Viết cho những thằng mang danh Người Việt
Mạn phép các vị ,hôm nay được mang dòng thơ ,một người con của SàiGòn thưở ấy lên đây .
Nhà thơ Nguyễn Đức Trạch, bút hiệu Trạch Gầm, hiện cư ngụ ở Anaheim, Orange County. Là con trai của bà Tùng Long, có em ruột là nhà văn Nguyễn Đức Lập và nhà văn Nguyễn Đông Thức(tên thật là Nguyễn Đức Thông, hiện sống ở Sài G̣n.Nguyễn Đông Thức vừa là nhà báo (báo Tuổi Trẻ từ năm 1981) trước khi trở thành nhà văn chuyên nghiệp). Nhà văn Nguyễn Đức Lập cũng là 1 cây bút nổi tiếng ở Bolsa.
Anh Trạch gốc Quăng Ngăi, sinh năm 1942 tại Sài G̣n. Cựu học sinh Vơ Trường Toản. Tốt nghiệp khóa 21 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Địa chỉ thường trú trước 1975: TRẠI HÙNG VƯƠNG, Biên Ḥa; KBC 3570 trại Lam Sơn, B́nh Dương. Sau 1975: tù cải tạo. Nay định cư tại Nam California.
Ít nhất Trạch Gầm cũng đă văng vào mặt bọn bán nước Việt Cộng những chữ ĐM mà tôi không đủ "ch́" để xin phép chúng cho tôi chửi chúng một tiếng, dù tôi vẫn chửi chúng, chửi hàng ngày, nhưng lại chửi bằng những câu văn hoa, bóng bẩy chỉ có tác dụng làm nhẹ tiếng chửi. Một nét khác trong bức truyền thần vẽ trái tim của người lính mất nước là hai câu:
Tao không tin lính lại hèn đến thế
Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm
Trạch Gầm là một Trung Úy Đại Đội Trưởng, nhiều năm vào sinh ra tử với trên dưới 100 quân nhân được anh mô tả như "8000 anh em đất Bái Thượng" của Hạng Vơ. Những người lính đó không hèn, dù vị tổng tư lệnh quân đội phản bội họ theo lệnh đồng minh ; những người lính đó vẫn không hèn trong suốt nhiều năm dài bị địch sinh cầm trong những điều kiện vô nhân đạo nhất.
Giờ này, 34 năm sau ngày gẫy súng, người lính Trạch Gầm vẫn gầm vào mặt Việt Cộng hai chữ "đi em - (ĐM)" để hỏi chúng Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu ? Tôi yêu khí phách Trạch Gầm dù mới gặp anh một lần ; tôi yêu thơ Trạch Gầm, anh nói giùm tôi, nói mạnh, nói thẳng hơn tôi, những điều tôi vẫn nói hàng ngày.
Nguyễn Đạt Thịnh, 2009/02/23
Và đây , một trong những bài thơ của anh " Viết cho những thằng mang danh Người Việt "
H́nh như chúng ḿnh đă quen nhau trước
H́nh như ḿnh cùng bú sữa miền Nam
H́nh như ḿnh cùng từng ôm cây súng
Giữ Quê Hương và… t́m kiếm thanh b́nh
H́nh như mầy thừa hơn tao kinh nghiệm
Đă một lần bỏ miền Bắc ra đi
V́ không thể sống với người cộng sản
Mầy dạy tao hiểu cộng sản là ǵ
Chia xương máu… mầy có phần trong đó
Từng là chứng nhân bao cảnh điêu tàn
*
* *
Huế, Tết Mậu Thân sờ sờ tội ác
Hè 72, máu ngập Lộ Kinh Hoàng
Ngành viết lách mầy viết ǵ thời đó
Nhớ hay quên tao mặc kệ xác mầy
Có một điều tao nhắc mầy nên nhớ
Với cộng nô, ḿnh là bọn “tay sai”
Lư lịch mầy bửa ngang xẻ dọc
Tưởng chia cơm với bọn chúng được sao ?
*
* *
Ngửi gió phất cờ khôn ngoan kiểu đó
Trơ trất đời, mầy gây chuyện tào lao
Hít bă mía theo bọn dày mả tổ
Thân phận mầy hít bả mía được sao ?
Liếm tí mật quên hết t́nh hết nghĩa
Phải chưởi mầy, tao…đau quá là đau !
