VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Nguyễn Du
[CENTER][IMG]http://i383.photobucket.com/albums/oo275/Oi2000/nhang_khoi.jpg[/IMG][/CENTER]
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Năo người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Ḷng nào ḷng chẳng thiết tha
Cơi dương c̣n thế nữa là cơi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đă không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
C̣n chi ai khá, ai hèn
C̣n chi mà nói ai hiền ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hănh
Chí những lăm cất gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất, vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưa sa, ngói lở
Khôn đem ḿnh làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng, xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy ḿnh cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới ḍng nước chảy
Phận đă đành trâm găy, b́nh rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ ḍng suối, rừng sim.
Thương thay chân yếu, tay mềm
Càng lăm càng héo một đêm, một dài.
Ḱa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đă đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh măn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được ḿnh
Lầu ca viện hát tan tành c̣n đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhỏ t́m đường hóa sinh?
Ḱa những kẻ bài binh bố trận
Đổi ḿnh vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Băi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Ḿnh làm ḿnh nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ṛng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương ǵ hàng xóm
Ḥm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết t́m vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn ḿnh vào thành thị lân la
Mấy thu ĺa cửa ĺa nhà
Văn chương đă chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Băi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa ḍng
Đem thân chôn rấp vào ḷng ḱnh nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đ̣n gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dăi dầu ngh́n dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đă đành đạn lạc tên rơi
Lập ḷe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đă chịu một đời phiền năo
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dơi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi ḿnh vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan t́nh ấy đi?
Ḱa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh ĺa mẹ ĺa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi ḷng.
Ḱa những kẻ ch́m sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người th́ mắc sơn tinh thủy quái
Người th́ sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quăng đồng không
Hoặc nơi g̣ đống hoặc vùng lau tre
Sống đă chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dăi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy t́m đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn t́m ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp ḥa tứ hải quần chu
Năo phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mănh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như h́nh như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm ḷng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu t́nh từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Nguồn:
[url]http://xuandienhannom.blogspot.com/2011/08/nguyen-du-va-van-te-thap-loai-chung.html[/url]
Văn Tế Thập Lọai Chúng sinh
Vu Lan Tháng Bảy- Đọc Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh (Nguyễn Du)
Trí Bửu
Trân trọng đối với đại thi hào Nguyễn Du các nhà nghiên cứu văn học như Thanh Lăng, Phạm Thế Ngũ, Thạch Trung Giả, Xuân Diệu, Đặng Thị Hảo, Lê Thước... đều có chung nhận xét rằng Nguyễn Du là người có trái tim lớn “chứa được bấy nhiêu t́nh thương nhân loại”
1.- Nguyễn Du ( 阮攸); 1765–1820) tên tự là Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ. Ông sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm 1766 tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu tại phường Bích Câu, Thăng Long (nay là phường Cát Linh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội). Cha là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, nay là xă Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Thượng thư bộ Hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần con gái một người làm chức câu kế. Quê làng Hoa Thiều, xă Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được năm con, bốn trai và một gái)
Nguyễn Du là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê Mạc, Nguyễn sơ. Ông là nhà thơ lớn của Việt Nam, được mọi người kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).
Năm 1820 (Canh Th́n) Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh chết ngày mồng 10 tháng 8 AL (16-9-1820) thọ 54 tuổi.
2.- Văn tế thập loại chúng sinh c̣n được gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn là một trong số tác phẩm xuất sắc của đại thi hào Nguyễn Du.
Văn tế thập loại chúng sinh, hiện chưa rơ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ư của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, th́ Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, GS. Hoàng Xuân Hăn lại cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông c̣n làm cai bạ ở Quảng B́nh (1802-1812).
Sách Từ điển văn học cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là GS. Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván năm 1895 của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xă Xuân Lôi, huyện Vơ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Từ hai bản này, Hoàng Xuân Hăn khảo chứng, hiệu đính kỹ lưỡng và đă đưa ra một văn bản khác có độ tin cậy cao hơn...
