-
Lại lỗi kỹ thuật ! Thiếu phần ghi chú .
* _ " Nó c̣n nhớ thơ Tố Hữu, bài Tặng Nàng Trinh Nữ " : Thơ này ,làm hồi tiền chiến . Đầy nét trữ tình ,rung cảm . Cũng như những tác phẩm nổi tiếng khác của các vị như : Nguyễn Tuân, Tô Hoài , Thế Lữ , Xuân Diệu , Nguyễn Bính .... v.v .... đều viết trước chiến tranh .
Kể từ khi HCM tha cái chủ nghĩa cộng sản thổ tả , chó mửa về , rồi mời Pháp vào lại VN . Sau đó HCM lại hô hào đánh Pháp , Việt Minh nã đạn pháo vô tội vạ vào Hà Nội, tan cửa nát nhà , biết bao dân chúng chết oan vì đạn pháo .... rồi phát động tiêu thổ kháng chiến , vườn không nhà trống .... dân Việt oan khổ chất đầy .
[b]Từ đó những áng văn hay , những dòng thơ đẹp , đều bị tội . Tội đó là tội Tiểu Tư Sản !!! Từ đó văn sĩ chỉ còn biết viết văn đỏ , thi sĩ làm thơ đỏ ..... cái gì cũng đỏ . Sản sinh ra bọn văn thi sĩ Chồn Lùi từ đó cho đến nay . [/b]
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Thu hơi ngại v́ ḿnh c̣n được cái của quư đó. Chẳng có lẽ t́nh đồng chí đồng đội đồng hành đồng bệnh ngọt ngào trong các bài học ở trường đi B như vậy mà trong t́nh h́nh thiếu chất ngọt này, nó lại đâm ra nhạt phèo. Thấy Thu không được tự nhiên khi giở nắp hộp ra xúc tí đường cho vào nắp gà mèn khuấy khuấy, tôi nói:
– Thu cất cho kỹ để bồi dưỡng cái chân. Tụi anh chân cẳng khỏe cả, không cần đường!
Kỳ thực th́ nghe mùi đường phảng phất tí ti trong không khí , tôi thèm phát khóc lên được. Mấy hạt đường của mẻ hồ làm ta nhớ đến cái ba lô của tháng họa sĩ trẻ.
Tôi nói với Ngữ:
– Cậu có rỗi phơi đồ đùm cho nó chút !
– Vâng, để em xong việc của em đă!
– Cậu xem nó c̣n đường khuấy cho nó tí.
– Nó không có đường đâu anh ạ !
– Tại sao vậy?
– Khi lănh xong nó gởi về cho gia đ́nh vợ chưa cưới của nó !
– Trời đất!
– Nó nghĩ và nó khỏe như vâm, cày hợp tác xă nó kéo c̣n nổi mà anh. Em cũng vậy, em đâu có ngờ vô đây sức khỏe tiêu tán nhanh đến thế!
Cái hiệu phở của Ngữ làm mọi người tiếc ngẩn tiếc ngơ: Nếu c̣n tí nước hầm con khỉ gió th́ hay quá. Hôm qua lại chê đem đổ hết, chi ăn cái xác. Bây giờ cần để làm nước dùng nấu phở th́ không c̣n chút nào. Thế mới biết cái ǵ cũng có thời thế của nó, dùng sai chỗ không bật giá trị lên được như cái anh nhạc sĩ tài hoa kia…
Đi vô con đường này anh ta chửi đổng toàn gamme majeure với dấu biến thượng. Nhiều lúc leo mệt quá, anh quát:
– Ê, tụi bây nói với giao liên đằng trước đi chậm chậm nghe. Con người không phải là máy, không phải là thú vật ! Địt mẹ chứng nó, đi đứng ǵ như thế này !
Nh́n ông nhạc sĩ ngồi bên gốc cây cặm cụi vá tấm tămg bị gió giật rách đêm qua tôi hết biết nói sao. Tôi kiếm chuyện đùa:
– Bây giờ mà rủi gặp chi Bảy ở đây th́ làm sao anh Bảy?
Hoàng nhạc sĩ cười giọng Tenor một tràng dài tưởng chừng vô tận. Rồi nói:
– May chứ sao lại rủi, chú e…em!
– C̣n thấy đường xỏ chỉ không?
Hoàng nhạc sĩ giơ cây kim lên rồi cười:
– Mới sốt dăm cơn mà nh́n cái ǵ cũng vàng khè.
– Vấn đề không phải là vàng hay trắng mà là có xe chỉ luồn kim được không?
– Cũng tạm được chớ! Hớ! Hớ hớ ớ!
– Vá rồi đi ăn phở khỉ nghe ! Thằng Ngữ nấu gần xong rồi .
– Mẹ ! Cái món phở này, hiệu Tư Lùn cá thể ở ga Hàng Cỏ nghe qua cũng chạy tét.
– Nè, rồi cái vụ nấu cao của anh có tính thực hiện không? ?
– Thực hiện chớ!
Hoạng ngó về phía mấy cái gà mèn c̣n treo đó :
– Để tao trút ra phơi rồi mang tới trạm tao nấu cho mày coi.
– Ừ để rồi coi.
Bỗng thằng Núi rên lên làm mọi người giật ḿnh. Nó c̣n nói rơ từng tiếng:
– Khát nước !
Cả thằng Ngữ lẫn tôi đều đứng bật lên và chạy lại. Trời đất ơi ! Thằng nhỏ đă mở mắt. Trời cứu nó rồi. Mi mắt nó chớp chớp. Đôi môi nó mấp máy. Tiếng nó thều thào:
– Uống nước !
Ngữ chụp lấy chiếc bi đông trên đầu vơng lắc lắc, nghe c̣n tí nước, Ngữ mở nút kê miệng bi đông vào mồm Núi khe khẽ rót.
Núi thở kh́ một tiếng rồi nhắm mắt. Tôi hoảng vía, v́ nghĩ là nó hồi dương một chút rồi đi luôn. Ngữ vừa đậy nắp bi đông vừa hỏi:
– Mày uống nữa thôi Núi ?
Mi mắt Núi động đậy rất khẽ.
– Nè, nước nè, nghe không?
Mi mắt Núi lại động đậy như trước. Môi nó hé mở. Ngữ nghiêng bi đông rót nhẹ và hỏi:
– Nữa thôi ?
Núi ngậm miệng lại. Ngữ lại hỏi:
- Mày có lạnh không?
Núi không đáp.
– Mày biết ai đây không?
Núi cũng không đáp.
Chúng tôi bàn đến việc thay quần áo cho Núi, nhưng câu chuyện không ngă ngũ. Tôi là kẻ đă từng trông thấy tận mắt mấy bệnh nhân được Bác sĩ Tùng hạ nhiệt độ bằng cách cho vô bồn nước đá, tôi cho là nhờ bị ngâm trong vơng nước mưa mà Núi tỉnh dậy tí ti và nhiệt độ th́ không cao hăi hùng như hôm qua – Nhiệt độ vừa mới xuống, nếu bệnh nhân thay đổi môi trường, nó có thể lên cao trở lại.
Nhưng Ngữ và Hoàng th́ cho là nếu để Núi nằm trong sự ướt át, cả vơng lẫn quần áo, và dưới nắng như thế sẽ bi cảm dễ dàng nhất là cơ thể của Núi đang kém sức đề kháng.
Cuối cùng phe Ngữ thắng thế. Hai người thay quần áo cho Núi với sự vắng mặt có hạn đinh của Thu.
Núi là người đă vẽ Thu nhiều nhất trên đường này. Hai bên tỏ ra rất yêu nghệ thuật hội họa.
Bận rộn chuyện ǵ chẳng ra chuyện ǵ, nhưng cuối cùng rồi cũng hết một ngày. Lúc gần tối, th́ từ ngoài , giao liên dẫn tới một đoàn rất đông, gồm đủ các hạ̣ng quân dân chánh.
Bây giờ chúng tôi mới nôn nao nghĩ tới việc đi. Chậm mất một ngày rồi. Trừ Núi ra, tất cả đều có thể đi. Phải đi dù thế nào th́ cũng gần với quê hương hơn.
Ngữ nói với tôi bằng một giọng đầy nước mắt:
– Các anh và Thu cứ đi đi, để em ở lại với Núi, nếu nó có mệnh hệ nào th́ cũng có em bên cạnh, như vậy nó đỡ tủi thân. C̣n Trời Phật mà phù hộ nó khỏe lên được th́ em sẽ d́u nó đi dần tới đâu hay tới đó. Luật lệ của đường dây là chỉ đưa người vào không cho người ra, ḿnh không thể cưỡng lại được.
Tôi nói :
– Đă đành là các anh phải đi rồi, nhưng trong ḷng thấy nó kỳ cục thế nào ấy cậu ạ !
– Th́ cũng như lần trước, anh ốm nằm lại chúng em cũng cứ đi đó th́ sao? Đó là ư định của trên mà. Ai bịnh cứ nằm lại, ai khỏe cứ việc đi. Cách mạng Miền Nam đang chờ ḿnh như chờ nước uống !
Thế là chúng tôi dứt khoát chia tay. Tôi và Hoàng, Thu sửa soạn để mai lên đường. Thu lúc nào cũng nhăn nhó với cái chân đau. Nàng t́m một cây gậy thật chắc, Hoàng th́ lo băng đầu gối như cầu thủ bóng tṛn trước khi ra sân cỏ. Riêng tôi th́ không cần gậy, c̣n cái bao tử loét th́ không thể băng bó ǵ được cứ để thế mà đi, được khúc nào hay khúc ấy. Chừng nào mửa ra máu cục th́ cách mạng cho nghỉ ngơi.
Trong đoàn mới vào , tôi nhận thấy có một tốp rất phân biệt với mọi người. Tốp này độ chừng một tiểu đội, nhưng những chiến sĩ th́ mang rất nhiều máy móc khác hẳn với bộ đội thường. Khi đi xuống suối lấy nước, tôi nghe toán chiến sĩ xầm x́ với nhau th́ tôi biết đây là đội bảo vệ cho một ông kẹ. Nhưng không biết ông kẹ đó tên ǵ.
