceland, Ireland and England trước khi vào Tây Âu cho an toàn như những chuyến hàng không dân sự vượt Đại Tây Dương? “Chắc quân đội có đường bay riêng!” Tôi tự trả lời.
Lần này, tôi được lệnh công tác ngắn hạn, nhưng rất đặc biệt, v́ vùng đất tôi đến sẽ là Trung Đông, hay đúng hơn vùng vịnh Persia (Ba-Tư), nơi Mỹ cùng các nước đồng minh Tây Âu và Ả Rập đă từ chối sự cưỡng chiếm Kuwait của Iraq, đánh bại và đẩy quân của Saddam Husein về vị trí nguyên thủy của họ, trong trận chiến “Băo Sa Mạc – Desert Storm” ở Vùng Vịnh năm xưa. Đây cũng là khu vực vẫn đang được bộ quốc pḥng Mỹ liệt kê là vùng có chiến tranh (war zone.) Ư tưởng "đi vào vùng chiến tranh" chợt đến, khiến tôi hơi chột dạ! Không biết khoảng giữa thập niên 60's của thế kỷ trước, lúc cuộc chiến Quốc-Cộng đang đi dần đến hồi ác liệt, nhiều quân nhân Mỹ đă đến Việt Nam cũng trên những chuyến bay "đi vào nơi đang có chiến tranh" tương tự, mang tâm trạng ra sao. Riêng tôi trong lúc này, có một chút hoang mang, một chút lo sợ, nhưng đồng thời nỗi hào hứng cũng lẫn lộn trong tâm trí tôi!
Khoảng bốn tiếng đồng hồ sau khi cất cánh, viên phi công đă loan báo cho mọi người chuẩn bị để máy bay đáp, tôi tự hỏi: "Đáp? Đáp xuống đâu? Đây là giữa biển!" Chỉ sau khi máy bay đă an toàn vào chỗ đậu và hành khách được xuống pḥng tiếp tân ở phi trường, tôi mới biết đó là một căn cứ của Không Quân Mỹ, nằm trên một hải đảo thuộc quần đảo Azores của nước Bồ Đào Nha (Portugal.) Quần đảo này nằm ở vị trí khoảng 2/3 chiều ngang của Đại Tây Dương, tính từ Mỹ, trên cùng một vĩ độ với Philadelphia và Lisbon, thủ đô của Bồ. "Vị trí chiến lược thật!" Tôi thầm nghĩ, chiều ngang Đại Tây Dương đă như hẹp hơn cho những phi công của quân đội Hoa Kỳ v́ họ biết rằng đă có quần đảo này cho họ "dừng chân" khi cần!
[CENTER][IMG]http://i65.tinypic.com/oissa1.jpg[/IMG][/CENTER]
Đoàn người tiếp tục lên phi cơ, trực chỉ hướng Đông. Bay khoảng bốn tiếng nữa th́ lại đáp xuống một phi trường thứ hai, ngoại ô thành phố Catania, nằm về phía Đông của đảo Sicily, thuộc Ư. Trước đây, trong một chuyến du hành khác, không phải là công tác quân đội, tôi đă có dịp ghé hải đảo quê hương của những "Bố Đỡ Đầu" (Godfathers, năm xưa ở Việt Nam có người dịch là Bố Già), đầu xỏ của những băng đảng (gangsters); họ đă đến Mỹ, lập những "xă hội đen" (Mafia) và gây xáo trộn không ít vào các thập niên đầu thế kỷ 20. Truyện của họ đă được thêu dệt thêm để viết thành sách, đóng thành phim cho cả thế giới đọc và xem. Tôi biết lần đáp kế tiếp sẽ là Bahrain, một quốc gia hải đảo, nằm rất gần bờ biển của nước Saudi Arabia trong vịnh Persia, đây cũng là nơi có bộ tư lệnh tiền phương của "Vùng Chiến Lược Miền Trung" (Central Command hay CentCom.) Mỹ đă chia thế giới thành các vùng chiến lược, cũng như quân đội VNCH khi xưa được chia thành bốn vùng chiến thuật vậy, riêng Đại Tây Dương đă được chia thành ba vùng: NorthCom, CentCom, và SouthCom. Cả Thái B́nh Dương chỉ là một vùng, PacCom, nhưng được chia thành hai vùng chiến thuật, Đông và Tây Thái B́nh Dương. Trung Đông thuộc trách nhiệm của CentCom trong đó có hạm đội thứ Năm, gồm nhiều tiểu hạm đội (Battle Groups), đặt dưới sự chỉ huy của một vị Phó Đô Đốc (ba sao), có bản doanh ở Bahrain. Tôi sẽ công tác trên chiếc hàng không mẫu hạm (HKMH), USS John F. Kennedy CV-67, đang hoạt động trong vịnh Persia.
