Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14
[b]● Từ bà Huyện Thanh Quan đến Phùng Cung[/b]
Sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn gỡ cung điện Thăng Long đem về Huế. 1831, vua Minh Mạng lấy hai chữ Hà Nội, tên một tỉnh nhỏ phía bắc nước Tàu, đặt cho Thăng Long. Nhà Nguyễn gỡ cung điện vua Lê và đổi tên Thăng Long thành Hà Nội nhằm xoá tinh thần pḥ Lê trong ḷng người dân đất Bắc, nhưng không qua mắt được nhà thơ:
Bà Huyện Thanh Quan, thày dạy con gái vua Minh Mạng, sáng tác bài Thăng Long thành hoài cổ, một kiệt tác hoài Lê, một sự phản kháng âm thầm và mănh liệt của kẻ sĩ Bắc Hà "nhớ nước đau ḷng con cuốc cuốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia", vậy mà Gia Long không hề đốt sách và Minh Mạng không dám lấy tên Gia Long đặt cho Bắc thành.
175 năm sau, thống nhất xong Nam-Bắc, chính quyền miền Bắc đổi tên Sài G̣n thành Hồ Chí Minh, vẫn sách lược cũ của nhà Nguyễn, kèm thêm chiến dịch cải tạo và nghị quyết tiêu diệt hầu như toàn bộ văn học miền Nam.
[b]Kết quả: hơn 35 năm sau, cái tên "cúng cụ" của thủ đô miền Nam vẫn không thu phục được nhân tâm. Với dân chúng miền Nam, nó vẫn chỉ là vết tích tủi nhục của sự bại trận, sự "mất nước", đúng như t́nh cảm bà Huyện dành cho nhà Nguyễn.[/b]
V́ sao? V́ bất cứ chính quyền nào, chính sách văn hoá cũng vẫn là cốt tuỷ. Đối xử một cách văn hoá với người bại trận là phương sách uỷ lạo ḷng người. Bởi văn hoá ở trên chính trị.[b] Đối với văn hoá, không thể áp dụng chính sách diệt trừ địch thủ như trong chiến tranh.[/b]
Không phải cứ loại Tự lực văn đoàn, văn học xă hội chủ nghiă sẽ trở thành lănh đạo. Không phải cứ tiêu diệt Nhân Văn Giai Phẩm, th́ những Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh, Nguyễn Đ́nh Thi ... sẽ ngời sáng măi măi trên ṿm trời văn học Việt Nam.[b] Không phải cứ đốt hết văn học miền Nam, th́ văn học miền Bắc sẽ trở thành độc nhất vô nhị.[/b]
Bởi văn học không phải là một vùng chiến địa, để một c̣n một mất, mà là vùng hoà b́nh, sống chung, càng nhiều tác phẩm hay, nền văn học của một nước càng thêm sáng giá. Việc loại trừ những tác giả lớn của văn học Việt Nam trong suốt thế kỷ XX ra ngoài v́ lư do chính trị, đă thu nhỏ nền văn học Việt Nam, trong ḷng một bàn tay, đă bị cắt hết ngón -là những tinh tuư của dân tộc- chỉ c̣n lại những công thần, bịt tai, bịt mắt như những Con ngựa già của chúa Trịnh mà Phùng Cung mô tả.
[b]Đó là tiếng kêu tha thiết nhất mà Phùng Cung để lại trong tác phẩm, tiếng chim báo băo về nền văn hoá Việt đang bị thu gọn và tự hủy, từ việc bảo tồn đất tổ Hùng Vương đến sự loại trừ các giá trị tinh thần không theo đúng đường lối của Đảng.
● Đường Lâm thi chí, một nền thơ chống chiến tranh và tù ngục[/b]
Những thành viên NVGP đều tham gia kháng chiến, nhưng sau chiến tranh, họ đă có những suy nghĩ khác:
- Ở Văn Cao, là niềm hăng say tuyệt đối ban đầu: vào đội trừ gian, sáng tác quốc ca. Sau khi hoà b́nh lập lại, Văn Cao không c̣n sáng tác ca khúc nữa.
- Ở Hoàng Cầm, chiến thắng chỉ là giấc mộng, kể cả trong giai đoạn sôi nổi nhất.
- Ở Lê Đạt, đọng lại h́nh ảnh máu lửa tiêu thổ kháng chiến, là tội đốt quê hương.
- Ở Trần Dần là bản hùng ca lụa Việt Bắc mà đói khát và bệnh tật phủ lên xác anh hùng.
- Ở Quang Dũng là h́nh ảnh hăi hùng của đoàn quân không mọc tóc.
Các thi sĩ trên đều thấy hậu quả chiến tranh và rút ra bài học của ḿnh.
[b]Phùng Cung có một hướng đi khác hẳn: ông không nh́n hậu quả chiến tranh để hối hận như các bạn.[/b] Ông cũng không đổ trách nhiệm lên đầu kẻ thù như người khác. Phùng Cung coi chiến tranh -chống Pháp và chiến tranh Nam-Bắc- đều phát xuất từ căn bệnh của dân tộc: bệnh hiếu chiến. Chứng nan y này đă thấm vào máu, khó có thể chữa được. Đối lập với Văn Cao trong quan niệm yêu nước, Phùng Cung phê b́nh quốc ca.
Còn tiếp ...
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14
[b] Trăng ngục là bản hùng ca phản chiến, kết tội Cách Mạng Mùa Thu, nh́n sự hiếu chiến của dân tộc như nguyên nhân sau xa nhất của hai cuộc chiến trong thế kỷ XX: chống Pháp 46-54 và thống nhất đất nước bằng vơ lực, chống Mỹ và chiếm miền Nam 54-75.[/b]
Trăng ngục tập hợp những sáng tác trong tù. V́ không có giấy bút, không thể viết truyện nhẩm, nên Phùng Cung "bắt buộc" phải làm thơ. Trăng ngục biểu hiệu những tư tưởng đối lập khác lạ, đầy bất khuất, trong những ḍng chữ bị cầm tù suốt đời của tác giả. Tác phẩm chứa đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, đanh thép, như những mũi dao nhọn, đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, đánh sụp bức tường xà lim, để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư tưởng của ḿnh, chống lại toàn bộ hệ tinh thần yêu nước chủ chiến.
Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 1961, Phùng Cung bị tù tại chính Sơn Tây, vùng đất tổ. Nhà thơ ví chế độ toàn trị như biển cả:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm ḿnh - uy nghi đồ sộ
Song đ̣i phen
Nghiêng ngửa - đáng thương (...)
Hỡi biển cả!
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Ḷng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
B́nh minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Đều ch́m
Trong thét gào man rợ...
Bố Cái đă bị bắt, bị tù trên đất Đường Lâm: tất cả đều đă sụp đổ. Dân tộc, bây giờ, không đứng trước quân nhà Đường phương Bắc, mà đối diện với biển cả mênh mông của chế độ cực quyền.
Người dân hỏi ư cha. Bố Cái trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nh́n rơ xa xanh.
Nhà thơ tŕnh bày trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là thế quyền lồng lộng, khoác "Triều phục Đại Dương"; một bên là sinh linh "trăm họ", những con người.
Đại dương có đầy đủ phương tiện để vùi lấp trăm vạn sinh linh trong một trận thủy triều. C̣n con người, con người lấy ǵ chống lại? Con người chỉ có ánh mắt. Mắt trẻ thơ. Dưới ánh mắt của đứa bé, cái thế quyền lồng lộng ấy là ǵ?
- Chẳng là ǵ cả, nó chỉ là con số không. Bởi dưới mắt đứa bé: "Mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nh́n rơ xa xanh".
Rồi Bố Cái chỉ cho dân cách đối phó với bạo lực cách mạng:
Th́ nhắm mắt
Th́ bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.
[b]Bài Biển cả tung trên trang đầu tập Trăng ngục như một thách đố trí tuệ, gói gọn triết lư tương đối và trung dung của tác giả đối với cực quyền toàn trị. Phùng Cung đ̣i hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đ̣i hỏi quyền sống cho những cái nhỏ, cái lớn, đ̣i hỏi sự b́nh đẳng không những về mặt chính trị văn hóa mà cả về thiên nhiên môi trường.[/b]
Bài Trăng ngục rất ngắn, tập trung những tái tê bất hạnh của một đời tù biệt giam trong xà lim:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa măi đến bao giờ...
Trong tù, chỉ có vầng trăng, chỉ c̣n vầng trăng. Trăng quấn quưt. Trăng là áo. Trăng là ngày xưa. Trăng là vợ. Trăng là tri kỷ. Trên vai áo tù trăng vá lụa một câu tuyệt bút, là sự hài hoà giữa mềm và cứng, giữa tù và lụa, giữa trăng và áo, giữa xa và gần, giữa xót xa và âu yếm, giữa tự do và tù tội. [b]Nhà thơ đă kêu gọi sự hài hoà đó trong bài biển cả, nhưng không thấy biển cả trả lời, chỉ một vầng trăng đáp lại.[/b]
Còn tiếp ...
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14
[b]● Ai liều tảo mộ chiều nay[/b]
Phản chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện, bất cứ "thể loại chiến tranh" nào, v́ đối với Phùng Cung "dấu tích tàn phá của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược" cũng như nhau. "Tất cả chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương của ma vương quỷ dữ!"[53]
Trong bài Găi đất Phùng Cung gọi những kẻ chủ chiến là bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - hết
Dờ dịt sức già găi đất.
Bởi chiến tranh nào cũng chôn sạch tuổi trẻ, chỉ để lại những người già ngồi găi đất.
Thu xa là bài chinh phụ ca mới, phản bác những anh hùng ca chính thống của Tố Hữu, Chính Hữu ... cả những anh hùng ca bàng thống của Trần Dần, Phùng Quán ... Thu xa là giấc mơ phản chiến, chống Cách Mạng Mùa Thu, kết án tử h́nh chiến tranh, kêu gọi con người hăy làm t́nh yêu, làm hoà b́nh, đừng làm chiến tranh, hăy thôi chém giết:
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ ḷng
Tơ đứt v́ xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi ḷng
Tơ đứt v́ đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Tất cả thi sĩ miền Bắc, không ai dám đả động đến "Cách Mạng Mùa Thu", bởi đó là "chính nghiă tuyệt đối" được "tất cả mọi người" công nhận. Trừ Phùng Cung. Phùng Cung không. Phùng Cung đi ngoài quỹ đạo. Phùng Cung là người đầu tiên dám dùng những h́nh ảnh kinh hoàng như "Rừng thu tắm máu, máu thu gội chiều" để viết về Cách Mạng Mùa Thu.
Còn tiếp ...
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14
Rồi hai chữ quay xa, tại sao lại quay xa mà không quay tơ? Chữ xa nhập nhoè nhiều ư nghĩa: xa vừa là guồng tơ, guồng cửi; nhưng xa c̣n là bánh xe chiến tranh như chiến xa; xa c̣n là xa lià đứt đoạn. Người chinh phụ ở đây, không chỉ là nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người chinh phụ thời xưa nữa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh, nàng đang quay bánh chiến xa, nàng đang "tắm máu rừng thu" như chồng.
Ống kính độc đáo của nhà thơ, quay lại cảnh toàn thể dân tộc lao vào cuộc chiến tàn khốc: ống kính duy nhất của thi ca Việt Nam đă chụp bắt được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ.
[b]Nhưng Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, ông c̣n đi sâu hơn, để truy lùng thủ phạm chiến tranh, ông đă đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng nhất:[/b]
Cờ máu rợp trời
Lợm gió!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
...
"Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không?
[b]Hỏi tội cách mạng mùa thu chưa đủ, nhà thơ c̣n hỏi tội quốc ca, quốc kỳ. Chưa nhà thơ nào dám đưa ra những lời buộc tội gay gắt về những biểu tượng "thiêng liêng" như thế: Có quốc thiều nào man rợ thế không?
Bên cạnh những h́nh ảnh dễ sợ "cờ máu rợp trời lợm gió", bên cạnh những lời buộc tội không khoan nhượng, rằng trong "kho nhớ của loài người", không thấy có "quốc thiều nào man rợ" như thế; là những lời thơ trữ t́nh đẫm lệ gửi cho quê hương tan nát v́ chiến tranh, lầy nước mắt:[/b]
Quê hương ơi!
Đường quan lầy nước mắt
Điệu sáo hết du dương
Mây ch́m
Gió ngủ (...)
Sông sâu bặt tiếng gọi đ̣
Chim hăy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo b́nh minh
Lá thuyền t́nh
Chỉ lênh đênh giữa ḍng.
[b]Phùng Cung là người chữ duy nhất trên đất Bắc, đối với hai cuộc chiến, đă nh́n thấy và đă dám nói ra cái giá quá đắt phải trả cho ḥa b́nh đă mất.[/b]
Còn tiếp ...
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14
Dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là những thúc giục lên đường, không chỉ là những tiếng hô xung phong, mà đằng sau tất cả cờ xí rợp trời là bộ mặt kinh hoàng của thần chết:
Phát lệnh chia bôi...
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Đền miếu tan rồi!...
Năm tận tháng cùng
Ḥng hơng mong thư tuyến lửa.
Những h́nh ảnh "gia nô thần chết" trong thơ Phùng Cung, hoà cùng những xác "người chết hai lần" trong ca từ Trịnh Công Sơn, đă hợp thành ḍng máu của anh em giết nhau. Trong buổi liên hoan mừng chiến thắng, Phùng Cung âm thầm đếm lại những đốt xương tàn:
Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
[b]Hướng về những linh hồn quá trẻ đă bị vay tuổi để xuất trận, Phùng Cung tảo mộ con, liệm hồn mẹ, những người mẹ bạc đầu hương khói trên những nghiă trang giả, mồ không xác:[/b]
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Đèn con tiễn đến cổng đ́nh
Quay về hụt bước ngỡ ḿnh chiêm bao
Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiă trang mồ giả, nắm xương không mồ
Đồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
[b]Và dưới mồ tiếng Phùng Cung nhắn lên, ngược ḍng với Văn Cao, Lưu Hữu Phước: Này thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho dân tộc.[/b]
Còn tiếp ...
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14
[b]● Xem đêm[/b]
Là tập thơ của người Việt cổ, "người Rừng", thơ Đường Lâm thi chí, của Bố Cái bị cầm tù trên Bất Bạt. Tất cả đă bị tàn phá, từ thân cây ngọn cỏ, đến cả đọt sương, đến cả tâm hồn, đến cả khổ đau và hạnh phúc, cũng không c̣n như xưa ... Xem đêm là một h́nh tượng mới, một hành động chữ mới, mỗi chữ là tinh cầu, chỉ cần vài câu đă gói trọn bầu trời nhật nguyệt thực sau Nhân Văn.
Ở Hoàng Cầm là những đêm kim, đêm mộc, đêm thủy, đêm hoả, đêm thổ. Ở Phùng Cung là nghe đêm, xem đêm ... Xem đêm là một vũ trụ không ánh sáng của [b]những số kiếp bọt bèo, những người bị tù chung thân v́ tội chữ:[/b]
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn c̣n lênh đênh
(Bèo)
Xem đêm là sự đậm đặc của những con chữ nguyên chất, con chữ quê mùa, chưa bị văn minh xâm lấn, chưa bị lừa lọc tấn công, chưa bị chủ nghiă nhiễm độc, chưa bị chuẩn hoá theo một mẫu mực nào. Trong đêm miên viễn ấy, người và vật nhập quyện vào nhau trong một trạng thái dung hợp vật chất, tinh thần. Thơ cô đọng như Đường thi, một vài chữ đủ gánh cả phận người. Sự giao thoa giữa vật thể, tiếng động, không gian là đặc tính của Đường Lâm thi chí:
Đêm về khuya
Trăng ngả màu hoa lư
Tiếng gọi đ̣ căng chỉ ngang sông
(Đ̣ khuya)
Đêm, trăng, hoa lư, tiếng gọi đ̣, sông... là những yếu tố của một cảnh đêm có thể chất hoàn toàn khác nhau. Nhờ một hành động chữ, chúng đă hoá mộng. Để được sống lại trong một không gian khác, để tạo ra nghịch cảnh của một đời người. Sự cô đơn tuyệt đối của con người bị cô lập suốt đời, được nhà thơ biểu hiện dưới một màn trăng đêm không người, mà có "tiếng gọi đ̣" như "con nhện vô h́nh" giăng nối hai bờ xa cách.
Hai quang cảnh, một của thiên nhiên hiện thực, diễm ảo: Đêm về khuya trăng ngả màu hoa lư và một của tâm thức cô đơn tuyệt đối Tiếng gọi đ̣ căng chỉ ngang sông, của kẻ bị cách ly, lưu đầy, bị đoạt tự do và cướp ánh sáng mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ.
Nhưng tất cả nghịch cảnh, cách ly, đều đă có mà đều đă không. Đă xẩy ra và đă không c̣n nữa: sắc sắc không không, như một sự giao thoa triết học Đông Tây phi thường, mới lạ. Một bài thơ khác:
Quất măi nước sôi
Trà đau nát bă
Không đổi giọng Tân Cương
(Trà)
Đây chính là thơ Đường Lâm nói chí. Chỉ có ba "nhân vật": Trà, nước, giọng, ba yếu tố thuần khiết của một cuộc thiết trà. Bỗng chữ quất hiện lên như một hung thần và chữ Tân Cương sừng sững như một người Rừng, một chí lớn, một sự cương cường , mới bị giam hăm ở [b]Tân Cương, trại tập trung các trí thức Trung Hoa bị Mao Trạch Đông đày đi gánh phân, biến cuộc thiết trà thành một cuộc tra vấn tàn phũ, mà kẻ thẩm tra quất trà đến nát bă nhưng trà sĩ vẫn không khai, không đổi giọng bất khuất.[/b]
Thơ Phùng Cung có chí Phùng Hưng. Một bài thơ về mẹ:
Mồ hôi mẹ
Tháng ngày đăm đăm
nhỏ giọt
Con níu giọt mồ hôi
Đứng dậy làm người
(Mẹ)
Còn tiếp ...
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc _ Thụy Khuê _ Chương 14
[b]Một giọt mồ hôi mẹ, đủ tác thành khí phách con. Chữ đi từ núi Tản, mỗi chữ là một giọt thép. Đọc thơ ấy, sẽ hiểu tại sao con người ấy bị biệt giam 11 năm. Bởi không có phép ǵ "cải tạo" được tâm hồn và chí khí của ngọn Ba V́. Vẫn về người phụ nữ, lần này là người vợ:[/b]
Lưng áo em
Ngoang vôi trắng xóa
Cái trắng này vắt tận trong xương
- Mồ hôi xương
Chân dung người vợ cũng toát ra cái can trường trắng của đất Mê Linh. Sự can trường dũng cảm hàng ngày của người vợ phải đương đầu với miếng cơm manh áo, để nuôi con, để tồn tại. Và một tinh thần phản chiến, kiên cường và dứt khoát, rùng rợn, trong cung cách Đường thi:
Mỗi chiến thắng
Một lần gươm tắm rượu
Ruồi vẫn qua lùng máu
sa trường
- Gươm báu
[b]Bài Nghe đêm gói trọn nỗi cô đơn cuối đời của con người bị lưu đầy, v́ chữ nghiă, từ tuổi thanh niên đến lúc đầu bạc:[/b]
Đêm chợt nghe
Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rơ
Tiếng tóc ḿnh chuyển bạc
- Nghe đêm
[b]Đó là sự cô đơn của kẻ một ḿnh một ngựa trên hành tŕnh mở nước và dựng nước về phía văn hóa, t́nh nước và t́nh người.[/b]
[1] Phùng Hà Phủ, Nhà thơ Phùng Cung, in trong cuốn Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản (Văn Nghệ, California 2003); in lại trong cuốn Phùng Cung (Trung Tâm Dân Chủ Cho Việt Nam, Canada 2004) và Talawas.
[2] Phùng Hà Phủ, bđd.
[3] Đăng trên Nhân Văn số 4.
[4] Nguyễn Chí Thiện viết về Phùng Cung, Phùng Cung truyện và thơ, Văn Nghệ, 2003, phụ lục, trang 397.
[5] Phùng Quán, Hằng Nga thức dậy, tài liệu Talawas.
[6] Ngô Minh, Phùng Cung trong tôi, Huế, 3-2008, tài liệu Talawas.
[7] Khởi Hành bộ mới, số 1 và 2, tháng 11 và 12/1996.
[8] Khởi Hành số 4, tháng 2/1997.
[9] Khởi Hành số 7 và 8, tháng 6 và 7/ 1997.
[10] Phùng Hà Phủ, bđd.
[11] Văn Nghệ Cali, 2003.
[12] Trung Tâm Dân Chủ Cho Việt Nam, 2004.
[13] Nguyễn Hữu Đang, Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm, Hợp Lưu số 94, tháng 4-5/2007.
[14] Hoàng Tích Linh.
[15] Trần Dần ghi, Văn Nghệ, 2001, trang 238-239.
[16] Tức là thời gian báo Nhân Văn bị cấm.
[17] Phùng Hà Phủ, bđd.
[18] Phùng Quán, Hằng Nga thức dậy, tài liệu Talawas.
[19] Theo Tô Hoài, trong Cát bụi chân ai.
[20] Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958.
[21] Những lời thú nhận của Lê Đạt, Văn Nghệ, số 12, tháng 5 năm 1958.
[22] Trần Dần ghi, trang 253.
[23] Nguyễn Xuân Sanh.
[24] Trần Dần ghi, trang 257.
[25] B là văn nghệ sĩ, theo cách xếp hạng của Đảng.
[26] A là trí thức.
[27] Trần Dần ghi, trang 260.
[28] Tức là khai.
[29] Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Tử Phác.
[30] Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đ́nh Hưng.
[31] Trần Dần ghi, trang 267-268.
[32] Trần Duy, Một câu hỏi c̣n chưa được trả lời, đăng ngày 10/7/2009, mạng Talawas.
[33] Trích Phùng Cung truyện và thơ, Văn Nghệ, California 2003.
[34] Tức là Phùng Cung, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
[35] Chắc là Vơ Hồng Cương.
[36] T.D. chắc là Trần Dần.
[37] Nguyễn Hữu Hiệu, Phùng Cung, Khởi Hành, Bộ mới số 1, tháng 11/1996, trang 7.
[38] Có chỗ ông nói là hơn 10 truyện.
[39] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện vói bạn bè.
[40] Nguyễn Hữu Hiệu, bđd.
[41] Tô Hoài, Cát bụi chân ai, Hồng Lĩnh, California, 1993.
[42] Cát bụi chân ai, Hồng Lĩnh, California, 1993, trang 120-123.
[43] Nay là Hà Tây, thuộc Hà Nội.
[44] Sơn Tây là vùng rộng lớn, cuối thế kỷ XIX bao trùm nhiều tỉnh và thị trấn ngày nay: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây và một phần Hoà B́nh và Tuyên Quang. Sơn Tây có hai huyện quan trọng: Phúc Thọ và Bạch Hạc. Huyện Bạch Hạc, Việt Tŕ, thuộc phủ Vĩnh Tường, trung tâm Sơn Tây, là đất Phong Châu, kinh đô nước Văn Lang. Sông Lô và Sông Thao gặp nhau ở Ngă Ba Bạch Hạc. Huyện Phúc Thọ, thuộc phủ Quảng Oai, đời Hán là đất Mê Linh, nơi Hai Bà sinh trưởng và đóng đô. Có Hát giang, tức sông Đáy. Có xă Cam Lâm thuộc quận Đường Lâm là nơi sinh của Phùng Hưng và Ngô Quyền. Có đền Phùng Vương và Ngô Vương ở xă Cam Lâm. Có miếu Hai Bà ở xă Hát Môn. Hai huyện Tùng Thiên và Bất Bạt có núi Ba V́ (Sơn Tinh Thuỷ Tinh), ba ngọn rất cao, h́nh tṛn như cái tán, lớn nhất đất Bắc.
[45] Gồm hai huyện Phúc Thọ và Minh Nghiă, thuộc phủ Quảng Oai.
[46] Theo Ngô Th́ Sĩ và Phan Huy Chú, Đường Lâm là đất hai huyện Hoài An, (nay là huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây) và Mỹ Lương (nay là đất các huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây và Lương Sơn, Kim Bôi, tