-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b][color=green]Chị Tigôn , vui mừng thấy chị trở lại diễn đàn . Những mất mát sẽ lần hồi bù đắp , những vun trồng sẽ lần lượt ra đi .... Chúc chị cùng gia đình một ngày Independent Day vui vẻ .[/b][/color]
...................................
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Tôi nói:
– Cái ông vừa gọi anh đến đó có thể cho em về Hà Nội được đấy.
– Anh đi xin giấy phép của ổng dùm em đi.
– Thật không?
– Thật mà ! Em chán tất cả rồi. Em muốn về ngay Hà Nội bây giờ, bây giờ!
Nàng gào lên và ôm mặt nức nở. Tôi rối lọan tâm thần không biết nàng dỗi mà nói thế hay là nói thật. . Đang lúc hoang mang th́ Hoàng nói vọng sang :
– Đúng đấy, mày đến tŕnh bày vấn đề của nó và đề nghị ổng cho nó trở lại thôi. Tao lấy con mắt chuyên môn mà nh́n th́ cái chân của nó không thể leo núi nổi đâu và dù có đến nơi cũng không công tác như cũ được.
Tôi thấy Hoàng có lư, nên chẳng suy nghĩ ǵ thêm, tôi đến chỗ ông Mặt Sắt để tŕnh bày vấn đề. Giá mà ở Hà Nội th́ c̣n lâu mới trông thấy mặt ông ta được, nhưng trên con đường này ranh giới giai cấp, theo nghĩa nào đó, đă bị xóa mất: Tất cả đều cùng một giai cấp, giai cấp “chân đất.”
Tôi đến nơi gặp lúc ông đang thuyết giảng vấn đề gạo. Tôi đứng xa xa đợi một hồi , rồi nhờ một chiến sĩ trong đoàn tùy tùng bẩm dùm.
Nghe nói cô nữ văn công có vấn đề, ông gọi tôi đến ngay. Ông vui vẻ hỏi:
– Đoàn các anh đi được bao nhiêu người ?
– Dạ trên bốn chục.
– Gồm các bộ môn nào?
– Dạ đủ hết cả.
– Bộ môn nào đi đông nhất ?
– Dạ nghệ sĩ biểu diễn.
– Sáng tác cũng cần. Anh thuộc bộ môn nào?
– Dạ, Văn.
– Thế à? Anh đă in được mấy quyển sách rồi.
– Dạ, ba quyển.
– Nhiều thế, giỏi thế.
– Dạ c̣n hai quyển to hơn nữa nhưng không in !
– Sao không in ?
– Dạ nhà Xuất bản Quân đội hứa in rồi không in!
– Tại sao kỳ vậy?
– Dạ ... chuyện hơi dài nhưng tóm tắt nó thế này. Dạ ... mà, tôi nghĩ anh Sáu đang c̣n bận nhiều việc , không nên làm mất th́ giờ của anh Sáu.
Ông Mặt Sắt xua tay một cách dễ thương:
– Không mất th́ giờ đâu. Ở đây tôi dư th́ giờ. Muốn làm ǵ cũng không làm được. Đại khái như nghe hai tàu gạo bị máy bay Mỹ đánh ch́m ở Bến Thủy nhưng tôi làm ǵ được bây giờ. Tôi cảm thấy như mọi khuyết điểm của cách mạng được bộc lộ trên con đường này. Nào, anh cứ nói cho tôi nghe vấn đề sách của anh xem! Mà này, năm trước tôi có đến nói chuyện với anh em văn nghệ sĩ ở Viện Văn Học anh có đến dự không ?
– Dạ có!
– Anh nghe thế nào?
– Dạ, anh Sáu nói thế nào tôi nghe thế ấy.
– Tôi muốn biết là câu chuyện của tôi có giúp cho các anh được ǵ trong phương hướng sáng tác hay không?
– Dạ có ạ, có rất nhiều.
– Nhiều như thế nào?
– Dạ th́ như anh Sáu nói lúc đảng gặp khó khăn th́ mọi người nên góp tay vào…
– Đúng! Đó là thái độ đúng đắn nhất. Anh có đọc bài “Cây đa bến cũ, con đ̣ khác đưa” của tôi không?
– Dạ có!
– Có thật không?
– Dạ có thật ạ, bài đó đăng hai ba kỳ báo Nhân Dân mỗi kỳ bốn trang. Anh Sáu kư tên.. Trưởng ban Công Tác Nông thôn…
– Đúng đó. Anh thấy nó thế nào?
(Sự thực th́ nội dung của bài báo là ca ngợi tổ chức Hợp Tác Xă, đả phá lối làm ăn riêng rẽ. Kết luận của nó là tất cả nông dân Miền Bắc đều sẽ phải vô hợp tác xă , để làm mẫu mực cho Miền Nam giải phóng sau này.
Quả t́nh tôi có đọc bài ấy thật. Tôi đọc nó trong một hoàn cảnh điển h́nh. Hồi đó tôi đang t́m đường trốn về Nam. Tôi đang ở trong nhà một anh nông dân. Tôi có hỏi về đời sống gia đ́nh anh. Anh nói thẳng ra là cuộc sống bây giờ khó khăn hơn thời Pháp. Anh không chịu vô hợp tác xă. Hợp tác xă đă bao vây anh bằng mọi cách, nhưng anh nhất định không vô.
Ruộng nhà anh là ruộng do chánh phủ cấp trong Cải cách ruộng đất. Ở ranh ruộng có một cái ao mà tiền kiếp là một hố bom trong thời kỳ chống Pháp. Anh đă thả rau muống, thả chà để nuôi cá nhưng éo le thay, một nửa cái ao nằm bên ruộng nhà anh, c̣n một nửa th́ lại nằm bên ruộng hợp tác xă. V́ rún ép măi mà anh không vô hợp tác xă cho nên xă viên gai con mắt, chẳng phải v́ chánh sách, mà v́ cái ao đem lợi lộc cho anh chàng cá thể kia.
Một hôm thừa lúc anh đi rừng đốn củi- ban quản trị cầm đầu một nhóm xă viên ra tát cái ao. Sắp bắt cá th́ anh gánh củi về ngang. Thấy cớ sự lạ lùng, anh bèn chất vấn những người đang làm ẩu kia. Những người này lên mặt thầy đời mạt sát anh là tên lạc hậu. Anh không nhịn thua. Anh mắng trả lại. Hai bên xô xát nhau bằng lư lẽ rồi dùng đến tay chân. Cuối cùng là vũ khí. Bởi là ăn cướp nên đám xă viên có mượn súng du kích đem theo để pḥng thân. Họ dọa bắn .
Và anh ta đă nhanh tay dùng dao rừng chém một nhát, người xă viên cầm súng dọa anh , bị đứt ĺa một chân sát đầu gối. Khi tôi chạy đến nơi th́ cả xóm đă bu đen quanh miệ̣ng ao.
Anh chủ nhà bị trói, bị giải đi. Rồi ở tù. Ở nhà ruộng đất anh bị tịch thu chia chác. Vài tháng sau tôi đi ngang vùng này, tôi có ghé thăm gia đ́nh anh. Người trong xóm rỉ tai tôi rằng ông phó chủ nhiệm hợp tác xă , tới lui nhà anh thường xuyên để “giúp đỡ” vợ con anh , lắm khi ngủ luôn tại nhà … Đúng là một bức minh họa sống cho bài “Cây đa bến cũ, con đ̣ khác đưa” của ông Trưởng ban Công Tác Nông Thôn Trung ương đảng Nguyễn Chí-Bần-Cố-Hỉ.
Tôi có được chi tiết “cái ao” đó tôi khoái lắm, định viết thành truyện ngắn, nhưng thấy truyện ngắn không chứa nổi, bèn dựng truyện dài lấy tên “Một nửa bên này”, nhưng đem nó đi tŕnh bày trong tổ đi thực tế nông thôn của Hội Nhà Văn th́ có hai ư kiến trái ngược. Ư kiến thứ nhất cho rằng đề tài vô cùng phong phú, chưa có sách nào viết về hợp tác xă mà có được chi tiết (cái ao) lư thú đến như thế, nên viết ngay ra để cho Trung ương thấy rằng hợp tác xă là một thất bại trong quan hệ sản xuất.
Ư kiến thứ hai cũng cho rằng chi tiết rất lư thú , nhưng nếu viết ra th́ vô cùng bất lợi cho chính sách hợp tác xă , v́ ư thức sản xuất cá thể mạnh quá lấn át cả đường lối của đảng.
Cho nên hợp tác xă không giác ngộ anh cá thể được mà phải cưỡng bách và cuối cùng áp bức (tát ao ẩu). Rồi lại bắt anh cá thể đi tù. Như vậy hoá ra chánh sách chỉ là một cái khuôn đẫm máu chụp trên đầu nhân dân. V́ ngoài các luật lệ của hợp tác xă, hợp tác xă c̣n có chánh quyền đứng sau lưng … Nói chung chi tiết hay, nhưng “rất khó” viết.
Cuối cùng tôi đành “ngâm cứu” luôn cho đến ngày đi B không hỏi ư kiến ai nữa cho đến ba mươi ba năm sau (1988) tôi mới viết nó ra trên xứ Hoa Kỳ – cho Mỹ xem chơi.
Câu chuyện Cây đa Bến đ̣ , nó lằng nhằng như thế đó, cho nên khi ông Mặt Sắt hỏi gắt:”Có không?” th́ tôi đáp “Có!” . Mà tôi có đọc nó thật!
Nhưng khi ông hỏi tiếp: Anh thấy nó thế nào, th́ tôi ngắc ngứ. Nếu tôi kể chuyện “Cái ao” cho ông ấy nghe th́ sẽ có một cuộc tranh luận mà trong đó chiến thuật lấy thịt đè người chắc chắc sẽ bị áp dụng và người bị đè không phải là ông. Như vậy vừa mất th́ giờ vừa mất sức khoẻ cho nên tôi đáp như máy:
– Dạ tôi vốn là người Miền Nam nên không hiểu nông thôn Miền Bắc lắm ạ!
– Theo anh trong Hội Nhà Văn ai hiểu nông thôn Miền Bắc nhất?
– Dạ theo tôi th́ có ba người: anh Kim Lân, anh Tô Hoài và anh Nguyên Hồng. Anh Kim Lân th́ hiểu nông thôn đến mức độ chúng tôi gọi đùa là chuyên gia mắm cáy, anh Tô Hoài th́ chuyên gia nông thôn nhưng đặc biệt là giới thủ công nghiệp và dân nửa chợ nửa quê, anh Nguyên Hồng th́ là bạn của dân nghèo thành thị.
– Các anh ấy có viết ǵ về Cải cách ruộng đất không ?
– Dạ không, ủa có! Hai anh Tô Hoài và Nguyên Hồng th́ không, nhưng anh Kim Lân th́ có viết một truyện.
– Một truyện thôi à? Bao dai?
– Dạ chừng năm trang sách.
– Có thế thôi ư?
– Vâng! Đúng ra th́ có cả một quyển chừng hai trăm trang, nhưng chỉ có một truyện được nhắc nhở.
– Truyện nào, tên ǵ?
– Dạ “Cu Ế”.
– Nội dung như thế nào?
– Dạ đại khái là một thanh niên bần cố nông nghèo đói suốt đời, không ai chú ư tới, các cô nàng không ḍm ngó nên không lấy được vợ, cho nên được gọi là “thằng Cu Ế”. Nhưng nhờ đội Cải cách ruộng đất về bắt rể, Cu Ế đứng lên tố khổ địa chủ và được chọn làm cốt cán gương mẫu, sau đó th́ lấy được vợ.
Ông Mặt Sắt nhăn mặt:
– Chỉ đơn giản thế thôi à?
– Dạ, vâng, chỉ có thế.
– Nếu chỉ có thế th́ có ǵ để mà các anh nhắc nhở?
– Dạ anh em nhà văn nhắc nhở là v́ thằng Cu Ế của anh Kim Lân mô tả lại rất giống anh Kim Lân, nó gầy g̣ xấu xí! Giống đến đỗi anh em gọi luôn anh Kim Lân là Cu Ế.
– Thế kia à! Ông Mặt Sắt cười gượng.
Chập sau ông lại hỏi :
– Ngoài ra không có quyển nào khác viết về Cải cách ruộng đất à?
– Dạ có nhưng không được nhắc nhở bằng Cu Ế . Ủa, có một quyển trọn bộ ba cuốn. Quyển này được Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc tới.
– Thế cơ à? Quyển ǵ?
– Dạ quyển “Đất sụp”, “Đất lở” ǵ đó tôi không nhớ!
– Thế anh Tô đọc rồi ảnh nói sao?
– Dạ, Thủ tướng bảo là nhà văn non tay.
– Nghĩa là thế nào?
– Dạ đồng chí Thủ tướng không có nói trực tiếp với tôi (tôi làm sao được cái hân hạnh vĩ đại đó) nhưng tôi có nghe anh em nhà văn đồn rằng , Thủ tướng bảo : ” Nhà văn tả địa chủ như tả con vật. Địa chủ cũng là người. Nó cũng yêu vợ con nó chứ!”
– Chỉ có thế thôi à?
– Dạ tôi chỉ nghe được có thế.
Ông Mặt Sắt gật gù, hồi lâu lại nói:
– Đấu tố càng hăng càng tốt nhưng viết văn mà y như đấu tố th́ lại không chắc tốt. Tôi bận quá không có th́ giờ đọc sách, để khi tôi trở ra Hà Nội, tôi t́m sách nói về Cải Cách đọc thử xem, nhưng anh Tô nói th́ chắc đúng. Ảnh gần với nhà văn hơn tôi.
Tôi sực nhớ ra rằng tôi đi đến ông Mặt Sắt không phải với sứ mạng văn học nên thừa lúc kết thúc được câu chuyện, tôi bèn tŕnh bày về trường hợp của Thu. Nghe xong, ông kêu lên:
– Bọn giết người! Bọn giết người! Chúng nó tưởng một diễn viên ca múa như thế dễ kiếm lắm chắc. Ở Liên Xô một diễn viên ba-lê đứng cao bao nhiêu , vàng chồng lên cao bấy nhiêu, ở đây sao ḿnh coi như đồ bỏ vậy? Đâu nào, đem cô ấy lại đây tôi xem.
Ông quay lại mấy người tùy tùng đang đứng quanh chờ sai bảo. Tôi nói luôn:
– Cô ấy đang ở cuối dăy lều. Tên là Thu.
Ông Mặt Sắt quay lại tôi. Tôi bỗng thấy cái mặt ông bớt đi màu sắt, dễ thương hơn.
– Anh đă ghi chép được nhiều chưa?
– Dạ có ghi nhưng không c̣n ǵ hết.