Trạch Gầm
[video=youtube;nhd--mzSqKI]https://www.youtube.com/watch?v=nhd--mzSqKI[/video]
Chân dung Trạch Gầm qua nhăn quang của người thầy cũ nhân dịp ra mắt tập thơ Vụn Vặt
Vì dài nên xin trích đoạn ,hầu các vị :
10 giờ sáng Chủ Nhật, 18 tháng 11 năm 2007, Thư Viện Việt Nam tổ chức buổi ra mắt thi phẩm Vụn Vặt của Trạch Gầm tại TVVN số 10872 Westminster, Ave., Suite 214, Garden Grove. Bai viết của cô giáo Khư Thị Ngọc Sang - vị thầy với cậu học trò - đã gặp nhau cách nay trên 50 năm và ghi lại vài hình ảnh khó quên của thưở xa xưa nói lên tinh thầy trò đáng nhớ. Tuy tuổi hạc đã cao nhưng cô giáo hiện ở Canada vẫn còn nhớ những hình ảnh xa xưa để ghi lại nhân dịp thi phẩm của cậu học trò chào đời - Cali Weekly
Nguyễn đức Trạch cũng mơ ước tương lai trong đó thấp thoáng bóng h́nh cô nữ sinh Trưng Vương kế cận:
Ta vốn là dân Vơ Trường Toản
Nên cách trường Em một tấc đường
Ta lang thang bước hoài không tới
Qua hai cây cầu th́ đến trường nữ Lê Văn Duyệt, Trạch giả đ̣ viếng Lăng Ông : Khói nhang đâu chỉ thấy bóng hồng thướt tha
Khiếu viết văn cũng sớm xuất hiện. Có lần luận văn được Cô cho 10 điểm, dù rằng cô nổi tiếng khe khắt:
Xin trả lại Cô bài văn miêu tả
Một lần về thăm quê ngoại miệt vườn
Có ǵ lạ đâu nếu ta biết Trạch là con Bà Tùng Long, tiểu thuyết gia nổi tiếng trên văn đàn miền Nam vào những thập niên 50, 60, 70... Thi tú tài 1 cũng ạch đụi một hai lần, Trạch nhắc lại lần vào hạch miệng Pháp văn, cứ chần chừ cho đến cuối không dám bước vô pḥng thi, cô làm giám thi hành lang phải đẩy Trạch qua cửa.
Trạch nhớ lần thi cá nguyệt Sử đệ nhị, Thống ngồi cùng một dăy bàn, mở sách trong học tủ cho Trạch chép, sau khi nộp bài cho Cô mới biết thằng Thống mở lầm trang !!
Tất cả những giai thoại trên để chứng tỏ Trạch tiêu biểu tự nhiên và b́nh thường của lớp ‘nhất quỷ, nh́ ma,thứ ba học tṛ.’
Những giáo sư đă dạy Sử cho Trạch thật không uổng công, bởi những trang sử ấy đă un đúc t́nh yêu quê hương khiến Trạch cả đời hết đem sinh mệnh th́ đến đem tấm ḷng, hiến dâng cho đất nước.
Trạch đậu Tú Tài 2 rồi « vui chơi » cho đến khi vắng bóng bạn bè, lăn vào chiến cuộc như một số không ít bạn bè cùng lớp trong trường. Cũng từ đó thầy tṛ bặt tin nhau cho đến hơn 30 năm sau.
Năm 1965 Trạch t́nh nguyện vào quân ngủ, đám bạn thân, thằng Khôi lư la lư lắc, cao lớn đẹp trai nhất nh́ trường, giỡn hớt, ăn vụng trong giờ học hơn ai hết, thằng Quang mũ mỹ, hiền lành, cũng vào lính 3 năm trước rồi. Không khí chiến tranh sôi động khiến thanh niên dù c̣n trên ghế nhà trường cũng ngồi đứng không yên.
