-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Trưa rừng sau cơn mưa, lá cây chuyển động trong sự lặng lẽ âm thầm, những búp non nảy thêm ra. Nhựa cây chảy rạt rào trong thân cây.
Tôi cứ quên đi những luồng thán khí do cây thở ra và làm hại đến sức khỏe con người mà tôi cứ tưởng đây là cảnh rừng thơ mộng với các áng hương thơm lâng lâng sực nức ḷng người.
Nhưng nghe câu chuyện càng rầu. Chuyện qua đă không hay ho chi . C̣n chuyện sắp tới th́ không như ḿnh tưởng.
Hồi ở Hà Nội, tôi cứ tưởng tượng qua các bài báo bốc tếu tới trời. Tưởng vé tới quê hương là toàn bầu trời xanh mát, xuồng ghe tấp nập, bộ đội hành quân bằng đ̣ máy v.v…
Tôi sực nhớ có một thằng nhiếp ảnh bất lương nói láo. Hẳn ta bịa tạc, giàn dựng đâu ra tấm ảnh một cô gái ” co kéo ” rất ngon lành chẳng thua đào hát bóng, vậy mà cô ta chống xuồng bằng cây sào rất dài, ở phía sau cô ta lố nhố xuồng ghe và người. Dưới bức ảnh để một câu nghe khoái chí tử:
“Đuổi giặc trên Đồng Tháp Mười trong sương sớm”
Ông vải ơi ! Bây giờ tôi mới vỡ nhẽ ra. Giặc đi trực thăng mà ta đuổ́ bằng xuồng ! Vác xuồng câu đặt trúm của Tháp Mười mà đuổi giặc đi trực thăng. Theo như cậu Tấn vừa nói th́ trực thăng đâu phải là chuồn chuồn mà dễ xơi như vậy !
Vậy mà tấm ảnh đó được các báo tranh nhau đăng trang đầu xuân, và nhà nào cũng t́m cho bằng được để đem về treo cho con cháu xem cái sự đánh giặc đánh giă ở trong Nam !
Tôi quay lại hỏi Tấn:
– Thế rồi bọn ḿnh làm sao mà đối phó ?
– Cái ǵ chớ cái trực thăng ḿnh không đối phó được anh ạ ! Nó kỳ cục lắm ? Để anh về trỏng rồi nếm mùi trực thăng, chứ bây tôi nói, ông già ổng bảo là tôi đánh giá địch quá cao.
Anh Khẩu đội trưởng gắt ầm lên làm đứt ngang câu chuyện của tôi và Tấn:
– Đâu, cậu nào trong Khẩu đội 2 đâu, tập họp ! Mau lên !
Chẳng có ai nhúc nhích cả.
Anh Khẩu đội trưởng ! Đó là một h́nh tượng ai trông thấy cũng thương tâm. Tôi không hiểu anh là người ǵ, là cái ǵ nữa cơ! Đầu th́ băng bó, mặt mũi bơ phờ, tay chân th́ trắng bợt ra, những đầu ngón tay ngón chân th́ tím ngắt.
Anh chỉ c̣n mặc mỗi cái quần đùi. Anh vừa dưới nước trồi lên như từ dưới âm phủ hiển hiện về vậy. Vâng, anh cũng khá lắm. Anh c̣n nhớ ḿnh là Khẩu đội trưởng phải điều động cái ṇng pháo lửa đi tới, đi cho thấu tới Miền Nam. V́ thế cho nên anh mới bị lính dưới quyền của anh tẩn cho một trận thừa sống thiếu chết, có lẽ một trận tệ hại nhất trong đời làm chỉ huy của anh.
Anh ta đi lật mặt từng người lên mà xem và gọi và quát. và…năn nỉ. Vâng, chỉ huy ở đâu chứ chỉ huy ở cái đường Trường Sơn này không có nghĩa lư cái chi, nếu không nói là nó không giống như chỉ huy ở các nơi khác. Vi sao ? Chỉ huy là khoa học, là kỷ luật.
Nhưng ở đây th́ chỉ có một vế thôi, nghĩa là chỉ bắt lính giữ kỷ luật … sắt . Nhưng muốn cho nó giữ kỷ luật sắt th́ ít ra phải cho nó ăn uống đầy đủ, ngủ nghê đẫy giấc, quần áo giày dép tươm tất, xe pháo đúng tiện nghi. Chứ còn một hạt muối không phát thêm cho nó, thép khối như thế kia, bảo nó khiêng nó vác làm sao? Mà lại đi dưới nước thay v́ đi trên bộ, leo núi thay v́ đi đường phẳng , pháo th́ phải kéo bằng xe chứ chẳng có quân đội nào mà lại di chuyển pháo bằng vai, trừ ra những đạo binh hồi thế kỷ thứ 13 trở về trước .
Thế cho nên cấp chỉ huy như anh Khẩu đội trưởng này đây phải có hai “cây gậy chỉ huy” một cây đúc trong ḷ “cách mạng vô sản ” hai là cây gậy làm bằng bông g̣n có tẩm nước hoa , không phải dùng để quơ múa ra lệnh mà để dùng quét qua quét lại trên mũi của chiến sĩ.
Anh Khẩu đội trưởng đă dùng cây gậy sắt đối với lính anh ta hôm qua rồi. Cây gậy đó bị những ông thần đói quật lại găy tan tành và chính vị chỉ huy cũng no đ̣n, suưt chết. V́ thế cho nên anh ta phải dùng tới cây gậy bằng bông g̣n. Chứ sao ? Thằng khôn ngoan là thằng phải biết xoay trở theo thời thế, nhân tâm. Cưỡng lại nó th́ tan xác ngay thôi mà.
Anh Khẩu đội trưởng đi đến một anh đang ngồi trên rễ cây. Anh ta vỗ vai cậu lính:
– Đi cậu, trở lại tiếp một tay.
– Tiếp làm ǵ ạ?
– Khiêng pháo !
– Chặng này đâu phải phiên em!
– Cậu tên ǵ nào ?
– Thủ tưởng quên cả tên em à ?
– Ừ, ừ mày tên Tùng phải không ?
– Em tên Tụng ạ. Trần Thế Tụng.
– À, cậu đă từng …
Cậu lính có tên Tụng cúi nh́n xuống đất. Cậu ta nói cái tên của cậu ta ra, như muốn nhắc lại cho anh chỉ huy nhớ một thành tích bất hảo của cậu ta.
Và có lẽ anh Khẩu đội trưởng đă nhớ lại rồi. Anh đă nhớ ra thằng Tụng là thằng ǵ rồi.
