Người con gái Duy Xuyên -- Hương Thủy ( Tiếp theo )
Hạnh xuất hiện trong bộ đồ hoa màu tím nhạt. Em mừng rỡ “a” lên một tiếng rồi sà xuống bên cạnh tôi, th́ thào “Em nhớ anh quá!”.Mùi hương chanh và mùi tươi mát của da thịt con gái nồng nàn bốc lên nhưng quả thật tôi không c̣n ḷng dạ nào để rung động. Tôi đẩy nhẹ người Hạnh ra. Nàng hơi khựng lại rồi hỏi tôi : “Anh đến lâu chưa ? Sao anh biết má vắng nhà ?”. Tôi trả lời “Do t́nh cờ vậy thôi”.
Những cảm xúc trong tôi đă bị dội một thùng nước lạnh. Đầu tôi rộn lên nhiều câu hỏi khó trả lời. Hạnh không giấu sự vồ vập và hé môi chờ đợi một nụ hôn say đắm nhưng tôi chỉ chạm phớt vào môi. Nụ hôn lần này sao nghe vị đắng chát. Tôi có cảm tưởng bị lừa dối, thậm chí hơi sợ hăi. Có lư nào cô ấy đang giăng bẫy tôi, một chàng Sinh viên Vơ Bị, một Sĩ Quan quân lực VNCH tương lai ?
Người hàng xóm qua chơi kéo tôi thoát khỏi sự khó xử. Lấy cớ phải về họp gấp, tôi từ giă Hạnh trong nét mặt phụng phịu của nàng.Tôi đang cần thời gian để suy nghĩ.
Đêm hôm ấy tôi trằn trọc măi. Gói Capstan gần hết dù tôi không phải là thằng nghiện thuốc lá.Tôi đă hiểu ra thái độ lạnh nhạt của má và bà ngoại nàng. Tôi tự vấn xem có khi nào Hạnh hỏi ḿnh về lĩnh vực quân sự chưa? Có khi nào ḿnh sơ suất tiết lộ điều ǵ chăng. Rơ ràng tôi yêu Hạnh nhưng phương châm của trường Mẹ đă khắc sâu “Tổ Quốc - Danh Dự -Trách Nhiệm”. Tôi thiếp đi với điều tâm niệm thứ tám trong Mười Điều Tâm Niệm của SVSQ/TVBQGVN : “Không có ǵ là không thể làm được đối với SVSQ”.
[img]http://i960.photobucket.com/albums/ae89/redsaigon300/Hinh%20xua/DaLat/vdalat68landrover.jpg[/img]
Tuần sau đó tôi nằm mẹp trong Chi khu. Hai lần có lời nhắn của cô Dung ra quán sách nhưng một lần tôi cáo ốm và một lần kêu bận công tác. Tôi không đủ can đảm để gặp Hạnh. Tôi sợ ḿnh sẽ bị lung lay bởi đôi mắt ướt và cái nốt ruồi như hạt đậu đỏ cuối chân mày.
Rồi cũng đến ngày từ giă Duy Xuyên. Hạnh gởi qua Kim Long cho tôi một túi nhỏ gồm những mứt bánh thổ sản, sáu chiếc mouchoir có hai chữ H lồng nhau và lá thư chỉ có một ḍng “Em yêu anh măi măi”.Tôi nhếch môi cười cay đắng, đem mớ quà cho bạn bè liên hoan, sáu cái khăn tay tôi để lại trên cái ghế bố ngủ đêm ở Chi khu và xé bức thư thành những mảnh nhỏ.
Ngày leo lên chiếc GMC ra phi trường quân sự Đà Nẵng, đưa mắt nh́n quanh, tôi nhận ra Hạnh đứng nép sau một cây phượng lớn. Em nh́n tôi, môi mấp máy điều ǵ không rơ. Thôi đành. Vĩnh biệt mối t́nh đầu oái oăm !
[img]https://lh4.googleusercontent.com/-iswi4RxkX7s/UfkYcahBBJI/AAAAAAAAAQA/WCRgg7BeAcg/w958-h643-no/Untitled43.png[/img]
Về lại trường, chúng tôi chúi mũi vào học Văn hóa bù lại cho chuỗi ngày công tác. Sự bân rộn làm tôi không nghĩ ngợi nhưng khi đêm về tôi luôn nhớ đến Hạnh và những cái hôn mềm môi ướt rượt. Tôi nhận gác thay cho đồng đội ở Tiền đồn hoặc Đài tử sĩ mà không chút phân vân. Quên, quên và phải quên.
Nhưng bất ngờ thay, tôi trở thành người nổi tiếng của Đại đội v́ những lá thư dồn dập bay về. Nét chữ màu tím mảnh mai của Hạnh ! Một tuần tôi nhận đúng bảy lá ! Một tháng đủ ba mươi chiếc phong b́ ! Tay đàn em K30 mỗi lần nhét thư vào pḥng dù cố gắng nghiêm trang nhưng không giấu nổi nụ cười tủm tỉm.