– Ủa, tại sao kỳ vậy.
– Dạ, tôi nhóm lửa nấu cơm hết. Tôi dùng luôn cả cái bản thảo mà nhà xuất bản Quân Đội hứa in rồi không in! Tôi định mang về Nam in, nhưng giữa đường th́ nặng quá…
– Tại sao họ hứa rồi không in?
– Dạ, họ đ̣i một nhân vật có uy tín Nam Bộ đọc, nếu nhân vật này đồng ư, họ sẽ in. Nhưng nhân vật đó đă khen sách hay, có nhiều tính chất Nam Bộ, họ vẫn không in.
– Nhân vật đó là ai?
– Dạ là đồng chí Nguyễn Văn Trấn, Tư lệnh kiêm Chính ủy khu IX hồi chống Pháp.
Ông Mặt Sắt cúi mặt một chốc , rồi ngóc lên:
– Ai là giám đốc nhà xuất bản Quân Đội?
– Dạ, Trung tá Lữ Giang!
– Sao lại thế nhỉ! Anh này th́ phải cho làm hậu cần sao lại phụ trách xuất bản?
– Dạ, chính ông ấy đấy ạ!
Vừa đến đây th́ Thu tới. Ông Mặt Sắt kêu lên:
– Trời đất! Con người ta vầy mà…
Ông quay lại bảo :
– Anh Thuần đâu?
– Dạ, đồng chí bí thư văn hoá đang sốt.
– Thôi được, anh nào đó, gọi cho tôi anh Lành, anh Vịnh, bảo chấm dứt gởi diễn viên văn công vào đây!
Ông càu nhàu:
– Nhất là nữ diễn viên.
– Dạ!
Ông nói tiếp:
– Tôi không hiểu đầu óc các người ấy như thế nào mà họ gửi các cô con gái mảnh mai như thế này vô Nam. Để làm cái ǵ mới được chứ? Trông kia, chân của một nữ diễn viên ca múa trên sân khấu phải lót bằng nhung, đâu có phải chân voi như chân tôi mà múa trên đá tai mèo được!… Cô đi vào đây bao lâu rồi? Ông hỏi Thu.
– Dạ hơn một tháng.
– Cô đau chân bao lâu rồi?
– Dạ hơn mười ngày chi đó.
– Sao cô không nằm lại mà cứ đi thế này?
– Dạ nằm lại th́ không có ai giúp đỡ cả thành ra cháu phải cố đi.
Tôi tiếp thêm:
– Dạ chúng tôi đi cùng đoàn với cô ấy, nhưng không thể nằm lại được. V́ nếu nằm lại th́ coi như phạm kỷ luật của đường giây.
Ông Mặt Sắt ngoảnh lại. Một chiến sĩ biết ông cần ai, bèn thưa ngay:
– Đồng chí bí thư chính trị sẽ đến ngay, thưa anh Sáu.
– Bảo anh ấy nhắc tôi vấn đề kỷ luật đường giây nghe!
– Dạ!
Rồi ông quay lại tôi:
– Kỷ luật thế nào, ai đặt ra?
– Dạ cái kỷ luật này bất thành văn, nhưng tóm tắt nó như thế này thưa anh: “Ai mạnh cứ đi, ai ốm cứ nằm lại.”
– Được rồi!
Ông hỏi Thu :
– Cô học nghề múa ở đâu vậy?
– Dạ ở Trung Quốc rồi sang Liên Xô.
– Cô đă đến hai mươi chưa?
– Dạ, cháu đă hai mươi hai.
– Ai bảo cô đi Nam vậy?
– Dạ ở trên, đâu Bộ Văn Hoá hay Ban Thống Nhất , cháu không biết, chỉ thấy cơ quan bảo đi.
– Họ có nói vô Nam cô sẽ làm ǵ không?
– Dạ họ nói là vô Nam sẽ biểu diễn ở Sàig̣n!
Ông Mặt Sắt bảo:
– Gọi bác sĩ lại đây. Nhanh lên.
Tôi thở phào. May quá! Phải chi hôm trước ḿnh gặp được ổng th́ thằng Núi có thể bớt khốn nạn hơn nhiều. Tôi như thấy nó nằm trên cái vơng kaki xâm xấp nước theo kiểu hạ nhiệt độ của ông Tùng. Sẵn dịp tôi tố luôn:
– Chúng tôi c̣n hai đồng chí cũng đau không đi nổi.
– Ở đâu? Sao kỳ cục thế nhỉ? Họ coi văn nghệ sĩ như rác thế này là nghĩa làm sao?
– Dạ một đồng chí th́ đang ở đây, một đồng chí tụt ở trạm sau. Đồng chí ở đây th́ c̣n đi được, nhưng đồng chí nằm tại trạm sau th́ ốm nặng.
– Cho mời đồng chí ở đây! C̣n đồng chí ốm nặng kia thế nào?
– Dạ chúng tôi sợ đồng chí ấy bị sốt ác tính.
– Thế cơ à?
Tôi kể lại bệnh tật của Núi cho ông nghe. Nghe xong ông kêu trời luôn ba bốn tiếng rồi nói:
– Một họa sĩ đă học Cao Đẳng Mỹ Thuật lại bị ném vào đây như thế ư? Anh nào gọi đồng chí Lành và đồng chí Vịnh từ năy đă được chưa?
– Dạ Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh th́ đi vắng c̣n đồng chí Tố Hữu th́ không có điện đài liên lạc với chúng ta.
– Vậy gọi về Tổng Cục bảo cho hai cơ quan Bộ Văn Hoá và Ủy Ban Thống nhất , ngưng hẳn gởi nữ văn công và văn nghệ sĩ vào đây nữa, rơ không?
– Vâng ạ!
(Tôi giật ḿnh đánh thót. May mà ḿnh đă lọt vào đây rồi. Nếu không th́ sẽ kẹt ngoài đó mười năm mưa phùn gió bấc nữa!)
Còn tiếp ...
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Bác sĩ tới, ông Mặt Sắt bảo:
– Anh xem chân cẳng diễn viên múa ba-lê của con người ta đó. Anh chữa dùm đi!
Viên bác sĩ dắt Thu đi. Tôi nói tiếp:
– Cô ấy muốn trở ra Hà Nội thưa anh. Không phải v́ cô mất tinh thần mà v́ cô không thể nào đi nổi nữa .
Luôn dịp tôi kể lại những việc cô và thằng Hồng định tổ chức trở về Hà Nội cùng với một anh sĩ quan có một ba-lô K54. Nghe xong ông ngồi lặng ra.
Đến đây th́ Hoàng nhạc sĩ tới.
– Anh đau chân à? Ông hỏi.
– Vâng. Trặc cái bánh chè, thưa đồng chí.
– Có sốt không mà da vàng thế ?
– Thưa anh, tôi chỉ bị trặc cái bánh chè thôi.
– Cái chân chỉ có đầu gối là quan trọng nhất, trặc bánh chè rồi c̣n đi đứng làm sao?
– Thưa anh, cũng phải cố gắng thôi!
– Quê anh ở đâu?
– Dạ, Sàig̣n!
Tôi chêm vào:
– Anh là nhạc sĩ Hoàng Việt mới tốt nghiệp Học Viện Âm Nhạc Bungari về, thưa anh Sáu, nhạc sĩ nổi danh nhất của Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp. Và là nhạc sĩ duy nhất có tác phẩm giao hưởng ở nước ta.
– Nhạc giao hưởng là nhạc ǵ?
– Dạ là nhạc chỉ dùng âm thanh và tiết tấu để diễn tả chứ không có lời.
– Vậy lâu này tôi tưởng bài Sông Lô Trường Ca của anh Văn Cao là nhạc hay nhất rồi.
– Dạ hay nhất nhưng nó không phải là nhạc giao hưởng như nhạc biểu diễn ở Nhà Hát Lớn vừa rồi.
– Tôi bận quá , rồi không biết cái ǵ ngoài hợp tác xă cả.
Ngẫm nghĩ hồi lâu, ông hỏi Hoàng:
– Anh ở quân đội phải không?
– Dạ khi ra đây tôi c̣n ở quân đội.
– Cấp bậc ǵ?
– Da, tiểu đội phó!
– Trời đất! Một nhạc sĩ như thế mà đeo cấp bậc tiểu đội phó nghĩa là sao?
– Da, tôi đâu có đ̣i hỏi ǵ!
– Lữ Giang là trung tá hậu cần lại phụ trách văn hóa xuất bản toàn quân c̣n một nhạc sĩ như anh lại chỉ là tiểu đội phó là sao?
Tôi chêm vào:
– Do đó khi vô đây, anh chỉ được cấp phát theo tiêu chuẩn cán bộ sơ cấp, tức là muối trắng, vơng kaki. Không được thịt kho và vơng ni-lông.
– Có chuyện đẳng cấp trong sự cấp phát trên đường này như thế nữa sao?
– Dạ có chớ. Mưa ướt vơng anh ấy không mang nổi. V́ nó nặng như sắt cục vậy!
– Anh bao nhiêu tuổi?
– Dạ bốn mươi bốn . Hoàng đáp.
– Sao tóc bạc dữ vậy?
– Dạ không biết!
Tôi chêm vào:
– Anh ấy xa gia đ́nh đến nay là chẵn hai mươi năm. Mười năm kháng chiến và mười năm tập kết.
– Bây giờ anh có muốn trở ra không?
– Dạ, chết sống ǵ tôi cũng đi về cho bằng tới nơi.
Ông Mặt Sắt nh́n anh nhạc sĩ hồi lâu rồi nói:
– Tôi coi bộ anh yếu lắm, không đi tới nơi nổi đâu. Thôi để tôi cho anh trở ra nghe. Tôi sẽ phong cho anh chức trung tá và làm việc ở Cục Tuyên Huấn của anh Lê Chưởng.
– Cám ơn anh Sáu, tôi quyết tâm về xứ.
– Các anh căm thù Miền Bắc phải không?
Hoàng và tôi đứng im. Ông nói tiếp:
– Tôi biết các anh căm thù Miền Bắc lắm mà, phải không? Có nhiều anh đi qua khỏi ngọn sông Bến Hải , bèn lột nón quay lại xá Miền Bắc mấy xá.
Tôi nói:
– Họ đùa thôi, thưa anh Sáu!
– Trong đùa có thật!
– Nhiều người bị rắc rối v́ xá như thế!
– Rắc rối ǵ?
– Bị kiểm thảo! Nghe đâu có người bị gởi trả lại Miền Bắc.
– Làm ǵ ác thế! Đường này có người dám đi th́ đă tốt lắm rồi. Bất cứ họ có tư tưởng ǵ. Sao lại gởi họ trở ra?
– Dạ, không rơ!
– Các anh có tưởng tượng được con đường này nó như thế trước khi vô đây không?
– Dạ, ông Ủy Ban Thống Nhất , báo cáo toàn chuyện ngon lành hết cả.
– V́ báo cáo kiểu đó , Bác mới phải khóc trong Cải cách ruộng đất.
Có lẽ ông vô đến đây mới sáng mắt ra mà thấy một t́nh trạng thê thảm của quân , dân , chánh , đảng , đi Giải phóng Miền Nam. Tôi đoán là ông và đoàn tùy tùng không lội bộ từ Làng Ho vô đây. Có lẽ ông đi bằng một đường đặc biệt. Cho nên gương mặt ông c̣n đầy đặn và không vàng vọt. Chỉ phải cái màu “sắt” . Nhưng màu đó vốn là màu cố hữu của ông. Ở Hà Nội nước da của ông vẫn luôn luôn là “nước da lănh đạo” như thế đó.
Cả ba đứa tôi trở về lều như sắp lên thiên đàng.
Ông kẹ đă ra lệnh cho tất cả các đoàn có mặt ở trạm dừng lại, không đi vào nữa để chấn chỉnh tinh thần lẫn vật chất.
Riêng Thu và Hoàng được bác sĩ của anh Sáu săn sóc. Cả hai đều được chích thuốc và băng bó đúng quy cách như ở nhà thương. Riêng Thu th́ ôm một gói ǵ nho nhỏ đi vào lều rồi dúi liền vào ba-lô.
Nh́n những làn băng mới trắng tinh ôm cổ chân Thu, tôi có cảm giác nàng khỏi bệnh ngay.
– Bác sĩ tiêm thuốc cho em, anh ạ!
– Thuốc ǵ?
– Pê-nê-xi-lin. Ổng bảo cứ ba tiếng đồng hồ , ổng lại tiêm cho một mũi. C̣n anh Hoàng th́ ổng cho một ống thuốc, một lọ kem thoa. Ổng bảo cổ chân em đă sai khớp. Lớp da bên ngoài có thể bị mưng mủ. Nếu để nó làm mủ th́ phải mổ. Eo ôi! Nếu mổ th́ em chết mất!
– Bây giờ th́ c̣n kịp hả?
– C̣n kịp, nhưng phải có đủ pê-nê-xi-lin.
– Rồi bác sĩ có cho đủ không?
– Ổng nói sẽ trị cho em lành bệnh.
– Em phải nằm lại đây à?
– Ổng nói bác Sáu ra lệnh ngưng mọi cuộc hành quân đi vào. Ngoài ra bác sẽ ngưng mọi cuộc đi vào đường này. Bác sẽ đề nghị với Trung Ương thảo luận lại để có một tổ chức tốt hơn.
Xế chiều hôm đó Phẩm lại đưa vào một đoàn đông nghịt . Chẳng có chỗ đóng quân.
Họ phải càn rừng để tậu chỗ mắc vơng. Hoạt động ào ào, hối hả giành giật chen lấn , bát nháo làm nên một không khí loạn.
Tôi mừng lắm. Để cho ông kẹ biết một thực tế của Trường Sơn. Nếu không, các ông ấy cứ tuởng là mọi việc ở đây đều tốt đẹp. Từ ngày hoà b́nh lập lại, Trung Ương chui rúc vào cái vỏ chiến thắng kiên định , là các villa ở đường Trần Phú, Quan Thánh và những cái villa lưu động là những chiếc xe ḥm kính lộng lẫy cực kỳ xa hoa để không c̣n biết dân sinh dân trí ra sao nữa, do đó có Cải cách ruộng đất tang thương.
Nếu Trung Ương đi sát với dân như thời kỳ chống Pháp th́ đă không có chuyện đau ḷng này. Cải cách ruộng đất như một vết thương toang hoác được băng bó bằng một miếng giẻ rách sửa sai, chưa kín miệng th́ bây giờ lại đẻ ra con đường vinh quang quái gở này. May mà có một đồng chí Bộ Chính Trị, nhân vật đứng hàng số 5 trong đảng đă không đi trực thăng tới đây mà đi chân đất.
