LỄ VINH DANH CỰU CHIẾN BINH ÚC VÀ CỰU QUÂN NHÂN QLVNCH ĐĂ HY SINH BẢO VỆ MIỀN NAM VIỆT NAM.
[IMG]https://scontent-syd1-1.xx.fbcdn.net/hphotos-xpa1/v/t1.0-9/13006744_1173873305979700_5719868456712994462_n.jpg?oh=103fb92eebbbfaf773bba6e682a64b47&oe=57C0CB07[/IMG]
[FONT=Arial][COLOR="#B22222"][B]* ▼ Nghe Audio của SBS Radio phỏng vấn ▼ [/B][/COLOR]
[url]http://www.sbs.com.au/yourlanguage/vietnamese/vi/content/50-nam-tran-chien-long-tan-vinh-danh-va-tri-cuu-chien-binh-uc-va-qlvnch?language=vi[/url]
Thứ Năm, ngày 14 tháng 4 Quốc Hội tiểu bang Victoria Úc Đại Lợi đă tổ chức Lễ chính thức công nhận, vinh danh và tri ân những cựu chiến binh Úc tham chiến tại miền Nam Việt Nam và các cựu quân nhân QLVNCH những người đă sát cánh bảo vệ miền Nam Việt Nam tự do.
Buổi lễ cũng đánh dấu 50 năm trận chiến Long Tân trận đánh nổi tiếng nhất của quân đội Úc khi tham chiến tại Việt Nam. Trận chiến diễn ra trong hai ngày 18 và 19/8/1966 có sự tham dự của đơn vị biệt đội Delta 6RAR với 18 binh sĩ Úc thiệt mạng, 24 người bị thương.
Trên 100 cựu chiến binh Úc - Việt và đại diện các hội đoàn tham dự buổi lễ vinh dự này. Buổi lễ đă được ông Thủ Hiến Daniel Andrews khai mạc với sự tham dự của một số Bộ Trưởng chính phủ ông Luke Donnellan Bộ Giao Thông, ông John Eren Bộ trưởng Bộ Cựu Chiến binh và ông Robin Scott Bộ trưởng Bộ Sắc Tộc.
Những quan khách tham dự Lễ Vinh Danh được chia ra làm 2 nhóm để tham dự cả Hạ viện và Thượng viện. Ở mỗi Viện chừng 10 dân biểu và nghị sỹ mỗi người có 90 giây để tuyên bố ghi nhận sự kiện.
Đây là 1 sự kiện lịch sử vì lần đầu tiên cả Lưỡng Viện Quốc Hội Úc vinh danh các cựu chiến binh anh dũng bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam. Được biết Cộng đồng đang vận động một buổi lễ tương tự tại Quốc Hội Liên Bang.
Sau buổi lễ là buổi tiếp tân liên hoan tại ANZAC HOUSE với sự phát biểu của bà Nguyễn Phượng Vỹ chủ tịch CĐNVTD Victoria, ông Võ Trí Dũng chủ tịch CĐNVTD Úc châu, ông Albert Lê Phụ Tá Phó Chủ Tịch Nội vụ CĐNVTD Victoria, ông Bob Elworthy Chủ tịch Hội Cựu Chiến Binh Úc và ông Nguyễn Công Minh Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân Úc châu và Victoria.
Sau cùng là một cuộc họp báo cho hai ông Bộ trưởng Bộ Cựu Chiến binh John Eren và Bộ trưởng Bộ Sắc Tộc Robin Scott.