Em lội ngược ḍng trọn năm dệ nhất
Giữa cảnh quê hương khói lửa tơi bời
Trước sau rồi cũng đến lúc quyết định, thôi th́ đi sớm có lẽ c̣n chọn được binh chủng ḿnh thích:
Một ngày của ta trên tuổi hai mươi
Quê hương của ta khói lửa ngập trời
Cơm áo nhà binh ta vào cuộc chiến
T́m lấy tự do bằng chính mạng người
Trạch hăng hái lăn vào chinh chiến với động lực thúc đẩy mạnh mẽ : Chinh phục tự do và đem lại thanh b́nh cho xứ sở. Trạch nhắc lại nhiều lần hai danh từ mầu nhiệm nầy:
Nhớ ra ta là lính
Từng hát bài Tự Do
Trong gian khổ vẫn một ḷng mơ ước
Mong Thanh B́nh về thắp sáng tương lai
Để chinh phục thanh b́nh cho đất nước Trạch cắn răng chấp nhận mọi gian khổ, kể cả cái chết của những đồng đội trẻ tuổi và của chính ḿnh
Hai mươi tháng bảy ta rời An Lộc
Bỏ lại sau lưng vô số bạn bè
Bao đứa ngủ yên trong ḷng đất mẹ
Cho thanh b́nh ca khúc hát hoan ca
Mười năm chiến đấu Trạch tham dự vào đa số những trận đánh khốc liệt, đẫm máu: Lộc Ninh, Lai Khê, Xa Cát, Bù Đốp, Bung Cầu, Sóc Con Trăng, Kà Tum… những mùa hè lửa đỏ, những thực tại, những quyết định chớp nhoáng trong súng nổ đạn rơi, máu, mồ hôi, đau thương giữa bạn và thù đang lẫn lộn nhau:
Hai thằng cắn răng ḅ qua bao xác
Xác bạn, xác thù trộn lẫn đau thương
Cũng không quên nhân đạo khi xử sự với tù nhân và dân chúng nạn nhân chiến cuộc:
Cũng nơi đây ta cứu người con gái
Gởi trực thăng di tản về B́nh Dương
Trực thăng nổ khi vừa rời mặt đất
Ta điếng hồn như vừa nuốt phải xương
*
* *
Cũng nơi đây ta bắn thằng Việt Cộng
Một viên M79 vào hông
Bởi quá gần đạn không kịp nổ
Ta lại phải nuôi nó mấy tháng ṛng
Trạch không rơi vào thơ ca chinh chiến cổ điển mà t́nh yêu trai gái, Em hậu phương, Anh tiền tuyến, mỏi ṃn chờ đợi, trong viễn tượng hãi hùng ... Anh về nạng gỗ cụt chân…
T́nh yêu xuất hiện trong thơ Trạch như mây bay gió thoảng, đem lại chút mọng mơ, vài nụ cười hóm hỉnh
Anh có mẹ ǵ đâu để tặng
Một món quà sinh nhật cho Em
Gặp gỡ thôi…dăm ba lần thất hẹn
Dù kết cuộc
Mười mấy năm ṛng cơm áo nhà binh
Đổi mạng sống lấy Thanh B́nh…cũng không được
Trạch vẫn có quyền hănh diện về hành trang của một người lính anh dũng.
Một đặc điểm nữa không thể xem nhẹ trong đoạn đời binh sĩ của Trạch, là t́nh yêu thương đồng đội, kẻ c̣n đang kề vai chiến đấu với ḿnh cũng như người đă ngă gục. Trạch chia xẻ với chiến hữu từng ly rượu hiếm hoi, từng phần lương khô nuốt cầm hơi qua các trận đánh.
Mấy phần lương khô mấy phần gạo xấy
Chia cho đồng, để sống đến ngày mai
Chừa vài chén cho những thằng nằm xuống
Gọi nó về cùng ngồi uống cho vui
Trạch thân thương vuốt mắt từng chiến hữu vừa ngă gục :
Ta quen B́nh Long, ta quen Quảng Trị
Vuốt mắt bạn bè chết giữa gió sương
Cho đến ngày được lịnh buông súng, Trạch cũng không quên ghé vào nghĩa trang, chia xẻ niềm tủi nhục và uất hận với linh hồn đồng đội cũ:
Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến
Được cái hơn mầy nh́n thấy đau thương
Mầy đă hơn tao v́ mầy đă chết
Hưởng chút lễ nghi, hưởng chút ân cần
Có được người thân cho lời nuối tiếc
C̣n tao bây giờ sống cũng như không
Đành đến thăm mầy những thằng đă chết
Thương mến, ân cần với đồng đội sống cũng như chết là điểm son trong tánh t́nh Trạch . Tháng tư 75 đen kết thúc bất ngờ cuộc chiến, niềm tức tưởi nghẹn ngào cho người lính một ḷng vũng tin vào chính nghĩa ḿnh theo đuổi trong 10 năm vào sinh ra tử:
Ba mươi tháng tư… ta ôm mặt khóc
Trên cầu Saigon cạnh phố Hùng Vương
Mười năm binh đao… mựi ngày kết thúc
Ta c̣n nguyên mà…. mất cả quê hương !