Chiều hôm đó, sau khi “cơm nước” xong, Thu gọi tôi sang lều của nàng và bảo:
– Em sẽ cho anh xem một kỳ quan.
– Thứ chín? Tôi cười .
_ Kỳ quan thứ tám là cái cổ chân của em kia rồi.
Thu lấy cái gói con lúc trưa đưa ra trước mặt tôi:
– Đố anh biết vật ǵ?
– Anh đâu có phải ông “đồng” mà em đặt vật?
– Anh nói trúng em sẽ …
– Thưởng?
– Ừ, thưởng …
Thấy tôi định đ̣i một phần thưởng đặc biệt, nàng vội xua tay:
– Không! Không! Anh đừng có nói ra. Thôi, để em cho anh xem này.
Thu từ từ mở cái gói và chỉ cho tôi thấy cái cạnh hộp tṛn sáng loáng. Tôi nói:
– Cái hộp lon hả?
– Cầm th́ biết!
Nàng đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và thấy nặng. Tôi hỏi nàng:
– Nguyên hộp sữa à?
Nàng chỉ gật, đôi mắt rực lên. Một hộp sữa đặc. Trời đất! Ở đâu mà có nếu chẳng phải rơi từ trời, nếu chẳng phải tiên cho.
Cảm ơn anh Sáu, cảm ơn Bác Đảng, cảm ơn phe xă hội chủ nghĩa, cảm ơn phe đế quốc, cảm ơn cả thiên hạ đă bồi dưỡng chúng tôi bằng cả một hộp sữa!
Nhưng hộp sữa lại làm nảy ra một rắc rối: Chờ đến tối chúng tôi mới xầm x́ bàn luận uống thế nào cho đúng với ba nguyên tắc: Thiên thời, Địa lợi và Nhân hoà. Về mặt Thiên thời th́ chẳng bị trở ngại ǵ, bởi v́ uống sữa vào mùa Đông hay mùa Hè , sữa vẫn là sữa và rất ngon, không có ai chết hoặc ốm v́ uống sữa cả.
Ở Hà Nội cả chục năm, tôi chỉ được uống sữa vài lần, bây giờ mới lội Trường Sơn có hơn một tháng, đă được một hộp. Ở Hà Nội muốn có một hộp sữa phải là cán bộ có b́a phiếu hạng A. Cái phiếu này sẽ dắt bạn qua cửa ngơ số 4 Tôn Đản, trong đó bạn sẽ t́m thấy một cái thiên thai thức ăn giữa Hà Nội nghèo đói mạt rệp , bần cùng nhếch nhác, như một mảnh đất cằn ,bị những bánh xe Volga chạy qua chạy lại cắt như những đường chém trên mặt thớt.
Nếu không có cái phiếu hạng A th́ bạn phải là bệnh nhân sắp chết, mà là bệnh nhân của bệnh viện Việt-Xô hữu nghị cơ, chứ c̣n bệnh nhân bệnh viện Việt Đức tức Phủ Doăn cũ, bệnh viện C, bệnh viện 108 tức Đồn Thủy cũ,- th́ chưa chắc.
Có khi hộp sữa được phát tới, bệnh nhân chỉ nh́n thấy cái mỏ con chim vàng th́ hồn đă ĺa đời rồi, hoặc ngược lại khi nh́n thấy nó, bệnh nhân phấn khởi cách mạng quá mức nên vượt chết mà khỏe hẳn lên.
Nếu bạn không lọt vào hai trường hợp trên th́ bạn phải là bà con của các ông các bà có cái phiếu hạng A , hoặc là em út của ông bà giám đốc cái cửa hàng Tôn Đản ấy.
Chỉ có thế bạn mới được diễm phúc làm chủ của một hộp sữa Con Chim mà Lang Sa nó gọi là lait condensé. Cái thứ này th́ không thấy nhập cảng từ Liên Xô. Liên Xô chỉ đưa sang sữa hộp bột chua lét.
Do những điều kiện quan trọng kể trên mà vấn đề tiêu thụ một hộp sữa ở đây trở thành vô cùng quan trọng.
Giữa lúc ba quân ăn đói nhịn khát , mà ḿnh lại uống sữa th́ lương tâm nào không cắn rứt ? Giữa lúc ḿnh chưa phải là bệnh nhân sắp chết mà lại được cả một hộp sữa th́ những người sống trong chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà đang tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xă hội chủ nghĩa chết đi mà chưa kịp biết mùi sữa , chắc sẽ oán gận ganh tị với ḿnh vô biên.
Nhưng thôi, đó là vấn đề t́nh cảm hoặc duy tâm. Chúng tôi là những kẻ thờ chủ nghĩa duy vật. Vật chất đẻ ra tinh thần. Có sữa uống, cái gân cái cốt sẽ khoẻ lên, cách mạng sẽ sớm thành công! Vấn đề ở chỗ đó. Không ngại ǵ! Không ngại ǵ! Cứ uống! Cứ uống!
Nhưng uống bằng cách nào mới được ? Uống phải bí mật. Bí mật cách nào?
Còn tiếp ....
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Tôi đưa ư kiến:
– Nên để dành khi bệnh hăy xài. Bây giờ ta chưa đến nỗi nào. Uống nó phí đi. Lại nữa đó là của anh Sáu tặng cho Thu.
Thu phản đối ngay:
– Đây là của chung, em muốn mỗi người uống một chút. Và uống ngay trong lúc miệng ḿnh c̣n biết ngon biết ngọt. Anh Hoàng thấy thế nào?
Hoàng cười hắc hắc:
– Tôi ba phải. Ai sao tôi vậy!
Thu tiếp:
– Em nhất định ta nên uống ngay. Bây giờ em đề nghị hai phương pháp: một là nấu nước sôi rồi khuấy đầy một gà mèn, sớt ra mỗi người một ít đem vô mùng tự túc, đường của ai nấy bỏ lấy mà uống. Hai là luộc nguyên hộp sữa rồi khui ra cứ lấy muỗng múc ăn dần. Ăn kiểu này ít lộ bí mật hơn v́ sữa luộc chín không bốc hơi đi xa c̣n sữa khuấy th́ người ở cách ba bốn lều có thể ngửi thấy.
Tôi cười:
– Phương pháp nào cũng hay cả , nhưng mắc công lửa củi. Cứ để vậy chọc hai lỗ trút ra chén mỗi người một ít đem vô mùng uống sống quách nó cho xong.
– Hay! Hay!
Hoàng vỗ đùi đôm đốp, và đá vào vơng phành phạch:
– Sáng kiến này phải được báo Nhân Dân phổ biến cho mọi người đă từng hoặc chưa từng là “khổ chủ” của một hộp sữa.
Tôi bỗng phá ngang:
– Nói đùa vậy chớ không uống cách nào cả. Đó là phần của em và của anh Hoàng. Hai người là bệnh nhân nên anh Sáu mới ưu tiên cho như vậy. Chứ c̣n anh mạnh khù mà uống sữa cái ǵ.(Nói vậy chứ cái bao tử thủng của tôi cũng cần sữa lắm.)
Cứ căi giằng dai hoài không ai chịu ai. Rốt cuộc hộp sữa chưa đầu thai thành cái hộp lon được.
Bỗng tôi nghe có tiếng hỏi:
– Có anh nhà văn nằm đâu đây không?
– Để làm ǵ? Hoàng hỏi lại.
– Tôi quen anh ấy mà!
– Tôi đây! Tôi đáp.
– À, mày đó hả?
– Ai đó?
– Thuần! Thuần đây! (Tôi không nhớ tên nào) Thuần Đại học Thái Hà đây!
– Ủa, mày cũng đi đây nữa a?
– Tao làm bí thư trưởng cho anh Sáu.
– Bảnh vậy à?
Thuần rọi đen pin qua lại mấy nhát t́m cội cây rồi mắc vơng nằm song song với tôi. Thuần nói ngay:
– Ổng ra lệnh ngưng cái vụ vô Nam này rồi.
– Tao có nghe nói.
– Ai nói?
– Ông bác sĩ của đoàn mày.
– Ờ đúng đó. Hồi trưa tao có thấy mày nhưng tao bận quá… Ủa, tao sốt.
– Cơm nước mầy đâu có phải nấu mà bận.
– Không. Vụ khác cơ.
Thuần kề tai tôi :
– Tao phải dắt một đội bảo vệ đi liên lạc với các đồng chí Pathet t́m voi cho ổng đi! Nè đừng có nói lộ ra, chết chém nghe!
– Thôi đừng có nói ǵ thêm, tao không muốn nghe!
– Ừ, nhưng mà nè! Nghe tao bảo.
– Ǵ?
– Đoàn của tao đi vơ trang khủng khiếp lắm, toàn là thứ dữ và nhân sự như mày thấy đó toàn là lực sĩ. Tao mách cho tụi mày một việc hay lắm!
– Việc ǵ?
Tôi ngồi dậy sốt sắng :
– Việc ǵ hay dữ vậy. Hay bằng cái hộp sữa Con Chim không?
Thuần lận trong lưng ra rồi ấn một vật ǵ lạnh và nặng vào ngực tôi. Tôi cầm lấy.
– Nhưng mà chưa hết đâu! Mày đề nghị cho đoàn của mày đi chung với ổng. Ổng có vẻ chiếu cố tụi mày lắm. Nhất là con bé ca vũ trặc chân.
Tôi nói:
– Đi chung th́ chân ai nấy đi chứ khác ǵ!
– Tầm bậy mậy! Mày kêu rêu mang đồ không nổi, ổng sẽ cho người mang cho tụi mày. Hiểu chưa? Con không khóc mẹ không cho bú.
– Vậy mày mại hơi dùm tụi tao trước đi!
– Không được! Phải tỏ ra là tụi ḿnh không quen nhau mới được.
– Nhưng tao đâu có gặp được ổng nữa?
– Th́ chừng nào hành quân mày t́m cách đi ngang qua mặt ổng cho ổng thấy.
– Ừ, được rồi.
– Nói cho mày biết, một tiểu đoàn theo hộ giá ổng đấy. C̣n đám xây lố cố đứng chung quanh vơng của ổng là ngự lâm quân và quân sai vặt mày hiểu chưa. Ba thằng bí thư: một thằng bí thư chính trị, một thằng bí thư quản trị, một thằng tham mưu. Tao là xếp ba thằng đó. Ổng chọn tao v́ tao là dân Nam Kỳ. Hừ hừ phen này “về nước” nghe.
– Mày đi Liên Xô mất mấy năm?
– Ba năm rồi! C̣n ba năm nữa! Về Hà Nội nghỉ hè, mấy ổng “ách” lại không cho đi nữa, bảo sửa soạn đi B.
– Sao không vô trường tụi tao mang gạch đá?
– Tao không có thực tập ngày nào hết ráo.
– Bơ sữa xẹp hết rồi hả. Coi bộ mày càng ngày càng lùn xuống và trắng đỏ ra như đồng chí Khu vậy. Chắc ở bển khoái lắm hả mậy?
– Sướng th́ có sướng hơn bên ḿnh, nhưng nghèo lắm.
– Sao hồi đấu Nhân Văn Giai Phẩm tao thấy mày ở trong trường , rồi biến đâu mất, tao không gặp mày nữa.
– Th́ mày biết cái trường Đại Học Nhân Dân đâu có ông bà sinh viên nào. Chỉ toàn là bàn ghế và vách tường thôi. Cho nên anh Bảy ḿnh , ảnh cho tao đi học, để ở nhà tốn cơm. Chính ảnh cũng chán cả ảnh mà.
– Nè, mày có biết tại sao hồi cướp chánh quyền ở Sàig̣n, ảnh là Trời Con, trong kháng chiến ảnh vẫn là Trời Con mà ra Bắc , ảnh tuột dên hết ráo vậy mậy?
Thuần làm thinh. Có lẽ đó là câu hỏi mà mọi người Nam Kỳ tập kết đều muốn đặt ra công khai, muốn được trả lời rơ ràng , như câu nói bất hủ của Bác là: Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam, sông có thể cạn núi có thể ṃn, nhưng chân lư đó không bao giờ thay đổi! hoặc là : Miền Nam luôn luôn trong tim tôi! hoặc hơn nữa là : Nam Bộ Thành Đồng Tổ Quốc!
Vâng, cái câu trả lời đă rơ như ban ngày. Nguyễn Văn Trấn, Tư lệnh kiêm Chánh ủy khu IX Miền Tây Nam Bộ từng là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ thời Mặt Trận B́nh Dân, Chủ bút báo Cộng sản tiếng Pháp Le Peuple! Ra Bắc mất hết áo măo cân đai, đạp xe đạp chạy rong Hà Nội như con chó đói, ai mà không biết, ai mà không xót xa năo ḷng , khi thấy một “đứa con Thành Đồng Tổ Quốc” được cưng đến mức đó?
Tại sao?
Có lẽ Thuần cũng bất ngờ khi tôi đặt ra câu hỏi. Đúng ra không phải bất ngờ. Bởi v́ thằng Nam Kỳ tập kết nào , dù đang ngủ mê bị đập dậy bất th́nh ĺnh cũng có thể trả lời ngay một cách đúng đắn , nhưng Thuần làm thinh hồi lâu không đáp. Thuần làm thinh , không phải v́ Thuần không đáp ngay được mà v́ Thuần muốn t́m một sự trả lời khác với ư nghĩ chân thật của ḿnh.
Thuần găi đầu găi tai:
– Có lẽ…Có lẽ thôi, v́ thành phần ổng là địa chủ!
– Cái đách !
– Há há … há! Thuần cười to một cách khoái trá.
Tôi để cho hắn cười đă đời rồi mới hỏi:
– Sao mày cười chớ?
– Mày đă trả lời thay cho tao rồi đó.
– Hả?
– Th́ mày không đồng ư với tao tức là mày cũng đă có câu trả lời của mày rồi. Vậy mày nói cho tao biết xem!
Tôi nói ngay:
– Địa chủ th́ khối ông trong Trung ương thành phần địa chủ; quan lại nữa là đằng khác. Tại sao? Khối ông trong hàng cao cấp được đề bạt, tại sao ảnh bị trù? Tại sao ảnh bị coi như con chó ghẻ?
– Mày hỏi tức là mày đă trả lời rồi!
Thuần gạt ngang :
– Bỏ đi mày! Lôi mấy chuyện đó ra mệt lắm. Bảo vệ sự trong sáng của đảng như bảo vệ con ngươi của mắt. Đó là nguyên tắc của Lê Nin. Ở Liên Xô bảo vệ sự trong sáng đó bằng bàn tay thô bạo của Staline, hết bàn tay của Staline rồi đến cái mồm thằng già trọc.