Lượt trở lên, khi đi ngang chỗ họ đóng, tôi giả vờ đánh rơi gà mèn nước và ngồi xuống, tay nhặt gà mèn mắt ngó vào cái vơng mà tôi ngờ là ông kẹ đang nằm. Quả nhiên tiếng gà men rơi , làm ông ta giật ḿnh ngóc đầu dậy nh́n ra. Tôi nhận ra ngay ông ta.
Tưởng ai lạ. Một bộ mặt sắt có dấu bấm như vết móp trên chiếc hộp lon chứ không phải cái sẹo. Ông ta nh́n người bằng cặp mắt lúc nào cũng trợn lên trắng dă , như muốn nuốt sống đối tượng. Nếu trên sân khấu cần một vai tướng cướp th́ cứ đưa y phục cho ông ta, c̣n mặt mũi th́ khỏi cần vẽ nanh hoặc đeo râu thêm.
Một số cán bộ rất sợ ông ta, nhưng ngược lại một số khác th́ lại coi ông ta là một tên chăn ḅ đắc thời được một bàn tay quyền lực bốc lên ngồi ghế cao và trao cho cây gậy chỉ huy ba quân với cái ga-lông bốn sao và nhành dương liễu rũ.
Tôi đă từng nghe ông ta nói chuyện nhiều lần. Lần sau cùng tại Viện Văn học -cũng c̣n được nghệ sĩ gọi là Sở Mạ Kền- của bà già trầu móm Hoài Thanh. Hoài Thanh cũng có một bộ mặt móp một bên như ông kẹ này. Lần đó ông kẹ đập thêm vài búa vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm vốn đă bẹp dí dưới sức đè của đảng rồi – như những “nhát ân huệ.”
Ông ta nói rổn rảng, múa tay tít tḥ ḷ, nhưng nghệ sĩ che tay cười nhếch mép khi ông ta tuyên bố.
– Dù phải chống Mỹ năm năm, mười năm, hai mươi năm hay một triệu năm chúng ta cũng chống tới cùng.
Một triệu năm ? Sau khi tan buổi họp, Nguyễn Tuân và tôi đạp xe song song trên đường Phan Thanh Giản, ông hỏi tôi:
– Anh có nghe ǵ không?
– Dạ nghe ǵ ạ?
– Chống Mỹ một triệu năm ! Anh không nghe à?
– Dạ, tôi có nghe.
– Anh nghĩ thế nào về “cái một triệu năm đó?
– Dạ tôi không nghĩ thế nào cả.
– Rơ một khái niệm kỳ quặc về con số! Tôi chưa nghe ai nói như vậy bao giờ.
– Tôi cũng thế. Đây là lần đầu tiên.
Cái ông mặt sắt kia coi nghệ sĩ như rác. Và nghệ sĩ cũng coi ông ta không như ǵ cả. Ông ta ḥ hét th́ to nhưng sau khi ông dứt lời th́ người ta chẳng biết ông muốn nói ǵ. Bây giờ ông lại vô đây chắc hẳn là đi giải phóng Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam rồi. Bỏ mẹ Miền Nam rồi. Hợp tác xă là cái chắc!
Còn tiếp ...
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Tôi chợt nghĩ ngay như thế khi tôi nhác thấy bộ mặt sắt kia. Tôi nhặt chiếc gà mèn trở xuống suố́ múc nước rồi trở về chỗ cũ. Tôi đến rỉ tai Hoàng, Hoàng cười:
[b]– Dân Nam kỳ ḿnh chuyên môn gậm cùi bắp mà cứ tưởng nhân sâm.
– Thằng cha Tài Lé (tức Sơn Nam) nói Nam kỳ là thuộc địa của Bắc kỳ, đúng vô cùng. Đúng từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc vào Nam.[/b]
– Ông ta mà vô trỏng th́ hợp tác xă, chỉnh huấn, lập trường giai cấp là gốc rồi. Hồi tao ở Bưngari mới về, tao có đọc bài “Cây đa bến cũ con đ̣ khác đưa” của ông.
– Ừ, lúc đó ổng đang phụ trách Trưởng ban Nông thôn của Trung ương đảng. Do đó ông cỡi ngựa xem hoa các hợp tác xă hàng mă một ṿng rồi về nói cho thư kư viết phứa ra bài đó.
– Văn chương hay ra phết đấy chứ nhỉ ?
– Văn chương mà nói làm chi. Lập trường kia mới đáng kể. Bọn nhà văn chúng tôi phải lấy bài đó ra làm phương hướng sáng tác đấy. Bên Hội Nhạc sĩ của ông gặm không vô phải không?
– Ai th́ tao không biết, chứ tao rặn không ra nốt nào cho hợp tác xă cả !
– Nói đùa cho vui, chứ thực t́nh là tôi nghĩ đến số phận của Miền Nam qua câu nói bất hủ của Tài “lé”. Anh chàng này chỉ có một khuyết điểm là cặp mắt lé. Nhưng dù “lé,” Tài vẫn nh́n sự vật rất chính xác.
Ông kẹ mặt sắt này làm cho tôi nhớ câu nói của Tài. Nó đă được chứng minh từ hồi kháng chiến. Nam Bộ là miếng thịt bít tết tươi roi rói mà đám Bắc kỳ từ Trung ương vào là một lũ kên kên, chúng chia nhau không dành cho dân địa phương một thẻo nhỏ.
Ra Bắc cũng thế. Thằng Bí thư tỉnh ủy ngoài Bắc trong kháng chiến , th́ ḥa b́nh được vô Trung ương, ngược lại thằng Bí thư của Thành Đồng Tổ Quốc nghe lời cụ Hồ dụ dỗ đi tập kết hai năm về, th́ nay đă mười năm mới trốn chui trốn nhũi như ăn trộm trở lại quê hương. Mười năm trên đất Bắc thằng Tỉnh ủy đi cạo muối, nhà cửa th́ ga-ra tư sản. Ông Chủ tịch tỉnh tôi ở một cái ga ra tệ hơn cả chuồng heo.
Bây giờ Nam kỳ lại bị “Bắc kỳ thuộc” lần thứ hai. Người cầm cán cho hai lần Bắc thuộc này chính là cụ Hồ. Dân Nam kỳ hận tràn ḷng, đau như hoạn, nhưng lỡ tin nên mắc, gái Nam ngồi phải cọc Bắc, không dám kêu.
Sáng hôm sau hành quân. Giao liên Phẩm ra địa điểm đóng quân sớm lắm. Cậu ta cũng “đả thông” cho khách những điều cần thiết rồi bắt đầu dắt đoàn người đi.
Tôi đến sờ trán thằng Núi, thấy nó bớt sốt, nhưng vẫn mê man. Không biết ở trên đưa một anh chàng học vẽ chưa ra họa sĩ như thế này vô Nam để làm cái giống ǵ? Nh́n qua nét vẽ của anh ta, tôi thấy anh ta cần phải học ít nhất là ba năm nữa mới vẽ đúng h́nh khối và anatomy. Rủi nó chết ở đây, ai khổ ai đau chứ Trung ương đâu có đau khổ chút nào. Hơn nữa Trung ương đâu có biết tới.
Chúng tôi được đi sát với giao liên nghĩa là đi đầu đoàn. Nhưng v́ Thu đi chậm nên bị lính kêu, Phẩm lại đẩy chúng tôi xuống khúc giữa. Đến lúc nghỉ trưa, cũng do yêu cầu cửa lính, đám dân chánh chúng tôi lại bị cho xách đèn đỏ bọc hậu, nhưng rồi vẫn cứ rơi dần lại phía sau. Con nhà lính c̣n cực khỏe đi vượt lên phía trước hết cả.
Người dẫn đầu của toán sau cùng là tôi. Người đi sau cùng của toán sau cùng là Thu. Người đi giữa cố nhiên là nhạc sĩ họ Hoàng. Thỉnh thoảng nhà nhạc sĩ dừng lại gục trên đầu gậy (tôi phải dừng lại chờ) quắc mắt về phía trước càu nhàu:
– Mày hỏi chuyền dùm thằng Phẩm xem nó dẫn có lạc đường không mậy ?
– Đường ǵ mà lạc. Nó đi hàng ngày mà!
– Đường ǵ kỳ cục thế này chứ. Không bước được một bước trên mặt đất bằng !
– Đường giải phóng miền Nam chớ đường ǵ mà ky cục! Đây Trường Sơn vinh quang mà!
– Đường ǵ đi hoài không đến. Vinh ǵ mà vinh?
– V́ nó là đường đi không đến ! Vinh th́ có vinh nhưng nó không đến vẫn không đến.
Nói pha tṛ vần lân một chút vậy rồi đi tới nữa. Cái điệp khúc này nhà nhạc sĩ cứ lặp đi lặp lại với giọng tenor.
Bỗng được lệnh của giao liên truyền lại: “Nghỉ mười phút.”
Hoàng ném cái gậy ngồi phệch xuống đất ngay , tựa lưng vào chiếc ba lô soải hai chân ra thở phào:
– Tưởng mày quên cho nghỉ chớ!
– Uống nước uống non đi cha nội, ở đó mà càu nhàu. Nó lại bắt đi nữa bây giờ!
Tôi quay lại Thu:
– Thu này, em có thấy cái ông mặt sắt đi ở giữa đoàn không ?
– Không, ủa mà có, cái ông môi thâm sịt đầu vuông như tảng đá kê cột nhà phải không?
– Ừ chính là ông kẹ đấy !
– Để làm ǵ?
– Em có muốn xin về Hà Nội th́ xin ông ấy ngay bây giờ đi!
– Thôi đi anh đừng có đùa ! Thu hơi cáu.
– Anh nói thật mà. Ông mà đồng ư là giao liên phải kiệu em ra Hà Nội đấy.
Từ ngày thằng Hồng trốn mất, Thu không c̣n tí hy vọng ǵ quay lại nữa, nên đành phải “đi giải phóng Miền Nam… cùng quyết tiến bước” vậy.