Để tránh những quốc gia "không thân thiện" lắm đối với Mỹ như Lebanon và Syria, máy bay đă phải ṿng xuống phía Nam, bay qua không phận Do Thái (Israel), Jordan, và Saudi Arabia trước khi đến Bahrain. Trời đă vào đêm, các thị trấn và xa lộ ở Saudi Arabia rực sáng bởi hệ thống đèn màu vàng mà từ trên cao trông xuống thấy rất đẹp mắt. Nhờ có nguồn lợi từ dầu hỏa, người dân thành phố ở quốc gia này đă có nếp sống khá cao, không thua ǵ những nước Tây Phương.
Tôi và đoàn người được đưa về nơi tạm trú qua đêm, đây là một khách sạn gần trung tâm thủ đô Manama của quốc đảo Bahrain, do quân đội Mỹ thuê dài hạn, có nhân viên giữ an ninh là các cảnh sát địa phương. Tôi đă nhận ra ngay sự thiếu an toàn của khách sạn: Sát mặt đường, không hàng rào ngăn cản! "Đáng ra người ta phải thận trọng hơn sau khi đă có những vụ nổ ở Saudi Arabia," tôi nghĩ thế nhưng lại mỉm cười ngay với chính ḿnh, v́ chợt nhớ đến những tấm bảng tôi đă không ưa mấy, khi phải đi qua các khu nhà của quân đội hay dân chính Mỹ năm xưa ở Sàig̣n. Bảng đề: "Cấm ngừng, cấm đậu, cấm đứng, cấm chụp h́nh." Nghe như có sự đe dọa, thêm chút kiêu căng... Nhưng sáng mai, nếu tôi thấy những tấm bảng tương tự quanh khách sạn này, th́ chắc chắn tôi sẽ nh́n chúng với ánh mắt nhiều thiện cảm hơn!
Những chuyến xe bus chỉ cách nhau 15 phút, chuyên đưa đón người từ khách sạn vào bộ chỉ huy, tôi vào thăm vị tuyên úy trưởng đă quen biết từ mấy năm trước. Nhân dịp này, tôi đă bày tỏ sự quan tâm của ḿnh về t́nh h́nh an ninh của khách sạn, ông cho biết cấp trên đă có dự liệu làm cho khu nhà được an toàn hơn.
Khi ra về, tôi thấy một hạ sĩ quan Hải Quân gốc Á Châu đi ngược chiều, chưa kịp nh́n kỹ hơn th́ anh ta đă lên tiếng trước bằng tiếng Việt: "Chào cha!" Ngạc nhiên, tôi hỏi lại: "Làm sao anh biết tôi là linh mục người Việt?" "Dễ thôi cha," anh ta trả lời, "này nhá, cha đeo Thánh Giá trên cổ áo trái th́ là tuyên úy rồi; lại mang bảng tên Nguyễn th́ nhất định phải là người Việt c̣n ǵ?" Tôi đáp lại, "Bữa nào cho anh gặp một tuyên úy Tin Lành gốc Việt, để anh hết đoán ṃ." (Tuyên úy của các hệ phái Kitô giáo – Christian Churches - trong quân đội Mỹ đều đeo chung một huy hiệu là cây Thánh Gía.) Thế rồi cả hai chúng tôi cùng phá lên cười sảng khoái và thấy thân mật hơn với t́nh đồng bào trong cuộc hội ngộ t́nh cờ nơi vùng đất xa xôi đó.
C̣n tiếp ...