Hắn nhảy tàu nổi tiếng, và lúc nào cũng t́m cơ hội để quay. Hắn ta có cặp gị quấc và đôi mắt chim mèo. Có lẽ v́ biết rơ thành tích của cậu lính này mà anh Khẩu đội trưởng không muốn tiếp tục năn nỉ nữa.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Anh ta quay sang một cậu có gương mặt bầu bĩnh dễ thương đang treo vơng nằm vắt vẻo ở một hốc đá.
– Này, cậu tên là Thường phải không ?
– Dạ vâng ạ.
– Cậu c̣n khỏe th́ trở lại khiêng tiếp cái ṇng pháo với tớ. Nó c̣n nằm đằng kia.
– Dạ em sốt quá, thủ trưởng.
– Tớ cũng đang sốt đây.
– Em đi không nổi ạ !
– Thế th́ làm sao ?
– Có mấy cậu kia c̣n khỏe lắm.
– Mấy cậu nào ?
– Thủ trưởng bước quá vào cái bụi kia. Chúng nó đang ngồi dụm ở đó, nói chuyện râm ran.
Anh Khẩu đội trưởng hơi nóng mặt. Anh ta lại quơ cây gậy thứ nhất lên.
– Các cậu vô kỷ luật đến thế là cùng.
– Dạ, em đâu dám ạ !
– Các cậu coi chỉ huy của các cậu c̣n kém con b…
– Dạ không ạ, em không dám ạ !
– Chúng mày sẽ bị đưa ra ṭa án quân sự.
– Dạ vâng ạ, em sợ lắm ạ!
– Đồ láo ! Chúng mày là một lũ vô dụng !
– Dạ vâng, chúng em toàn một lũ vô dụng, ăn hại ăn bám cả cho nên bây giờ em không thích ăn bám nữa ạ ?
– Mày đừng có lắm mồm!
– Em sốt quá Thủ trưởng c̣n kí ninh không ?
- C̣n cái ǵ?
– Thủ trưởng c̣n muối không ?
– Đây này, c̣n cái này này. Anh Khẩu đội trưởng văng tục.
– Muối em chảy ra nước đổ hết cả rồi ?
– Tao bây giờ chỉ c̣n trên răng dưới dế, chứ c̣n cái ǵ ?
Nói xong, anh ta ngồi phệt xuống đất, không c̣n sức lực đứng để nói ǵ nữa. Tôi bèn nhắc anh ta, như cậu lính nói lúc năy:
– Anh nên đi lại gọi cái đám sau bụi cây kia. Mấy cậu đó trông c̣n khỏe.
Tôi nói vậy mà anh ta dựng người lên như nhớ lại một điều quư báu. Anh ta xăm xăm đi về phía bụi cây, chân rảo bước, cổ nghển cao nh́n, như đặt hết hy vọng vào cái đám người ” c̣n khỏe ” đó !
Tôi cũng hy vọng sao cho anh ta t́m được một số người giúp anh khiêng cái của nợ kia tới đây. Tôi nghển cổ nh́n theo.
Anh Khẩu đội trưởng vừa đi tới thì đám người kia ù té chạy vứt tung cả đồ đạc và bỏ cả quần áo đang phơi ở đó. Anh Khẩu đội trưởng nhặt những ḥn đá và những mẩu củi mục vứt bừa theo, vừa ném vừa nghiến răng chửi om tỏi:
– Con mẹ chúng mày, đồ quân… quân…
Quân ǵ, tôi cũng không nghe rơ, nhưng chắc chắn đó là “quân đội nhân dân” đồng đội của anh ta. Anh Khẩu đội trưởng quay trở lại, mặt tái xanh tái ngắt, ngồi xuống bên vơng tôi và thở như trâu cắt cổ.
Bây giờ tôi mới nom rơ thân h́nh anh ta. Những nốt thâm đen khắp người và những vết sẹo trên mặt, chân có những vết c̣n đỏ hỏn. Vết thương mới trên trán c̣n rỉ máu ra nhuộm ướt vành băng.
Để cho anh bớt mệt, tôi mới hỏi:
– Ǵ mà tụi nó chạy toán loạn vậy ?
– Mẹ… mẹ… chúng nó!
– Sao ? Cái ǵ ?
– Lũ khốn kiếp! Mấy thằng nó đánh tôi hôm qua.
– Thế à?
– Tôi giết chúng nó chết cha! Anh ta nghiến răng ken két.Tôi rơi mất khẩu súng ngắn rồi. Nếu không tôi bắn chết hết . Chúng nó phản động.
– Thôi đồng chí ạ !
– Thôi sao được.
Tôi nói:
– Ḿnh là cán bộ ! Vui hưởng sau, cực chịu trước.
– Th́ đồng chí coi tôi đây, tôi có c̣n ra cái thứ ǵ nữa hay không ? Tôi là con người hay con vật ?
Anh ta xông tới giật khẩu AK của ai treo trên cành lên đạn và chạy vút đi Nhưng anh ta đă không t́m thấy lũ người. Họ vừa tẩu thoát. Anh ta quay lại, ném khẩu AK vào bụi và nói:
– Lính tráng ǵ thế? Lính tráng ǵ đánh chỉ huy.
Tôi nói xụi lơ:
– Th́ chúng nó đói, chúng nó khổ quá mà. Với lại theo như tôi đi gần họ tôi biết, họ cũng không muốn đi vào Nam. Đi vào Nam là tôi đây này, v́ tôi ở trong đó, mồ mả tổ tiên tôi ở trong đó, c̣n họ, c̣n anh, chính anh nữa, anh cũng đâu có muốn đi, đi làm ǵ ? Nhưng bị bắt đi th́ phải đi cho nên gặp khổ th́ muốn quay lại.
– Ừ quay th́ quay, thiếu ǵ “bê quay ” trên đường này. Nhưng sao lại đánh cấp chỉ huy ?
Tôi sẵn trớn, nói luôn:
– V́ cấp chỉ huy đánh nó, có phải không ?
– Ừ đúng tại tôi đánh chúng nó !
Anh Khẩu đội trưởng như vừa phát giác ra một vấn đề ǵ vô cùng quan trọng. Ừ tại anh ta đánh chúng nó trước . Cho nên chúng nó đánh lại, khổ quá mà c̣n bị đánh th́ chúng đánh lại, điều đó rất dễ hiểu thôi.