Hoàng tợp ngụm nước rồi nói:
– Vô tới trạm trong , anh Bảy sẽ nấu mẻ cao khỉ cho em gái tẩm chân là trèo núi như thần thôi.
– Anh có mang theo đó à ?
– Tao nhất định thắng lợi mà !
Lệnh giao liên truyền xuống:
– Tiếp tục đi. C̣n một chặng ngắn tới trạm.
Đây chỉ là lối động viên của giao liên thôi. Một chặng của họ là vô tận. Có khi lội hộc máu cũng chưa tới
– Lệnh nghỉ vừa truyền xong th́ lại có lệnh đi ! Hoàng nhạc sĩ quát với cặp mắt nảy lửa :
- Nghỉ chưa hết thúi cái đít th́ bắt đi ! Thằng phải gió mày có khùng không hả?
Tuy giận dữ như vậy nhưng họ Hoàng vẫn gượng chỏi gậy đứng đậy lụm cụm đi theo. Được một quăng tôi bị “đứt đuôi,” đoàn đă bỏ tôi xa lắc, tôi quay lại th́ họ Hoàng cách tôi một quăng khá xa và không thấy Thu đâu nữa. Tôi đứng chờ Hoàng tới và hỏi:
– Thu đâu ?
– C̣n múa Hồ Thiên Nga ở đằng sau. Mày là Hoàng tử trở lại rước.
– Hồi mới xuất phát giao liên bảo , có nhiều đường ṃn “ngánh” coi chừng lạc, ḿnh lớ quớ bị lạc cho coi.
– Mày trở lại rước nó đi !
– Khổ quá!
Tôi ngóng phía trước:
- Đoàn đi mất hút, không chờ.
Nh́n phía sau , không thấy Thu. Tôi bèn tụt ba lô ném xuống đất bảo:
– Anh ngồi đây chờ.
– Ừ, đi cho lâu lâu nghe !
– Đứt đuôi thế này c̣n bảo lâu lâu.
– Kệ mẹ nó. Tao cần nghỉ cái đă. Mà nè ! Tao bảo nè!
Tôi vừa đi được ít bước th́ quay lại gắt:
– Ǵ?
– Mày tới đó nếu nó bi cọp ăn th́ quơ ít xương đem về cho tao nấu cao nghe chưa?
Tôi phát quạu, làm thinh, đi thẳng. Được một quăng xa chừng nửa cây số thấy Thu ngồi ở ven đường. Tôi quát:
– Sao ngồi đó? Có đi mau lên không?
Thu không nói không rằng. Tôi vẫn chưa hết giận:
– Người ta đi mất đất rồi, mau lên.
Thu vẫn không nhúc nhích. Trời ơi, trông mặt nàng mới thảm hại làm sao. Tôi đỡ nàng đứng dậy bảo:
– Đưa ba lô đây anh mang cho.
Nàng chỏi gậy đứng lên và bước từng bước một , như xẩm bó chân. Tôi cũng chẳng oai phong ǵ. Chỉ được cái may là bao tử chưa đồng khởi.
Tôi đi chậm chậm bên nàng, cố t́m cách đưa nàng đi tới, chậm như rùa cũng được, miễn là đừng ngồi lại, v́ Mác có dạy: “Mọi vật đều tiến triển , cái giống đếch ǵ đứng lại th́ có nghĩa là thụt lùi !”
Đứng lại mà đă là thụt lùi rồi, th́ ngồi như Thu c̣n thụt lùi bao nhiêu nữa?
Tôi nh́n xuống gót chân Thu, định hỏi: “Cái cổ chân của em có đỡ không?” (Đỡ ǵ mà đỡ! Biết vậy nhưng vẫn cứ hỏi). Nhưng tôi chợt nhận ra mấy lớp băng nhuộm máu đỏ ḷm.
Tôi kêu lên:
– Chân em bị thương à?
– ….
– Bị thương hồi nào, sao không kêu?
– ….
– Vấp đá hả ?
Thu không nói một tiếng. Mắt nàng bật ra nước mắt. Nàng úp mặt vào đầu gậy mà oà lên.
– Cái ǵ vậy? Tôi quát om lên. Tiếng quát vang lên dội lại từ sườn núi :
- Cái ǵ th́ nói, khóc khóc cái ǵ ? Cứ khóc rồi tới nơi hay sa…o? Tôi dậm chân đồm độp.
Thu vẫn gục đầu vào cây gậy mà nức nở, đôi vai gầy g̣ run lên. Tôi chợt hiểu ra rồi. Nàng có kinh.
Từ cái lần lấy đường thủy làm đường bộ ngâm ḿnh dưới suối cả ngày, nàng thường hay khó ở. Đàn bà con gái, cái ǵ cũng rắc rối cả. Biết thân như vậy th́ làm B quay phứt đi hồi ở mấy trạm ngoài, lại c̣n lê vô tới đây làm ǵ kia chứ! Tôi hậm hực nghĩ. Nhưng khi trông thấy gương mặt nàng đầm đ́a nước mắt tôi hối hận. Tôi đến bên nàng khẽ hôn vào vệt nước mắt và nói:
– Anh cho chân em một lá bùa sẽ hết đau ngay.
Thu đưa tay ra vẫy vẫy:
– Đưa ba lô đây cho em !
– Đi đă không nổi, c̣n mang ba lô !
– Không, em đi nổi. Em hết đau rồi !
– Th́ đi đi xem nào !
– Anh cứ đưa ba lô cho em. Em khỏe lại rồi ! Em không muốn ai giúp em hết.
Nàng bi chạm tự ái v́ những câu không dịu ngọt của tôi . Tôi thấy có chút hối hận nên dỗ dành. Tôi nói như viết tùy bút:
– Em cố đi lên chút nữa đi. Sắp tới nơi rồi. Ḿnh sẽ nghỉ hai ba ngày. Nghỉ chừng nào chân em hết đau ta lại đi, đi được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Anh chẳng cần tới nơi nữa. Không có em tới, một ḿnh anh chẳng thú vị ǵ. Anh sẽ tới trong giấc mơ hồi hương, trong thực tế và chỉ trong mộng, anh phải có em. Đi, đi em!
Tôi tưởng văn chương mồm của tôi đă vuốt nhẹ được trái tim đau, lau khô được ḍng nước mắt của nàng chẳng ngờ lại ngược lại.
Nàng càng khóc to lên và đứng lại. Quờ lấy quai ba lô giật ra khỏi vai tôi buông xuống đất và nói đứt quăng:
– Anh đi đi, đi… cho tới quê nhà… C̣n em… em chết ở đây! Nói xong nàng ngồi khuỵu xuống.
Tôi nắm tay lôi nàng đứng lên. Mặt nàng trắng bợt ra, đầm đ́a nước mắt. Tôi nói cũng hết ra tiếng:
– Đi em ! Cố lên. Tới chỗ anh Hoàng sẽ nghỉ. Kia ḱa cách đây có vài… chục thước!
[b]Tôi lại cũng cái lối động viên của giao liên. Đúng ra đó là cái lối cổ điển của đảng, cái lối treo bó cỏ trước đầu ngựa muôn năm.[/b]
Tôi lại mang ba lô lên vai và d́u Thu đi, vừa đi vừa “viết” thêm mấy chục đoạn tùy bút. Có lẽ đó là những đoạn văn chương hay nhất của tôi, những đoạn được viết ra từ sự rung động cực kỳ mănh liệt, từ một khung cảnh bi thương nhất mà tôi chưa từng sống cho đến cái buổi chiều hôm ấy.
Tôi nói như thằng điên, tôi nói như một thi sĩ ngâm thơ trước dân chúng yêu mến ḿnh, tôi nói như diễn thuyết, như một thằng láo toét, tôi nói những điều phản lại chính ḷng tôi: “Cố gắng đi em rồi ta sẽ tới ! Cách mạng Miền Nam đang mong chờ… ! ! “
Nàng bước theo tôi, mỗi bước một giọt nước mắt, không phải “Lệ” (1) của Xuân Diệu, “rách đau thương đi giữa cuộc đời,” cũng không phải Lệ của kịch sĩ bôi cù-là trong vở Lu ba (2), mà là lệ của một nữ nghệ sĩ đẹp tuyệt trần rơi thấm đá Trường Sơn , không phải để nở thành một đóa thơ, mà là để ghi dấu một tội ác.
Tôi cố hết sức d́u nàng đi tới, lưng nặng như núi đè, tay đẩy lưng nàng như đẩy một chiếc xuồng mắc cạn. Tôi đă lê cái thân tàn của tôi không nổi mà c̣n phải đèo cái của quí này, trời hỡi, c̣n có sự bất công nào bằng?
Nhưng trời cũng thương người. Cuối cùng rồi tôi cũng đưa nàng tới chỗ Hoàng ngồi đợi. Hoàng đang sửa lại cái “giơ- nui-de” cầu thủ trên đầu gối.
Tôi cố gượng pha tṛ:
– Sút có vô quả nào không??
– Có vớ hai quả !
– Nào, “đứng lên đi, người của núi sông, nặng ḷng chi ngày xưa vương vấn. ” (3) “‘
– Nứng thế đéo nào nổi.
– Xuỵt! Tôi trợn mắt vào Hoàng.
– Đứng lên hay nằm xuống cho khỏe thân ?
– Người ta đi xa ba ngàn dặm rồi.
Tôi giục, và khoác luôn chiếc ba lô của tôi lên vai, như một anh hùng giết giặc sắp được Bác bắt tay và gắn huân chương chiến công và một tay đẩy Thu, một tay lôi Hoàng. V́ biết chắc nếu để Thu ngồi xuống th́ cả hai người đều sẽ đồng t́nh mà đóng chốt luôn tại đây.
Cũng may, hai người giác ngộ khá cao nên “thề quyết tiến bước.” Đi được một quăng th́ đụng ngă ba. Cái ngă ba này to lớn thênh thang hơn bất cứ ngă ba nào trên đường từ Làng Ho vô đây.
– Đi ngả nào anh ? Tôi hỏi Hoàng :
- Không khéo ḿnh đi xuống Bác Kế th́ hỏng.