Người con gái Duy Xuyên -- Hương Thủy ( Tiếp theo hết )
Rồi cuộc đời đưa đẩy tôi lưu lạc qua đất Campuchia bằng xe đ̣ ở Tân Châu - Hồng Ngự. Tôi làm nghề cắt tóc dạo ở Phnompenh, bỏ mối thuốc cho một ông Trùm buôn lậu thuốc Tây của Xí nghiệp Quốc doanh Việt Nam kiếm cơm hàng ngày, thậm chí có khi c̣n làm y tá chích thuốc dạo cho bệnh nhân. Ơn trời, chưa nghe ai chết !
Tôi giao tiếp với người Cam ở các chợ Schabarbauu, chợ Chắc Nghệ … Đôi khi thất chí, muốn lấy đại một cô Miên quấn xà rông, có mấy cái răng vàng 24 Karat sáng chóe chuyên ăn mắm ḅ hóc cho xong đời !
T́nh cờ tôi quen anh Tài, một Việt Kiều Miên về nước năm 1972 lúc người Việt bị cáp duồn. Anh lên lại Nam Vang làm ăn và có ư định vượt biên qua Thái Lan. Anh cần một tay sử dụng súng sẵn sàng bắn vào Công an hoặc hải tặc. “Một liều ba bảy cũng liều”, tôi nhận công việc này.
Chúng tôi lên Kompongsom mua một chiếc ghe cũ bề ngang 2m dài 7m được tân trang, sửa lại lốc máy và khởi hành vào một đêm tháng Tám từ Vịnh Tân Hao. Trên ghe có sáu người lớn và hai con nít. Ghe không dám đi gần bờ v́ sợ lính biên pḥng của Miên. May mắn thay, gần tới KoKong th́ trời đổ mưa lớn che khuất tầm nh́n của các trạm gác. Lênh đênh trên biển 4 ngày chúng tôi gặp những chiếc tàu treo cờ Thái và ghe đi đúng hướng cập vào tận một hải cảng. Tôi chưa phải sử dụng cây M16 !
Lúc quyết định theo anh Tài tôi có ư nghĩ nếu chuyến đi không thành công th́ biển sẽ là mồ chôn cuộc đời đă tận đáy xă hội của ḿnh.Tôi chẳng c̣n sợ ǵ cái chết. Tôi cũng dự định nếu đến được Thái Lan th́ sẽ ngữa mặt lên trời cười ba tiếng bù lại hơn 10 năm tủi nhục sau ngày Miền Nam sụp đổ. Nhưng tôi không làm được điều này , v́ chỉ kịp xách cái bao đi theo người lính Thái về trại tạm trú Leam Ngộp.
Sau ba tuần ăn, ngủ, nghỉ, chúng tôi chuyển lên trại chính là Panat Nikhom. Nghe nói chỉ hai tháng sau, trại tạm cư đóng cửa không c̣n chấp nhận người tị nạn Việt Nam.Và ở đây, tôi đă quen Minh Hạnh, vợ của tôi bây giờ. Qua bao nhiêu gian khổ, tôi không c̣n giữ được bất cứ một thứ giấy tờ nào.Tôi chỉ c̣n nhớ số quân của ḿnh.
Nhưng may mắn thay, khi được Cao ủy Liên Hiệp Quốc phỏng vấn, tôi gặp Thiếu tá Niên trưởng Tôn Thất Diên K10, Trưởng khoa Anh Văn của Trường Vơ Bị, đang làm phiên dịch cho phái đoàn.Thầy đă tận t́nh giúp đỡ tôi. Chao ôi là ân t́nh của trường Mẹ ! Tôi được nhập cư vào đất Mỹ. Trong tháng ngày chờ đợi và học nghề ở Phi Luật Tân, bạn bè K28 cũng đă yểm trợ cho tôi một ít tài chánh trong t́nh nghĩa đồng môn, bạn bè cùng khóa…
Như bao người đến Mỹ muộn màng, nên vợ chồng phải hùng hục kiếm sống. Một người ôm 2,3 jobs và thay đổi công việc liên tục từ hầu bàn, rửa bát, làm vườn, dọn tuyết, sơn nhà, giữ trẻ … đêm về c̣n phải đi học ESL . Bên nhà báo tin mạ mất, tôi cũng chẳng thể trở về. Thôi th́ buổi chiều ly biệt cuối năm đó, tôi cũng đă nhủ thầm “Lạy mẹ, con đi”…
Tôi cũng không hiểu sao vợ tôi lại có cái tên trùng với Hạnh , Duy Xuyên ? Lại sinh cùng năm kư hiệp định Geneve 1954. Minh Hạnh người Vĩnh Long và hiền lành như cây trái miệt vườn sông Hậu. Cô ấy chưa bao giờ hỏi tôi về quá khứ và cũng không biết ǵ về Trường VBQGVN với những chàng trai quân phục dạo phố worsted, Jaspe, cầu vai Alfa đỏ … Chúng tôi từng bước ổn định cuộc sống với hai con gái chăm ngoan.
Sau những nhọc nhằn, giờ đây tôi đă có những phút giây thư giăn. Tôi bắt đầu liên lạc, thư qua tin lại với bạn bè xưa. K 28 có đâu khoảng 50 người trên đất Mỹ. Bạn bè hầu hết đă quá 60, lâu lâu lại nghe tin buồn một thằng về “Vùng V”. Ôi ! Đời người như bóng câu qua cửa sổ.