Những người tù bi giam trong khám rất khổ, và bị mất hết tự do giữa bốn tấm vách tường, sinh mạng như treo chỉ mành mà c̣n dám đánh lại có khi giết chết cả cai ngục thay, huống ǵ ở đây, họ không phải là tù.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Anh Khẩu đội trưởng bỗng giơ hai cánh tay gầy guộc lên mà kêu thảm thiết:
– Trời ơi ... như vầy th́ tôi làm sao ch́ huy ? Làm sao tôi hành quân nốt con đường này được ?
Anh ta đấm ngực thùm thụp, nhảy tưng tưng lên, hai mắt đỏ nọc hai hàm răng nhai ngấu nghiến như có vật ǵ trong mồm:
– Thế này th́ tôi chết, tôi chết ! Tôi nghỉ, tôi nghỉ !
Rồi anh ta ngồi thụp xuống như đôi chân anh ta bằng sáp bị hơ lửa. Tôi thương anh ta quá.
Chiều hôm qua khi xô xát nhau giữa anh ta và mấy cậu lính, tôi có trông thấy rơ màn kịch đó từ đầu tới cuối, khi mấy cậu lính đánh anh ta rơi xuống suối th́ tôi lấy làm thích thú xem như sự uất của chính ḿnh lâu nay được trả thù, được thỏa măn, thấy vui thích cùng với các cậu lính kia, nhưng giờ đây, tôi mới hiểu thêm ḷng dạ anh ta và thương hại anh ta, tội nghiệp cho cái nộ tính của anh ta.
Anh Khẩu đội trưởng bị kẹp giữa hai cái gọng kềm “lính” và “nhiệm vụ. ” Lính kiệt sức không muốn đi, không khiêng nổi ṇng pháo quá nặng, c̣n anh ta là chỉ huy lại bắt buộc chúng nó phải khiêng và phải đi đến nơi. V́ chúng không làm theo ư anh cho nên anh đă đánh đă bắn (dọa) chúng nó. Và chúng nó sắn sàng đánh lại anh.
Anh ta khóc rưng rức. Tôi không biết lấy lời ǵ để an ủi anh ta, mà cũng không biết có nên an ủi anh ta không ? Để cho anh ta khóc, có khi vơi đi nỗi sầu.
Tôi quay sang cậu Tấn giao liên.
– Bao giờ th́ đi tiếp hở cậu
– Chờ cho họ tới đủ th́ đi.
– Biết bao giờ họ mới tới đủ ?
– Bao giờ th́ bao, tôi biết làm sao bây giờ ?
– Nhưng biết bao nhiêu th́ đủ?
– Ba mươi hai người dân chánh và một khẩu đội pháo. Đó ông Khẩu đội trưởng đang ngồi khóc hu hu đó.
– Họ đă tới đây bao nhiêu rồi ?
– Đó họ đang ngồi rải rác đó. Anh thử đếm dùm xem ?
– Độ hai mươi người. Nhưng nếu họ không đến đủ th́ sao ?
– Tới giờ đi mà chưa đủ rồi sẽ hay ?
– Bây giờ cũng đứng bóng rồi.
– Ờ nhỉ.
Anh giao liên có vẻ thản nhiên không tỏ một sự thương xót nào đối với ai, kể cả đối với anh Khẩu đội trưởng . Anh ta dửng dưng như một người xa lạ, hoàn toàn ngoại cuộc.
Tôi thấy vậy bèn hỏi:
– Cậu không có cách nào giúp cho anh Khẩu đội trưởng sao ?
– Giúp ǵ được mà giúp.
– Thấy rầu quá. Đă khổ rồi, lại c̣n gặp những chuyền thế này, tôi đi hết muốn nổi.
– Tôi gặp những cái cảnh này đă chán mắt. Thú thật với anh tôi không thích bộ đội trên đường này một tí nào.
– Sao vậy ?
– V́ họ ẩu quá, bết bát quá.
– Th́ phải thông cảm với sức khỏe và hoàn cảnh của họ chớ.
– Ai không biết vậy, nhưng họ kỳ cục lắm !
– Ví dụ.
– Ví dụ như trạm tôi đang cấm không cho bắn thú rừng v́ sợ lộ bí mật. Nhưng họ không tuân theo. Họ bắn tối ngày. Con ǵ họ cũng bắn. Thậm chí con chim bằng ngón chân cái họ cũng bắn bằng súng AK.
– Cậu có nói thêm cho họ không? Tội nghiệp họ cậu ạ ?
– Tôi nói gian cho bà móc mắt tôi đi.
– Cậu thành kiến với họ quá ! Đó là vài người lính thôi chớ !
– Nếu lính th́ tôi không nói, c̣n chỉ huy th́ anh biết sao không ? Các ông trời có súng ngắn th́ bắn cả cá ḷng tong dưới suối. Bắn hai ba phát chỉ được mấy con cá bằng đầu đũa ăn thôi. Thế mà cũng bắn !
Tấn ngưng một chốc rồi tiếp:
– Họ.bị nghẽn đường một tuần lễ, trạm tôi phải dời đi không dám ở chỗ cũ. Anh biết ở rừng mà dời chỗ ở cực nhọc biết bao nhiêu. Cồng kềnh đủ các thứ nồi niêu, tăng vơng lôi thôi lếch thếch. . . Vậy mà bọn tôi có can thiệp là họ hăm bắn, hăm đánh.
Tấn ngưng câu chuyện và hỏi tôi:
– Mấy giờ rồi anh ?
– Gần đúng trưa rồi ! Tôi xắn tay áo lên xem đồng hồ tay. Tấn nom sát vào mặt đồng hồ và kêu lên ngay:
– Ồ, đồng hồ Liên Sô đẹp quá nhỉ. Vầy mà người ta bảo đồng hồ Liên Sô như cái cối đá, không đeo được.
– Ai bảo?
– Những người ngoài Bắc về như anh.
– Họ nói hồi nào ?
– Năm ngoái năm nay ! Em cũng không hiểu sao, nhưng em tự ái quá!
Tôi cười:
– Th́ họ nói đúng chứ sao t Tự ái cái ǵ ?
– Anh nói sao ?
– Đồng hồ Liên Sô là đúng như vậy chứ sao !
– Sao cái này lại đẹp thế này ?
– Sao cậu biết cái này là đồng hồ Liên Sô ?
– Ở ngoài Bắc về không đeo đồng hồ Liên Sô th́ đeo đồng hồ ǵ anh?
Tôi lại cười:
– Vậy cậu có trông thấy cái đồng hồ Liên Sô nào không ?
– Có thấy một cái.
– Cậu thấy thế nào, nói thiệt đi.
Thấy Tấn ngập ngừng, tôi nói:
– Sợ mất lập trường hả ?