– Ừ nhỉ ! Đi ngơ nào bây giờ, tớ không biết mô tê!
Tôi hoang mang không biết đi đường nào. Nếu đi sai sẽ chẳng đến trạm, việc đó đă hẳn rồi ! Nhưng c̣n thêm cái nguy hiểm là có thể đụng vào chướng ngại hoặc lọt vào khu tử địa th́ nguy. Tôi đă bi lạc vô trại tù binh một lần và bi các ông cai ngục xét giấy, gằm ghè dữ quá, làm như ḿnh là do thám không bằng.
Hoàng và Thu chộp lấy cơ hội ngồi xuống nghỉ. Ngồi xuống th́ đứng lên, có khó ǵ ! Nhưng đó là đối với những người b́nh thường ḱa, c̣n ở đây lại khác. Ở đây ngồi xuống được là đít dính với đất, mọc rễ ngay tức khắc chẳng đứng lên nổi.
Còn tiếp ....
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Phải đấu tranh tư tưởng, phải hát thầm bài Giải Phóng Miền Nam của trại cưa Kim Hữu mới đứng lên được !
– Đi ngả nào? Hoàng hỏi.
– Có thể ngả này .Tôi trỏ .
– Ngả phía bên trái.
– Ngả nào th́ tùy mày đấy . Tao không biết ngả nào là ngả đéo nào!
– H́nh như có dấu chân.
– Dấu chân ǵ in trên sỏi đá được.
– Th́ tôi tưởng tượng ra thôi! Tôi thở phào .
- Mệt quá! Đủ thứ rắc rối. Thôi đi mẹ nó ngả đó đi.
– Không được! Nguyên tắc của giao liên đề ra là nếu rủi bi lạc th́ cứ ngồi tại chỗ họ sẽ trở lại t́m. Đi bậy bạ họ không t́m được.
Tôi nói :
– Đó là nguyên tắc xưa rồi. Bây giờ ḿnh đi lạc họ bỏ luôn , họ không có trở lại t́m đâu.
– Thằng Phẩm nó t́nh cảm với bọn ḿnh mà !
– T́nh th́ t́nh, cảm th́ cảm nhưng nó mệt nó không đi t́m đâu.
– Vậy th́ làm ǵ bây giờ?
Thu buột miệng nói:
– Ḿnh cứ ngồi ở tại đây, chốc nữa anh ấy trở ra thế nào cũng gặp ḿnh.
– Biết đâu nó lại đi đường khác.
– Đường khác là đường nào ?
Căi với nhau một lúc, cả ba thấy cái biện pháp ngồi ỳ lại đây là phúc lợi hơn cả và hợp lư cho bộ gị , nên ai nấy đều t́m chỗ mắc vơng nằm chờ và tự giải lao bằng số nước c̣n lại trong bi đông, mỗi người bận rộn một kiểu.
Thu mở băng ra xem lại cái cổ chân, Hoàng th́ củng cố cái bánh chè c̣n tôi th́ ngủ. Nắng chiều nóng như thiêu, quần áo đă đẫm mồ hôi như tắm. Khi thức dậy thấy ḿnh nằm giữa nắng vàng… chẳng có thơ mộng một chút nào, ngược lại tưởng đang bi cảm… nắng , và có ư nghĩ ḿnh sẽ phải đi nhà thương Biên Ḥa.
Tôi nhảy xuống đất chạy vào một mép núi có bóng mát, tuột cả áo ra dùng làm quạt và quạt bất đếm bằng cái áo đẫm mồ hôi kia. .
Quả thật một chập sau th́ Phẩm trở lại. Cả hai bên đều mừng rỡ như những t́nh nhân tái ngộ.
– Tôi tưởng các anh đi lạc rồi.
– Đứt đuôi thôi .
– Vâng, hễ đứt th́ cứ ở tại chỗ chờ, đi bậy nguy hiểm lắm.
– Từ đây tới trạm c̣n xa không?
– Hơn tiếng đồng hồ.
– Vậy th́ không sao. Bây giờ c̣n sớm. Tôi nói.
– C̣n sớm ǵ nữa, mặt trời sắp lặn rồi !
Thu căi lại :
- Em làm sao lết cho kịp
– Em cứ coi như múa một lớp Hồ Thiên Nga là tới chứ ǵ .
Hoàng pha tṛ nhưng Thu không cười nổi. Phẩm đến bên tôi, giọng cảm động :
– Thôi các anh đi, mạnh giỏi nhé! Anh có gặp anh nhà văn ǵ, nói em nhắn lời thăm anh ấy. Tiếc quá anh có đi ngang đây mà em không … gặp để hàn huyên.
Cậu bé rưng rưng nước mắt bắt tay tôi. Tồi bỗng thấy thương tôi th́ ít, thương cậu bé th́ nhiều. Nó ở lọt tỏm giữa hoang dại đầy đe dọa, một loại “Bạch Mao Nam” do đảng tạo ra.
Cũng như ngày trước, lúc tôi c̣n ở Hà Nội, tôi đă đi công tác ra tận các hải đảo trong cḥm đảo Hạ Long. Ở đấy có những ḥn đảo không tên. Ở đấy có những thanh niên “t́nh nguyện” công tác.
Mỗi đợt là sáu tháng. Công tác của họ chỉ là đốt một ngọn đèn cho tàu ngoài biển vào bến Ḥn Gai ăn than và trở ra.
Họ ở trong những cái nhà đá chung quanh không có cây cối ǵ hết, cũng không trồng trọt được ngọn rau dây bí nào hết. Đặc biệt là không có liên lạc bằng điện đài. Những ngày băo to họ vào nhà đóng cửa khóa chặt và ngồi bên trong nghe sóng tràn qua nóc nhà hoặc nh́n qua cửa kính , biển động sôi lên trùm phủ nhận ch́m tất cả những cụm đảo lớn nhỏ.
Những cậu thanh niên thất t́nh muốn trốn đời, những cậu khác th́ hăng máu vịt , đinh tỏ ḷng yêu tuyệt đối với chủ nghĩa xă hội, hoặc v́ lư do này nọ khác mà xung phong ra đây, đều vái cả mũ những ḥn đảo cô đơn giết người này.
[b]Tôi đă hết sức ngạc nhiên khi bước lên những ḥn đảo đó, tôi tự hỏi không hiểu các chàng trai đầy nhựa sống và mộng mị đó, đă sống làm sao một trăm tám mươi ngày và một trăm tám mươi đêm không thấy một mái tóc mềm, không nghe một tiếng thân yêu bên tai. Vậy mà báo và đài luôn luôn ca ngợi và nói rằng có nhiều cậu đoàn viên “xung phong ở lại thêm một nhiệm kỳ nữa ! ”[/b]
Th́ cũng như thằng Phẩm “xưng phong” vô làm giao liên Trường Sơn này. Nhưng so với cái thâm sơn cùng cốc này, ở hải đảo hăy c̣n là hạnh phúc chán. Ở hà̉i đảo, cuộc sống chỉ cô đơn nhưng không bệnh tật, không bom đạn, không trộm cắp, không giật giọc, không thổ phỉ, không thú dữ rắn độc. C̣n ở đây th́ có đủ, có nhiều các thứ này.
Tôi như thấy rơ nỗi u uất trong ḷng cậu thanh niên xung phong trong một thoáng nh́n gương mặt cậu ta. Tôi vỗ vai Phẩm và nói, giống y như cụ Hồ huấn thị các cháu:
– Em ở lại cố gắng công tác cho tốt nhé. Giải phóng Miền Nam xong ta về xây dựng lại đất nước tươi đẹp hơn mười lần xưa ! Chừng đó anh sẽ ghé lại ăn mận của em!
Phẩm đi khuất, tôi c̣n đứng nh́n theo. Đêm nay nó ngủ một ḿnh chắc nhớ bọn tôi lắm, nhớ con bé ở Nghi Tầm nhớ cả Hà Nội. Tất cả đều thấy đó mà lại xa vời. Cây mận của nó th́ chừng nào mới trổ trái?
Chúng tôi cuốn vơng và đi ngược chiều với Phẩm. Đến nơi trời chưa tối. Nhưng chiều nay khác với những buổi chiều khác , khi chúng tôi hạ trại.
Bữa nay ở địa điểm trú quân rất nhộn nhịp. Hỏi ra mới biết rằng đêm nay có Văn Công diễn phục vụ chiến sĩ. Tôi bảo Thu:
– Em đóng góp một màn đi !
– Thôi anh ơi. Em không múa nổi đâu.
– Mới hôm trước múa Hoa Champa…
– Đó là hồi em chưa trật cổ chân ḱa.
Tôi giúp nàng căng lều mắc vơng. Tôi và Hoàng cũng mắc vơng nằm dưỡng lăo. Chuyện ăn uống chưa tính tới. Bỗng nghe tiếng loa vang vang (không có micro) giới thiệu các tiết mục. Tôi chưa kịp nói ǵ th́ Hoàng đă bảo:
– Mày lại gặp “ẻn” rồi. Coi chừng lại đổ nợ!
Quả thật, đoàn Văn Công đang biểu diễn là đoàn của Sư đoàn 330 là lính Nam kỳ quốc của Chúng tôi. Người yêu cũ của tôi đang làm “biên đạo” vũ , của đoàn này. (Biên đạo tức là viết và đạo diễn). Tôi không vui cũng không buồn, nhưng lại rất ngạc nhiên. Văn Công biểu diễn phục vụ ai ở đây? Trong khi lính cần gạo, thịt và thuốc men th́ không đem tới, trái lại đem cho những thứ họ không cần . Nghe hát xướng mà no được sao ?
Không biết ai có sáng kiến này, một sáng kiến lạ lùng không kém sáng kiến của Tào Tháo gạt quân sĩ đang khát nước gần chết bằng cách bảo rằng ở phía trước có vườn quít.
Nhà nước có nhiều sáng kiến kinh hoàng. Tôi c̣n nhớ thời kỳ Không quân Mỹ !eo thang ra Miền Bắc, Tố Hữu bắt văn nghệ sĩ phải đi thực tế bom đạn ở khu IV.