[B]Nguyễn Quang Duy[/B]
Melbourne Úc Đại Lợi
15-4-2016
[COLOR="#A52A2A"][B]* H́nh và bài tường thuật trên Facebook của Nguyễn Quang Duy[/B][/COLOR][/FONT]
Việt-Nam Cộng-Ḥa một thời khó quên
[IMG]http://3.bp.blogspot.com/-bhQUb8HYT_c/U4Xaxaxc7_I/AAAAAAAAAD4/T3llCBmGagU/s640/photo.JPG[/IMG]
[FONT=Arial] Quốc gia Việt-Nam Cộng-Ḥa, tuy chỉ góp mặt trong khoảng 20 năm ngắn ngủi, đă kịp ghi lại nhiều đóng góp khả quan, hữu ích trong ḍng lịch sử Việt. Các chính phủ Việt-Nam Cộng-Ḥa gầy dựng được một nền chính trị dân chủ căn bản, theo nguyên tắc tam quyền phân lập, với các cuộc bầu cử tự do được tổ chức thường xuyên. Trong các bài trước, chúng tôi đă thử điểm qua hệ thống giáo dục cầu tiến và các chương tŕnh kinh tế độc đáo của miền Nam.
C̣n không ít vẻ đẹp đáng nêu khác về văn hoá, nghệ thuật, thể thao.... khiến không khí Việt-Nam Cộng-Ḥa chừng như vẫn phảng phất, dù chiến cuộc đă tàn gần 41 năm rồi. Với không ít người Việt, ở hải ngoại cũng như tại quốc nội, xă hội miền Nam là lư tưởng, là thời điểm vàng son... Nỗi lưu luyến nhẹ nhàng này có thể góp phần khơi gợi t́m hiểu, khám phá lại các giá trị đẹp, những sự thật lịch sử về miền Nam: Việt-Nam Cộng-Ḥa.
Về văn hoá, buổi ban đầu có không ít va chạm giữa lớp người Tây học cũ và giới trí thức chịu ảnh hưởng của người Hoa-Kỳ sau này. Chính phủ Đệ Nhất Cộng Ḥa, trong bối cảnh giao thời, đă thỏa hiệp cộng tác trao đổi văn hóa 10 năm với Pháp. Song ảnh hưởng của người Pháp mờ nhạt dần bước sang đầu thập niên 1960, lúc miền Nam bắt đầu gởi nhân sự đi huấn luyện ở Hoa-Kỳ, Úc-Đại-Lợi (Australia), Tân-Tây-Lan (New Zealand), và nhiều quốc gia đồng minh khác.
Về ẩm thực, nhiều người Sài-G̣n từng trải qua thời gian trước năm 1975, có lẽ chưa quên các tên tuổi nhà hàng Thanh Bạch có những món ăn Pháp; nhà hàng Maxim với nhạc sĩ Hoàng-Thi-Thơ, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trên bến Bạch Đằng; cơm gà Siu Siu; cơm bà Cả Đọi khu thương xá Tax; ḅ 7 món Ánh Hồng, Duyên Mai; nghêu đường Nguyễn-Tri-Phương; thạch chè Hiển-Khánh; chè đậu đỏ bánh lọt khu chùa Xá Lợi....
Sau 1975, đa số giới thức giả ở Sài-G̣n lần lượt rủ áo ra đi, mang theo họ cái thú thưởng thức ẩm thực độc đáo ngày nào. Ra ngoại quốc, thiếu thốn nguyên liệu, thêm hoàn cảnh thay đổi, khiến phẩm chất món ăn miền Nam cũng vơi đi ít nhiều.
C̣n tại quốc nội, đời sống cơ cực bần hàn kéo dài hằng thập niên có thể cũng làm thay đổi thói quen ẩm thực. Vào thời xương ḅ hiếm hơn.... sổ gạo, người ta “linh động” dùng bột ngọt để thêm chút đậm đà cho nước phở. T́nh trạng xă hội kém dinh dưỡng cũng có thể vô t́nh khuyến khích khẩu vị chuộng thức ăn nhiều dầu mỡ và đường, măi rồi nên quen.
Điều này giải thích v́ sao nhiều người Việt xa quê lâu năm, chưa từng sống qua thời “Thiên đường Chủ nghĩa xă hội”, sau này về thăm cố hương, đôi khi cảm thấy thức ăn thường được nêm nếm hơi.... bị ngọt.