-
[B]ĐI BIỂN - 2[/B]
Sau trưa, tôi được chuyển ra HKMH Kennedy bằng chuyến "Greyhound" thường lệ (máy bay hai cánh quạt, C-2A, chuyên đưa đón nhân viên và quân nhu giữa tàu và bờ.) Trung tá tuyên úy trưởng, B. N. May, đă lên "sàn bay" (flight deck) đón và đưa tôi về lầu của các sĩ quan (officers' country). Khoảng lầu này lại được chia thành nhiều buồng lớn (compartments), mỗi buồng có đến 20 pḥng (staterooms), mỗi pḥng chứa hai người, có trang bị TV, tủ áo, bồn rửa mặt; các nhà tắm và vệ sinh ở một góc buồng được cả buồng xử dụng chung. "Thoải mái chán," tôi thầm nghĩ, so với những chiến hạm khác, nhỏ hơn, mà tôi đă có dịp đi. Tàu được thiết kế phức tạp như một ổ mối, nếu không được hướng dẫn trước, người ta dễ dàng bị lạc và khó có thể t́m được lối ra. Trước tiên phải biết số từng lầu của ḿnh (có 13 lầu, không kể đài chỉ huy với 7 lầu nữa), kế đến là số khoang được đánh số từ mũi tàu ra sau, và vị trí của ḿnh thuộc phía phải hay trái của tàu. Quan trọng nhất là phải biết lầu nào có "highway" (hành lang bên trong, chạy suốt từ gần mũi đến cuối tàu - chỉ hai lầu có hành lang này,) vào highway trước, t́m lối rẽ (exit) gần buồng của ḿnh để ra là cách dễ nhất.
[CENTER] [IMG]http://i65.tinypic.com/nczafk.jpg[/IMG][/CENTER]
Chiếc HKMH Kennedy là một thành phố nổi với trên 5000 thủy thủ, được chia thành hai ngành rơ rệt: Không Quân (Air) và Mặt Biển (Surface). Có một sư đoàn không quân (Carrier Air Wing) với nhiều phi đội gồm khoảng 100 máy bay đủ loại, đa số là các chiến đấu cơ F 14s và F 18s (ở thời điểm tôi phục vụ trên đó) , gần 2000 quân nhân đă thuộc thành phần này. Ngành thư hai gổm các thủy thủ lo chăm sóc và bảo vệ tàu. Mỗi ngành lại được chia thành nhiều ban (departments), rồi các toán (divisions). Bốn tuyên úy và tám hạ sĩ quan phụ tá là một ban độc lập (nếu cần, các tuyên úy có thể đi thẳng tới hạm trưởng, không phải qua hệ thống quân giai), mỗi người có một văn pḥng riêng trong một buồng đặc biệt, bên cạnh là nhà nguyện chứa được khoảng 75 người. Cùng buồng lại có thư viện với trên 10 máy điện toán có thiết bị mạng lưới toàn cầu (internet,) khá nhiều sách báo, phim ảnh, băng nhạc. Ban truyên úy phải trách nhiệm thêm thư viện này. Thủy thủ được xử dụng các máy điện toán khắp nơi trên tàu để học thêm hay gửi điện thư (email) hàng ngày về gia đ́nh, (nhưng trong giới hạn nào đó,) không phải mong chờ có khi cả tháng mới được một lần thư như trước nữa.
Chiếc Kennedy cũng là soái hạm của Tiểu Hạm Đội (battle group) mang cùng tên, vị Phó Đề Đốc (một sao) chỉ huy trưởng đă đặt bộ chỉ huy trên tàu này. Cùng với HKMH c̣n có hai tàu ngầm loại tấn công (Attack Submarines), khoảng 6 chiến hạm khác gồm hộ tống hạm (Frigates), khu trục hạm (Destroyers), và tuần dương hạm (Cruisers) trong đó có chiếc USS Huế City, CG-66, được đặt tên để ghi nhớ trận đánh lịch sử, tái chiếm thành nội Huế của các TQLC Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa trong cuộc tổng tấn công của quân cộng sản đầu năm Mậu Thân, 1968.
Với lực lượng này, cả tiểu hạm đội và các tàu tiếp liệu, như được bao bọc chặt chẽ bởi một mạng lưới pḥng bị có bán kính bung rộng đến trên 300 hải lư (khoảng 500 cây số.)
