DUYỆT LẠI SỰ THẬT LỊCH SỬ
[CENTER]
Bài viết của Luật Sư[B] NGUYỄN HỮU THỐNG[/B][/CENTER]
Theo sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê.
Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đă về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9, 1969.
Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập.
Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động vơ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đă đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho ḿnh tư cách độc quyền lănh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau.
Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lư để đưa ra những nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản.
Dưới chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động vơ trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên b́nh diện dân tộc đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương:
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm (l946-l954)
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Ḥa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc.
Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đă đấu tranh bạo động vơ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đă đấu tranh ôn ḥa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng v́ vậy họ đă tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn c̣n từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay v́ 40 năm như trường hợp Việt Nam.
Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đă trả chủ quyền độc lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hăn tại Nam Á.
Năm 1941, khi Thế Chiến II c̣n đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Ḥa Lan đă hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc.
Mùa xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xă, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Ḥa Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu:
Độc lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp.
Độc lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh.
Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh.
Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan.
Như vậy lịch sử đă chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh vơ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. V́ đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ư thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu ḅ húc nhau th́ ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hăn đă hy sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền.
CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP
Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập v́ quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đă chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đă chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia.
Tại Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng (lănh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xă Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn hóa và một ngôn ngữ).
Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi kư Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đă chính thức đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332).
Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 kư kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại.
Hiệp Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và ḥa ước quốc tế đếu do các ngoại trưởng kư. Riêng Hiệp Định Élysée đă được chính Tổng Thống Vincent Auriol tự tay kư, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Pḥng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được ḥan toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ kư với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đă bị Hiệp Định Élysée băi bỏ.
Cũng trong năm l949 Trung Cộng đă dùng vơ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Tŕêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản.
Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiă vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ.
Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đă phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu vơ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lănh đạo quốc gia.
Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu vơ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia.
Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đă quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp đă trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đă tŕnh bầy, Pháp đă đăng kư Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đă chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam.
CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Năm l975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. V́ theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam đă được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-l949.
Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống).
Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đă phủ nhận nền độc lập này và đă phá hoại nền thống nhất này. V́ Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lănh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu vơ trang và đă kư Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu vơ trang để thôn tính Miền Nam năm l975.
Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đă thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. V́ quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đă đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, v́ yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đă hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền lănh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh vơ trang, Hồ Chí Minh đă cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh vơ trang, Đảng Cộng Sản đă cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước!
Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào.
CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU
Muốn có cái nh́n khách quan và trung thực, chúng ta hăy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại Á Châu.
Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đă đấu tranh vơ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đă chủ trương đấu tranh ôn ḥa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu.
1946: Phi Luật Tân độc lập
Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm t́nh với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi.
Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lănh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái B́nh Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm v́ lư do chiến cuộc).
Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái B́nh Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động t́nh báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through Cooperation).
1946: Syrie và Liban độc lập.
Nếu Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, th́ Pháp cũng là quốc gia có truyền thống Tự Do, B́nh Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người.
Tại Syrie và Liban, lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đă từng du học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa c̣n có Đảng Xă Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa.
Năm 1936 Mặt Trận B́nh Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xă Hội Léon Blum kư hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline).
1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập.
Sau các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đă thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể.
Tại Ấn Độ, 3 nhà lănh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đă từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy tŕ thuộc địa, c̣n có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xă Hội Pháp.
Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lănh tụ Đảng Bảo Thủ.
Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai, ôn ḥa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xă hội lạc hậu, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lănh đạo của Gandhi, Ấn Độ đă giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đă phải hy sinh xương máu ṛng ră trong 40 năm.
1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập.
Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lănh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San t́nh nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...
Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập.
(Đọc tiếp)
Ôi thằng tiến sỹ Bác Hồ!!! 1/4
Ha ha ha tiểu sinh tưởng đứa nào, chứ cái tên trở cờ này làm sao mà khiến Nguyễn Lăo Tiền Bối bấn loạn tinh thần vậy được?
Tiểu sinh kính Nguyễn Lăo Tiền Bối bài thơ của Thần Thơ [b]SR[/b] của Take2Tango thuở trước:
[COLOR="#0000FF"][i]
Con thương chú NGỌC, học cao
Chữ TRI, chữ TRÍ bỏ vào nơi đâu?
Chữ LIÊM, chữ SỈ nát nhầu,
Chú mong được VEM xoa đầu khen: ngoan
[/i][b]SR -- take2tango[/b][/COLOR]
Nó nè:
[IMG]http://daivietnguyen.files.wordpress.com/2009/10/92022-01.jpg[/IMG]
[QUOTE=Nguyen Hung Kiet;219793]Than goi Mai Han chu thot va cac Anh Chi Em Quoc noi va Hai ngoai cua Dien dan Dat Viet - Vietland : Vi tam quan trong cua bai chu se tac dong rat lon den Quoc dan Dong bao Quoc noi va Hai ngoai tren 95 trieu nguoi .
Biet Dich , Biet Ta tram tran tram thang !
Chung ta vinh danh co Vang , thi chxhcnvn vinh danh co Do sao vang ,
Boi mot nguoi cuu si quan Q LVNCH , Tien
si Vat ly My quoc , Giang su truong Vo bi Lien quan Da lat : Tran Chung Ngoc
Bao tuoi tre tai chxhcnvn da dang bai viet cua Tien si , cuu Si quan Quan luc Viet nam Cong hoa Tran chung Ngoc
Moi cac anh chi em phan cong de bao ve bai chu , va Giai doc cho 93 trieu dong bao quoc noi bat hanh .
, va rua vet nho cho Quan luc Viet Nam Cong Hoa .