Ở Việt Nam cũng bảo vệ sự trong sáng đó , bằng thưởng cho Dương Bạch Mai chai nước ngọt tại Quốc Hội ngă lăn đùng, bằng cho Trần Văn Giàu cái con vít Đại học Tổng hợp để tự khoá miệng, bằng cho anh Bảy Trấn ôm cái bục Đại học Nhân Dân không có học tṛ. Đó, hỏi nữa chưa thằng mắc dịch.
– Thôi bỏ đi! Tao cũng không muốn nói tới những chuyện tâm tư đó làm ǵ, nhưng nằm trong rừng đâm ra nhớ vớ vẩn vậy đó. Mày vô đây được bao lâu rồi?
– Vài ngày thôi.
– Đi xe hơi à?
– Xuỵt!
– Ê, mày đi Liên Xô học cái giống đách ǵ?
– Triết!
– Triết ǵ?
– Đạo đức học!
– Là cái đéo ǵ?
– Lăng xẹt thôi mày ơi!
– Vậy sao phải mất một ngàn ngày cho nó?
– Mày nghĩ, tao ở cái trường Đại học Nhân Dân Thái Ấp Hoàng Cao Khải , Phó vương Bắc Kỳ để làm cái ǵ chứ? Tối ngày đi ra đi vô ngó cái chân bàn xẹo, sửa cái bục sút ván, ra ngoài sân lượm nhăn rụng, đến hồ bán nguyệt coi lao công vứt cứt trâu cho cá tra ăn, hay là ǵ? Tao là Phó Giám Đốc của anh Bảy mất hai ba năm, thấy ḿnh vô tích sự hơn bao giờ hết. Nếu không đi Liên Xô th́ làm ǵ?
Thuần nghỉ một hơi rồi tiếp :
– Mày chưa vợ con, mày không biết ǵ hết đâu.
– Giỡn hoài mậy!
– À, không, tao nói về cái t́nh cảm xa vợ xa con kia, chứ không phải cái sự ấy đâu. Bọn văn sĩ Nam Kỳ tụi ḿnh nổi tiếng như cồn ở Hà Nội về cái sự ấy, tao biết mà. Nhưng tao nói về cái t́nh cảm xa vợ con kia. Tao được một đồng chí Liên Xô khen là “Thần Thánh” nghe mậy.
– Về cái ǵ?
– Về sự xa vợ con.
– Thế à?
– Tụi nó sang ḿnh chỉ vài tuần là đă mang vợ con theo bên cạnh rồi. Bọn Nam Kỳ ra Bắc xa vợ hai mươi năm. Con c..c chỉ làm có nửa sứ mạng là đái thôi , c̣n một nửa sứ mạng kia quan trọng hơn th́ lại không làm được .
– Vậy mày qua Liên Xô không có dịp cho nó thi hành sứ mạng đó à?
– Có th́ kể ra cũng có, nhưng ḿnh thấy hơi kỳ.
– ..Hơn nữa là sinh viên môn Đạo Đức Học phải không?
– Không phải chỉ có thế. Nhiều ông to tổ bố giảng đạo đức cho toàn đảng học nhưng có coi đạo đức là cái mẻ…ơ ǵ. Tao là cái thá ǵ mà tao sợ mất đạo đức.
– Mua một cục thịt ḅ khoét lỗ như Tây vậy là vẹn toàn!
– Không phải vậy đâu mày ạ! Tây nó bậy bạ trong vụ đ… cũng nhiều, nhưng nó vẫn có đạo đức cổ truyền của nó. Ne fais pas à autrui ce que tu ne veux pas qu’on te fasse. Đừng làm cho người khác việc ǵ mày không muốn người khác làm cho mày. Th́ tại sao tao viết thư về cho vợ , tao bảo “ẻn” đợi chờ chung thủy nọ kia đủ thứ th́ ḿnh lại tự cho phép ḿnh lang bang? Một trăm bài học không bằng một hành động thực tế, phải không?
– Vậy mày nắm chắc bài học dữ rồi đó. Chừng nào lấy bằng cấp?
– Ba năm nữa.
– Bằng ǵ?
– Phó tiến sĩ “giấy”.
– Bỏ ngang thế này th́ bằng ǵ?
– Bằng cạo giấy.
– Thế c̣n bảnh hơn khối thằng! Có viết sách chưa?
– Viết một cuốn “Đạo đức Cộng Sản và Luân lư Việt Nam”.
– Mày muốn qua mặt Lưu Thiếu Kỳ cơ à?
– Cái đách! Tao đưa cho anh Bảy xem, ảnh bảo thẳng: “đem đi mà chùi đít”. Há há há! Tao tức cười quá!
– Tại sao?
– Tại v́ tao đưa cho tụi bạn Liên Xô coi, nó bảo là “độc đáo”.
– Hoá ra độc đáo của nó là đồ chùi đít của ḿnh à? Viết làm cái ǵ cho mệt.
– Không hẳn như vậy, nhưng cái đó là tao làm bài thi nửa khóa.
– Mày viết bằng tiếng Liên Xô à?
– Viết bằng tiếng Việt rồi đưa cho ban thông dịch của đại sứ quán ta dịch ra.
– À nè, mày có quen với ông Sáu Ú không?
– Ông đầu bếp của anh Mười Kỉnh đại sứ hay Ú nào?
– Ở toàn cơi Việt Nam có một Ú đó thôi chứ c̣n ông nào nữa?
– Để làm ǵ?
– Hồi đó tao có cô bạn đi Liên Xô nhờ vay tiền của ổng , mua được cái radio và một cái quạt tai tượng.
– Quyền hạn của ổng c̣n to hơn anh Mười ḿnh.
– Ổng sắp thay anh Mười à há há…
– Bậy mậy! Thằng nào muốn ǵ nói với ảnh đều được hết!
– Ổng sắp làm Chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng thay cho ông Thọ rồi đấy!
– Thiệt hả? Ai nói với mày?…Nếu quả thật vậy th́ đây là lần đầu tiên dân Nam Kỳ tập kết được ngồi ghế cao.
– C̣n ǵ nữa, ông ta đi đúng đường lối cổ điển của đảng mà.
– Đường lối ǵ?
– Bồi, Bếp! Ngày xưa Bác là bồi tàu bây giờ là Chủ tịch nước, c̣n ông Sáu Ú là bếp của đại sứ quán ta ở Liên Xô th́ sẽ lên Chủ tịch Mặt Trận. Vậy chẳng đúng đường lối là ǵ? Bồi và Bếp là thành phần cơ bản mà!
– Cái thằng phạm thượng quá mậy!
– Đó là sự thực, tao có phạm thượng phạm hạ ǵ đâu!
– Nằm gần đây có ai không?
Thuần quét đèn pin chung quanh :
– Thằng nào nghe, nó báo cáo là đứt đầu.
Tôi cười:
– Những ǵ ḿnh không nói được ở Hà Nội, vô đây ḿnh xổ ra cho núi đá nó nghe mày ạ. Chẳng lẽ mày để cho cái miệng như con c…, chỉ làm được một nhiệm vụ là ăn thôi, c̣n nhiệm vụ kia là nói th́ lại không làm được?
– Cái thằng!
– Tao không có được đi Liên Xô học “duy vật biện chứng pháp” nên tao toàn nói “dương vật biện nứng bá láp” cho sướng cái miệng, mày có nghe th́ nghe, không nghe th́ nhét lỗ tai lại.
– Cái thằng!
– Thằng ǵ? Thằng Ngốc! L’idiot phải không?
– Thôi đi mày! Tao ớn mày quá!
– Mày gặp ông “Tiếng c̣i trong sương đêm” c̣n ớn hơn nữa. “Bún-cà-ri” năm năm đấy!
– Chả quê ở đâu vậy?
– Sài Gồng! Cũng xa vợ có bằng cấp hai mươi năm như mày, nhưng chưa được ai khen là thần thánh cả. Mày nên chia nửa cái bằng cấp xa vợ của mày cho chả đem về treo cho vui cửa vui nhà.
– Thôi cha, tui không có nhận đâu! Hoàng lên tiếng và cười há há.
– Ê, cái bánh chè đỡ chưa? Thuần bắt chuyện sang Hoàng.
– Đỡ chớ! Nè về chi sớm vậy? Hoàng hỏi.
– Ở bên đó th́ qú hai gối chống hai tay, về bên này cũng thế thôi, nhưng thực tế hơn.
– Về tới trong Nam th́ c̣n thực tế hơn nữa!
Hoàng tiếp :
– Năy giờ tớ nằm nín he nghe cậu giảng “đạo đức” cho “nhà dzăng” tớ ớn cậu quá!
– Ớn cái ǵ, đó là sự thật mà ta!
– Ê, cho tui xin nghe! Các em tóc vàng đâu có để cho cậu đỗ phó tiến sĩ đạo đức chậm vậy! Tui qua Bungari chỉ vài tháng đầu là “đỗ” luôn hai ba cái! Há há há!
Cả ba cùng cười. Tôi tḥ đầu qua vơng Thuần:
– Nè, tốp đi! Có cô em gần kia ḱa!!
Thuần ngồi dậy:
– Thôi, để ḿnh về coi ổng có gọi ǵ không .
– Khoan đă. Tôi níu Thuần lại :
– Để tao hỏi câu cuối cùng.
– Ǵ?
– Mày biết tụi tao đi c̣n mấy tháng nữa không?
– Bố tao cũng không biết.
– Cho tụi tao đeo vè được không?
– Th́ tao đă mách kế hồi năy rồi đó! Cứ thế mà làm! Tao “nội ứng” cho!
Nói vậy rồi Thuần nhảy xuống đất cuốn vơng quảy lên vài rồi mằn mằn túi quần móc ra một vật ǵ đưa cho tôi.
– Biếu mầy bửu bối pḥng thân.
– Ǵ vậy?
Thuần rọi đèn rồi tắt ngay:
– Một rúp chín mươi tám kô-péc đó nghe mày!
– Mắc dữ vậy!
– Đồ của đế quốc mà!
– Liên Xô không sản xuất được à?
– Được nhưng không bảo đảm bằng của đế quốc. Với lại của đế quốc cải tiến hơn, mày mở ra xài rồi biết! Hơn nhau chỉ chút xíu thôi!
– Sao mày đem thứ này vô đây làm ǵ?
– Lúc nào tao cũng có một hộp ba cái cất kỹ trong bóp, đề pḥng xáp chiến th́ có ngay.
– Mày có đem ba “cái đế quốc” này vào luận án phó tiến sĩ của mày không?
– Chưa…
– Nhưng …
– Nhưn nhị ǵ . Thuần rỉ tai tôi :
– Tao thấy mày có chất tươi đi bên cạnh, tao biết mày là thằng bén nhạy và sáng tác ác lắm nên tao mới tặng mày để khỏi bị “tai nạn” dọc đường. Các em ở bển kỹ lắm. Không có…, các “ẻm” không cho đâu.
– Tao hết xí quách rồi. Mă tấu mài hoài không bén được.
– Ậy! Cũng có khi! Mày không nhớ đồng chí Trường Chinh nói vấn đề Miền Nam ở hội nghị Văn Nghệ Thái Hà Ấp à? “Chưa mưa nhưng ta vẫn phải mang dù theo. Chừng có mưa ta đă sẵn áo mưa” vậy đó, hiểu chưa nhà “răng”?
Thuần đấm vai tôi một cái rơ đau rồi đi. Hoàng cười toé ra giữa bóng tối như một trái phá con:
– Đúng là một phó tiến sĩ đạo đức tương lai.
Tôi và Hoàng tán gẫu một hồi thật khoái khẩu.
Còn tiếp ....
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Nếu chặng đường đă bị đạp lùi lại phía sau lưng là chặng đường của đôi chân , th́ con đường phía trước là con đường của suy tư. Cái ǵ cũng bắt bộ óc làm việc. Thắc mắc, bất măn, so sánh, lư luận, vấn đáp, kết luận rồi lại kết luận.
Nếu ở Hà Nội, người ta từng quen sống với cái khuôn của cuộc sống với nếp nghĩ của báo Nhân Dân và cái ṿng lẩn quẩn của bánh xe đạp và mép bờ hồ méo méo tṛn tṛn , th́ vào đây đầu óc như được núi rừng giải phóng hẳn.
Cái ǵ cũng dám nói, cái ǵ cũng dám nghĩ, cả những điều mà trước kia ḿnh cho là rất bậy bạ cũng cứ nói phứa ra. Th́ ra, cái lập trường chỉ giữ được khi ta bị chăn dắt kỹ càng. Buông lỏng nó ra nó quay ngoạm ngược lại kẻ đă tạo ra nó.
Đường này là đường cách mạng? Đi chừng nào th́ tới? Không tới th́ sao? Quê hương, cha mẹ, người yêu, lập trường, thành tích, thâm niên, sáng tác, dĩ văng, tương lai… tất cả tâm tư trở thành một món xà bần vĩ đại sau đám giỗ. Món ngon nhất là thịt kho tàu, món dở nhất là chuối chát, món trung b́nh là cá nướng, tất cả c̣n lại đều trút vào cái trả to, tất cả đều trở thành một món “kho” có cái tên là xà bần.
Tư tưởng con người vượt Trường Sơn ỏ những chặng vừa qua là quyết phấn đấu giải phóng Miền Nam. Sau trên một tháng ư chí phấn đấu đó bị đá tai mèo cạp, bị muỗi đ̣n xóc hút, nay chỉ c̣n lại một cục bất măn bao quanh bởi một lớp mây suy tư cho có vẻ triết học để tự lừa ḿnh: Ḿnh đang phấn đấu đây! Sự thực th́ ḿnh đang rũ xuống.
Có tiếng người khá hách dịch:
– Có ông nào là nhà văn nằm ở đây không?
– Tôi đây . Nghe cái giọng khá quan trọng tôi đáp ngay.
– Anh Sáu cho mời ông lại gặp. Nhanh nhé! . Rồi tôi nghe bước chân đi trở lại.
Tôi mọc ốc đầy người. Anh Sáu mời! Làm ǵ quan trọng đến thế. Cái thằng nhà văn này mười năm nay không được ai mời thỉnh cả. Cả mấy nàng mậu dịch cũng không mời, chỉ hất mặt như hỏi “ông cần ǵ?”. Nếu ông không cần ǵ th́ đừng tới đây! Chỉ có các cô hàng bán xôi cá thể hay mấy bà bán bún riêu vỉa hè quen mặt biết tôi là “ông nhà báo” th́ c̣n lễ độ chào mời.
Hay bà chủ nhiệm hợp tác xă cơm tháng mà tôi giao cả cái b́a phiếu cho bà muốn bán buôn đổi chác làm ǵ th́ làm _ th́ cũng c̣n biết trọng vọng tôi, ngoài ra…!! Làm ǵ có đến một ông lớn _ mà là một ông mặt rằn trong các ông mặt rằn to nhất Hà Nội mời?