– Quả thật là không đẹp mấy.
– Không đẹp th́ nói không đẹp, lại c̣n màu mè “không đẹp mấy” nữa.
Tấn lại hỏi tôi:
-C̣n đây là đồng hồ ǵ đâyanh?
– Thụy Sĩ “xách mách đâm ba nha” (Suisse made Printania) . Nói đùa chứ đây là Movado.
– Hèn ǵ đẹp quá ! Ở ngoài đó cũng xài đồng hồ của phe đế quốc nữa sao anh?
– Xài chớ sao không xài. Ḿnh không chế được th́ ḿnh phải xài của đế quốc chớ. Nhất là đồng hồ th́ phe ḿnh đâu có ăn thua ǵ , so với thằng Thụy Sĩ ? Nhưng không phải chỉ trong lănh vực đồng hồ mà thôi, c̣n nhiều món hàng khác ḿnh cũng thua nó xa.
Bỏ mạng rồi ! Tôi quên rằng ở bên tôi có cái cây lập trường đang nằm ch́nh ́nh ra đó. Tôi vừa tốp câu chuyện lại th́ cũng vừa lúc ông Chín ra miệng. Ông Chín đang nằm, ông ngồi dậy ngay. Ông x̣e bàn tay ra dấu cho tôi ngưng câu chuyện. Ông Chín nói: .
– Các cậu nên giữ lập trường một chút. Tại sao đồ của ḿnh lại thua đồ của đế quốc ?
Tôi bỏ lảng ông Khẩu đội trưởng đang khóc kia mà giây vào cuộc chiến đấu với ông lập trường. Tôi nói:
– Chuyện đó có ǵ mà mất lập trường ông cụ ?
– Không mất lập trrường à, khen phe đế quốc chê phe ta mà lại không mất lập trường à?
Tôi suưt bật cười. Tôi và Thu đă đụng với ông Chín nhiều trận trên cái chiến địa “lập lường” này nhiều rồi. Trốn máy bay ông cũng giở sách Các Mác ra mà lư luận, rồi xem đùi đàn bà, ông cũng cho là mất lập trường, bảo chân bộ đội như những cái cọc màn, ông cũng cho là khinh rẻ quân đội cách mạng và những người nói như thế là mất phẩm chất, lần này khen đồng hồ Thụy Sĩ tốt hơn đồng hồ Liên Sô, có lẽ tội nặng hơn tất cả những trường hợp ở trên kia.
Tôi nói:
– Đây là vấn đề hàng hóa rất là hiển nhiên, có ǵ đâu mà mất lập trường.
– Đồng chí nói như vậy mà không ngượng mồm à ?
– Theo như ông Chín cầm hai cái đồng hồ Wyler và Bobéda th́ ông Chín dùng cái nào ?
Ông Chín hơi ấp úng rồi đáp ngay:
– Nếu dùng th́ tôi dùng cái Wyler.
– Đó ? Sao ông Chín lại bảo rằng tôi mất lập trường ?
– Tôi dùng đồng hồ Wyler nhưng tư tưởng của tôi lại khác đồng chí.
– Xin lỗi, ông Chín khác thế nào ạ ?
– Khác là dù tôi đeo đồng hồ Wyler nhưng tư tưởng tôi vẫn cho là chiếc đồng hồ này là do sự bóc lột công nhân, bóc lột kỹ sư mà ra chớ không phải như trường hợp cái đồng hồ Bobéda.
– Khác thế nào ông Chín ?
– Cái đồng hồ Bobéda là do sự toàn tâm toàn ư phục vụ nhân dân, của công nhân, kỹ sư chung đúc lại thành và v́ lư tưởng Cộng sản mà nó mang cái tên đó. Bô bê đa là ư nghĩa là thắng lợi đồng chí biết không ?
Tôi hỏi tiếp:
– V́ toàn dân toàn ư phục vụ nhân dân và v́ chủ nghĩa Cộng sản th́ sao lại xấu hơn cái thằng đế quốc bóc lột công nhân và nó không v́ cái ǵ cao siêu hết hở cụ ?
Ông Chín chẳng ngờ tôi lại ngoan cố mà dí ông ta vào cái chân tường mà chính ông tự xây cho ông trong mọi cuộc tranh luận ” Lập trường.” Ông Chín chới với, chưa t́m ra câu trả lời.
Cũng may lúc đó Tấn đứng dậy và bảo mọi người.
– Chuẩn bị hành quân !
Chao ôi, nghe tiếng hành quân, tôi ớn cả xương sống, ớn cho tôi và ớn cả cho Thu. V́ ngoài cái sự lê xác của tôi đi , tôi c̣n phải nâng đỡ Thu nữa, một cái việc phải phung phí sức lực , nhưng chẳng có lợi lộc ǵ cho tôi hết, mà tôi phải làm.
Trời ơi! Con đường ǵ mà càng đi, càng thấy ḿnh đi vào tử địa, vô cùng, đi vào tuyệt lộ. .. Nhưng mà vẫn phải đi tới, không thể đi lùi được. Tất cả mọi người nhốn nháo, kẻ th́ lơ láo nh́n quanh , kẻ th́ cứ ngồi lỳ ra đó, cơ hồ như cái lệnh kia không tác động chút nào đến ḿnh.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Không biết từ đâu, bác sĩ Năm Cà Dom xuất hiện, như một nhân vật trong truyện thần thoại. Năm Cà Dom nói:
– Anh xem có giống quân thứ tư không ?
Tôi nói:
– Quân thứ tư là quân ǵ ?
Năm Cà Dom nói:
– Nh́n đó th́ rơ, có ra cái thể thống ǵ hay không ? Ấy vậy mà bảo là quân chiến thắng, đi giải phóng Miền Nam đó, giải cái con mẹ tôi chớ giải sao nổi mà giải, hả ?
Tôi hỏi:
– Năy giờ cậu ở đâu ?
– Tôi mắc vơng ngủ trong bụi cây chớ đâu. Tôi nghe các vị nói đủ thứ hết, nhưng tôi không có lên tiếng làm chi, nhất là chống đối ông già lập trường , mình nguy to. Tôi nói toàn chuyện đâm hơi không thôi mà ! Ổng chỉnh ḿnh có mà sói đầu !
Có lẽ Tấn thích thú v́ cách ăn nói dí dỏm của Năm Cà Dom , cho nên Tấn rề rà không thúc giục thiên hạ đi ngay. Tấn hỏi:
– Hồi năy anh nói quân thứ tư là quân ǵ anh ?