Trước khi vào đến vùng trách nhiệm, tiểu hạm đội đă phải đi qua eo biển Hormuz, sát với bờ biển của Iran, một nước được kể là thù nghịch với Mỹ kể từ vụ họ bắt cóc toàn bộ nhân viên của ṭa đại sứ Mỹ làm con tin vào các năm 1979-80. Cộng thêm những vụ khác như Iran thả ḿn, bắn phá các tàu chở dầu qua eo biển này; vụ tàu chiến Mỹ bắn lầm vào một chiếc máy bay hàng không dân sự Iran làm thiệt mạng mấy trăm người v.v... Tất cả những sự kiện đó đă khiến hai quốc gia trở thành thù nghịch cho đến hôm nay. Các tiểu hạm đội Mỹ phải hết sức đề pḥng khi đi qua eo biển Hormuz, thậm chí, ngoài các phi cơ đang bay để bảo vệ đoàn tàu trên không, những phi công trong phiên trực đă phải ngồi chờ ngay trên pḥng lái của máy bay ḿnh, nếu bị tấn công bằng hỏa tiễn, họ chỉ có mấy chục giây để đối phó và phản công.
Tiểu hạm đội Kennedy đang tham gia cuộc hành quân "Canh Pḥng Miền Nam" (Southern Watch), không cho bất cứ máy quân sự nào của nước Iraq vượt qua vĩ tuyến 33 đến biên giới phía Nam của nước này. Từ vĩ tuyến 36 ngược lên phía Bắc Iraq là vùng trách nhiệm của các đơn vị Không Quân Mỹ và Đồng Minh đang đặt căn cứ ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey.) Nếu phi cơ quân sự Iraq vi phạm hai vùng không phận nêu trên, các chiến đấu cơ của Đồng Minh sẽ có quyền bắn hạ. Các dàn đại bác hay hỏa tiễn pḥng không ở dưới đất của Iraq cũng không được có hành động "gây hấn" nào, chỉ cần họ mở máy radar để ḍ các phi cơ đang bay bên trên là họ đă có thể bị dội bom! Các phi công Mỹ trung b́nh đă phải xử dụng “vơ lực” đến 25% trên tổng số các phi vụ của họ. Dĩ nhiên là nếu không cẩn thận, các phi cơ của Đồng Minh cũng có thể bị bắn hạ bất cứ lúc nào!
Đời sống trên chiến hạm luôn luôn như một cái máy: giờ làm việc, khi ăn, lúc nghỉ, phải nhịp nhàng, ăn khớp với nhau. Chỉ cần một sự kiện nhỏ xảy ra như một chảo nấu thức ăn bị hư là các thủy thủ đă phải xếp hàng dài hơn, chờ lâu hơn, và những công việc liên hệ phải đ́nh trệ lâu hơn... Cứ tưởng tượng ban ẩm thực phải nấu trên 15 ngàn phần ăn mỗi ngày để mọi người có đủ ba bữa, hay phải cung cấp đến 10 ngàn qủa trứng gà chỉ để cho một bữa ăn sáng!
(C̣n tiếp)
-
Cô Tigon oi!
Cô có phải là bạn của Drango không cô?
-
Vô PM nói chuyện đi , Hạt Tiêu
-
[B]ĐI BIỂN - 3[/B]
Đại đa số các thủy thủ trên tàu đang trong lứa tuổi 18 - 20, nhiều người lần đầu tiên xa gia đ́nh. Thường thường cứ đến khoảng tuần lễ thứ ba sau khi tàu rời bến là bắt đầu có vấn đề, thủy thủ nhớ gia đ́nh, nhớ người yêu nhiều hơn, và bắt đầu xuống tinh thần. Họ xin gặp các tuyên úy để được an ủi, khuyên nhủ thường hơn, và v́ vậy các tuyên úy đă phải thêm phần bận rộn. Đôi khi ngay trong hàng ngũ hạ sĩ quan và sĩ quan cũng có người gặp khó khăn, thường là v́ lư do gia đ́nh.