Bỏ mẹ rồi! Cái thằng Thuần là tên “gián điệp hai mặt”. Nó đến giả đ̣ bất măn nói nhảm để moi ruột ḿnh rồi về báo cáo cấp trên. Thằng tệ thật. Không khéo ḿnh bị gởi trả lại Miền Bắc th́ chịu thêm luôn mười năm mưa phùn gió bấc nữa!
Tôi đến th́ thấy anh Sáu đang nằm. Anh bấm đèn pin rọi vào một ḥn đá rồi nói:
– Anh ngồi đó nghe! Xin lỗi tôi mệt quá. Giải quyết bao nhiêu công việc suốt ngày hôm qua với các đồng chí chỉ huy đơn vị… Này, anh cho tôi biết vấn đề B quay và vấn đề lính ḿnh làm thổ phỉ, tự sát thương có thật không? Anh cho tôi biết sự thực với con mắt quan sát của anh.
– Dạ… Tôi ngập ngừng.
– Anh cứ nói đi. Không việc ǵ đến anh cả. Anh là nhà văn anh đi trên con đường này đă hơn một tháng rồi. Anh có thấy những hiện tượng đó thật không?
– Dạ cái đó th́…
– Tôi đă bảo anh là anh cứ nói thật. Đảng cần biết sự thực. Tôi đă gạn hỏi các trưởng đơn vị nhưng họ chỉ nói là mặc dù đói la liệt nhưng chiến sĩ vẫn giữ kỷ luật rất nghiêm minh của quân đội cách mạng. Tôi có hỏi vấn đề thổ phỉ và B quay th́ họ nói đó là lời đồn thôi. Tôi hỏi sang vấn đề quân số th́ anh nào cũng nói là trừ số lính bệnh, th́ không có ai đào ngũ cả. Anh thấy thế nào? Các anh đă nói hôm qua, nay đều nói lại hết!
– Dạ, những điều đó tôi chắc là … không có.
– Anh có chắc thật không?
– Dạ ít nhất là tôi không thấy ai sát thưong hoặc ai làm B quay cả!
Tôi mà không thấy thực ư? Có chắc như thế không hở cái thằng TÔI – NHÀ VĂN. Trời ơi! Tôi nói láo sao mà tài thế. Tôi nói xong, tôi giật ḿnh v́ không ngờ ḿnh nói láo tài hơn viết văn. Mà đúng ra không phải Trời cho tôi hoặc tôi bẩm sinh mà chính là đảng đă dạy tôi cách nói đó. Cái trắng nói đen, cái đen nói trắng.
Tôi đă từng thấy lính chết trên vơng mắc tận ngọn cây, tôi đă từng thấy xương rũ trong hốc đá, từng thấy những anh B quay trộm heo của trạm làm thịt và bị trạm bắt quả tang, tôi đă từng thấy những vụ cầm nhầm của nhau từ quai dép đến bi-đông, tôi cũng đă nói chuyện với một tên thổ phỉ là em trai của Thu trên đường này. Cớ sao tôi không dám nói cho ông Mặt Sắt nghe chứ ?
Bởi v́ tôi đă kinh nghiệm bản thân rồi. Đảng chỉ thích nghe tung hô vạn tuế. Đảng chỉ thích nghe vỗ tay hoan nghênh. Đảng không có muốn ai chỉ trích phê b́nh những sai lầm của đảng ngoại trừ những sai lầm đó đă tầy uầy ra không bụm laị được, bởi v́ đảng lấy “Phê b́nh tự phê b́nh làm qui luật tiến bộ” nhưng cái qui luật ấy chỉ được đảng dùng như cái roi để quất vô mặt ai khác , chứ không ai được dùng cái roi ấy chạm khẽ tới lông chân của đảng.
Do đó mà những thằng ngu nhất cũng không nói sự thực cho đảng nghe, mà nó nói theo kiểu đảng muốn nghe: đảng là thần thánh.
Ở Thái Hà Ấp, trong cuộc học tập chỉnh huấn đấu Nhân Văn, có một anh nhà văn, nhà văn Nam Kỳ Đoàn Giỏi đă phát biểu về t́nh h́nh thống nhất nước nhà một cách chân thành như sau: “Tại ḿnh tham lam quá, cái ǵ cũng muốn quơ cả, chứ nếu ḿnh trung lập như thằng Sia-núc th́ có phải dễ dàng hơn không?) (Anh là bạn học với Sihanouk ở Chasseloup Laubat hay trường nào đó, tôi không nhớ). Chỉ v́ một câu nói đó thôi mà anh bị kiểm thảo trần ai lai khổ. Bị chụp cho một lô mũ chồng cao tới nóc nhà.
Nhưng trời lại dun rủi làm sao mà sau đó, Trung Ương lại sáng mắt ra (chẳng lẽ nhờ câu nói ấy) đảng lại chủ trương “Hoà b́nh trung lập thống nhất đất nước”. Cái khẩu hiệu chiến lược này được kẻ dọc bờ tường từ Câu Lạc Bộ Thống Nhất cặp theo bờ hồ đến gần tới Nhà Thủy Tạ, chữ nào chữ ấy to hơn người và bề dài của nó phải đạp xe mười bốn phút năm mươi chín sơ-gồng mới hết.
Vậy mà đảng đâu có lời ǵ xin lỗi cho mát ḷng mát dạ nhà văn. Cho nên sự nói láo thượng cấp của tôi kể ra cũng lô-gích lắm vậy.
Ông Mặt Sắt phàn nàn:
– Tôi chỉ nh́n thấy đoàn hôm qua hạ trại mà tôi phỏng đoán là các đồng chí ấy đă không nói sự thực.
– Dạ nếu họ không nói sự thực th́ sự thực đó đă không có ǵ đáng nói thưa anh!
– Không phải thế đâu! Chẳng có con voi nào nằm im trong thúng được!
Anh Sáu lặng thinh.
Tôi càng giữ sự im lặng cho chắc chắn. Tôi muốn gh́ giữ tôi lại chớ có lạc ḷng mà nói tung hê ra. Chưa chắc được cái giống ǵ! Chỉ chuốc hoạ vào thân thôi.
Nhân Văn Giai Phẩm há chẳng nói sự thực về Cải cách ruộng đất hay sao? Đảng đâu có chịu nghe. Đă bảo đảng thích ngọt mật mà! Thằng Phùng Quán chết lên chết xuống v́ cái bài thơ Lời Mẹ Dặn. Nó chỉ viết : “Yêu ai cứ nói là yêu. Ghét ai cứ nói là ghét!” Thế mà các hợp tác xă đă từ chối không dám nấu cơm cho nó ăn. (Không phải v́ ghét nó mà chính v́ sợ liên lụy với một anh nhà văn có tư tưởng Nhân Văn)
Cái sự đời xă nghĩa không mấy ǵ đơn giản như người ta tưởng ngay cả trong việc nói lên sự thực cho đảng nghe với lời yêu cầu của đảng.
Tôi c̣n biết một sự thực rất ác hơn cũng trên con đường này. Cách đây vài trạm trên đường rẽ xuống Bác Kế, tôi được thấy một cái giấy bán đất. Người bán hiện đang ở Hà Nội, người mua đất đang trên đường về Nam. Tiền mua đất được chồng ở Hà Nội nhưng người về Nam có đến khu V th́ mới nhận đất, nếu chết dọc đường th́ sao?… Không ai biết được. V́ khi tôi thấy tờ giấy bán đất đó th́ người cầm giấy c̣n sống và sắp về tới nơi!
Nếu sự kiện này được nêu ra ở Hà Nội th́ toàn đảng sẽ ngồi cụp xương sống mà học tập cái “tư tưởng bóc lột phản động của địa chủ, tư bản” này, nhưng ở đây không ai phát hiện ra nổi. Và người mua đất đó là một huyện ủy viên.
Tôi không ngần ngại ǵ mà giấu luôn cái chuyện đó với đồng chí Trưởng ban Công Tác Nông Thôn của Trung ương đảng, tác giả “Cây đa bến cũ, con đ̣ khác đưa“.
Sau khi thấy thái độ “chân thành” của tôi, anh Sáu bèn hỏi sang chuyện khác:
– Bao giờ các anh lên đường?
– Dạ cô diễn viên ca múa c̣n yếu chân quá!
– Không đi được à?
– Dạ cô ấy cứ lấy nước mắt thay chân.
– Nghĩa là sao?
– Dạ, thấy cô khóc, anh em chiến sĩ mỗi người mang ba-lô dùm một quăng.
– Chỉ vậy thôi à?
– Dạ đối với chúng tôi lúc này một tờ giấy cũng nặng như núi.
– Thôi được. Nghỉ vài hôm đă, rồi tôi cho người mang ba-lô cho cô ấy. Được không?
– Dạ nếu được thế th́ cô ấy phấn khởi lắm
– Thôi, anh về nghỉ đi, sáng mai tôi bảo bác sĩ tới trị tiếp cái chân cô ấy và cái đầu gối của anh nhạc sĩ. Hăy yên tâm. Mọi việc trên đường dây rồi phải khá lên. Như thế này th́ không thể được! Hai tàu gạo, ác quá!
– Dạ, cám ơn anh Sáu.
Tôi lững thững đi về như đi trong mơ! Hai tàu gạo, anh Sáu nhắc lại, tôi nghe cũng xót xa lắm. Gạo đó đáng lẽ đắp đầu gối nay lại trút cả vào mồm Bà Thủy.
Tôi về đến lều th́ quơ đúng cái gà-mèn trên đầu vơng. Nó c̣n âm ấm. Tôi cầm lấy giở nắp ra. Mùi hương bốc lên bát ngát như một thứ tiên dược tôi chưa được biết bao giờ: sữa!
Thu và nhạc sĩ đă làm thịt hộp sữa. Tôi nâng lên miệng nốc mấy hơi liền, tưởng ḿnh bay bổng thành tiên. Sữa xuống cổ họng chạy vào dạ dày mát như nước sông chảy vào ruộng hạn. Bao nhiêu đất cằn , cỏ khô đều vươn ngóc dậy, tôi nghe từng sớ thịt tươi lên, đầu óc sáng sủa lạ lùng.
– Anh về đấy à?
– Ừ!
– Có ǵ lạ không?
– Sẽ có người giúp em đi đến nơi.
Tôi sang lều Thu, ngồi phệt ở cái rễ cây đầu vơng, thủ thỉ:
– May quá! Nếu không gặp anh Sáu anh không biết em sẽ làm sao mà đi.
– Em được sự săn sóc của bác sĩ tự nhiên em thấy những ư nghĩ trước đây của em tiêu tán hết.
– Em thấy phấn khởi cách mạng trở lại rồi hả?
– Anh lại ngạo em rồi!
– Lần này em về luôn quê anh nghe!
Thu lặng thinh. Tôi nghe hương tóc Thu bay loáng thoáng như những mảnh lụa bé tí vô h́nh trong bóng đêm.
Một vài ánh lửa bếp của mấy anh chiến sĩ nấu nướng muộn lập loè sau những bụi rậm làm cho không khí âm u của rừng , vỡ ra thành một tấm màn ma quái rùng rợn. Tôi bỗng thấy ḿnh hoá thành một thư sinh trong Liêu Trai, thân ḿnh lâng lâng nhẹ nhỏm.
Còn tiếp ....
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Tôi bước đến vơng Thu, run run giọng:
– Anh lạnh quá.
– Anh có thấy gà-mèn sữa không?
– Uống hết rồi!
Tôi vén màn lên và chúi mũi vào tóc Thu, hai tay ôm quàng lấy cả chiếc vơng. Tôi hôn, tôi hít miên man. Thu đẩy tôi ra nhưng tôi vẫn gh́ chặt, ôm nàng đầy tay tôi.
Sao bữa nay nàng thơm thế. Sao bữa nay gương mặt nàng không hiện rơ trong bóng đêm mà tôi vẫn thấy đẹp thế? Tôi không ngăn được tôi nữa. Tôi ngồi ghé lên mép vơng làm hai cây cọc mắc vơng rung chuyển mạnh.
– Ây chết! Thu vừa xô tôi ra vừa kêu.
– Để anh lấy tí hơi ấm trong em.
Tôi cứ ngồi lên vơng. Tôi đă quen mùi da thịt của Thu lâu rồi, nhưng mỗi lần gần nàng tôi vẫn thấy rụt rè hồi hộp như mới lần đầu.
Cái vơng đă từng là chiếc thuyền không bến đưa tôi và Phương lên những khoảng không của vũ trụ, ru hồn hai đứa lạc vào những rừng tinh tú không tên.
Chiếc vơng là cái lá trong chuyện thần thoại nào , mà người đời chưa biết. Mỗi lần tôi ngồi lên vơng Thu tôi lại nhớ đến Phương. Một chiếc vơng nhỏ bé mong manh nhưng chứa chan hạnh phúc, nặng trĩu những nguồn t́nh.
Chiếc vơng của Thu khua xào xạc khi tôi ngả người lên, một nửa người tôi đè lên tấm thân bát ngát của nàng. Tất cả dây và vơng đều chuyển ḿnh tưởng đứt vỡ tung ra. Chiếc vơng nằm một người th́ thơ mộng biết bao nhiêu. Hai người nằm chung th́ càng thơ nhưng lại khó mộng. Nó chập chờn, lắc lư như con thuyền nhỏ cưỡi trên đầu sóng to. Một tí cử động cũng làm như cả lều trại sắp đổ ụp.
– Thôi anh ạ! Anh không nhớ à?
– Nhớ em lắm chứ.
– Em ở đây mà nhớ ǵ! Anh phải nhớ người ở xa mới phải!
– Dù có nhớ mấy cũng không làm ǵ. Anh nói thật với em nhé. Nhưng em phải hứa.
– Hứa ǵ?
– Hứa là đừng chê anh.
– Chê ǵ?
– Phương đă muốn anh và Phương có một kỷ niệm cụ thể hơn những cái hôn.
– Phương tỏ ư đó với anh hay sao?
– Không tỏ ra nhưng anh đoán thế.
– Anh chỉ phịa.
– Phương đưa cho anh đôi giày hài nhi trắng như tuyết.
Thu thở dài. Không biết trời đă khuya lắm chưa nhưng rừng đêm im bặt. Tiếng thở dài của Thu vang to, rơ mồn một. Tôi hỏi Thu:
– Em nghĩ ǵ?