Cuộc sống "mười năm gió bụi" từ năm 1786 đến 1795 của Nguyễn Du như thế nào, th́ ông đă phản ảnh rơ trong Thanh Hiên thi tập. Suốt mười năm ấy, nay ở đầu sông, mai ở cuối bể, ăn nhờ ở đậu, túi rỗng không, đau ốm liên miên, nghèo không tiền mua thuốc, nhiều lần muốn về quê nhà ở Hà Tĩnh, nhưng ở đó nhà cũng không có, mà anh em th́ mỗi người một ngả...Đến khi được trở về nhà, th́ ông đă là nhà nho mới hơn ba mươi tuổi mà tóc đă bạc trắng, bệnh tật, có lúc ốm mấy tháng liền mà chỉ nằm chờ chết, trong nhà bếp lạnh tanh...Cho đến khi ông ra làm quan với nhà Nguyễn. Gia phả chép: Dầu làm đến chức á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhă đơn giản như một học tṛ nghèo. Trong Nam trung tạp ngâm, ít ra cũng có hai bài thơ nói đến vợ con ăn đói, mặt xanh như lá rau...
Tất cả những chi tiết đó giải thích tại sao Nguyễn Du thuộc tầng lớp trên mà trong thơ ca lại có một mối đồng t́nh thắm thiết với những người vốn thuộc tầng lớp thấp...Điều này ta đă thấy rơ trong bài Văn tế chiêu hồn “
Văn tế thập loại chúng sinh là một bài văn khấn tế, đề cập đến xă hội hồn ma một cách thảm thương nhất. Đó là h́nh ảnh lộn trái của xă hội trần thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn. Chúng sinh ai cũng như ai cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn nên nhà thơ xót thương tất cả... Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Văn tế tập loại chúng sinh của Nguyễn Du được chia làm bốn phần:
Phần một (20 câu): tả cảnh một chiều thu tháng Bảy mưa dầm buồn bă, khiến nhà thơ chạnh ḷng thương đến các chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cơi âm mà lập đàn cầu siêu...
[CENTER]“[I][COLOR="#006400"]Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Năo người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng[/COLOR][/I]…”[/CENTER]
Phần hai (116 câu): nêu rơ tên và nguyên nhân thiệt mạng của mười loại cô hồn.
“[I][CENTER][COLOR="#006400"]Cũng có kẻ tính đường kiêu hănh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau[/COLOR][/CENTER]….”[/I]
Phần ba (20 câu): miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các cô hồn.
[I[CENTER]]“Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?”[/I][/CENTER]
Phần cuối (28 câu): lời thỉnh cầu phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các cô hồn tới nhận phần lễ cúng để lên đàng thăng thiên...
[I[CENTER[COLOR="#006400"]]]“Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp ḥa tứ hải quần chu,
Năo phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh[/COLOR]…[/CENTER]”[/I]
Các nhà nghiên cứu văn học như Thanh Lăng, Phạm Thế Ngũ, Thạch Trung Giả, Xuân Diệu, Đặng Thị Hảo, Lê Thước... đều có chung nhận xét rằng Nguyễn Du là người có trái tim lớn “chứa được bấy nhiêu t́nh thương nhân loại” và xă hội Lê mạt chính là nguồn nung nấu để h́nh thành nên tác phẩm...
Theo GS. Phạm Thế Ngũ: Bài Văn tế thập loai chúng sinh cũng là dịp cho ta thấy nơi Nguyễn du một năng khiếu tưởng tượng phi thường ḥa với một t́nh đồng cảm bao la. Bao trường hợp chết chóc, bao nhiêu cảnh ngộ thương vong, tác giả phác họa ra, khêu gợi lên với những tình tiết lâm li thảm thiết...Cảnh loạn lạc…nhất là bệnh dịch, phu phen, mất mùa, đói khổ, người chết như ra là một ám ảnh tai ách thường xuyên ở đời Lê mạt...
[I[CENTER]]“Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy ḿnh cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đă đành trâm găy b́nh rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương[/CENTER]…”[/I]
Chính những thảm cảnh ấy đă là nguồn văn nguồn ư nung nấu thành Chiêu hồn ca...Nó khiến ta có thể xác định một lần nữa: Nguyễn Du là thi sĩ muôn đời của Thống khổ và T́nh thương
Xuân Diệu nhà thơ tình của Việt Nam đã nhận định: Trong nền thơ Việt Nam ta từ trước, có một tác phẩm rất độc đáo về đề tài, hầu như là duy nhất, nói đến những người chết, nói đến cái chết dưới trăm t́nh thế, chưa có bài thơ nào mà tập trung nói đến những hồn người chết như vậy-và thực chất lại là sự ôm trùm rộng răi những người sống-đó là Văn Chiêu hồn...