Năm Cà Dom nh́n Tấn rồi nói:
– Cậu không biết có quân thứ tư đâu. Cỡ tuổi tôi với ông nhà văn này th́ mới biết được cái thứ quân đó. Hồi kháng chiến chống Pháp kia, cái quân đó rất nổi tiếng nhất là ở chỗ nào có “phờ nờ” th́ loại quân này thường xuất hiện.
Ông Chín gầm lên:
– Tôi không hiểu tại sao các cậu kháng chiến chín năm rồi, ra Bắc sống trong xă hội chủ nghĩa cả chục năm mà hở miệng ra toàn nói chuyện mất lập trường.
Năm Cà Dom cười khè khè:
– Nói chơi cho vui cái bụng, để cái chân nó bước theo, nếu để ủ rũ như cụ th́ buồn lắm, bước đi không nổi đâu, mà rồi dễ sinh bịnh hoạn lắm.
Tôi chêm vào:
– Bác sĩ nói cái ǵ cũng kèm bệnh hoạn vào đó hết.
– Con người là sanh, lăo, bệnh, tử mà. Chạy đường nào cho khỏi ! ư mà quên chớ để tôi nói chuyện quân thứ tư cho cậu Tấn nghe nhé…
Năm Cà Dom đằng hắng lấy trớn rồi nói:
– Số là hồi kháng chiến chống Pháp th́ ta có ba thứ quân. Một là chủ lực quân, hai là địa phương quân, ba là du kích quân.
– C̣n quân thứ tư? Tấn sốt ruột hỏi :
- Quân thứ tư là quân ǵ anh?
Năm Cà Dom vui vẻ tiếp:
– Xin lỗi ông Chín, để cháu kể cho cậu bé này nghe chút xíu , vui chơi không có ǵ mất lập trường đâu !
Số là có một gia đ́nh nọ có một cô con gái, một hôm có bộ đội tới đóng trong nhà. Ông già cô ta thấy mấy chú em khi chiều đùa giỡn với đứa con gái th́ sinh nghi, cho nên nửa đêm ổng thức dậy thắp đèn giả đ̣ đập muỗi. ông ta đi vô buồng rọi mùng cô con gái th́ thấy ngoài vách mùng tḥi ra hai cặp chân. Ông ta lẳng lặng quay ra…
Ông Chín cau mày, nhưng không biết làm sao mà chặn câu chuyện của Năm Cà Dom lại được. Ông bèn lảng đi chỗ khác. Năm Cà Dom th́ cứ vui vẻ kể tiếp:
– Ông già thấy nguy to rồi, nhưng không lẽ làm ǵ bây giờ. Làm to ra th́ đổ bể mất thanh danh bộ đội mà chẳng hay ho ǵ cho con gái ḿnh. Cho nên, dung ḥa giữa sự tức giận và thanh danh con gái, ông già bèn gọi anh chỉ huy thức dậy, đốt đèn, châm trà mời anh ta, rồi cuộn thuốc hút chậm răi từng hơi. Hút độ nửa điếu thuốc ông ta mới bèn quay sang anh chỉ huy và bắt đầu câu chuyện.
Năm Cà Dom cười:
– Chắc ông Chín ghét tôi lắm. Nhưng mà ổng cũng biết câu chuyện đó mà.
Tấn nói:
– Hay thật ! ông già hay thật !
Năm Cà Dom nói:
– Tôi cũng phục lăn ông già !
Tấn nói:
– Thôi các ông ḿnh chuẩn bị đi. Đường đi sắp tới toàn leo dốc và vắt.
Thu hỏi:
– Vắt ǵ anh?
– Con vắt nó đeo chân đeo tay , nó cắn nó hút máu ḿnh chớ vắt ǵ ? Nói rơ ràng hơn là nó là một loại đỉa sống trên khô và trên cành cây.
– Eo ôi ! Sao kỳ vậy !
– Chớ nhỏ lớn chị không biết con vắt à ?
– Không thấy bao giờ.
– Th́ đại khái nó đeo có chùm, nó hút máu ḿnh. Và khó bắt khó gỡ lắm.
Tấn nói tiếp với mọi người:
- Bây giờ tôi xin phổ biến một việc đề chống vắt nhé, bà con ḿnh có ai làm theo th́ làm, không làm th́ thôi. Tùy ư tôi không ép ai hết… Bây giờ chịu khó vô rừng chặt cái dây bồ ḥn đâm ra cho nhuyễn. Bỏ vô một cái ống trúc rồi đổ vào đó một tí nước. Đi trên đường này người nào cũng làm một cái ống trúc đựng bồ ḥn như vậy, để trị vắt.
Vắt nhiều lắm. Tôi nói thật đấy. Nó đeo có chùm chứ không phải đeo từng con như các ông các bà tiểu thư tưởng tượng đâu. Các bà các cô nào nghe nói vắt cũng nghĩ rằng nó sẽ đeo cắn từng con một và muốn bắt nó chỉ cần đưa hai ngón tay nắm nhéo lấy nó như một cử chỉ sang trọng vậy thôi.
Tôi báo trước là không phải như vậy đâu . Nó đeo cả chùm, nó đeo kín cả bàn chân, nó đeo tới cổ, trên đầu mà cắn đấy. Tôi nghe nói có một người. bị vắt cắn vào động mạch cổ mà ngủ quên, tới sáng máu ra nhiều quá, mệt ngất không dậy nổi chớ chẳng phải chơi đâu.
Tấn tiếp:
– Bây giờ các ông các bà đi chặt dây bồ ḥn và ống nứa bào chế một món thuốc trị vắt như tôi vừa nói đó đi. C̣n ai có nhiều kí-ninh thi gói kí-ninh vào cái mảnh vải, làm thành một cái bọc, cứ hễ vắt đeo th́ chấm vào là nó rớt xuống ngay. Nhưng tôi biết không ai lấy kí -ninh mà thay bồ ḥn , chỉ nên lấy bồ ḥn mà thay kí-ninh thôi.Tôi nói vậy, không có nghĩa dùng bồ ḥn để trị vắt mà thôi, mà dùng bồ ḥn để trị sốt rét cũng rất tốt. Người ta nói đắng như bồ ḥn, thật là đúng vô cùng, tôi đă từng uống bồ ḥn thay cho kí-ninh để cắt cơn sốt. Chao ôi, uống một hớp, đi tới mật xanh ! Đắng hơn kí-ninh gấp một trăm lần.
Thu lắc đầu:
– Tôi nghe mà cũng ngán ngẫm tâm thần. Đường ǵ mà kỳ cục quá. Càng đi càng kỳ cục ra thêm.