Tôi đi ra đi vào Quảng B́nh và Vinh đến những bốn lần trong lúc một văn nghệ sĩ chỉ cần đi một lần là đủ “tiêu chuẩn.” Một lần tôi đi cùng với đoàn Văn Công Trung lương đi vô Quảng B́nh mảnh đất đang là mục tiêu đánh phá của Không quân Mỹ.
Phương tiện vận tải là một chiếc xe Skoda của Hungari loại dùng làm xe bus ở Hà Nội. Ban ngày sợ máy bay đánh nên phải chui trốn và ngủ lấy sức đợi tối mới đi.
Nhưng đi đêm xe phải mở đèn pha đèn cốt, nếu không th́ làm sao chạy được. Để tránh làm mục tiêu cho máy bay, anh tài xế (quân sự của Bộ Quốc pḥng đưa sang. V́ ở trên sợ lái xe dân sự không có kinh nghiệm) dùng một cần câu trúc dài gắn ở đầu xe và chuyền một bóng điện nhỏ ở đầu cần câu thay v́ mở đèn xe.
Và anh ta lái xe trên đường với cái ánh sáng to hơn con đom đóm đó. Bọn chúng tôi hỏi: Như vậy có ích lợi ǵ ? Anh ta bảo đó là sáng kiến của Cục Vận tải phổ biến khắp các đoàn xe để thi hành, không làm khác được ! Không hiểu Cục Vận tải quan niệm tầm sát thương của bom đạn như thế nào mà xài cái sáng kiến đó trong lúc máy bay của Mỹ không phải dùng mắt thường để t́m mục tiêu và nếu một quả bom ném đúng ngay vào cái đầu cần câu th́ chiếc xe vẫn chạy an toàn?
Cũng may chứng tôi không bị máy bay tấn công lần nào nhưng từ Hà Nội vào Quảng B́nh, b́nh thường chỉ đi một ngày, chúng tôi phải mất năm đêm. Cái sáng kiến thật rất khoa học có một không hai.
Bây giờ lại gặp cái sáng kiến đem Văn Công vô phục vụ cho chiến sĩ Trường Sơn. Nghệ sĩ biểu diễn không sân khấu không có micro. Người xem ngồi chung quanh như lửa trại hồi thời kháng chiến. Tôi mệt bă người ra, nhưng v́ công việc này có dính tới nghề nghiệp ḿnh nên cũng ráng lê chân tới ngồi tựa gốc cây xem, c̣n Thu và Hoàng nhất định không đi xem coi “cái tụi nhảy cóc nhảy nhái” đó, v́ Thu là diễn viên ưu tú của đoàn Ca múa Trung ương, Hoàng là thầy của thầy các diễn viên này.
Tôi cố ư t́m xem ông kẹ có mặt ở buổi biểu diễn này không. Cuối cùng tôi thấy ông ta nằm vơng và có người đem nước lại cho ông trong khi Văn Công biểu diễn ở ngay trước mặt ông như dành riêng cho ông vậy.
Không biết trước khi chúng tới đến, đoàn đă diễn những tiết mục ǵ, nhưng bây giờ th́ đang sửa soạn đồng ca bài Chiến thắng Điện Biên Phủ của Đỗ Nhuận.
Chắc lâu lắm chiến sĩ mới thấy con gái đẹp tô son điểm phấn trước mặt ḿnh nên họ nh́n trân trối. Nói nào ngay “chất tươi” trên đường này cũng có chứ không phải là không, nhưng nó không tươi tắn mà có vẻ nhếch nhác nên không thích mắt, hơn nữa những nữ cán bộ không biết làm bộ làm tịch như Văn Công. Ḱa xem, họ nghiêng qua, ngả lại như một đám cây rừng trong gió , bật ra tiếng hát.
Những người lính ngồi nghe mê mẩn. Sau những ngày, những tháng tiêu pha sức khỏe với các em “đá tai mèo” họ được những giây phút giải lao.
Ghi chú :
(1)Thơ Xuân Diệu, diễn tả nỗi mừng của nghệ sĩ được cách mạng cứu.
(2) Kịch nói Liên Xô
(3) Bài ca Thanh Niên Với Mùa Xuân của Dzoăn Hối
Còn tiếp ...
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Hết bài Chiến Thắng Điện Biên, tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Tiếp theo, họ được xem “Kéo pháo” lên Điện Biên với bản nhạc nổi tiếng của Hoàng Vân, một anh nhạc sĩ rau muống được đặc ân đi học Trung Quốc nhưng khi về nước, được vinh quang đi giải phóng Miền Nam th́ lại thụt lùi.
Bài Ḥ Kéo Pháo cũng được hoan nghênh bằng những tràng pháo tay ṛn ră. Sau những phút sống lại chiến thắng hào hùng xưa, chiến sĩ ta được xem một hoạt cảnh bằng thơ có ba diễn viên. Hoạt cảnh này được viết bằng thơ tám chữ, lục bát có điểm xuyết vài đoạn bài cḥi khu Năm.
Tôi xem hoạt cảnh đó đến nay đă hai mươi lăm năm rồi nên không c̣n nhớ lời thơ, chỉ ghi ra đây đại ư.
Màn Một: Một anh chiến sĩ nghĩa vụ quân sự được người vợ chưa cưới tiễn chân đi giải phóng Miền Nam vào một buổi sáng tươi đẹp của đồng quê miền Bắc. Hai anh chị quyến luyến nhau rất lâu và rất t́nh tứ pha lẫn buồn đau, nhưng hai người đều giác ngộ cách mạng cao , nên đều dứt khoát nghe theo tiếng gọi của Miền Nam đau khổ.
Chị hứa ở lại Miền Bắc tăng gia sản xuất và làm theo khẩu hiệu của đảng: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.” C̣n anh th́ hứa hẹn sẽ làm tṛn nhiệm vụ nơi chiến trường để trở về cưới em với ṿng hoa chiến thắng.
Màn Hai: Người thanh niên đi đến Cầu Hàm Rồng th́ thối chí. Ra đi từ Hà Nội, thay v́ được chở chuyên bằng xe, đơn vị lại phải hành quân bộ. Đến quá Nho Quan mới được đi tàu hỏa. Với sức lực hao ṃn; với những gian nan đă vượt qua, chàng h́nh dung trước mặt cảnh tượng máu lửa hăi hùng của Miền Nam. Khi tàu hỏa đỗ lại ở ga Hàm Rồng th́ chàng nhảy tàu chạy trốn nhưng bi đồng đội đuổi theo bắt lại được. Chàng phản tỉnh và t́nh nguyện đi giải phóng Miền Nam. Qua khỏi giới tuyến một đổi th́ chàng dùng súng bắn vào chân để có lư do ở lại trong lúc đơn vị đi tới.
Màn Ba: Người thanh niên len lỏi trốn ngược ra Bắc và về tận gia đ́nh, thú thật mọi nỗi gian truân với người vợ.. Lần này lại có thêm bà mẹ vợ. Cả hai dùng hết lời và lập trường cách mạng để giác ngộ anh chàng. Thêm vào đó anh chàng lại nhớ đến cha đã hy sinh anh dũng trong kháng chiến. Để xứng đáng là cháu ngoan bác Hồ và con của một người cách mạng, chàng thanh niên quay trở về một đơn vị bộ đội nhận sai lầm và lại tiếp tục vào Nam chiến đấu.
Khi hoạt cảnh bắt đầu diễn th́ bộ đội c̣n ngồi xem như trước, nhưng khi diễn tới màn “ga Hàm Rồng” lác đác có người kêu mệt và bỏ về.
Khi diễn sang màn ba th́ chỉ c̣n có ông kẹ và đoàn tùy tùng của ông. Tôi cố nán lại để gặp mấy thằng bạn trong đoàn Văn Công. Tôi né mặt để khỏi bị ông kẹ nom thấy.
Buổi biểu diễn trở nên lễnh loăng, có vẻ như muốn dứt ngang với lư do là trời đă tối , nhưng nhiều người c̣n thích xem nên lấy đèn pin ra thay cho ánh sáng mặt trời. Tất cả được hơn mười chiếc mà phần lớn là của đoàn tùy tùng ông kẹ. Họ bấm công tắc rồi để ghếch đầu đèn lên ba lô hoặc đít soong chảo chiếu thẳng vào “sân khấu.” Họ chơi ngông vậy có lẽ v́ họ có đủ sức chơi. Riêng bộ đội thường th́ đến Ban Chỉ huy cũng không có đèn pin đừng nói chi tới lính lăi.
Với ánh sáng của mấy chiếc đèn pin vẫn tiếp tục màn ba của hoạt cảnh. Có lẽ người ta đói nên phải ăn , mặc dù là món ăn là thứ ǵ đi nữa , cho nên người ta ngồi “ăn” cái món hoạt cảnh này, càng cạn tới đáy soong nó càng nhạt ra – Có lẽ khi vét soong húp muỗng cuối cùng thực khách ân hận vi đă ăn , phải ngồi đau lưng để được đăi cho một cái mơ-nuy vô bổ như thế , c̣n đầu bếp th́ tự hứa với ḿnh đây là lần cuối cùng nấu món “canh” hoạt cảnh này.
Tôi trông nét mặt mấy thằng quen , bới hết son phấn tội nghiệp. Chắc chúng nó tự thấy trơ trẽn nên xách đàn và vác đồ lề khác lủi nhanh. Nhưng ông kẹ đă cho người gọi chúng lại. Anh trưởng đoàn đến yết kiến ông kẹ, để cho diễn viên đi rửa mặt dưới suối.
Ông kẹ – tạm gọi là ông Mặt Sắt cho dễ nhớ. (Sau này độc giả sẽ lại gặp ông ấy ở cục R với vợ của ông anh hùng X. có nhiều pha vui lắm). Ông Mặt Sắt là dân B́nh Trị Thiên khói lửa , c̣n anh trưởng đoàn Văn Công là người cùng quê với Bác. Hai bên nói chuyện với nhau bằng những dấu nặng ch́nh chịch nghe mệt quá, nhưng tôi cũng nán lại xem họ nói với nhau những ǵ. Chắc anh trưởng đoàn Văn Công biết ông kẹ là ai nên nói năng thưa dạ răng rắc.