[CENTER[CENTER[I]]]“Sống đă chịu một đời phiền năo
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu[/I][/CENTER]?”[/CENTER]
Ở thời đại ấy...Nguyễn Du không biết tại sao mà xă hội khổ đến thế. Bây giờ ta không trách Nguyễn Du về sự mù mờ ấy, bởi vì Nguyễn Du kêu gào ở trong bóng tối, cũng là phát hiện bóng tối cho ta:...đó là một bản tố cáo gắt gao về đói rét, tật bệnh, chiến tranh phong kiến giành giật đất đai, mưu ma chước quỉ của bọn quan lớn, về thân phận người đàn bà, về số phận người b́nh dân...do sự phong phú của đề tài, mà cả xă hội người diễu qua trước mắt ta...C̣n trái tim lớn của Nguyễn Du một tấm ḷng chứa được bấy nhiêu t́nh thương nhân loại! T́nh thương ấy có xô bồ, lẫn lộn như đối với vài kẻ thuộc giai cấp bên trên; nhưng phần lớn, căn bản là dành cho những người bị cực khổ, oan ức, đói rét, đau đớn từ những người bị bọn vua quan bắt lính, đến người mắc oan ở tù rạc thân, đến người hành khất “cũng một kiếp người” từ người đẻ non đến em bé chết yểu, từ người đứt dây rơi xuống giếng chết đến người bị cọp ăn...
[I[COLOR="#006400[CENTER]"]]“Ḱa những kẻ ch́m sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người th́ mắc sơn tinh thủy quái
Người th́ sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương[/CENTER][/COLOR]…”[/I]
Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn lại viết: Cùng với Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh cũng là một áng văn nôm thuộc đỉnh cao tư tưởng và nghệ thuật. V́ vậy khi nói về nỗi đau mất nước, nỗi buồn của cha ông ta trước đây, nhà thơ Chế Lan Viên đă nhắc đến áng văn bất hủ này:
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn” từng thấm hạt mưa rơi...
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Tấm ḷng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện rất rơ khi ông nhắc đến mười loại người được chiêu hồn. Đây là một áng văn đẹp hoàn hảo, một tác phẩm độc đáo có một không hai trong lịch sử văn chương dân tộc...
Đánh giá về “Văn tế thập loại chúng sinh” GS. Trương Chính đã viết: Trong Văn tế chiêu hồn, Nguyễn Du có dịp gợi lên những h́nh ảnh đau xót của thời đại ông. Có những người ở tầng lớp trên, nhưng đa số là những người ở tầng lớp dưới. Trong tầng lớp trên th́ ḷng thương của ông dành cho những người “chân yếu tay mềm”, do hoàn cảnh thời bấy giờ mà đang sống trong cảnh” màn lan trướng huệ” bỗng chốc bơ vơ như chiếc lá giữa ḍng. C̣n tầng lớp dưới th́ có thể nói là đủ mặt, từ người học tṛ ốm đau dọc đường không ai thuốc thang nuôi nấng, đến chết phải “liệm sấp chôn nghiêng”…đến những em “tiểu nhi tấm bé” vừa ra đời không được chăm sóc, nên phải chết yểu v.v...Bài này đọc lên không biết cô hồn nghe có được an ủi phần nào chăng, nhưng chúng ta nghe th́ càng thấy căm thù cái xă hội mà trong đó đa số là những người thất cơ lỡ vận...
Tuy là một bài văn khấn tế, h́nh thức mang tính chất tôn giáo trong văn học Việt Nam, nhưng tác phẩm không sử dụng h́nh thức văn tế biền ngẫu thường thấy, cũng không viết bằng văn xuôi như Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của vua Lê Thánh Tông, mà chọn thể loại song thất lục bát khiến vần điệu linh hoạt, truyền cảm, có tác dụng khơi dậy ḷng trắc ẩn từ phía người đọc, người nghe. Nếu bài văn của vua Lê nặng nề giáo huấn răn đe th́ tác phẩm của Nguyễn Du tràn ngập t́nh yêu thương, thông cảm... Ngoài những phương ngữ và điển tích nhà Phật, nói chung bài văn tế Thập loại chúng sinh dễ hiểu, dễ cảm thụ bởi giọng thơ cuộn chảy theo những biến tấu bất ngờ của nhịp câu song thất. Văn tế thập loại chúng sinh c̣n được đánh giá là tác phẩm song thất lục bát duy nhất sử dụng dày đặc và rất độc đáo thủ pháp tiểu đối...