Cấp trên cũng hiểu tinh thần và tâm lư binh sĩ nên trung b́nh cứ khoảng từ 3 đến 6 tuần lễ là tàu lại ghé một bến nào đó để thủy thủ có dịp xả hơi. Một huynh trưởng của tôi, tuyên úy N.B.A., vừa được vinh thăng Hải Quân Trung Tá, trong chuyến đi biển 6 tháng ở vùng Địa Trung Hải (Mediterranean Deployment, gọi tắt là MedDep) cách đây vài năm, cũng trên chiếc HKMH này, đă có dịp ghé hải cảng Nice ở Pháp. Ông lên thăm một người bạn và được mời cùng đi xem phần tŕnh diễn của đoàn "Con Rối Nước" (Water Puppets) từ Hà Nội qua; sau đó, ông đă mời cả đoàn, khoảng 40 người, lên thăm tàu vào ngày hôm sau. Họ đă kinh ngạc đến sững sờ trước chiếc chiến hạm quá vĩ đại (dài và rộng bằng ba sân đá banh nhập lại.) Càng ngạc nhiên hơn khi tuyên úy N.B.A. đưa họ đi xem những nơi quan trọng như pḥng chỉ huy (Captain's bridge), pḥng radar, pḥng của sĩ quan điều khiển không lực (Air Boss)... Họ đă trầm trồ: "Sao anh dám đưa chúng em đến những chỗ này? Không sợ lộ bí mật à?" Hoặc là: "Trong thời chiến tranh, chúng em chả hiểu tại sao nước Mỹ ở xa thế mà cứ chốc chốc lại có cả đàn máy bay vào đánh bom ở miền Bắc! Thật, bây giờ chúng em mới biết!!" Tội nghiệp cho những con người đă phải sống trong một xă hội bị bưng bít đến tối đa.
Trong một bữa ăn có món thịt gà chiên, tôi đă ngồi cạnh tuyên úy trưởng, B.N. May. Ông này không lấy món phụ theo đúng kiểu Mỹ là khoai tây chiên, nhưng lại là cơm. Tôi ṭ ṃ, hỏi trêu: "Bộ ông khoái ăn cơm lắm hả?" Tuyên úy May không trả lời nhưng hỏi lại tôi: "Năm 1975, anh (you) ở trại tị nạn nào?" Tôi đáp: "Fort Chaffee, Arkansas." Tuyên úy May nh́n vào khoảng không như đang hồi tưởng về một qúa khứ nào đó, rồi ông tâm sự: "Cha (Father) biết không, đầu tháng Năm, năm 1975, tôi đang là một trung úy phi công, lái trực thăng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến ở Camp Pendleton, California. Khi trại tị nạn cho người Việt được thành lập ở đó, tôi đă được lệnh làm việc với ban điều hành trại, đặc trách các nhà ăn ở những khu 1, 2 và 3. Một hôm, các thông dịch viên đă đến nói với tôi: "Hôm nay, chúng tôi không được ăn cơm!" Tôi nói: "Nhưng các ông mới ăn cơm hôm qua rồi mà!?" Họ đáp: "Đúng vậy, nhưng người Việt chúng tôi cần có cơm ngày ba bữa!" Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng vẫn ra lệnh cho nhà thầu phải mua thêm thật nhiều gạo để nấu cơm mỗi ngày cho dân chúng, thế rồi chính tôi cũng tập ăn cơm, lâu ngày thành quen, cho tới bây giờ."
Vài năm sau kinh nghiệm có một không hai đó, trung úy May đă xin giải ngũ và theo học đại chủng viện. Sau khi được thụ phong chức mục sư, ông đă xin tái ngũ và trở thành tuyên úy trong binh chủng Hải Quân cho đến hiện tại. Tôi bắt tay tuyên úy May thật chặt và nói: "Cám ơn Tuyên Úy, ông đă là người ơn, là chứng nhân sống động của một trong những trang sử bi thảm nhất của dân tộc chúng tôi." Tuyên úy May cũng xiết chặt tay và nh́n tôi với cái nh́n hết sức cảm thông, hai người đă trở thành thân thiết kể từ hôm ấy.