Ông Mặt Sắt hỏi:
– Đoàn Văn Công của anh , đi vô đây được bao lâu rồi ?
Anh trưởng đoàn đáp:
– Dạ mới có vài tuần !
– Anh chị em khỏe cả chứ?
– Dạ không được khỏe lắm ạ!
– Mới vô mà đă không được khỏe rồi cơ à?
– Dạ sốt rét nhiều quá! Có đến gần một nửa bị sốt !
– Thế cơ à? Sao không uống thuốc. Để tôi bảo bác sĩ cho anh chị em một ít kí-ninh.
– Dạ vâng !
– Sao các anh đi vào đây mà không có chuẩn bị ǵ hết vậy ?
– Dạ, đoàn đang phục vụ ở giới tuyến mười bảy rồi được lệnh ở trên nên phải đi luôn, thành ra không có thuốc men ǵ hết.
– Rồi lương thực làm sao?
– Dạ có muối thôi ạ, c̣n gạo th́ khi có khi không.
– Thế cơ à? Bộ mấy cái anh quân khu này coi chuyện vô đây như đi Hà Nội hay sao? Này ... !
Ông Mặt Sắt quay lại một anh đang đứng ở sau lưng , có lẽ là trưởng đội tùy tùng hay bí thư riêng :
- Anh gọi cho anh Nam Long lâp tức tiếp tế đầy đủ cho đoàn Văn Công phục vụ đường dây nghe chưa?
– Dạ ! Người kia đáp to.
– Gọi ngay bây giờ. Tôi muốn ngày mai đoàn Văn Công phải được trang bị đầy đủ.
– Dạ!
Người kia quay ra , đi làm nhiệm vụ. Ông Mặt Sắt hỏi tiếp anh trưởng đoàn Văn Công:
– Anh lấy đề tài cho cái hoạt cảnh ở đâu thế?
– Dạ ở cơ sở ạ!
– Cơ sở nào, hợp tác xă hay bộ đội ?
– Dạ bộ đội ạ !
– Bộ đội nào ở đâu ?
– Dạ bộ đội ngay trên đường này, ở cách đây vài ba trạm.
– Có thực vậy hay sao?
– Dạ, những chuyện như thế này c̣n nhiều ạ. Chúng tôi chỉ chọn chuyện đơn giản nhất để sáng tác. Chính đơn vị đă kể cho chúng tôi nghe để sáng tác.
Ông Mặt Sắt thở dài:
– Quái nhỉ, sao Trung ương không biết ǵ hết cả?
– Dạ chúng tôi cũng không biết, chỉ thấy chuyện đó là chuyện thật như bao nhiêu chuyện thật khác Tổng cục Chính trị phát động viết đề tài “Người Thật Việc Thật” và có giải thưởng cho tác giả trúng giải ạ. Những chuyện như thế này, sau khi ghi chép xong chúng tôi có đề nghị thủ trưởng đơn vị chứng nhận rồi mới dám sáng tác ạ.
– Để làm ǵ?
– Dạ để khi nào ở trên có hỏi chuyện xảy ra ở đơn vị nào th́ chúng tôi có chứng cớ trả lời ạ. Nếu không , ở trên sẽ nói chúng tôi phịa và chúng tôi bị khiển trách.
– Anh có ghi đơn vị anh lấy được đề tài đó không?
– Dạ có!
– Đâu đưa cho tôi xem.
Anh trưởng đoàn Văn Công móc túi áo lấy một quyển sổ tay mở ra đưa cho ông Mặt Sắt. Ông Mặt Sắt cầm lấy. Một anh chiến sĩ đứng gần đó rọi đèn pin vào.
Anh đoàn trưởng trỏ vào trang giấy có ghi , nào chữ nào số đặc nghẹt. Ông Mặt Sắt xếp lại ngay , kêu lên và trả quyển sổ lại cho người chủ:
– Quái lạ, sao lại có những hiện tượng như thế này nhỉ !
Anh chiến sĩ bấm tắt đèn. Tất cả ch́m trong bóng tối. Ông Mặt Sắt làu bàu:
– Thế mà các anh văn sĩ và phóng viên viết toàn chuyện anh dũng. Những chuyện như thế này th́ lại bịt mất tiêu.
Rôi ông hỏi anh đoàn trưởng:
– Hồi năy anh có nói đây chỉ là chuyện đơn giản, vậy c̣n những chuyện không đơn giản là những chuyện ǵ?
– Dạ nhiều lắm ạ, tôi không ghi nên không nhớ.
Ông Mặt Sắt ngoảnh lại anh chiến sĩ đang cầm đèn pin ở tay:
– Anh đi t́m cho tôi một ban chỉ huy đơn vị đang đi vào Nam và một anh giao liên.
– Vâng.
Ông Mặt Sắt trở lại với anh đoàn trưởng Văn Công:
– Các anh sáng tác hoạt cảnh ấy à?
– Vâng, chúng tôi hưởng ứng phong trào “tự biên tự diễn” của Tổng Cục vừa đề ra.
– Vừa leo núi vừa viết được như thế à?
– Vâng, chúng tôi họp lại bàn luận đề tài để thống nhất ư kiến , rồi phân ra thành nhiều nhóm, mỗi nhóm viết một màn, xong rồi ráp lại ạ. Đó là lối sáng tác tập thể. Viết xong diễn vài lần rồi bỏ ạ. Chúng tôi toàn áp dụng phương pháp đó.
– Cái màn ba, cha mẹ vợ và vợ xây dựng anh lính trở lại đơn vị, các anh lấy ở đâu?
– Dạ, màn này th́ chúng tôi tưởng tượng ra rồi phóng tay sáng tác ạ! Thật ra như thế cũng rất hợp lư cách mạng và đúng chánh sách ạ.
– Ở ngoài kia các anh có áp dụng phương pháp sáng tác tập thể đó không?
– Dạ có chứ ạ! Phương pháp này giúp cho chúng tôi tránh được chủ nghĩa sùng bái cá nhân ạ. (Ông Mặt sắt “hả” to lên) Nghĩa là không có đề tên tác giả cũng như các nghị quyết của Trung ương đề là Bộ Chính Trị chứ không đề tên ai cả.
– Ai bảo anh thế?
Ông Mặt Sắt cười gượng :
– Chính trị khác văn nghệ khác chứ!
– Dạ chúng tôi học tập chỉ thị của Tổng Cục đấy ạ!
– Sao tôi không biết ǵ hết cả vậy?
– Dạ th́ tôi cũng không biết ǵ hết. Nhưng ở trên bảo rằng sáng tác tập thể th́ vừa biểu đạt phong phú hơn sáng tác cá nhân vừa tránh được cá nhân chủ nghĩa ạ!
Ông Mặt Sắt kêu lên:
- Quái nhỉ!
- Dạ, nếu có anh chị em nào sáng tác được một vở kịch hay một bài hát th́ cũng đều mang ra tập thể xây dựng chung , rồi sau đó đưa ra diễn th́ giới thiệu tên của tác giả trước rồi kèm theo , phải nói là “với sự đóng góp của tập thể đoàn Văn Công” ạ.
Đến đây th́ anh thư kư riêng trở lại báo cáo:
– Thưa anh Sáu, đồng chí Nam Long nhận khuyết điểm đă điều động văn công vào mà không trang bị cho họ đầy đủ v́ đồng chí ấy bận bố pḥng các trận địa pháo ngày đêm di chuyển luôn. Ngày hôm nay hai tàu gạo của ta bị máy bay Mỹ đánh ch́m tại Vinh, hiện đồng chí đang huy động dân và bộ đội ṃ moi gạo lên và cho không dân chúng ai móc được bao nhiêu lấy bấy nhiêu.
– Có chuyện đó nữa à?
– Dạ thưa có ạ! Chính đồng chí Tư lệnh Nam Long trực tiếp nói với tôi như thế. Đồng chí c̣n bảo , ước ǵ đem được số gạo đó vô đây cho anh em binh sĩ th́ hay biết mấy.
– C̣n việc tiếp tế cho Văn Công ? Ông Mặt Sắt gạt ngang, gắt.
– Dạ, đồng chí Nam Long nói là gạo muối thuốc men th́ có đủ nhưng nếu đem vô tới đây ít ra cũng một tháng, nhanh lắm cũng ba tuần lễ, v́ ta không có phương tiện ǵ hết. Xe hơi chỉ đến làng Ho là phải ngừng lại. Ngoại trừ có trực thăng th́ mới đem được gạo muối cho Văn Công nhanh chóng .
– Thôi được ! Cảm ơn đồng chí Văn Công nhé! Sáng mai đồng chí đến gặp tôi.
– Vâng!
– Các anh lấy thịt kho và thuốc men dành cho tôi đưa cả cho đồng chí trưởng đoàn .
Ông Mặt Sắt bảo đoàn tuỳ tùng và làu bàu :
– Con người đâu phải con vật mà muốn ném đâu th́ ném. Hậu cần như thế này có nghĩa là tự ḿnh chuốc lấy nhục và bại thôi. Này, nói với anh chị em nghệ sĩ rằng tôi tặng huân chương Giải Phóng cho đoàn về việc biểu diễn bữa hôm nay.
– Vâng! Xin cảm ơn anh Sáu .
Anh trưởng đoàn bắt ṃ được cách xưng hô do anh thư kư lộ bí mật vừa rồi.
Người chiến sĩ cầm đèn pin , đưa anh giao liên và hai người trong ban chỉ huy một đơn vị luồn vào Nam đến tŕnh diện anh Sáu.
Anh Sáu hỏi:
– Hai đồng chí là chỉ huy?
– Vâng, chúng tôi là D trưởng và D phó ạ!
– C̣n chánh trị viên đâu?
– Dạ đă hi sinh rồi ạ!
– Tại sao?
– Dạ, cây ngă đè chết ạ!