– Em không nghĩ ǵ cả. Em đau khổ…
Nàng chưa thốt hết câu th́ môi tôi đă cắt ngang lời nói. Nàng vùng ra. Tôi thấy ḿnh khoẻ hẳn lên. Sốt rét, đau bao tử và các thứ bệnh nặng bệnh nhẹ đều tản đi hết. Tôi cũng không ngờ.
Trong giấc mơ trần tục của tôi có một con suối ấm chảy qua, có một ngọn đồi phơn phớt cỏ xanh mát rượi và hai quả đào chín treo lơ lửng trước môi tôi. Mùi thơm ngây ngất. Tôi không dám cắn chỉ hưởng lấy mùi hương.
– Anh đi ngoài sương, không khéo bị cảm cho coi. Thu rủ rỉ.
– Không bị đâu! Tôi vừa nói vừa ngả nằm xuống.
– Găy cọc mắc vơng cho coi!
– Không sao đâu mà.
– Đứt vơng.
– Hồi năy không đứt, bây giờ đứt ǵ mà đứt?
Tuy nói thế, hai tiếng “đứt vơng” vẫn dựng lên trong tôi cái h́nh ảnh lần trước , hai ông bà làm t́nh vụng trên vơng bị đứt vơng, người con gái rơi xuống đất, xương sống bị cấn một mũi đá nhọn bị thương nặng. Người đàn ông bỏ trốn. Đến sáng khi giao liên đến dắt khách mới t́m thấy người con gái đă hấp hối.
Hai tiếng “đứt vơng” làm tôi “ớn xương sống”, tôi bèn bảo Thu đưa đèn pin rọi dưới đít vơng xem có đá hay không. Chỉ có lá khô.
– Em đừng lo. Anh lấy làm hạnh phúc được chết v́ em hay chết chung với em.
Nàng tát mạnh vào mồm tôi:
– Nói gở.
– Thật mà ! Anh thấy ấm lắm Thu ạ.
– Anh thiệt à! Cứ phí sức.
– Anh c̣n trèo núi như Fulro vậy mà.
Chiếc vơng bé quá mà cũng rộng quá. Trời đất như run khe khẽ. Đầu núi nghiêng nghiêng như sắp đổ.
Một chập. Thu phàn nàn:
– Cái ông đạo đức học đến thăm anh làm ǵ?
– May nhờ nó, em không phải lo!
– Lo ǵ?
– Lo chuyện nọ chuyện kia cho em chứ chuyện ǵ.
– Chuyện nọ chuyện kia là chuyện ǵ?
– Những chuyện em không thể biết mà cũng không nên biết.
– Em nghe hết cả rồi.
– Vậy sao c̣n hỏi?
Thu lặng thinh.
Con người kể cũng không khó nuôi hơn con lợn là mấy. Chỉ có tí sữa loăng mà đă làm cho sức khoẻ vượn lên trông thấy. Chẳng khác ǵ uống cao đại sâm nhung hổ cốt của Thái Thượng Lăo Quân bào chế cho các tiên ông tiên bà ăn tiệc trên Thiên đ́nh.
Một buổi trưa, tôi đang đi quơ củi để chuẩn bị cơm chiều , th́ tôi gặp thằng bạn nhạc trưởng. Tất cả đoàn đến đây đều được lệnh của anh Sáu dừng lại để chỉnh đốn tổ chức. C̣n văn công th́ phải chữa lại cái màn hoạt cảnh lính bắn vào chân , thành ra lính chỉ bất măn chung chung thôi. Nếu để như cũ th́ chẳng khác nào xúi giục lính bắt chước.
Hơn nữa, một anh lính đă liều đến mức đó rồi và đă về tới ngoài Bắc rồi th́ không ai có thể giác ngộ cho anh ta trở vào đây nữa hoặc có giác ngộ th́ không thể chỉ trong một sớm một chiều như đă diễn ra trong hoạt cảnh.
Do đó đoàn Văn Công có cơ hội ăn hút. Thanh Cao (gă nhạc trưởng) nói:
– Con Nguyệt nó muốn gặp mày ghê lắm.
– Sao cô ta biết tao ở đây?
– Nó thấy mầy chớ sao! Nó đóng vai con tẻng người yêu của thằng mắc dịch bắn vào chân đó. Nó bảo nó trông thấy mầy nó mất tinh thần, nó diễn không nổi nữa.
– Đếch họ. Cô ta có thằng Ba Ke nào đó “kèm” chặt mà!
– Đó là chuyện xưa rồi. Bây giờ nó đă trống chân!
Thanh Cao tiếp :
– Nó than với tao ghê lắm.
Hai đứa t́m cái bóng mát ngồi nói chuyện. Cao tiếp:
– Nó nói nó nghĩ tầm bậy về giai cấp. Lúc cải cách nó bị truy kích dữ quá nên nó bấn xúc xích nó phăng teo hết thảy mọi quan hệ bất cứ với ai, cho khoẻ cái thân. Kể cả chị ruột của nó, nó cũng không tới lui. C̣n mày, nó biết mày đi kháng chiến từ 45 nhưng thành phần của mày lại không “hẩu”. Cả hai đứa cùng loài “đụ chỉa” cả nếu yêu nhau th́ nặng ch́nh chịch cất đầu lên không nổi. Hơn nữa, tổ chức đâu dễ ǵ chấp nhận cho hai bên lấy nhau.
Tôi phát cáu:
– Vậy sao sau đó có thằng đáp vào mà tổ chức lại “giúp đỡ” nghĩa là sao?
– Th́ mày c̣n lạ ǵ nữa chứ! Phép vua thua lệ làng, trâu buộc ghét trâu ăn. Cái thằng đáp vô này là thằng trung đoàn trưởng, tuổi đáng bố tụi ḿnh , nhưng nó là “loại chưn xanh mắt ếch” mày rơ chưa? Thời nào cũng có Ông Trượng – Tiên Bửu cả… chứ không phải chỉ thời xưa mới có. T́nh ca bây giờ đâu có dệt bằng “tơ ḷng” mà xây dựng trên lập trường.
Cao tiếp :
– Thằng trưởng đoàn văn công được thằng trung đoàn trưởng đăi trà buổi sáng, đăi rượu buổi chiều. Ăn xôi chùa th́ phải mở miệng. Cho nên nó xây dựng con Nguyệt cho thằng kia. Mày không nhớ vụ con Thu Hồng ở Ông Dèo gần Hoả Lựu nhà tao à? Lăo Tư lệnh Lé đá thằng Sơn Lâm một cú nhẹ nhàng và quơ nàng Hồng bỏ xuống ghe bốn , chèo cái một. Thằng Sơn Lâm tức giận chửi địt mẹ cách mạng rồi au revoir kháng chiến hồi 1950 mày nhớ không?
– Nhưng tên Lé là Tư lệnh ... cho cũng được đi, c̣n thằng trung đoàn truởng th́ nước mẹ ǵ kia chứ?
– Nó không nước mẹ ǵ, nhưng thằng trưởng đoàn cứ rù ŕ rủ rỉ măi rồi con Nguyệt thấy “giày cộp” và súng ngắn cũng oai. Hơn nữa nó lại có xe đạp riêng. Muốn đi Thanh Hoá chơi là nó đèo khỏi phải ngồi xe cây đau đít.
– Th́ cứ mà ngồi xe đạp và khoái súng ngắn! Tao có ư kiến ǵ đâu!
Cao nói:
– Nhưng con nhỏ bị trong đoàn chế diễu quá xá nên chưa cắn câu đă cho thằng trung tá sụt cà lui té xuống Nông giang luôn.
– Thôi bỏ đi mày ơi! Tao chẳng thiết ǵ tới nàng ta nữa đâu!
Tôi gạt ngang :
– Nói chuyện bá láp nghe c̣n mát lỗ tai hơn.
Cao cười:
– Th́ đây cũng là chuyện bá láp chớ chuyện hay ho ǵ! Nhưng chưa hết đâu. Sau khi hạ màn trung tá, tới lớp Ba Ke. Thằng Ba Ke này ở ngoài Tổng Cục đưa vào. Tao đang phụ trách đoàn, nó vào tự nhiên được bổ nhiệm thay tao để tao đi học ngoài Hà Nội. Thôi cũng được. Cái nghề này , tao cũng chán thấy mẹ rồi…
Đọ, nó vào hôm trước hôm sau đă “biểu diễn” một màn “chỉ huy đồng ca”. Chả là nó có đi học Trung Quốc mà. Thế là nó để ư con Nguyệt. Con Nguyệt là biên đạo vũ nên có cơ hội học tập ở nó. Rồi đó hai bên thân nhau đến mức độ trong đoàn phải “ách” lại. Rồi có thêm đề tài “Rau muống mà cấy ruộng Nam. Ba năm chết héo biết làm sao đây“.
Con Nguyệt tự ái đá luôn phát thứ hai. Lúc đó tao đi học Hà Nội đă về. Tao xin chuyển ngành. Cởi áo lính, trở ra Hà Nội. Kỳ đó tao gặp mày, tao “tường thuật” cả cho mày nghe, nhớ không? Và có nói là con Nguyệt nó đang ân hận về cái lập trường kênh gân của nó, nó muốn gặp mày nhưng mày phớt lờ đi. Thiếu chi con “ghé” Hà Nội mà phải lụy vào một cái nơi bầm dập như vậy chứ!
– Th́ tao có lụy đâu. Tao có lo ế đâu mà!
– Để tao nói nốt. Có lần nó ra Hà Nội, nó nhờ tao t́m mày dùm. Nhưng tao bảo là tao không biết chỗ ở của mày. Nó rầu lắm. Kể từ đó không có “chưn xanh mắt ếch” hoặc Ba Ke Bốn Ke nào vô được mà tụi trong đoàn th́ lại chẳng thằng đực rựa nào sánh được với “nhà…à…dă..ăng”.
Cao dịu giọng :
– Thôi chín bỏ làm mười đi mày ạ. Cột kèo cũ coi vậy , chớ vẫn hay hơn cái mới. Để nó âu sầu hoài, kể cũng tội nghiệp.
– Thôi đi mày ơi! Tao bây giờ lo đi “rải” phóng Miền Nam, chuyện lăng nhăng xin gác lại hết.
Cao cười hềnh hệch:
– Tàng hoài cha nội!! Vậy c̣n ngôi sao nào lấp lánh bên hông mày đó.
– Nó đi cùng đoàn với tao.
– Tao biết con nhỏ mà. Nó múa ba-lê cho đoàn Múa Trung ương chớ ǵ.
– Rồi sao?
– Th́ đâu có sao, nhưng mà rau muống vô trong ḿnh “trọ trẹ” nghe mệt lỗ tai lắm mày ơi. Các “via” nhà ḿnh không “đắc co” cho đâu.
– Tao có ǵ mà phải “đắc co”.
– Mày là con quỉ mà! Tao không biết ư. Hở hở ra là bị mày. Láng cháng là mày yêu thôi. Đi như thế với mày, đố khỏi!
Hai đứa làm thinh. Một chập Cao nói:
– Nó muốn gặp mày được không? Tùy ư, tao không ép. Nhưng nó nhờ tao. Đây là lần thứ hai. Mày nên an ủi nó chút.
Tôi thở dài:
– Để về tới trỏng hăy tính.
– Mày d́a chớ “nàng” có d́a đâu mà tính.
– Vậy khỏi tính.
– Cái thằng ba trợn quá mậy! Chán mày quá!
– Ừ, chính tao cũng chán tao ... nữa là ai!
Tôi quơ ba que củi đứng dậy :
– Thôi đi về đằng cḥi tao nấu nước trộm uống trà nói dóc. Trời nắng, củi khô, ít khói.
Thế là hai thằng kéo đi về lều của tôi. Trời nắng như thiêu. Mặc dù ngồi trong bóng mát mà mồ hôi vẫn đổ ṛng ṛng , mồm thở như gà toi, há cả mồm ra mà không đủ.
Hoàng Việt và Thanh Cao cũng biết nhau từ lâu trong kháng chiến ở Miền Tây. Thấy Cao tới, Hoàng reo lên:
– C̣n kí-ninh đủ uống không chú em?
– Anh “rơ” cái bánh chè hả? Hừ hừ, tháo nó ra, gởi qua Bungari cho người anh em vô dầu mỡ rồi gởi trả về ráp lại mấy hồi.
Ba thằng ngồi dụm đầu uống trà như ba ông táo.
– Nè! Anh Bảy!
Cao gợi chuyện :
– Anh có gởi thơ về cho chị Bảy thường xuyên không?
– Mỗi năm 2 chiếc. Đi đường “Pa-Ghi” dô Sài G̣ng.
– Hôn trên giấy , rách hết cả giấy hả?
– C̣n chú mày tài ǵ hơn tao?
– Hà hà… Mười năm chưa có cái nào! Phải được hai chiếc một năm cũng đỡ khổ.
Trong những thằng bạn tôi đi tập kết có hai thằng tôi cho là gan cùng ḿnh. Cả hai đều là nhạc sĩ nổi tiếng cả. Một là nhạc sĩ Hoàng Lưu. Con nhà giàu, con một của gia đ́nh. Lưu vừa cưới vợ được hai tháng là bỏ vợ đi ra Bắc. Không tin tức ǵ cả. Làm ở đài phát thanh với tôi. Đau gan, ở một ḿnh, trong một cái hang không có số nhà.
Nửa đêm bị chảy máu nội tạng. Hai ngày sau cơ quan đến đập cửa (v́ t́m măi không biết Lưu ở đâu), Lưu đă chết cứng.
Thằng thứ hai là Thanh Cao. Vợ là tiểu thư đài các, học trường đầm , về quê ở Cái Đuốc Lớn (Cần Thơ) ở với ông ngoại là đại phú hộ trong vùng ai cũng biết danh. Chị tên Tuyết Hoa. Con trai nhà giàu đi hỏi rất đông lại không ưng. Gia đ́nh gả ép.
Đêm động pḥng chị bỏ đi theo chàng nhạc sĩ nghèo rớt mồng tơi không có xu dính túi. Nhưng gia đ́nh cưng con cháu nên đem cây gỗ cất nhà cho chị và Thanh Cao ở với nhau. Nhà trên bờ kinh Hoả Lựu.
Chúng tôi về nghỉ ngơi ở đây luôn và nhờ sự tiếp tế của ông ngoại vợ mà vợ chồng Thanh Cao sống rất đầy đủ và hạnh phúc. Cao bảo vợ gọi cô em gái đang học ở trường đầm trên Sàig̣n về để “làm cột chèo” với tôi cho đủ cặp.
Nhưng không hiểu sao hồi đó tôi lại lơ là không quyết tâm, hơn nữa, coi vợ con là một sự vướng bận làm cho ḿnh không tung cánh được. C̣n mê kháng chiến quá mà. Tuổi xanh như lúa mai! Đời thanh niên sáng tươi! – Không muốn ai ràng buộc! Cho nên tôi đă bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng.