Pḥng tiếp khách của đại tá hạm trưởng (Navy Captain) cũng là nơi trưng bày những h́nh ảnh và di vật của cố tổng thống Kennedy mà tàu này đă lấy tên. Một buổi tối, tôi đă vào ngồi một ḿnh trong đó, nh́n vào tấm ảnh phóng lớn của người quá cố, tôi nói thầm trong đầu:
[CENTER][IMG]http://i68.tinypic.com/awz0nn.jpg[/IMG][/CENTER]
"John Fitzgerald Kennedy, ông đă là tổng thống một quốc gia hùng mạnh hàng đầu trên thế giới, nhiệm kỳ của ông tuy ngắn ngủi nhưng hai lần ông đă gây hệ lụy không nhỏ đối với những quốc gia được kể là "thân hữu" của Hoa Kỳ. Lần đầu, ở Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ông đă phản bội những người bạn Cuba muốn đổ bộ trở về giải phóng quê hương của họ, đưa họ vào chỗ chết mà không hề tiếp cứu. Lần kế, quan trọng hơn, nghiệt ngă hơn nhiều, cuộc chiến tranh đă hủy hoại trọn một thế hệ và làm suy thoái cả dân tộc của họ! Khởi đi từ việc ông đồng ư cho lật đổ một chính phủ hợp hiến, hợp pháp, lần đầu tiên được người dân Việt Nam bầu lên theo thể chế dân chủ, rập khuôn với chính phủ của ông. Ông đă tỏ ra ngạc nghiên và bất b́nh khi biết thuộc cấp của ông (đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam) và nhóm tướng lănh phản phúc làm đảo chánh, đă toa rập để giết chết vị tổng thống và hai người em của ông ta. Những người này đă tệ hại đến nỗi vị kế nhiệm của ông, Tổng Thống Lyndon B. Johnson, đă phải thẳng thắn gọi họ là “bọn côn đồ khốn kiếp” (Goddamn bunch of thugs). Nhưng tội qui về người đứng đầu, (the buck must stop on your desk!) Ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hậu qủa đau thương đó. Thế rồi, người đời chưa kịp trách ông th́ chính ông đă ngă gục trước viên đạn của kẻ sát nhân. Tôi c̣n nhớ, tối hôm ấy trên đường về nhà, tôi đă được nghe tin về cái chết của ông qua những máy thu thanh vang vọng từ nhà cửa ở dọc đường. Năm đó tôi vừa vào lứa tuổi trung học, nhưng đă sớm nhận biết thế nào là t́nh nghĩa ở đời, nhất là ‘t́nh nghĩa’ trên chính trường quốc tế! Thế nào là thân phận kẻ đang sống trong một quốc gia nhược tiểu, ông xử ‘không đẹp’ đối với một người đă được coi là bạn của ông, là tổng thống của chúng tôi!
"Nhưng hậu qủa dây chuyền của hành động đó c̣n khủng khiếp hơn, gần 60 ngàn quân nhân Hoa Kỳ và trên ba triệu người Việt Nam đă chết thảm v́ chính sách sai lầm của ông và những người nắm quyền kế tiếp. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đă qua kể từ ngày im tiếng súng, nhưng Việt Nam vẫn chưa ngóc đầu lên nổi, vẫn bị kể là một trong những nước nghèo đói nhất trên thế giới! Ông đă là một giáo dân Công giáo, tôi là một linh mục; giả sử ông có cơ hội trở về xưng tội với tôi th́ việc ‘đền tội’ tôi trao cho ông sẽ là: ‘Dùng tất cả những ơn Chúa ban riêng để làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia thực sự được độc lập, tự do, dân chủ, và phú cường,’ có như thế mới mong đáp lại phần nào lỗi lầm quá to lớn của ông."
Tôi bước ra khỏi pḥng, ḷng buồn vui lẫn lộn như vừa ban phép ḥa giải cho một hối nhân đă bỏ xưng tội đến gần 40 năm trời!
(C̣n tiếp)
-
[B]ĐI BIỂN – 4[/B]
Nguyên tắc thông thường của cái súng cao su mà trẻ con hay chơi, đă được Hải Quân Mỹ xử dụng để thêm sức, phóng các phi cơ đang rồ máy vọt tới, cho dễ cất cánh hơn. Có bốn dàn phóng (catapults, mà các thủy thủ gọi tắt là "cats") dùng sức ép bằng hơi nước; nhưng tối đa người ta chỉ có thể phóng hai phi cơ lên cùng một lúc, v́ các dàn phóng chéo góc với nhau. Mỗi phi vụ có từ 15 đến 20 phi cơ đủ loại, họ bay khoảng gần hai tiếng đồng hồ, và trước khi họ trở về đến tàu th́, nếu cần, một phi vụ khác lại được phóng lên. Cứ như thế, các phi cơ liên tục được xử dụng trong việc "Canh pḥng miền Nam" nước Iraq. Để có giờ nghỉ ngơi, các phi công Hải Quân (Aviators, thay v́ được gọi là Pilots như bên Không Quân, ư muốn nói đáp máy bay trên HKMH th́ khó hơn là đáp trên một phi đạo dài rất nhiều) chỉ làm việc sáu ngày một tuần, khi họ nghỉ th́ các phi đội của Không Quân đang trấn đóng ở Saudi Arabia sẽ đảm trách thay, ngược lại, họ cũng giúp bên Không Quân trong cùng một cách tương tự.