– Lạ nhỉ!
– Dạ trong một cơn băo ạ. Thưa cũng không lạ ǵ ạ. Chúng tôi đă có kinh nghiệm khi có mưa to gió lớn th́ bảo chiến sĩ chớ có mắc vơng gần cây cao. Cây cao dễ tróc gốc.
– Đơn vị các anh c̣n đủ quân số không?
– Dạ…
– Các anh hăy nói thật để tôi biết, không nên giấu giếm. Giấu giếm có tội!
– Dạ, tôi là tiểu đoàn trưởng, tôi phải nói trước! … Thưa đồng chí chủ nhiệm Tổng Cục…
– Ấy đừng gọi tôi thế. Tôi chỉ là chiến sĩ Trường Sơn thôi.
– Dạ thưa đồng chí…
– Cũng không dạ thưa…
– Tôi phải báo cáo với đồng chí sự thực là đơn vị tôi c̣n già nửa quân số!
– Tại sao?
– Dạ, tại v́… lính trốn nhiều quá!
– Tôi, tiểu đoàn phó, xin bổ sung! Một giọng khàn khàn tiếp theo :
– Thưa đồng chí, chúng tôi được đảng giao phó cho chỉ huy một tiểu đoàn bộ binh , nhưng vào đến đây th́ phải dừng lại chờ gạo. Không có gạo, núi non như thế này lại mang súng đạn, không trèo nổi. Trong lúc chờ gạo lính trốn khá đông.
– Bao nhiêu?
– Mười bảy chiến sĩ.
– Họ đi đâu?
– Họ trở về Hà Nội.
– Tại sao?
– Họ bảo đi nam không có tương lai … Dạ ngoài ra họ c̣n tự bắn vào đùi hoặc vào chân để có lư do nằm lại. Như đồng chí thấy trong hoạt cảnh…
– Đó là sự thực à?
– Vâng!
(Tôi thầm bảo: c̣n nhiều sự thực bi đát hơn, định xía vô câu chuyện nhưng chưa kịp nói th́ viên tiểu đoàn phó nói tiếp.)
– Họ c̣n tự sát nữa cơ!
– Có chuyện đó nữa cơ à?
– Dạ tôi đâu dám bịa tạc những chuyện tày trời như thế.
Ông Mặt Sắt thở dài rất to. Im lặng hồi lâu.
– Rồi các đồng chí giải quyết như thế nào?
– Dạ nếu có gạo th́ mới giải quyết được, ngoài ra không có cách ǵ khác.
Anh giao liên lên tiếng sau khi nghe mọi chuyện của tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó.
– Họ đă từng đánh tôi, thưa đồng chí thủ trưởng!
– V́ sao?
– Tại v́ tôi dắt họ đi lănh gạo, đến kho th́ quản kho không c̣n ở đó.
– Tại sao?
– Dạ không rơ. Có khi th́ không c̣n gạo. Chắc có lẽ đồng chí sợ bộ đội đánh.
– Tại sao?
– Dạ, giận cá chém thớt vậy thôi. Cũng có khi họ cho là quản kho giấu gạo để ăn riêng không phát. Họ giận lây họ đánh cả giao liên.
Lại tiếng thở dài.
– Này gọi Tư lệnh Nam Long cho tôi nói chuyện.
– Vâng!
Người thư kư đáp rồi gọi người chiến sĩ mang máy bộ-đàm tới (đây là loại tê-lê-phôn của nhà binh mang trên lưng, tôi không hiểu v́ sao có cái tiếng bộ-đàm này. Cũng như cái b́nh thủy được gọi là cái “phích” nước.)
Người chiến sĩ cầm ống gọi. Một chập, trao cho ông Mặt Sắt và nói:
– Dạ đây là Tư lệnh Nam Long, xin anh Sáu cho chỉ thị.
– Alô! Đồng chí Nam Long đấy hả… Tôi đang trên đường vào … Gạo nước thế nào? Không có đủ cũng phải kiếm cho đủ. Để các đơn vị khác thiếu cũng được. Riêng trên đường này không được thiếu. Chiến sĩ ở đây không có gạo. Giải phóng Miền Nam sẽ không thành công , nếu không có gạo cho bộ đội ăn. À, thuốc men nữa… Không có th́ chạy đi t́m.
Hai tàu gạo …đồng chí cho bảo vệ thế nào lại bị đánh ch́m thế hở…? Hừ, th́ phản lực nhanh nhưng nếu ta có pháo pḥng không , giữ kỹ th́ nó đâu có đến được … Núi Quyết nữa cơ à? Có thiệt hại ǵ không? tốt lắm. Tôi nhắc lại: Gạo và thuốc men cho đường này ưu tiên một , nghe không?…
Tôi phải vào…chưa biết chừng nào mới đến… Tưởng là đi xe suốt, nhưng vào đến đây, đường bị phá không đi xe được . Cố gắng nhé. Tôi c̣n nằm ở đây… Chưa biết bao lâu!..
Ông Mặt Sắt đưa ống nói cho anh chiến sĩ và nói với các người khác:
– Cảm ơn! Các đồng chí về nghỉ, mai đến gặp tôi.
Còn tiếp ...
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Tôi ṃ về đến vơng th́ có tiếng của Hoàng:
– No chưa?
– Vấn đề gạo sẽ được giải quyết nay mai anh ạ! Tôi nghe trộm nên biết thế.
– Ai nói thế?
– Ông kẹ gọi và chỉ thị trực tiếp cho Đại tá Tư lệnh Quân Khu IV, tôi nghe bằng chính lỗ tai tôi.
– Có chắc không?
– Th́ nó đă được Bộ trông thấy tận mắt. Lính đói rơ rồi chứ phải chỉ nghe đâu!
– Gạo tiếp tế cho Bà Thủy hết rồi!
– Hả ! Tôi giật ḿnh .
– Sao anh nói vậy?
– Th́ hai tàu gạo đó là gạo tiếp tế cho đường này chứ ai. Bị đánh ch́m ở Bến Thủy .
Hoàng tiếp :
– Lúc ổng nói với ông Tư Lệnh tao có ở đó. Tao đến xem văn công lúc gần xong màn ba.
Tôi nói:
– Anh không nghe ổng nạo ông Nam Long hay sao?
– Vấn đề không phải là “nạo” mà là “gạo”. Nạo thế mấy mà ông Nam Long không có gạo ... cũng không tài nào tiếp tế được !
Sáng hôm sau , tôi c̣n đang ngủ th́ một bàn tay đập đập vơng tôi. Tôi tốc mùng ra nh́n th́ ra thằng nhạc sĩ của đoàn, bạn của tôi từ thời chống Pháp ở Miền Tây Nam Bộ:
– Ông kẹ gọi mày!
– Kẹ nào? Tôi bật dậy hỏi.
– C̣n ông kẹ nào nữa?
– Sao mày biết tao ở đây?
– Lúc tao diễn cái họat cảnh tao nom thấy mày ngồi gần gốc cây.
– Ủa mày đổi nghề rồi sao?
– Mấy đứa trong tổ kịch sốt rét, tao phải thế vai, không có chó bắt mèo ăn cứt.
– Ổng gọi tao làm ǵ?
– Không rơ thằng nào mách mà ổng biết có tụi bây ở đây. Ổng tính mở một buổi họp để nghe tố khổ. Nè.
– Ǵ?
– Muốn thăm con bé của mày không?
– Thôi! C̣n ǵ để nói mà gặp.
– Phải rồi, gặp cũng chẳng làm ǵ. Nó đang bị “lập trường đè”. Một cổ hai tṛng mày ạ! Nó đang sốt rét rên hù hù đằng kia.
– Khổ quá, họp th́ họp, gọi tụi này làm ǵ.
Thằng nhạc sĩ bạn tôi đi, tôi quay ra gọi Hoàng. Hoàng đáp:
– Mày có đi th́ đi, tao cử mày đại diện cho tao và con Thu đó.
– Làm biếng hoài cha nội.
– “Phương tiện giao thông” của mày c̣n khá th́ ráng chút đi, coi ổng có cho cái ǵ không?
– Nói th́ nhất định có nói rồi , nhưng cho th́ chắc là không.
– Sẵn dịp mày tố khổ luôn. Mấy khi được nói thẳng vào lỗ tai kẹ.
Tôi đến th́ thấy một lô người ngồi trước vơng của ông Mặt Sắt. Ông đang ngồi trên vơng hai tay giăng ra nắm hai đầu vơng như con chim gi soải cánh. Ông đang cà gục cà gặc cái mặt sắt về phía đám người.
Thú thực là nếu ở Hà Nội th́ tôi không đến cái buổi họp v́ hai lần tôi gặp ông Mặt Sắt. Một lần ở Viện Văn Học mà tôi đă kể ở trên kia. Lần thứ hai tôi đọc bài “Cây đa bến cũ, con đ̣ khác đưa” trên báo Nhân Dân. Cái lối của ổng là bất chấp đối tượng và bất chấp lư lẽ. Cái lối của ổng là bắt người khác nghe theo lư lẽ của ḿnh , mặc dù lư lẽ đó chưa hẳn đă là chân lư.
Ông đang nói:
– … Cách mạng Miền Nam đang gặp khó khăn. Quân Mỹ đang đổ bộ thêm vào Sàig̣n. Chúng tăng cường cho bọn Sàig̣n hai ngàn trực thăng và rất nhiều dụng cụ truyền tin. Miền Bắc chúng ta phải hi sinh nhiều hơn nữa. Trận Pleime là trận thử sức giữa ta và nó…
Ông ngưng lại, không nói cái kết quả của cuộc thử sức đó ra sao nhưng ai cũng biết nó ra sao rồi. Ông nói sang những vấn đề trên đường dây:
– Đảng và Chính Phủ không phải là không thấy những khó khăn về gạo thóc thuốc men ở đây. Trong lúc Miền Bắc mất mùa , nhân dân phải thắt lưng buộc bụng thêm nữa. Đảng và Chính Phủ đă cho chở vào Vinh hai tàu gạo để đưa vào đây, nhưng rủi ro đều bị đánh ch́m ở Bến Thủy.