Thế là đoàn người bắt đầu đi chặt dây bồ ḥn. Con suối đă ở lại phía sau lưng, nhưng cái dốc núi lại dựng lên trước mặt.
Anh Khẩu đội trưởng tự năy giờ vẫn ngồi sụp ở đó bây giờ mới tỉnh ra. Anh ta ngơ ngác. Có lẽ anh ta đang đấu tranh tư tưởng xem nên đi cùng với đoàn hay quay trở lại khiêng cái ṇng pháo.
Tội nghiệp, làm chỉ huy như anh ta cũng khó. Ở lại th́ ở với ai, ai sẽ góp sức khiêng với anh ta, c̣n đi th́ bỏ mất cái ṇng pháo ấy hay sao ? Không có ông nào giải quyết giúp anh ta.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Ông Chín biết rơ câu chuyện bèn lân la tới hỏi:
– Đơn vị lớn của đồng chí ở đâu ?
– Trung đoàn của cháu đă đi trước. Nghe nói bộ phận tiền tiêu bị biệt kích tiêu hao, có cả đồng chí Trung đoàn phó trong số hy sinh.
– Ở sau đồng chí, c̣n đơn vị nào thuộc trung đoàn của đồng chí nữa hay không ?
– Dạ, đơn vị pháo của cháu là đơn vị đi sau cùng của Trung đoàn.
Ông Chín ngẫm nghĩ một chốc rồi nói:
– Đồng chí là người chịu trách nhiệm về cái ṇng pháo đó và cả đơn vị của đồng chí trước cấp trên. Nếu đồng chí để đơn vị tan ră, mất vũ khí th́ giai cấp vô sản thế giới sẽ thất vọng ngay v́ có một cán bộ vô trách nhiệm như thế mà lại đứng trong đội ngũ tiền phong của giai cấp. . .
Tôi và Năm Cà Dom nháy nhau che miệng cười. Ông lập trường lại giở sách vô sản ra rồi. Giai cấp cái ǵ ? Bắt con người ta è cổ ra khiêng thép khối như thế mà không cho cái ǵ đắp đầu gối hết cả mà cứ ngồi ở trong nhà rượu thịt đầy phè, cứ khen “chiến sĩ ta vai đồng chân sắt. ”
Tôi nói với anh Khẩu đội trưởng:
– Anh cứ đi tới đi. Vô gặp trung đoàn rồi báo cáo. Chứ quân số hao hụt như thế làm sao di chuyển cái ṇng pháo kia nổi ? Mà anh ở lại, coi chừng mấy thằng đánh anh hôm qua, chúng gặp lại anh chúng thịt anh đấy nhé ! Lũ ấy nhất đinh sẽ trở thành phỉ chớ không có trở về đơn vị nữa đâu.
Anh Khẩu đội trưởng lắng nghe cả ông Chín và tôi, nhưng có lẽ không có lư do nào làm cho anh đi tới bằng cái lư do tôi vừa nêu lên.Anh ta làu bàu:
– Lính tráng ǵ khốn nạn thật !
Rồi Tấn dẫn đầu, cả đám người vừa nam phụ lăo ấu vừa đau vừa mạnh lôi thôi lếch thếch đi theo sau. Vừa được ít bước th́ đă đụng dốc.
Dốc ǵ dốc vậy chớ. Năm Cà Dom đă chửi thề ngay:
– …. Tôi mà có phép ǵ tôi sẽ san bằng hết tất cả núi non này !
Một chốc lại nói:
– Tôi xin đổi cái dăy núi này với một lon gạo, ai có đổi không ?
Tôi để cho Thu đi trước, tôi đi kế tiếp, Năm Cà Dom, ông già Noël và ông lăo lập trường đi phía sau. C̣n anh Khẩu đội trưởng lưỡng lự một chút rồi cũng đi theo luôn. Anh ta đi khặc khừ trông đến thương hại. Có lẽ anh ta không dứt khoát với “cái đuôi ” là ṇng pháo nặng nhọc ở phía sau và với cái “đầu lập trường” là ông Chín.
Tôi nghĩ vậy mà đúng thật. Tôi chú ư thấy ông Chín đi ít bước lại quay lại nh́n anh Khẩu đội trưởng, như cật vấn:
– Anh đi như thế, bỏ cái ṇng pháo lại cho ai ?
Dốc càng ngày càng đứng sững lên. Thu đi rất khó nhọc v́ trời mưa đường trơn mà lại phải trèo. Người đi trước đă bẻ quặt nhữngcây nứa bên đường xuống để làm tay vịn cho những kẻ đi sau bám đó mà trèo lên.
Tôi vừa đi vừa ngước cổ lên. Không thấy ǵ cả, ngoài cái đít ba lô của Thu. Cái đít ba lô và cái lưng… của Thu nữa.
Lần nào tôi ngước lên th́ mắt tôi cũng chạm vào hai cái đó. Tôi bảo:
– Cố gắng lên em.
Thu không nói không rằng. Bước đi nặng nhọc, day dứt. Sở dĩ tôi nói bước đi day dứt là v́ tôi biết trong bụng Thu không vui. Nếu không có tôi kềm cặp nàng th́ chắc nàng không đi tới. Nàng đă nhiều lần nói thật với tôi cái điều đó, không úp mở. .
Con sông vừa vượt qua chiều hôm trước như một cái lằn mức tư tưởng của nàng. Nàng định tạm biệt tôi ở phía bờ Bắc. Dù hai đứa có yêu nhau th́ đành hẹn nhau một cơ hội khác, có lẽ ở kiếp sau vậy. C̣n trên đường đi này, yêu nhau là một cái tội, một cái khổ một cái nợ, cái nần, hay bất cứ là cái ǵ không phải là cái vui.
V́ yêu nhau th́ phải phí sức, phí sức một cách tự nguyện, rồi lại c̣n phải phí sức v́ những việc khác như mang đồ đạc giúp , d́u dắt nâng đỡ v.v…
Nhưng Thu vượt qua bờ Nam của con sông vô danh đó , là v́ một trận bom tơi bời. Cả trạm lẫn khách đi đường đều phải tức tốc dời qua phía bên bờ Nam để ẩn náu. V́ thế Thu phải đi cùng với tôi. Sang bờ Nam, Thu lại cũng định nằm lại , tạm biệt tôi lần nữa. Nhưng ở bờ Nam lại không có trạm, không có ai nhận Thu. Cho nên Thu lại phải đi vào với tôi vượt con suối ác nghiệt vừa rồi và bây giờ th́ trở thành chú rùa leo núi trước mặt tôi đây.