“Phật hữu t́nh từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.”
Nha Thành, Mùa Vu Lan PL.2556
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và Giai Thoại
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585), tên huư là Nguyễn Văn Đạt[1], tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân cư sĩ[2], được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều v́ tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)[3] và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Tŕnh Tuyền Hầu rồi thăng tới Tŕnh Quốc Công[4]mà dân gian quen gọi ông là Trạng Tŕnh. Đạo Cao Đài sau này đă phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn Chơn nhơn. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm kư được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là Sấm Trạng Tŕnh. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ư thức nhất thông qua các văn tự của ông c̣n lưu lại đến ngày nay.
GIAI THOẠI
Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá tŕnh dạy dỗ, bà đă truyền cho ông mơ ước ấy rồi.
Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và t́nh cờ hát:
"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung".
Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay:
"Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung".
Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy th́ bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng".
Ông Định hoảng sợ v́ nếu triều đ́nh hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại:
"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".
Nhiều lần như vậy, bà rất bất b́nh nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Tương truyền sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau chính Khắc Khoan trở thành học tṛ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bà Nhữ Thị vẫn không thoả chí v́ họ Phùng không có chí làm vua.
Măi sau này bà Nhữ t́nh cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối v́ cho rằng người này có số làm vua, c̣n tuổi ḿnh đă cao. Người đó chính là Mạc Đăng Dung, vị vua khai triều của nhà Mạc.
xin lỗi t/v Vân Nương về tội phạm thượng, sửa lỗi chính tả...
Trước hết là xin lỗi t/v Vân Nương, sau là mượn dịp này giải thích về vài câu chữ trong bài thơ nôm.
Vịnh sư hổ mang.
Chẳng phải ngô(1), chẳng phải ta
Dầu(2) th́ trọc lóc, áo không tà (3)
Oản (4) dâng trước mặt, dăm ba phẩm (4)
Văi (5) mập sau lưng, sáu bảy bà
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ(6)
Giọng h́, giọng hỉ, giọng hi ha (7)
Tu lâu ắt sẽ lên sư cụ (8)
Ngất nghểu toà sen(9) nọ đó mà !! Hồ xuân Hương, bà Chúa thơ nôm.
Giải nghĩa :
(1) ngô = nghĩa là người tàu, miền Bắc gọi người Trung hoa một cách nôm na
(2) đầu = đầu th́ cạo trọc lóc, không c̣n sợi tóc, chứ không phải : dầu
(3) áo không tà = áo cho tu sĩ xuất gia, độc thân,
may bằng nhiều mảnh vải màu vàng nghệ,
chắp nối bằng nhiều mảnh, mặc lên theo cách quây chung quanh rồi vắt
lên vai, cho nên không có tà áo như áo dài thường dân.
Tu sĩ tại gia ngay cả xuất gia, đều mặc áo dài thường màu khói nhang.
(4) oản = một loại bánh khô, ngọt đóng khuôn h́nh tựa cái tháp nhỏ, gói giấy bóng. Ở
nhà chùa c̣n có oản nếp, xôi nếp trắng, đóng khuôn, lót đáy(chân oản)
là miếng lá mít cắt tṛn, bên trên có triện giấy đỏ có giấy trang kim.
(5) văi = ngoài Bắc, mấy bà già đến chùa làm công quả, xong việc rồi về nhà, c̣n gọi
là tu ngoại hạnh.
Người đi tu, giữ trọn hạnh độc thân, ở chùa, nam gọi là tăng,nữ gọi là ni.
(6) Cảnh/tiu/ chũm choẹ = các nhạc khí dùng trong khi tụng kinh
(7) Giọng h́..hỉ..ngân nga = khi tŕ, tụng kinh, các sư hay ngân nga cho thêm phần ..
(8) sư cụ = tu lâu ngày, C̣n lên cấp, đẳng là thượng toạ hay đại đức.. ngày xưa các sư
học tập tốt, được hội đồng các sư cấp trên cho thi để lên cấp, mỗi lần đậu
trên đỉnh đầu thường có một nốt nhang đốt thảnh sẹo .
(9) toà sen = có nghĩa là đắc đạo được thành Phật.