Khi đ́nh chiến Cao đă có hai trai. Hai cháu bé thật xinh đẹp, bụ bẫm. Chị Hoa có đưa hai đứa bé xuống bến Chắc Băng để từ giă chồng. Tôi thấy chuyện chồng đi , vợ ở lại có hai năm, ăn thua ǵ. Cả ngàn người như thế, không phải một ḿnh Cao. Ra Hà Nội, Cao đến tôi chơi. Anh chàng mới ân hận.
Còn tiếp ....
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Khi gặp tôi ở Trường Sơn th́ Cao đă bước đi bước nữa với một ca sĩ nào đó. Trước khi hai bên ở với nhau, Cao có đến hỏi ư kiến của tôi, gần như xin thông cảm và muốn tôi gật đầu như một sự “cho phép”. Nhưng tôi nhất định không đồng ư “Mày muốn làm ǵ tùy mày, nhưng tao không chứng nhận vụ này. Về trong đó, nếu chị hỏi tao, tao nói tao không biết.”
Cao ở liều với nàng ca sĩ. Và tôi không lui tới nữa. Có đến ba bốn năm liền. Bây giờ gặp nhau ở đây. Cao nói vụ cô Nguyệt với tôi nhưng cũng là để nói về t́nh duyên của chính ḿnh.
Tôi biết Cao sẽ mở màn và lại yêu cầu tôi thông cảm cho nên tôi nói trước:
– Mày coi anh Bảy cũng như mày, ảnh có lăng nhăng ǵ đâu!
– Dề! Mày biết ảnh không lăng nhăng bên Sophia hả?
– Nhưng đó là cưỡi ngựa xem hoa. C̣n mày, mày làm thiệt.
Cao ngồi tự nhiên, bắp thịt má giật giật. Hồi lâu mới nói:
– Sẵn có anh Bảy ở đây, tao xin công khai hóa vấn đề.
Hoàng Việt xua tay:
– Thôi tao không có muốn làm quan toà để về sau ăn chổi chà, cũng không muốn làm biện hộ sư để ăn đạp ăn đá. Chuyện của mày mày làm mày biết và mày chịu lấy. Tao biết mày đă có con với cô ca sĩ rồi, nhưng khu phố không chịu khai sinh phải không?
– Tôi không cần! Khai hay không nó cũng là con tôi, tôi nuôi!
Cao nói tiếp :
– Nhưng hôm nay sẵn có bạn bè , tôi xin đưa ra một bức thư.
Vừa nói Cao vừa móc túi lấy ví và moi ra một b́ thư.
– Đây mày đọc đi, Vũ.
Tôi tiếp lấy mở ra đọc. Đó là bức thư của một người chú của Cao ở Sàigon gởi ra cho Cao. Và một bức thư của chị Tuyết Hoa. Thư của chị Hoa viết rằng chị không thể sống cô đơn lâu hơn nữa , v́ những khó khăn mà chị không vượt nổi. Cho nên chị đến nhà chú ruột của Cao để tŕnh bày (cha mẹ Cao đều qua đời khi Cao hăy c̣n bé) và xin phép chú đi lấy chồng nuôi con.
Lá thư của chú Cao viết:Chú đồng ư v́ đàn bà không thể không có chồng nhất là người đàn bà c̣n quá trẻ lại có hai con, v.v.. mà ngày chồng về th́ không có hạn. Vậy việc “cháu Tuyết Hoa tái giá trong lúc cháu vẫn c̣n sống là điều có vẻ trái nghịch nhưng theo chú lại rất hợp lư…”
Tôi như thấy trời đất xoay vần. Bản t́nh ca khởi đầu đẹp đẽ biết bao, đoạn giữa cũng phong phú biết bao! Nhưng kết thúc lại vô cùng bi đát.
Tôi trao trả hai bức thư cho Cao. Cao lặng lẽ đút vào túi.
Nước trà đang ngon bỗng nhiên đắng lạ lùng. Cao rưng rưng nói:
– Tao không muốn cho mày biết để mày khỏi buồn lây. Tao biết mày mến gia đ́nh tao, thương mấy đứa nhỏ dữ lắm. Sự đổ vỡ của đời chúng tao làm mày khổ. Do đó tao giấu biệt. Nếu trong lúc đó (1959-60) tao cho mày coi hai bức thư này th́ mày sẽ cho răng tao mạo ra để dựng cớ mà làm càn. Bởi v́ có rất nhiều đứa “lập hồ sơ giả” để xin tổ chức cưới vợ.
Cao tiếp :
- Trong số bạn bè ḿnh, có thằng đă chơi mửng đó rồi.
– Thằng Duy! Bạn chúng ḿnh! Nó làm ở Bộ Công Nghiệp!
– Phải đó! Ba bốn năm liền nó lặn mất tiêu không đến với tao.
Cao nói :
– Nó bịa một bức thư gởi từ Paris. Nói rằng vợ nó đă lấy chồng. Nó cũng đem thư đến cho tao xem để tao “thông cảm” nhưng tao nh́n ra ngay tuồng chữ của nó. Tao nói thẳng ra, không sợ nó giận. V́ tao biết vợ chồng nó đă hục hặc với nhau hồi ở Rạch Ba Ngọn kia mà. Nó muốn thôi mà v́ Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh bắt gắt quá nó thôi không được.
Khi nó về cất nhà ở địa phương xong, nó bỏ vợ lăn lóc và đi lêu bêu, kháng chiến cà nhong với chức chánh trị viên đại đội hồi xưa.
– Tôi nói để cho Hoàng Việt biết một trường hợp lừa gạt của một ông cán bộ tập kết luôn. Nó đă ăn ở với một người đàn bà goá rồi nó mới đến thanh minh với tôi anh Bảy ạ! Thế đó!
Hồi ở trong Nam, chị Hằng, vợ nó than với tôi luôn. Chị ấy nói:”Anh Duy làm ǵ kỳ quá! Ở với tôi nữa th́ ở, không th́ tôi cho ảnh tự do! Đă có hai mặt con rồi, làm vậy chị em cười tôi chết. ” Khi chị sanh đứa bé thứ hai, một đứa con gái rất đẹp, anh ta về nhà kiếm chuyện gây lộn rồi ẳm con bé lội qua rạch đi…
– … Hắn đi qua nhà tao ở Hỏa Lựu và bảo vợ tao cho con bé bú dùm. Bà già vợ nó cho người đi t́m bắt đứa cháu về!… Một thằng khùng!
Tôi tiếp:
– Nó không khùng đâu. Nó vặn nài bẻ ổng như vậy là nó muốn nói ǵ đó chớ. Bởi vậy khi nó đưa “bức thơ Paris” ra cho tao xem là tao gạt ngay.
Hoàng hỏi Cao:
– Rồi mày tính sao?
– Th́ tính như vậy đó! Tính rồi c̣n tính sao ǵ nữa!
– Không! Tính vụ vợ con mày ở trong Nam ḱa.
Cao thở dài:
– Bây giờ chúng nó đâu c̣n là vợ con của tôi nữa anh Bảy!
– Tuy “ĺa ngó ư c̣n vương tơ ḷng”. Hoàng cười gượng gạo .
– Vợ tào khang đâu có bỏ được chú em! Anh Bảy đây có chết bỏ xác dọc đường th́ thôi chớ c̣n sống th́ nhất định phải lết về tới nơi thăm con mẹ xề bằng được.
– Trường hợp anh khác trường hợp của tôi.
– Sao hồi đó không đem vợ con đi?
– Th́ tưởng hai năm về. Anh Bảy ơi, tui đâu có dè cái sự đời nó thế này.
– Mày có định về không?
– Tôi ấy à? Xin về làm cái con mẹ ǵ nữa chứ?
– Mắc gốc rau muống rồi phải không?
– Không phải vậy đâu anh Bảy ơi! Lở dở như thế này rồi, tôi không muốn về nữa. Tôi ở luôn ngoài này thôi!!!
– Thôi mà, đừng có nói lẫy . Mày bỏ vợ ... chứ bỏ con được sao?
– Con không bỏ được mà vợ cũng không bỏ được, nhưng hoàn cảnh nó thế… Tôi phải đành nhắm mắt đưa chân. Tới đâu th́ tới!
Cao uống thêm tí trà rồi nói với tôi:
– Tao nhờ mày một chuyện.
– Chuyện ǵ?
– Mày đem thư về cho vợ tao được không?
– Biết c̣n ở Hoả Lựu không?
– Nếu không th́ mày hỏi bà con lối xóm. Trong vườn dừa có nhiều bà con biết và mến chúng ḿnh. Chắc chưa ai quên ḿnh đâu. Mày nhớ cái ông học đàn ghi-ta với tao không? Với ông Ba bên kia rạch, mỗi lần mày về nhà tao mày hay sang đó ngủ để nghe ổng đàn bầu. Vợ tao đi đâu bà con cũng biết mà.
– Ừ viết mau đi.
– Tao viết lâu rồi, nhưng không gởi được! Với nhờ mày đem cái h́nh tao về cho mấy đứa nhỏ coi . Nói đây là thằng cha khốn nạn của nó. Không biết tụi nó bao lớn rồi?
– Đứa mười hai , đứa mười tuổi.
– Không biết có học hành ǵ không hay chăn trâu chăn ḅ?
– Ông bà nó giàu có thế mà…
– C̣n khỉ mẹ ǵ. Bộ đội và cơ quan ăn tàn mạt hết. Cô của vợ tao đă bỏ về thành hồi trước hoà b́nh. Phải hồi đó mày chịu làm cột chèo với tao , có hai đứa hủ hỉ với nhau đỡ khổ biết mấy.
Cao nói vậy rồi gục đầu khóc mùi. Tôi hết biết nói sao. Cái thằng coi vậy mà yếu quá. Tôi không muốn nói ǵ thêm.
Hồi lâu Cao hỏi:
– Mà mày định không gặp con Nguyệt thiệt hả. Để tao trả lời dứt khoát cho nó kẻo nó chờ đợi hoài.
Tôi nói:
– Mày bảo cô ta là coi như tao không có ở đây. Nào, đưa h́nh và thư đây. Tao hứa với mày là khi về tới nơi tao sẽ t́m cách đến gặp vợ con mày.
(Nhưng khi về đến nơi tôi không giữa được lời hứa. Không phải v́ tôi là thằng bạn quen thói thất tín nhưng v́ không thể nào đi nổi xuống Miền Tây. Nếu đường đi suông sẻ th́ tôi cũng ráng t́m hiểu một sự thực , để có thể sau này viết tiểu thuyết, nhưng khi về R th́ lại được phân công đi Bến Tre quê tôi. Từ Bến Tre mà xuống tới Cần Thơ th́ phải vượt qua không biết bao nhiêu sông và lộ mà hồi kháng chiến tôi đă vượt và suưt chết không biết bao nhiêu lần rồi.
Bây giờ xương đầu gối đă khô, túi mật không c̣n đầy, một đoạn đường gian nan như vậy, tôi không thể đi nữa, nhất là sau khi đă lội suốt Trường Sơn rồi… Trên đường về Bến Tre tôi có gặp một đoàn về Miền Tây, tôi có nói rơ địa dư của vùng nhà chị Tuyết Hoa và nhờ một anh bạn – nếu có dịp đi qua đó th́ t́m đến trao thư và ảnh dùm. Không biết kết quả thế nào. Nhưng khi hồi chánh về Sàig̣n, tôi có lên Tivi nhắn tin. Tôi tin chắc chị Tuyết Hoa có nghe…)
Cao nói:
– Để tao viết thêm ít hàng. Chừng nào mày đi?
– Chừng nào có lệnh anh Sáu th́ đi. Ảnh đang cho vô từng đợt sau khi chấn chỉnh lại đội ngũ.
– Được rồi! Tao sẽ đưa thơ cho mày trước khi đi.
Cao đứng dậy ra về. Trời nắng chang chang như lửa xối xuống những ngọn cây rừng , nhưng tim tôi nghe lạnh buốt. Tôi trèo lên vơng nằm lắc lư cho cái không khí nặng nề chuyển động tan bớt đi sự ảm đạm do câu chuyện gây nên.
Hoàng Việt cũng nằm thườn ra thở dốc.
– Thế là tiêu tùng một cặp uyên ương. Cũng v́ tập kết mà ra cả. C̣n một vài thằng nhạc sĩ nữa cũng đang treo mơm ngoài Hà Nội. Lâu nay mày có gặp thằng Phạm Văn không?
– Chừng ba tháng trước khi vô trường đi B.
– Nó c̣n khùng khùng nữa hết?
– Vẫn thế thôi!!
– C̣n thằng Lưu Kiều?
– Thằng này th́ lo buôn lậu đâu có thiết ǵ tới vợ con.
– C̣n thằng đại uư ǵ, rể ông Mười Huệ?
– Tôi không quen nhiều, nhưng thấy chiều thứ bảy nào nó cũng chở cô em vợ đi Bờ Hồ. Cô em th́ ăn mặc bảnh tẻng c̣n y th́ áo quần nhổm nha.
– C̣n thằng Quốc Hiên, mày có nghe tin ǵ mới về nó không?
– Tin ǵ mới?
– Sau khi nó “cấy” con Lịch Dzung ở xưởng phim rồi nó c̣n “ghép” con nào nữa không?
– Ồ, hắn đi học hát ở Hungari mà anh không có liên lạc sao?
– Có nghe nó đi nhưng tao không biết tin ǵ về nó cả.
Rồi Hoàng thở dài:
– Như mày vậy mà khoẻ! Có vợ có con mệt lắm mày ơi!
– Không “hoạt” hai cái lỗ tai được hả?
– Không phải chuyện đó đâu. Tao nói nghiêm túc đấy. Mấy đứa con tao hồi tao đi tập kết th́ đứa đă mười tuổi, đứa bảy tuổi. Nay lớn lắm rồi. Mẹ nó chụp h́nh gởi cho tao, tao đâu có nh́n ra. Mẹ kiếp, ḿnh chống đế quốc mà đế quốc lại nuôi vợ con ḿnh. Thế mới lạ!
– Đế quốc nào mà nuôi vợ con anh?
– Th́ ḿnh đi hết chín năm, rồi đi luôn mười năm nữa, bỏ vợ con lại Sàig̣n. Vợ làm mướn, có tiền, nuôi con, c̣n con th́ đi học nay có đứa chắc đă đỗ tú tài. Đế quốc không nuôi là ǵ?
– Tụi Sàig̣n nó không biết anh đi tập kết à?
– Sao không biết, nhưng nó không khó dễ ǵ. Bạn bè tao ở Sàig̣n cùng chơi nhạc cho các “bar” ngày trước thằng nào lại không biết tao đi kháng chiến, nữa là công an mật thám .