Sau cuộc Chiến Tranh Lạnh (Cold War) cả Mỹ và Nga đều cắt giảm binh bị, nhưng nhiều nước khác lại gia tăng như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Iran... Mỹ đă giảm hơn một triệu quân và mấy trăm tàu chiến. Số HKMH đang từ 15, hiện chỉ c̣n lại 12 chiếc và hiện nay chỉ c̣n 10 chiếc, không kể 10 HKMH loại nhỏ (Amphibious Assault Ships), các LHAs và LHDs, mỗi chiếc chứa nhiều trực thăng và phản lực lên thẳng Harriers, cũng như máy bay hai cánh quạt xoay chiều để lên thẳng, V-22, (h́nh) với khoảng 2000 TQLC sẵn sàng đổ bộ bất cứ nơi nào cần. Tuy nhiên, khi cho những chiếc HKMH cũ về "hưu" (de-commissioned) th́ họ lại đóng thêm những chiếc khác tối tân hơn như Stennis CVN-74, Truman CVN-75, và Reagan CVN-76. Chiếc mới nhất và cũng là cuối cùng của “lớp” (class) Nimitz được đặt tên là George H.W. Bush (bố), mang số hiệu CVN-77.
Hiện nay Hải Quân Mỹ đă cho đóng chiếc HKMH lớp mới mang tên Tổng Thống Gerald R. Ford, CVN-78, chiếc tàu này (chính thức hoạt động vào năm 2016), cùng với những chiến hạm vĩ đại khác sẽ tiếp tục phục vụ quân đội Mỹ suốt thế kỷ 21. Vài HKMH sau sẽ lần lượt mang tên John F. Kennedy, CVN-79 (đặt lại, thay cho chiếc CV-67 đă ‘về hưu’), và Enterprise (đặt lại), CVN-80, chúng chính thức được “biên chế” vào các hạm đội Mỹ trong các thập niên 10s và 20s. Sẽ có tổng cộng 10 HKMH loại này, tân tiến và mạnh hơn những chiếc cũ rất nhiều. Cần một bài viết đầy đủ mới tạm nói lên những thành phần mới trên các “tàu sân bay” siêu đẳng không nước nào b́ kịp nói trên.
[CENTER][IMG]http://i65.tinypic.com/2mopoaa.jpg[/IMG][/CENTER]
Một đêm, đến phiên tôi lên pḥng lái và cũng là đài chỉ huy để đọc lời nguyện và chúc b́nh an cho cả tàu trước khi đi ngủ (thời giờ đi ngủ chỉ là trên nguyên tắc.) Tôi đă lên sớm và ra ban công phía trước (weather deck) để có chút giờ tĩnh tâm. Bầu trời không trăng, dày đặc những v́ sao, dải Ngân Hà như sáng hơn, gần hơn, trải dài như đến vô tận. Tàu đang đi về hướng gió, lúc đó là hướng Đông, để chuẩn bị đón một phi vụ trở về. [B][COLOR="#A52A2A"]Tôi nghĩ thầm, chỉ cần bay về hướng này, mấy tiếng đồng hồ nữa là đến quê hương và tôi mường tượng đến những thành phố có thể sẽ bay qua như: Karachi (Pakistan), Calcutta (Ấn Độ), chếch xuống Rangoon (hay Yangon, Myanmar), Bangkok (Thái), rồi Sàig̣n, Huế, Hà Nội... Thật gần, nhưng cũng thật xa... quê hương ngút ngàn đó, đă một lần tôi hứa sẽ trở lại, nay vẫn dẫy đầy những bất công, đói khổ, thiếu hẳn tự do... Đă qúa lâu... qúa xa... ḷng người không khỏi mênh mang và trong một giây phút bi quan đă cảm thấy thấm thía nỗi xót xa đến u uất trong câu thơ của Đăng Dung: "Nợ nước chưa xong đầu đă bạc...”[/COLOR][/B]