Đồng chí Tư Lệnh Quân Khu IV cho tôi biết hiện giờ đồng chí đang động viên dân và bộ đội lặ̣n moi lên. Nước mặn gạo ngâm một đêm là hỏng hết cả. Ở dưới hầm tàu, dễ ǵ moi lên.
Tôi nói rơ cho các đồng chí nghe một sự kiện quan trọng như vậy để các đồng chí thấy Đảng và Chính Phủ rất quan tâm tới con đường này chứ không phải để các đồng chí ăn đói ăn khát rồi thối chí nản ḷng. Làm cách mạng, không ai được thối chí nản ḷng. Những lúc đảng gặp khó khăn th́ chính là những lúc đảng cần bàn tay và khối óc của đảng viên và quần chúng , yêu đảng chia sẻ gánh nặng với đảng chứ không phải là lúc chửi đổng và phá đám như bọn Nhân Văn Giai Phẩm.
(Cái câu cùng này đúng y nguyên văn tới nghe ở Viện Văn học mấy năm trước )
Ông tiếp:
– Bây giờ gạo thiếu thốn, các đồng chí chỉ huy không điều khiển đơn vị được. Như tôi xem thấy trong họat cảnh tối qua, chiến sĩ đào ngũ, tự sát thương, vô kỷ luật .. chúng ta nh́n nhận hiện tượng đó , nhưng là người Cộng sản chúng ta phải đặt vấn đề khắc phục nó như thế nào, chứ không nên đứng nh́n nó hoặc xuôi tay cho nó tràn ngập chúng ta. Tôi thay mặt Trung ương đảng, Tổng quân ủy, xin gởi lời chào thân ái và quyết thắng của Hồ chủ tịch đến các đồng chí. Các đồng chí c̣n có ư kiến ǵ không?
Mọi người im phăng phắc.
Ư kiến ǵ bây giờ? Té ra làm cách mạng với đảng th́ không cần gạo. Dù có phải trèo non vượt biển, cứ hễ thiếu gạo th́ t́m cách khắc phục lấy, không được thối chí nản ḷng.
Các vi quân dân chánh đảng lẳng lặng ra về, tôi cũng gầm mặt mà rút lui cho được việc. Về vừa đến vơng Hoàng đă hỏi:
– Chừng nào gạo tới ?
– Tới rồi ! Tới dưới ḷng sông Bến Thủy !
Đáng lẽ giao liên đă đưa đoàn đi vào trạm trong, nhưng ông Mặt Sắt cho nghỉ lại tất cả để ông nói chuyện và chấn chỉnh tổ chức.
Chúng tôi không buồn v́ cách mạng Miền Nam chậm tiến một ngày mà lại mừng v́ được nghỉ ngơi hợp lư và không bị giao liên gắn cho là nằm ỳ ăn vạ.
Vấn đề nấu cao khỉ được tôi đặt ra. Nhưng Hoàng gạt ngang:
– Cách mạng chưa cần cao khỉ !
Cả hai cùng cười. Riêng Thu th́ rưng rưng nước mắt. Tôi gắt đùa:
– Cách mạng Miền Nam không cần nước mắt ! Rơ chưa?
Nhưng Thu vẫn cứ rên rẫm trong nước mắt:
– Giá lúc này mà thằng Hồng trở lại th́ em đi theo nó.
– Sao hôm đó không đi ?
– Nó gạt em. Nó nói nó đi rồi nó trở lại. Mà nó không trở lại .
Thu tiếp :
- C̣n cái ông Kiếm ông Kiết ǵ ... có một ba lô K54 đó, ổng hứa cho em tháp tùng nhưng rồi cũng lẩn mất. Ai cũng sợ gánh nặng đeo lên lưng.
– Chỉ ḿnh anh là không sợ thôi !
– Anh nữa, anh cũng sợ chịu trách nhiệm về em chớ ǵ!
– Sao em nói vậy?
– Anh luôn luôn khuyến khích em làm B quay.
Tôi lặng thinh. Quả nàng nói có đúng. Tôi yêu nàng là v́ tôi, không phải v́ nàng. Nàng biết tôi vừa tạm biệt người yêu ở ngả rẽ xuống Bác Kế cách đây hơn mười ngày. Người yêu tôi, Phương là bạn nàng.
Tôi cũng biết nàng đi Nam để gặp người yêu trong đó. Thế nhưng trong hoàn cảnh bi thương hai đứa cần nương tựa nhau về vật chất lẫn tinh thần hằng ngày. Và hai đứa đă vượt biên giới của t́nh bạn và càng lúc càng đi sâu hơn. Nàng khổ lắm. Tôi biết vậy, nhưng tôi cho là nỗi khổ đó chính là hạnh phúc.
C̣n tôi, tôi là thằng đàn ông như mọi thằng đàn ông khác, chẳng bao giờ cưỡng lại những cử chỉ thân ái của đàn bà. Tôi chẳng những tạo hoàn cảnh để làm nảy ra những cử chỉ ấy mà lại c̣n tấn công bằng một chiến thuật có vẻ như vô t́nh mà thực ra là cố ư.
Và bây giờ Hoàng cũng biết tôi và Thu yêu nhau.
Chúng tôi tỏ vẻ thân ái với nhau hơn những người đồng hành một cách không ngần ngại. Chúng tôi tự cho ḿnh chẳng có tội ǵ. Trước những giờ phút mà thân thể và tinh thần bị dày ṿ cực độ, người ta cần có sự an ủi. Chúng tôi an ủi và giúp đỡ nhau để đưa nhau đi trên con đường cách mạng gian khổ và đi tới đích của nó.
Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang, Lê Hồng Phong và Ḿnh Khai … đă yêu nhau trong công tác…
Nhưng bây giờ Thu trách tôi. Thu trách tôi cũng như trách bao nhiêu người khác: Sợ chịu trách nhiệm về Thu cho nên muốn Thu làm B quay.
Nói cho cùng, Thu đă trách đúng. Tôi đă không dám chịu trách nhiệm về Thu. Tôi chỉ muốn Thu có mặt với tôi để tôi được vui vẻ nếu Thu mạnh khỏe không gây trở ngại cho tôi, không trở thành gánh nặng của tôi. Nếu Thu bệnh họan th́ tôi tránh né hoặc chối từ trách nhiệm một cách khéo léo.
Tuy bị nói trúng tim đen nhưng tôi vẫn cố chống chế:
– Th́ em lúc nào cũng nằng nặc đ̣i về Hà Nội, vậy anh c̣n làm ǵ được !
– Sao anh không lấy quyền ǵ của anh mà cấm em. không cho em làm thế. .
– Quyền ǵ, anh có quyền ǵ đối với em ?
– Em đă cho anh cái quyền tối cao rồi, anh không biết ư?
– Em chỉ cho anh t́nh yêu chứ cho quyền ǵ ?
– T́nh yêu là quyền lực mạnh mẽ nhất, mạnh hơn bất cứ quyền lực nào cả.
Tôi lặng thinh. Nàng tiếp:
– Giá bây giờ em từ giă anh , để trở về Hà Nội th́ chắc anh cũng chỉ hơi buồn tí thôi , rồi khi quay lưng anh chẳng đau khổ tí nào. Phải không ạ?
– Anh không thể biết được v́ chuyện đó chưa xảy ra!
– Thế th́ bây giờ anh muốn em như thế nào ?
– Anh muốn thế nào được mà muốn.
– Thấy không? Đáng lẽ ra anh quát em: “Em không được quay lại, em phải đi với anh. Không có em anh sẽ chết đọc đường. Anh muốn nếu chẳng may anh chết dọc đường, anh có được bàn tay em vuốt mắt ! ” Nếu anh nói thế th́ dù ǵ đi nữa em cũng không quay lại. Nhưng anh lại không nói ǵ hết, anh lại c̣n tán thành việc em quay lại. Thế nghĩa là anh yêu em đó phải không?
– Thu ạ !
Tôi đành dịu giọng :
- Chúng ta có hai quê hương khác nhau, cùng nằm trên một nước nhưng là hai mảnh đất xa nhau ngh́n dậm. Em không muốn rời quê hương và mồ mả ông bà th́ anh trên đường về quê hương thăm lại mồ mả ông bà, lẽ nào anh bắt em phải nghe anh. Đối với anh t́nh quê hương nặng hơn bất cứ t́nh nào khác kể cả t́nh yêu.
Nếu khác đi th́ anh đă đi với Phương về Bác Kế rồi , chứ không đi một ḿnh về Nam Bộ. Em biết anh và Phương yêu nhau như thế nào. Chỉ một bước nữa là thành vợ chồng. Nếu ở Hà Nội th́ Tết này có thể cưới nhau rồi. Bố mẹ Phương rất thương anh và anh cũng rất yêu bố mẹ Phương.
Anh không về được lần này th́ không c̣n lần nào khác nữa! Nếu em muốn đi vào th́ anh sẵn sàng đi với em đến nơi nào em muốn, nhưng ngược lại em muốn trở ra th́ anh cũng không muốn cản ngăn em. T́nh yêu là điều cao cả nhưng không phải là tất cả ! Em thấy đó, nếu đối với anh t́nh yêu là tất cả th́ anh đă ở lại Hà Nội, cưới vợ sống muôn năm trong ḥa b́nh rồi, lựa là phải lê xác vô đây ! Và không phải đợi đến yêu Phương, nếu muốn thế, anh đă lấy vợ từ lâu rồi.
Tuy tôi giải bày cặn kẽ và rất có lư như thế, nhưng Thu vẫn không vui ḷng. Đàn bà không mấy khi nghe lư luận, họ nghe t́nh cảm nhiều hơn. Nếu không thế chẳng có nhiều bi kịch cho đàn bà hơn đàn ông, trong đó đàn bà là nạn nhân của t́nh cảm.
Còn tiếp ....
-
[CENTER][B]HAPPY FOURTH OF JULY[/B]
[IMG]http://i63.tinypic.com/ix5vub.jpg[/IMG][/CENTER]