Về con người, miền Nam thời đó cũng lừng danh nhiều mỹ nhân mà tên tuổi c̣n được nhắc đến tận ngày nay. Thời Đệ Nhất Cộng Hoà, nhan sắc và sự thông minh của phu nhân Ngô-Đ́nh-Nhu vang xa tầm thế giới. Vô số thiếu nữ miền Nam ngưỡng mộ bà, bắt chước kiểu chiếc áo dài cổ thuyền. Bà Nhu c̣n góp công lớn trong việc xóa bỏ dần các định kiến xă hội xem nhẹ vai tṛ phụ nữ trong đời sống - vốn đă bén rễ hằng ngàn năm.
Về nghệ thuật, sau này, có người đẹp B́nh Dương, Thẩm-Thúy-Hằng. Bà đoạt giải Ảnh - Hậu tại Liên Hoan Phim Á Đông. Như Phim ảnh Đại-Hàn ngày nay, vào những năm 1960 - 1970, họ chưa có nam nữ tài tử nào vang danh châu lục như dàn ngôi sao của nền nghệ thuật thứ bảy tại miền Nam - dẫn đầu với Thẩm-Thuư-Hằng. Trong các tác phẩm điện ảnh vang bóng một thời có “Loan Mắt Nhung” hay “Chiều Kỷ Niệm”....
Kỹ nghệ phim ảnh c̣n có Kiều-Chinh từng đoạt giải Liên Hoan Điện Ảnh Á Đông (1973), và là một trong những gương mặt Á Đông đầu tiên thành danh trên màn bạc Hollywood, Hoa-Kỳ. Trong thời phồn thịnh của phong trào nhạc trẻ, nữ danh ca Thanh-Lan nổi bật, lừng danh với các ca khúc Pháp chuyển lời Việt, và cũng từng thử tài trên màn bạc.
Giới ghiền xi-nê, phim ảnh có lẽ c̣n nhiều kỷ niệm đẹp với những rạp hát thời thượng dạo đó. Rạp Rex ở xéo Toà Đô Chính được kể vào hàng sang trọng nhất. Rạp Đại Nam đường Trần-Hưng-Đạo chuyên chiếu những phim mới về. Những địa chỉ đáng kể khác, có rạp Kinh Đô trên đường Lê-Văn-Duyệ,; rạp Catinat đường Tự-Do, sau là pḥng trà ca nhạc “Đêm Màu Hồng” nơi ban nhạc Phượng Hoàng ra mắt khán giả; rạp Khải Hoàn góc đường Vơ-Tánh và Cống-Quỳnh, giá vé phải chăng; rạp Long Phụng đường Gia-Long chuyên chiếu phim... Ấn-Độ và đặc biệt rạp Aristo đường Lê-Lai, nơi nương náu của đoàn cải lương “Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô” di cư từ miền Bắc, với đào chánh Kim-Chung.
Về thói quen di chuyển ở miền Nam trước 1975, các loại xe gắn máy là phương tiện cá nhân được ưa chuộng. Thời cuối 1950, h́nh ảnh những tà áo dài nữ sinh trên chiếc xe đạp gắn máy hiệu Velo solex từng mê hoặc bao lớp thanh niên. Chiếc xe Mobylette của Pháp cũng rất phổ biến thời hậu thuộc địa, v́ dễ xử dụng, với tay gas tự động, lỡ khi hết xăng bất tử, người ta vẫn có thể chuyển sang đạp bộ như xe đạp, thông dụng trong giới sinh viên, học sinh....
Lớp người trung niên, đời sống khá giả, có thể thích chạy các xe sang hơn một chút như Vespa, Lambretta của Ư-Đại-Lợi. Đến giữa thập niên 1960, bắt đầu xuất hiện hai chiếc xe Nhật-Bổn, máy mạnh chạy nhanh xe Honda Dame C50 (phụ nữ) và xe Honda 67 SS 50E (nam giới) độc chiếm thị trường nhiều năm sau đó.