Hoàng Việt thở dài sườn sượt :
– Tao nghe chuyện thằng Cao mà tao ớn ḷng. Tao không hiểu nếu trường hợp của nó mà xảy ra cho tao th́ không biết tao làm sao.
Còn tiếp ....
-
MẠNG NGƯỜI LÁ RỤNG
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
....................[/b]
Thấy Hoàng đau khổ lo âu thực sự, tôi không đùa nữa. Tôi cảm thấy buồn.
Thằng Lưu chết, vợ con không hay, gia đ́nh không biết, mà chết ngay giữa thành phố Hà Nội. Riêng nhạc sĩ họ Phan th́ tôi biết nhiều. Tôi và hắn rất tương đắc trong nhiều nhạc phẩm. Hắn làm nhạc bài nào cũng ném cho tôi làm lời, hoặc nhạc và lời của hắn th́ hắn đưa cho tôi chữa tiếp.
Hắn có cô vợ Nhật Bổn lai đẹp lắm. Hồi ở trong Nam hai đứa được một cái giải thưởng hạng nhất về Âm Nhạc, hắn lănh tiền chia cho tôi rồi về cất nhà ở Bạc Liêu chữa bệnh. Một lần gặp hắn ở Thái B́nh, từ trong tiệm nước Chú Xồi đi ra. Hắn nói:
– Tao vừa làm xong một bài hay lắm!
Tôi nói ngay:
– Đưa tao làm lời kiếm một giải thưởng nữa ăn bánh bao với hủ tiếu Chú Xồi chơi.
Hắn xua tay:
– Mày không làm được .
– Bài ǵ mà dữ vậy??
– Rimifông tiến hành khúc!! Mày đâu có làm được!
Tôi hỏi:
– Ai bảo mày thế?
– Bác sĩ bảo phổi tao lủng hai ba lỗ rồi!
Khi ra Hà Nội hắn làm ở Đài Phát Thanh với tôi một lúc. Độ khoảng 1958, một buổi sáng, hắn lên gặp Ban Giám đốc Đài đ̣i giải thích cho hắn nghe: Tại sao Tổng tuyển cử hiệp thương qua đă lâu mà không thấy nói ǵ?
Ban Giám đốc – không rơ là ông nào, có lẽ Huỳnh Văn Tiểng – không biết cách nào làm cho hắn bớt nổi khùng, bèn bảo hắn chờ Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến nói chuyện cho toàn cơ quan nghe rồi đả thông tất cả. Nhưng hắn nổi khùng ngay, nói tạt vào mặt Ban Giám đốc: “L..n vợ mấy ông là l…n người c̣n l…n vợ tôi là l…n ḅ. Các ông muốn tôi bỏ đi bao lâu cũng được!”.
Rồi bất ngờ, hắn chụp lấy con dao rọc giấy trên bàn, vạch áo ra rạch sả ngực và cánh tay mặt của hắn. Rồi cứ để máu chảy ṛng ṛng ướt áo, hắn đi xuống pḥng làm việc. Ai thấy cũng phải kinh tâm. Chỉ có mấy thằng Nam Kỳ … cục mới làm chuyện đó thôi.
Nhưng câu nói của hắn đă loan đi khắp Hà Nội. Nhất là ở Đài Phát Thanh ai cũng “ớn” ông nhạc sĩ “hăng xờ máu” này.
Ít hôm sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến nói chuyện về t́nh h́nh Miền Nam và hiệp thương tổng tuyển cử. Có một anh cán bộ Nam Kỳ … cục đứng lên chất vấn thẳng thừng không ai bụm miệng kịp:
– Xin thủ tướng cho chúng tôi biết… vậy chớ tại sao hồi chúng tôi xuống tàu, Trung ương có hứa hai năm về, nay đă bốn năm rồi! Thủ tướng có thể cho chúng tôi biết là chừng nào chúng tôi về Nam được không?
Thủ tướng Phạm Văn Đồng giận dữ, đáp:
– Làm cách mạng chứ phải làm thầy bói hay sao mà nói rơ ngày tháng cách mạng thành công?
Rồi ông ngoe nguẩy bước xuống bục không nói nữa.
Tôi có dự cái buổi nói chuyện đó. Bị hỏi bất ngờ, thủ tướng lúng túng nên đáp lời không được “biện chứng” lắm. Điều đó làm cho Ban Giám đốc xanh mặt.
Sau khi thủ tướng ra về, Ban Giám đốc bèn mời ông cán kỳ cục lên văn pḥng không rơ để làm ǵ, nhưng sau đó anh chàng biến đi đâu mất. Từ đó mỗi lần có ông lớn tới Đài Phát Thanh nói chuyện, Ban Giám đốc đả thông trước: ” Các đồng chí có thắc mắc vấn đề ǵ, xin cho Ban Giám đốc biết trước, chúng tôi sẽ ghi chép từng câu và bẩm lên đồng chí trả lời chung một lúc, không nên hỏi lẻ tẻ!”
Trước đó cũng có một vụ động trời làm cho Đài Phát thanh trở thành một cơ quan nổi tiếng bê bối nhất Hà Nội. Tác giả vụ động trời này chính là tôi.
Tôi đă viết về vụ ấy rải rác ở nhiều báo hải ngoại, lần này xin ghi lại đầy đủ nhất v́ vụ đó có dính liền tới vụ vượt Trường Sơn của tôi ngót mười năm sau.
Số là hồi chuẩn bị xuống tàu tập kết, tôi được cho đi làm phóng viên của tờ Quân Đội Miền Tây để viết những bài tường thuật về sự đón tiếp nồng nhiệt dân Nam Bộ tập kết của nhân dân Miền Bắc và của Bác Đảng ở bến Sầm Sơn. Mỗi chuyến đi ra vào chừng hai tuần lễ. Trong thời gian qui định cho cuộc chuyển quân ở bến Chắc Băng là ba tháng, tôi có thể làm con thoi ra vào ít nhất là năm chuyến, viết năm bài động viên quân dân Miền Tây mạnh dạn rứt áo ra đi.
Không vương thê nhi
Ra Miền Bắc nước tuyết rét mướt.
Tôi ra tới Sầm Sơn đi t́m tài liệu xong, chuẩn bị theo tàu trở vô viết bài cho toà báo lúc bấy giờ c̣n đóng ở Chắc Băng và hăy c̣n in báo rào rào. Giữa lúc đó th́ tôi bị ở trên giữ lại, với lư do: Không cần loạt bài ấy nữa.
Tôi chới với ngay v́ cái “lệnh phản lệnh” bất ngờ ấy. Tôi buồn lắm. V́ hai lẽ: lẽ thứ nhất là hứa với bạn bè c̣n trong Nam sẽ nhậu một trận đái ra rượu, mửa tới mật xanh trước khi xuống tàu. Lẽ thứ hai là gặp một số người Nam vừa ra c̣n nằm ở Sầm Sơn đă tỏ ư chán nản do đó tôi hoang mang và trong đầu, nói nào ngay chưa có ư định ở hẳn lại không đi tập kết, nhưng đă manh nha cái ư định đó rồi. Bây giờ bị giữ lại th́ hết phương cục cựa.
Sau này tôi mới đoán ra ư đồ của ở trên là sợ tôi trở về Chắc Băng nói tùm lum chuyện này chuyện nọ làm nản ḷng ba quân.
Cái ư đinh manh nha ấy lớn dần khi tôi vào làm ở Nông trường Tŕnh Môn tỉnh Nghệ An và khi tôi ra công tác ở Đài Phát thanh. Tôi cảm thấy tôi không thể nào sống nổi trên đất Bắc. Cho nên một buổi sáng kia, tôi lấy chiếc xe đạp nội hóa sơn màu vàng hiệu Alpha của cơ quan, tôi đạp thẳng một hơi ra trụ sở Ủy Ban Quốc tế ở đường Đinh Lê gần Bắc Bộ Phủ, cạnh đường Ngô Quyền.
Tôi dựng xe đạp vào cái cḥi gác trong đó đang tḥi ra một cái đầu đội mũ sao vàng.
– Đồng chí đi đâu đây? Người lính hất hàm hỏi,
– Tôi muốn gặp Ủy Ban Quốc tế.
– Có việc ǵ ?
– Theo Hiệp đinh Giơ-ne th́ trong ṿng … tháng (tôi không nhớ rơ thời gian được ấn định này), người Nam lẫn người Bắc đều có quyền ra vào với sự giúp đỡ của Ủy Ban Quốc tế để định cư. Tôi muốn nhờ Ủy ban đưa tôi về Nam.
Người lính ngập ngừng một chốc rồi chồm qua cửa cḥi gác ngó chiếc xe đạp. Xong, anh ta vui vẻ:
– Bữa nay… Ủy Ban đi vắng cả. Vậy phiền đồng chí trở về cơ quan. À mà quên, đồng chí làm ở cơ quan nào ?
– Đài Phát Thanh.
– Ờ, ờ, ờ, từ đó tới đây cũng gần. Vậy đồng chí trở lại ngày mai, sẽ có người tiếp mà … đồng chí muốn Gia Nă Đại, Ba Lan hay Ấn Độ?
– Ai cũng được miễn Ủy Ban Quốc Tế th́ thôi. Chào đồng chí.
Tôi lên xe đạp về cơ quan một hơi , yên chí lớn ḿnh sẽ được gặp Ủy Ban Quốc Tế ngày mai. Thực t́nh, từ ngày ra Miền Bắc tôi thấy không thể sống được. Cái Miền Bắc Độc lập Tự do sao nó không Hạnh phúc một tí nào .
Hạnh phúc. Đó là cái ǵ? – Cơm ăn áo mặc, nhưng không phải chỉ có thế. C̣n Tự do nữa chứ. Tự do là cái ǵ? Tôi không biết nhưng tôi cảm thấy cuộc sống ở đây không thoải mái. Nó như thế nào ấy, không phải cái mà ḿnh mơ ước khi khởi đầu kháng chiến chống Pháp. Ngoài ra tôi c̣n nhớ nhà quá sức, không chịu nổi.
Ở trong Nam tôi vẫn đi xa nhà – liên tục chín năm – nhưng tôi c̣n được thư từ, c̣n được nhắn nhe c̣n được biết cha mẹ tôi mạnh khỏe hay đau yếu thế nào. C̣n ra đây bịt bùng bốn phía. Mà ngày về th́ không có. Tương lai chỉ là một dấu hỏi không ai trả lời. Thế nên con đường lên Ủy Ban Quốc tế là con đường vừa nhanh vừa rẻ lại vừa hợp pháp.
Tôi vừa đạp xe về tới cổng Đài Phát Thanh ở số 52 Quán Sứ thi đụng một lô , nào là trưởng pḥng trưởng ban đứng giàn chào tôi.
– Đồng chí đi đâu đấy ?
– Tôi đi t́m đề tài.
– Đồng chí ra Ủy Ban Quốc Tế phải không?
Tôi thấy không thể chối được nên chịu thật.
Tôi phải lên Ban Giám đốc. Tôi vẫn nói thật không chối quanh một chút nào. Mọi người đều ngẩn ngơ. Tôi hơi sợ nhưng vẫn không nguy biện ǵ về việc làm của tôi cả. Và đến giờ phút này tôi mới hiểu ra là đồng chí gác cổng người anh em Ủy Ban Quốc Tế đă “giúp đỡ” tôi, báo cáo bằng điện thoại về Đài Phát Thanh.
Ngay chiều hôm đó, một cuộc họp mặt toàn cơ quan. Người đông đến nỗi không có đủ chỗ, phải đứng cả bên ngoài hành lang. Một cuộc kiểm thảo vĩ đại. Có sự chứng kiến của toàn ban Giám đốc Đài: Trần Lâm, Nguyễn Kim Cương, Huỳnh Văn Tiểng (hai ông Phó là dân từ Nam tập kết ra Bắc). Chủ tọa phiên họp là Nguyễn Thanh Đạm, Thư kư Công Đoàn của Đài.
Tôi giơ mặt ra chịu đấm. Nhưng thật bất ngờ. Chẳng có “cú đấm” nào cả. Chỉ toàn “cú vuốt.” Nghĩa là không ai nói mạnh hoặc sỉ vả chỉ trích lập trường quốc tế của tôi.
Đúng ra đó là chủ trương của Ban Giám đốc. Các ông ấy không muốn làm mạnh, sợ tôi liều mạng. Dân Nam Cờ mà. Bất măn rồi th́ ǵ mà không dám làm. Ngoài ra cũng có thể là v́ trước đây ít tuần có một anh bạn của tôi cũng làm ở Đài này đă chui bằng đường nào không biết mà qua Lào, xổng tuốt về Sài G̣n. Đài Phát thanh Sài G̣n la om lên … Anh ta nói với tôi: “Tao nhớ vợ quá, chịu hết nỗi rồi”. Ít hôm sau thấy anh ta mất tiêu. Sau nghe ra anh ta đi đường Nghệ An lên Đô Lương.
Do “năm bảy xôi nhồi thành một chơ” như thế nên tội của tôi đáng lẽ phải đi cải tạo mút mùa nhưng lại chẳng hề chi. Chỉ có một tiếng nói nặng của anh Phạm Tường Hạnh (bây giờ là nhà văn kêu rêu xă nghĩa to tiếng nhất nh́ Sài G̣n), Hạnh nói rằng tôi “khờ khạo!” Thế thôi c̣n ngoài ra không ai nói ǵ , kể cả các vị c̣ mồi được mớm trước cũng thun cổ … c̣.
Nhưng như thế đâu đă yên thân cho cái thằng lên UBQT! Đâu vài hôm sau tôi lại được Ban Giám đốc mời. Ông Huỳnh Văn Tiểng, Phó Giám đốc Đài (bây giờ là tay tổ trong Câu lạc bộ Kháng chiến chống đảng kịch liệt ở Nam Kỳ ... Ha… ha… Té ra nhờ thời gian (ba mươi hai năm! Cũng hơi nhiều ! mà tôi được minh oan. V́ rằng tôi trốn chạy xă nghĩa hồi đó là phải lư lắm – trước ông Phó Giám đốc những ba mươi hai năm!).
Ông Tiểng đưa cho tôi xem một tờ báo của Sài G̣n tường thuật về vụ lên UBQT của tôi với ḍng chữ tít rất to – (Rất tiếc tôi không được ông Tiểng cho xem tên tờ báo mà chỉ cho tôi xem bài báo: “Xuân Vũ lên UBQT đ̣i về Sài G̣n – VC đă biết được và đày đi nông trường!” Tôi nhớ nhất là chữ ĐÀY!!
Còn tiếp ....