Ngày nay không biết c̣n có bao nhiêu tăng, ni tu được chứng quả để có được nốt nhang trên đỉnh đầu. Trên đây là những ǵ nmq được biết, chắc có điều sai, mong quí Bạn sửa cho, để cho các cháu khi lên mạng, đọc đúng chữ và hiểu đúng nghĩa. Cảm ơn ./. nmq
Cảm tạ thịnh t́nh của hai Bác
[QUOTE=nguyễn mạnh Quốc;159823]Trước hết là xin lỗi t/v Vân Nương, sau là mượn dịp này giải thích về vài câu chữ trong bài thơ nôm.
Vịnh sư hổ mang.
Chẳng phải ngô(1), chẳng phải ta
Dầu(2) th́ trọc lóc, áo không tà (3)
Oản (4) dâng trước mặt, dăm ba phẩm (4)
Văi (5) mập sau lưng, sáu bảy bà
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ(6)
Giọng h́, giọng hỉ, giọng hi ha (7)
Tu lâu ắt sẽ lên sư cụ (8)
Ngất nghểu toà sen(9) nọ đó mà !! Hồ xuân Hương, bà Chúa thơ nôm.
Giải nghĩa :
(1) ngô = nghĩa là người tàu, miền Bắc gọi người Trung hoa một cách nôm na
(2) đầu = đầu th́ cạo trọc lóc, không c̣n sợi tóc, chứ không phải : dầu
(3) áo không tà = áo cho tu sĩ xuất gia, độc thân,
may bằng nhiều mảnh vải màu vàng nghệ,
chắp nối bằng nhiều mảnh, mặc lên theo cách quây chung quanh rồi vắt
lên vai, cho nên không có tà áo như áo dài thường dân.
Tu sĩ tại gia ngay cả xuất gia, đều mặc áo dài thường màu khói nhang.
(4) oản = một loại bánh khô, ngọt đóng khuôn h́nh tựa cái tháp nhỏ, gói giấy bóng. Ở
nhà chùa c̣n có oản nếp, xôi nếp trắng, đóng khuôn, lót đáy(chân oản)
là miếng lá mít cắt tṛn, bên trên có triện giấy đỏ có giấy trang kim.
(5) văi = ngoài Bắc, mấy bà già đến chùa làm công quả, xong việc rồi về nhà, c̣n gọi
là tu ngoại hạnh.
Người đi tu, giữ trọn hạnh độc thân, ở chùa, nam gọi là tăng,nữ gọi là ni.
(6) Cảnh/tiu/ chũm choẹ = các nhạc khí dùng trong khi tụng kinh
(7) Giọng h́..hỉ..ngân nga = khi tŕ, tụng kinh, các sư hay ngân nga cho thêm phần ..
(8) sư cụ = tu lâu ngày, C̣n lên cấp, đẳng là thượng toạ hay đại đức.. ngày xưa các sư
học tập tốt, được hội đồng các sư cấp trên cho thi để lên cấp, mỗi lần đậu
trên đỉnh đầu thường có một nốt nhang đốt thảnh sẹo .
(9) toà sen = có nghĩa là đắc đạo được thành Phật.
Ngày nay không biết c̣n có bao nhiêu tăng, ni tu được chứng quả để có được nốt nhang trên đỉnh đầu. Trên đây là những ǵ nmq được biết, chắc có điều sai, mong quí Bạn sửa cho, để cho các cháu khi lên mạng, đọc đúng chữ và hiểu đúng nghĩa. Cảm ơn ./. nmq[/QUOTE]
Cảm tạ thịnh t́nh của hai Bác NMQ và Forexnew.
Nếu không có nhị vị nhuận sắc bổ khuyết cho th́ bài của VN sẽ có rất nhiều sơ sót.
Vâng ạ . Thưa Bác Quốc,
Tất cả các chú thích cùng hay cả, nhất là các chú thích 6,7,8,9 rất ư nghia.
"Chũm choẹ" rất là tượng h́nh. Nếu viết là "năo bạt" th́ không hay. "Chũm choe"
danh từ mà hiểu như động từ mói ngộ.
" sư cụ" có vị c̣n bảo là Nữ Sĩ HXH nói lái, nhưng VN không dám nghĩ như thế đấy ạ .
c̣n chữ OẢN, VN nhớ một câu như thế này :
Gió xuân tốc dải yếm đào
SƯ trông thấy oản sư vào thắp hươn
Cái "hạnh" này không biết có thứ hạng không, thưa Bác FOrexnews ?
Kính
VN