Tran trong
Nguyen Hung Kiet
[url]http://tuoitre.vn/tin/theo-guong-bac/20090921/30-nam-toi-di-tim-ho-chi-minh/338132.html[/url]
Tai but
Toi thiet tha mong cac Anh Chi Em cua Dien dan Dat Viet - Vietland va dac biet cac anh cuu si quan Quan luc Viet Nam Cong hoa : Ca thon , Phi Long 51 , Hungquan 25 , Tet Mau Than 68 , Nguyen Kien Hung , Pleiku , Ba Bua , Tu do cho Viet Nam ..,.hay len tieng vi La co Vang ma cac Anh da Chien dau va do mau de bao ve Tu do cho mien Nam.
Cac Anh hay Giai doc cho 93 trieu dong bao Quoc noi , va rua vet nho cho Quan luc V NC H.
Toi thiet tha mong cac Anh Chi Em :Khong dung tu chuoi boi tho tuc ,vi Dong bao Quoc noi dang nhin cac AC E phan cong de Giai doc ,
Co nhu vay bai chu moi co gia tri , thuyet phuc dong bao Quoc noi .[/QUOTE]
Ôi thằng tiến sỹ Bác Hồ!!! 2/4
[B][SIZE=3]Ông “Tiến Sĩ Bác Hồ”[/SIZE][/B]
[B][LEFT]Lê Minh[/LEFT][/B]
Mỗi khi nói đến Hồ Chí Minh th́ người ta vẫn thường cho rằng đây là một nhân vật có nhiều “huyền thoại”, có viết hoài cũng không bao giờ hết được. Quả thật là đúng vậy, bởi v́ trong khi nhà nước CSVN đang ra sức tô vẽ h́nh tượng HCM và phát động “Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên diện rộng toàn cả nước, th́ ở hải ngoại cũng xuất hiện cuốn phim tài liệu “Sự thật về Hồ Chí Minh” và cuốn DVD này hiện nay cũng đang được người dân ở trong nước chuyền tay nhau bằng mọi dạng, khiến công an cất công lùng kiếm như hồi cách đây hơn 2 năm về trước khi xuất hiện cuốn phim “Vuợt Sóng”, và đĩa nhạc DVD Asia 54 – “Bước Chân Việt Nam”.
Cuộc chiến giữa hư và thật đang tiếp diễn th́ hệ thống báo chí “lề phải” được ông Tiến sĩ Mỹ Trần Chung Ngọc tiếp sức bằng hai bài viết có tựa đề hết sức là “ấn tượng”: “Những luận điệu bịa đặt rất rẻ tiền, vô giá trị“ đăng trên báo Hà Nội Mới ngày 2/09/2009 trong mục Chính Trị; và “30 năm tôi t́m hiểu để viết về Hồ Chí Minh“ được trịnh trọng đăng trong mục “Tư tưởng-Văn hóa” của trang báo điện tử Đảng CSVN ngày 16/09/2009.
Ở hải ngoại, hễ nói đến ông Tiến sĩ Trần Chung Ngọc th́ có ai mà không biết. Ông rất “nổi tiếng” và đ́nh đám nữa là khác. Để hiểu ông tiến sĩ này “nổi tiếng” như thế nào th́ hăy thử gơ vào Google hàng chữ “Tiến sĩ Trần Chung Ngọc” sẽ có vô số links, website, bài viết có liên quan đến ông tiến sĩ này, nhưng xấu th́ nhiều mà tốt lành th́ hiếm.
Theo tiểu sử cá nhân “chính gốc” trên sachhiem.net, th́ ông tiến sĩ này là “dân Ngụy” thứ thiệt, bởi v́ đă từng đi học, đi lính rồi đi học trở lại, và lại được chính quyền VNCH cho đi du học và lấy bằng tiến sĩ tại Mỹ.
Tháng 4 năm 1975, ông cũng nhanh chân lên tàu đi tỵ nạn tại Mỹ. Và kể từ ngày đó tại hải ngoại bắt đầu xuất hiện những bài viết kư tên Trần Chung Ngọc, cổ xúy hận thù tôn giáo, đả phá Thiên Chúa Giáo, kể cả những bài viết “tô hồng” đi dần hẳn vào “lề phải”. Phải nói là ông Tiến sĩ này có sức viết rất ghê gớm, viết lung tung, viết loạn cào cào, cho nên hầu hết các bài viết đều tràng giang đại hải, nhất là từ ngày nghỉ hưu. Với gốc gác là dân khoa học, cho nên ông có lối viết rất “khoa học” v́ thường trích dẫn một đoạn ngắn (quote) các bài viết hay lời của các tác giả ngoại quốc rồi bỏ lửng, làm cho đọc giả bị rơi vào mê cung, không biết đâu mà lần, đành phải “bó tay.com”… chịu thua cách lư luận cùn của ông tiến sĩ khoa học này. Trong khi cái không cần thiết th́ ông lại trích dẫn luôn nửa trang giấy
Mấy năm gần đây, ông tiến sĩ c̣n khoe cái tủ “Sách Hiếm” với rất nhiều thể loại sách khác nhau, những tựu trung vẫn là tôn giáo và chính trị. Mà quả thật, tủ sách của ông tiến sĩ chứa toàn những quyển sách hiếm có… người đọc! Ngoài ra ông tiến sĩ c̣n kết bạn giao du, đăng bài viết của nhiều nhà báo “lề phải”, mà một trong những nhà báo “lề phải” thuộc hàng ăn tục nói bậy phải kể đến nhà báo Chế Trung Hiếu.
Trở lại với hai bài viết, chúng ta hăy lần lượt thử t́m hiểu xem ông tiến sĩ đă viết ǵ.