Về ngôn ngữ, có thể là một trong những khía cạnh thâm trầm ư nhị nhất của thời Việt-Nam Cộng-Ḥa. Thời gian gần 41 năm trôi qua, có lẽ thời gian đủ dài, để ta nh́n nhận cách xử dụng tiếng Việt của lớp người miền Nam cũ, có phần trong sáng hơn, đơn giản hơn, mà không lộn tùng phèo thành “giản đơn”. Người Việt thời Việt-Nam Cộng-Ḥa định danh rơ ràng Phi Hành Đoàn, chẳng sỗ sàng “tổ lái”. Họ suy luận, suy nghĩ chứ không chờ đến lúc “động năo”.
Họ thoả hiệp t́m cách đồng ư / đồng ḷng, để khỏi phải qua “nhất trí”. Khi gấp rút th́ họ nhanh lên, không cần “khẩn trương”. Có khi họ hồi hộp v́ bị dồn nén, bực tức mà vẫn không đến nỗi “bức xúc”. Họ khen ngợi điều ǵ nguy nga / tráng lệ, không vơ mọi sự ra “hoành tráng”.
Đôi khi họ cũng thẩm vấn / điều tra, thay v́ mập mờ “làm việc”. Họ trân trọng nghệ sĩ, chẳng cào bằng “nghệ nhân”. Họ viết gọn gàng lực sĩ, tránh loằng ngoằng “vận động viên”. Họ có Thủy quân lục chiến kiêu hùng, không phải chập chờn loại “lính thủy đánh bộ”....
Các nhóm chữ trong ngoặc kép trở nên phổ biến ở miền Nam từ sau sự bức tử của Việt-Nam Cộng-Ḥa. Đa phần có nguồn cơn xuất phát từ kho ngữ vựng thông dụng giữa nội bộ các đảng viên Cộng sản. Sau 1975, đảng Cộng sản Việt-Nam chuyên quyền, khống chế mọi mặt đời sống, kể cả áp đặt.... đảng ngôn của nó. Dần dần, những ngôn từ này - tuy hơi.... nhẹ về số lượng, nhưng lại.... nặng mùi “Đấu tranh giai cấp” - trở thành ngôn ngữ cho cả xă hội. Đây là một trong những lư do chính yếu khiến tiếng Việt mượt mà, phong phú, thanh lịch của miền Nam cũ bị mai một, đến nay hầu như chỉ c̣n hiện diện tại hải ngoại.
Việt-Nam Cộng-Ḥa có thể gọi là một thời khó quên - một loại vũ trụ riêng tư và tha thiết của rất nhiều người. Thời đại đó giúp tạo ra lớp người chính trực, hết ḷng phụng sự quốc gia. Điều này phản chiếu qua thực tế, sau khi đại cuộc sụp đổ, phải di tản ra ngoại quốc, chẳng mấy ai đủ tài chính để tiếp tục đời sống sung túc thuở trước.
Hầu hết phải bươn chải những ngày chân ướt chân ráo đến xứ người. Không ít các ông Tướng, Tá.... phải làm thợ sơn, có Nghị sĩ bán xăng, nhiều Giáo sư đi bỏ báo, cựu Công chức cắt cỏ để nuôi gia đ́nh.... So sánh với tầng lớp tư bản đảng viên đang “lănh đạo” nước Việt-Nam ngày nay, sự tương phản có lẽ đă khá rơ ràng.
[B]Thanh-Dũng[/B]
Ngày 07/04/2016
[B][I][COLOR="#A52A2A"]* Source:[/COLOR][/I][/B] [url]http://www.lyhuong.net/uc/index.php/vnch/4471-4471[/url][/FONT]