Bản tính thận trọng và suy tư, Trạch không vội vàng đổ tội cho ai đă bất chợt trở bàn tay xóa bàn cờ chiến cuộc, Trạch nhỏ lệ nghiêng ḿnh trước vong linh anh hùng của một số nhỏ đàn Anh chỉ huy đă tuẩn tiết
Giờ th́ đau thương vây Anh vây tôi
Súng trên tay rớt xuống ngậm ngùi
Anh đă chết cho tṛn t́nh non nước
Cho bạn bè… nuối tiếc măi không nguôi
Với người bạn đồng minh quay lưng bất th́nh ĺnh, Trạch vẫn nhă nhặn:
Cám ơn mầy cùng tao chia xẻ
Trận chiến nào cũng khốc liệt cam go
Có hỏi mầy cũng là điều vô lư
Chuyện bỏ đi mầy quyết định được sao
Tao với mầy cũng chỉ là thằng lính
Thằng lính nào chẳng chấp nhận thương đau
Giai đoạn 10 năm kế tiếp của một chiến sĩ Việt Nam sau tháng 4/75, nếu không tự sát hoặc thoát ra khơi, dĩ nhiên là ngồi tù cải tạo dài dài từ nam ra bắc:
Bạn bè của ta có thằng tự sát
Bạn bè của ta có đứa ra khơi
Ta quẩy thân tù từ Nam ra Bắc
Long Giao, Văn Bản, Vĩnh Phú, Lào Cai
Ta gặp Quê Hương lưng tṛng nước mắt
Thương xót cho ta, thương xót mọi người
Đói khát hành hạ thân xác, tủi nhục vằn vật tâm hồn, trước kia Gầm Thét nơi chiến trận, bây giờ là lúc Gầm Gừ trong ngục tù, Trạch là con hổ nhớ rừng Gậm mối căm hờn trong cũi sắt:
Ngày vào tù lại tung hô mẹ kiếp
Thua thằng ngu mới tơi tả cả hồn
Không sợ khổ chỉ sợ đời châm biếm
Ra khỏi trại tù, trở về trên 40 tuổi, thành phố hoa lệ cũ đă trở thành chợ trời bát nháo:
Cái tách, cái ly, cái quần, cái áo
Giải phóng ra đường đổi bát cơm tươi
Trạch đạp xích lô, đi kinh tế mới như đa số quân, cán, chánh cũ, huấn nhục thêm 10 năm nữa:
Cố dặn tâm hồn … đừng nhé chớ điên
Gắng sống nghe chưa… t́m đường vượt biển
Để cùng bạn bè lấy lại t́nh thương
Giờ Tự Do, Thanh B́nh đă thoát tầm tay th́ c̣n động lực T́nh Thương để bám sống . Ngày ra đi của một H.O. Trạch ôn lại cho con Lịch Sử cùng Địa Dư quê hương ḿnh, với lời hứa hẹn:
Con đă nhớ rơ rồi
Thôi ngày mai cha con ḿnh sẽ
Vẫy tay chào tạm biệt quê hương
Ḿnh ra đi mà vẫn nhớ vẫn thương
Ngày khôn lớn Con về trang trải nhé..
Trạch vẫn nghĩ ḿnh c̣n NỢ quê hương, và giao món NỢ truyền kiếp đó lại cho con. Vào năm 2000, thầy tṛ nối được liên lạc, bản thân tôi cũng khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, trong 25 năm lưu vong.
Vẫn một ḷng ân cần với mọi người, Trạch sợ tôi buồn nên rào đón « Thầy luôn hoài vọng, hoc tṛ ḿnh thi đỗ, làm quan, Em, trước sau chỉ là một người lính, và một người lính bại trận… ». Tôi đă rớt những giọt nước mắt hiếm hoi của tuổi già v́ những lời ấy. Bây giờ th́ luận ǵ về Thành Bại, Vinh Nhục.. chỉ có hân hoan gặp lại người học tṛ cũ sau 3, 4 chục năm dâu bể tang thương.
Xếp tập thơ lại, tôi đau xót, bàng hoàng, không phải chỉ v́ Trạch là một học sinh cũ mà tôi vẫn c̣n thương mến như vào những ngày Vơ Trường Toản xa xưa ...
[video=youtube;cIlBeAoURAY]https://www.youtube.com/watch?v=cIlBeAoURAY[/video]