[B][COLOR="#FF0000"]Trên tàu có một thiếu úy và 6 nam, nữ thủy thủ gốc Việt, nhưng hầu như họ c̣n qúa trẻ để có thể cảm thấy được hậu qủa sâu đậm của cuộc chiến, hay hoài băo về một quê hương xa vời vợi bên kia bờ đại dương. Làm thế nào để các bậc cha, anh có thể hướng dẫn, chỉ bảo thế hệ mới này, với hi vọng rằng một ngày nào đó họ sẽ tự t́m về đất Mẹ, quê Cha? Tôi giật ḿnh chợt nhớ rằng ḿnh đă sống ở Mỹ đến phân nửa cuộc đời! Bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu kỷ niệm đă đến với tôi trong suốt phần tư thế kỷ trên dải đất lớn bằng cả một lục địa mà tôi đă nhận làm nơi dung thân. Miệt mài trong công tác, đôi khi đă làm tôi lăng quên những cẩn trọng phải có, một lần tôi đă vô t́nh đi vào vùng t́nh cảm thế nhân, nhưng chưa kịp đặt chân xuống th́ đă vội thu về v́ biết rằng con đường đó không phải là lối ḿnh đang đi. Để rồi tôi đă phải trả giá bằng cơn đau ngất người kéo dài đến thật lâu! Tôi nhận thấy con người của ḿnh thật nhỏ bé, thật mỏng ḍn và yếu đuối, chính tôi mới là kẻ cần phải xin ơn tha thứ nhiều hơn cả![/COLOR][/B]
Gần hai chục phản lực cơ trở lại tàu sau khi đă hoàn tất phi vụ, đáp đêm nhưng nhiều phi công vẫn móc đúng giây cáp thứ ba, chính xác và lư tưởng nhất! Các hỏa tiễn và bom đạn vẫn c̣n nguyên, những vũ khí giết người đó đă không phải phóng ra nơi vùng đất phía Nam vĩ tuyến 33 ở Iraq trong phi vụ này. Đêm nay đă không có máu đổ, không có tàn phá; bốn thang máy, thông thường, mỗi cái có thể đưa xuống "hầm chứa" (Hangar Bay) một lượt hai chiếc phi cơ xếp cánh. Công việc đó được nhanh chóng hoàn tất trong một thời gian ngắn nhất. Tiếng động cơ ồn ào đă sớm tắt, trả lại sự yên tĩnh tương đối trên tàu. Cơn gío nhẹ, một phần nhờ vận tốc của tàu, đưa mùi biển thoảng hơi muối mặn, cái mùi đặc biệt đă dính liền với cuộc đời của những người lính vượt đại dương.
Những gợn sóng nhỏ trên mặt nước không đủ làm cḥng chành con tàu quá lớn đang lầm lũi lướt đi trong bóng đêm. Tôi nhớ đến bài hát về những người lính thủy Việt Nam năm nào: "Với biển cả, anh là thủy thủ... Với ḷng nàng, anh là hoàng tử... Nhớ chuyện ngàn đêm xứ Ba Tư..." (Thủy thủ và biển cả, nhạc của Y Vũ.) Xứ Ba Tư – Persia, (ngày nay là Iran), cái xứ có những truyện "Ngàn lẻ một đêm" ấy đang không xa trước mắt, nhưng với tôi và hơn năm ngàn thủy thủ trên tàu, nó đă không c̣n thần tiên chút nào cả. Từ vùng đất "không thân thiện" đó luôn luôn vẫn có sự ŕnh rập, vẫn đ̣i hỏi sự thận trọng và đề pḥng tuyệt đối,[B] chỉ cần một sai lỗi nhỏ, chỉ cần hành động của một tên điên nào đó từ phía bên kia, là chiến tranh có thể sẽ xảy ra, là máu lại đổ, là nhà lại tan... [/B]Tôi thấy nền ḥa b́nh tạm bợ trong vùng cũng mong manh như thân phận con người và tôi quyết định không dùng lời nguyện đă dọn sẵn, nhưng sẽ cầu nguyện tự phát từ đáy ḷng mà chủ đề không ǵ khác hơn là H̉A B̀NH.
C̣n tiếp ...