Năm ngoái, tôi về Houston, Texas tham dự Đại hội Vơ Bị lần thứ 19. Thật cảm động khi gặp lại những gương mặt “gian ác” thuở nào. Chúng tôi ḥ hét, cười đùa y như những chàng trai mới lớn. Nhắc lại kỷ niệm xưa có thằng rươm rướm nước mắt dù tóc trên đầu đă ngă màu bạc trắng.
Hôm đến nhà hàng Kim Sơn dự dạ tiệc, ngang qua một số chị em Hội Phụ nữ Lâm Viên, tôi chợt nghe tiếng gọi :
- Anh Hiệp…Có phải anh Hiệp không ???
Tôi dừng chân. Trước mặt tôi là một người đàn bà c̣n vẻ duyên dáng trong chiếc áo dài xanh truyền thống…Nhưng tôi không thế nào nhớ nổi đó là ai.
Người đàn bà mỉm cười : -Trông anh không thay đổi mấy. Em nhận ra ngay. Dung Duy Xuyên đây ! Anh c̣n nhớ không?
- Ồ, cô Dung Duy Xuyên, người góp phần mai mối cho mối t́nh đầu của tôi ở Quảng Nam. Chúng tôi mừng rỡ. “Tha hương ngộ cố tri ”, hạnh phúc nào bằng ! Chúng tôi bồi hồi nhắc lại chuyện hơn 40 năm về trước, thời tôi là một anh SVSQ cù lần và Dung với cái quán cho thuê sách ở góc chợ … Dung đă lấy vị Niên trưởng K27 khi anh đi “tù cải tạo” về và hai vợ chồng qua Mỹ theo diện HO năm 1992.
Dung chợt nghiêm mặt hỏi tôi :
- Anh có nhớ ǵ về Hạnh không ? Tôi cười cười :
- Sao ? Cô ấy làm bà Bí thư Tỉnh ủy chưa ? Có bao nhiêu biệt thự rồi ?
- Anh không biết thật sao ? Đàn ông các anh thật vô tâm … Nó tội lắm.
Dung kể cho tôi nghe. Quả thực như tôi nghĩ, ba Hạnh không chết như trong lư lịch đă khai. Ông tập kết ra Bắc khi Hạnh c̣n nằm trong bụng mẹ và trở về Nam từ những năm 70. Ông móc nối với gia đ́nh để được tiếp tế và hoạt động trên đất Quảng Nam. Đó cũng chính là lư do mà cả bà ngoại và má Hạnh ngăn cản không cho Hạnh giao tiếp với tôi, một người lính VNCH.
Sau ngày tôi trở về trường không lời từ giă, Hạnh đau khổ lắm. Không nhận được thư hồi âm, cô trốn nhà lặn lội vào Đà Lạt. Trước thái độ cự tuyệt lạnh lùng và dứt khoát của tôi, cô về sống lầm lủi ở Xuyên Phước, phụ trách pḥng Hộ sinh Xă.
Ngày miền Nam mất, ba Hạnh công khai xuất hiện với cương vị một “Cán bộ Cách Mạng” cao cấp trong sự mừng rỡ của người mẹ chờ đợi đằng đẵng 20 năm ṛng. Nhưng ngày vui ngắn ngủi chẳng được bao lâu. Sự thủy chung của bà đă bị trả giá khá phũ phàng. Chỉ bốn tháng sau, một người đàn bà miền Bắc xuất hiện với những đứa con sau lưng. Ba Hạnh lúng túng giải thích, nhưng mọi chuyện đă quá rơ ràng.
Má Hạnh không có con trai. Căn nhà từ đường có cây ngọc lan, có cái giếng đá ong đành để lại cho gia đ́nh mới. Hai mẹ con trở về Điện Bàn sống với bà Ngoại trong ngôi nhà tôi đă một lần đến thăm.
Hạnh từ chối đặc quyền đặc lợi dành cho “con em chính sách” đi học Bác sĩ ở Hà Nội. Mẹ Hạnh suy sụp hẳn đi và mất sau một cơn đột quỵ. Trước khi mất, bà cầm tay Hạnh ứa nước mắt như một lời xin lỗi muộn màng. Măn tang mẹ, Hạnh quyết định đi tu Thiên Chúa giáo ḍng Phước Môn. Và hiện giờ nàng đang là một nữ tu phụ trách trường trẻ em mồ côi gần Nhà thờ Núi Trà Kiệu !
Tôi ngồi lặng. Trong đầu tôi dần hiện ra h́nh ảnh cô gái có khuôn mặt trắng mát, cái nốt ruồi như hạt đậu đỏ cuối chân mày, một buổi chiều tháng Ba, ngôi nhà thờ cổ, ngụm nước giếng mát lạnh và … nụ hôn đầu. “Lần đầu ta ghé môi hôn. Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang …”
Tôi biết ḿnh sẽ có nhiều đêm mất ngủ. Hạnh ơi !…
Hương Thủy