Đấy, một con người ” đi giải phóng miền Nam” với một tâm tư như thế đó, như thế đó mà lại đi giải phóng miền Nam !
Tôi nh́n cái gót chân của Thu ở ngay cái chót mũi của tôi. Trời, dốc đứng ǵ ác thế! Anh giao liên đứng ở trên đầu chúng tôi quát xuống:
– Đi cho chắc, ngă một cái là rơi vào đầu người ở dưới đó nghe.
Tôi cũng biết điều đó, nhưng khi nghe Tấn nói th́ tôi càng sợ hơn. Hăy tưởng tượng một người ở phía trên rơi xuống đầu ḿnh với tất cả ba lô, đồ đạc, có khi cả súng . Rồi người ở dưới lại rơi , xuống đầu người đi dưới nữa, thành ra hằng loạt người sẽ ngă ! Một sự đồng loạt ngă !
Cái bàn chân của Thu cứ ở trước mũi tôi . Tôi nh́n cái bàn chân của nàng như một cái mục tiêu để nhắc chân tôi lên. Cái bàn chân thon thon nho nhỏ bị ràng trong nhũng sợi dây thun đen bó riết lại làm cho làn da nhăn nhúm đi. Cái bàn chân đặt trên chiếc đế cao su cũng đen và xùi xề như nền tảng của sự đau khổ và của cái tương lai cũng đen ng̣m như màu cao su đó.
Cái mà đôi chân ngọc ngà của Thu phải đặt lên, phải bước lên, phải dẫm lên phải là cái nền nhung lụa, phải là gấm vóc, phải là trái tim của những chàng thanh niên say đắm nàng. Đôi bàn chân ấy là niềm tự hào của nàng, v́ cái sự xinh xắn của chúng, v́ cái tài hoa của chúng . Đôi bàn chân ấy đă đưa nàng bay lên như đôi cánh vỗ mênh mông trong nghệ thuật.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Thế mà giờ đây, đôi chân ấy lại bị bó riết trong những sợi cao su thô kệch, đặt trên cái đế cao su cứng và chẳng có nhiệm vụ ǵ hơn là dẫm trên những mô đất nhấp nhô, trèo leo trên những dăy đá tai mèo.
Đôi chân ấy chính là sự ước mơ cháy bỏng của tôi. Đôi bàn chân như hai cái búp non bay lượn lung linh trên sân khấu Hà Nội, trong sự hớn hở, chào đón của mọi người trong một giấc mơ ngắn ngủi và thú vị. Trong một cơn mưa mù mịt dầm dề, tôi đă làm chủ của đôi bàn chân ấy. Tôi ôm ấp chúng trong sự thỏa măn hoàn toàn, vừa của t́nh yêu vừa của nghề thuật.
Cho nên bây giờ trông thấy đôi bàn chân ấy trơ trọi ra trần trần bằng thịt xương trần tục và bị đọa đày khổ sở th́ tôi đau xót khôn cùng. Bất thần, tôi nắm chặt lấy cổ chân nàng, nắm thật chặt làm cho nàng kêu lên và dừng lại. Nàng quay lại nh́n xuống và nói:
– Em ngă bây giờ.
Tôi cười:
– Ngă đi ! Ngă đi !
– Em ngă th́ anh chết !
– Em cũng chết.
– Nhưng mà anh chết trước em.
– Em chỉ chết sau anh một tích tắc thôi.
– Như thế anh vẫn chết trước em.
Tôi cười. Tôi nói tiếng chết với nghĩa b́nh thường , nhưng về sau tôi lại đâm ra dùng nó trong một cái nghĩa thứ hai. Có lẽ Thu không hiểu cho nên tôi nhắc đi nhắc lại cái tiếng chết. Tôi bảo:
– Thôi em đi lên đi rồi anh theo kẻo người ta giục.
Mà thật, ông Chín ở phía sau đă gầm lên:
– Đùa cái ǵ mà đùa giữa lúc này ? Muốn hại mấy người đi sau hả?
Thu lại bướng lên. Tôi nói tiếp:
– Phải rồi, con gái th́ bao giờ cũng chết sau con trai, phải không em ?
– Vâng đúng như vậy, em chẳng bao giờ chịu chết trước anh.
– Nhưng nay mai anh sẽ có cách làm cho em cùng chết một lúc với anh hoặc chết trước anh cho mà xem.
– Không ! Em nhất định không chết trước anh ! .
Tôi cười ư nhị, có lẽ giọng cười làm cho Thu sực nhớ ra rằng tôi dùng cái tiếng chết với ư nghĩa tân kỳ hơn. ... Tôi nói:
– Em không nhớ có lần em chết trước anh à?
– Anh chỉ bịa…
– Anh không bịa. Em không nhớ cái lần đó… ó… à ?
Thu lặng thinh. Có lẽ Thu đă ngẫm ra cái nghĩa thứ hai mà tôi cố ư dùng một cách ư nhị. Thu lầm lũi đi, một chốc mới quay lại nh́n chăm chú vào mặt tôi và nói:
– Em ghét mặt anh lắm.
Tôi cười:
– Ừ th́ ghét. Tôi vừa nói vừa nắm cái cổ chân nàng mà gh́ xuống.
Nàng kêu lên:
– Ây chết ! Em ngă…
– Ừ ngă xuống đây, ngă đi nào… Ơ ḱa không dám ngă à ?
Thu càu nhàu:
– Anh nghịch ghê cơ.
– Ừ anh nghịch lắm cơ.
Cái tiếng “nghịch “cũng lại là một tiếng chúng tôi hay dùng với nhau , nhất là Thu hay dùng để cần nhằn tôi trong những giây phút đặc biệt của nhau. Cho nên vừa dùng nó là Thu lại sợ tôi lạm dụng nên nàng lặng thinh không nói ǵ nữa.
Anh giao liên từ trên nói xuống:
– Cố lên ! C̣n một cái dốc nữa là tôi cho nghỉ xả hơi.
Tôi nghe ù ù như muốn vỡ màng tai, mồ hôi vă ra như tắm. Hai chân tôi như sắp rời ra khỏi thân ḿnh. Hai sợi dây chằng háng như không c̣n sức co dăn để lôi hai chân tôi lên nữa.
Tôi bám từng nhánh cây, từng thân cây một, từng ḥn đá, từng mô đất một, để gh́ lấy mà câu cả cái khối nặng vừa thân thể vừa ba lô đồ đạc lên. Nhiều lúc tôi phải ḅ. Đúng là con vật đi bằng bốn chân của thời nguyên thủy. Con đường gieo neo, vất vả và hai bên lúc nào cũng có hố sâu vực thẳm. Tôi nghĩ. Cái ǵ cũng dẹp hết. Chỉ c̣n lại cái quê hương nhỏ bé riêng tư của ḿnh. Chỉ c̣n lại cái mái nhà xưa cũ của ḿnh, trong đó có hai mái tóc – ngày ḿnh ra đi, hăy c̣n xanh, mà cho tới nay tôi cũng tưởng là vẫn c̣n xanh nhưng với thời gian những máí tóc ấy đă bạc ra từ lâu v́ mong nhớ!
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Cũng trên đường này một hôm tôi ngồi nghỉ bên bờ suối, tôi móc túi ra lấy tấm ảnh của cha tôi ra đưa cho anh em xem. Một anh bạn nói ngay với tôi :
– Anh giống in bố anh.
– Cả bên nội bên ngoại tôi đều bảo thế. Tôi đáp.
Nhưng anh bạn tôi lắc đầu:
[b]– Anh giống bố anh, chuyện đó đă đành, nhưng tôi muốn nói là anh đă bằng tuổi bố anh trong ảnh này.[/b]
Tôi mới sực nhớ ra rằng ḿnh đâu c̣n trẻ trung ǵ. Vậy mà cứ nghĩ rằng ḿnh c̣n ngây thơ khờ dại. Đúng như lời anh bạn nói, hồi cha tôi bằng tuổi tôi bây giờ th́ tôi đă mười sáu tuổi, tôi đă học gần hết ban trung học Pháp rồi.
C̣n tôi bây giờ ḿnh trần thân trụi, đi theo cách mạng hai mươi năm vẫn cái ba lô trên lưng với cái “chí lớn ngang trời” đựng trong cái ba lô, nói th́ cụ thể vậy mà ṃ măi không đụng , t́m măi không ra và đốt đuốc t́m cũng không thấy.
[b]Trên đời này có cái ǵ mà người ta phải mất bằng ấy tuổi tác tháng năm để dốc sức đi t́m mà không thấy không[/b]. Bemard Palissy thiêu đốt hết gỗ ván trong nhà nhưng đă t́m ra chất sơn. Cái chất sơn đó bù lại sự khổ tư khổ tưởng của ông ta.
Gutenberg t́m ra được máy in, Newton t́m ra luật hút của trái đất . Và tất cả những nhà khoa học vật lư, triết lư, không có ai phải mất nhiều công sức và thời gian như thế để t́m mà không thấy le lói một tí ánh sáng nào.
C̣n nhũng người đi trên đường này, không phải quăng đường Trường Sơn mà là cả con đường này từ 1945 đến 1965 hai mươi năm chẵn, thấy cái ǵ ở cuối đường ?
Phải chăng:
– Vách đá không nấc thang.
– Suối sâu không cầu.
– Sông rộng không đ̣ toàn những trở ngại không có phương tiện để vượt , và:
– Gạo không có, thuốc cũng không, sốt rét triền miên.
– Muối không đủ ăn, súng nặng như núi.
– Quai dép đứt hết, áo quần rách ra và ở trên đầu th́ luôn luôn dội xuống, nào:
– Quyết tâm chiến thắng.
– Nghị quyết nọ, nghị quyết kia.
– Lời kêu gọi của ông này ông nọ, anh Ba, anh Tư.
Tôi liệt kê ra đây những ” món ” mà tôi tổng kết trên con đường vinh quang này,dành riêng cho mỗi chiến sĩ, đó là chưa kể những thứ bệnh tật và thiếu thốn kỳ cục khác xảy ra bất kỳ. Đó, một con người đi trên con đường này gánh trên vai đội trên đầu , mang trong ḷng bằng bao nhiêu thứ đó, th́ đi “giải phóng ” miền Nam bằng cái ǵ ? Và bao giờ th́ giải phóng xong ?
Cho nên tôi nhiều đêm nằm giữa sự lặng im ghê rợn của núi rừng nghĩ đến cái ngày mai của ḿnh, mà ớn lạnh. Nó là:
– Sốt rét.
– Dốc , đèo !
Không có ǵ khác hơn. Nếu có cái ǵ khác hơn thứ đó là cơn sốt rét nặng hơn, dốc đèo cao hơn. Thế thôi. Và kiểm điểm lại cái quyết tâm c̣n sót lại của ḿnh:
– Về để gặp lại gia đ́nh. Đó là ư nghĩ cao siêu nhất sau hai mươi năm trời đi làm cách mạng của tôi.
Đi t́m cái ǵ cho xa xôi, khi cái mà ḿnh đi t́m th́ ḿnh đă có ngay ở bên cạnh ḿnh.
[b]Chủ nghĩa Cộng Sản tối kỵ với chủ nghĩa cá nhân. Cho nên chủ nghĩa Cộng Sản không bao giờ thực hiện được. Bởi chừng nào c̣n con người th́ c̣n chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ có thể bị diệt vong khi trên mặt đất này chỉ c̣n có một con người mà thôi. Cho nên không thể có chủ nghĩa Cộng Sản khi c̣n loài người.
Con người ! Đó là một sản phẩm vừa xấu vừa tốt và Bất Diệt. C̣n lại trong tôi cái ǵ riêng tư, cá thể, sau hai mươi năm đi t́m cái thế giới Đại Đồng.
Và quanh tôi là gia đ́nh của tôi, cha mẹ anh em tôi. Làm người ai cũng muốn vươn lên sống có lư tưởng, nhưng lư tưởng không phải là không tưởng. [/b]
Lư tưởng nào rồi không dẫn tới việc ăn ngon mặc đẹp ? Vậy th́ người đă có sẵn những điều đó rồi, c̣n đi t́m cái ǵ ? Tôi cảm thấy chủ nghĩa Cộng Sản không hợp với cá nhân tôi từ khi tôi biết rơ bộ mặt thật của đảng, sau một thời gian ngắn đi kháng chiến, hay nói cho cẩn thận hơn là vài năm, qua tác phong và đạo đức của một số lănh tụ.
Tôi vốn sinh trưởng trong gia đ́nh không thuộc thành phần “lư tưởng” và tôi lớn lên cũng không cùng với giai cấp “lư tưởng. ”
[b]Vô đảng là một sai lầm của tuổi trẻ, một sự sai lầm to nhất và nó đáng giá bằng sự mất mát cả tuổi thanh xuân , một sai lầm không thế sửa chữa được.[/b]
Còn tiếp ...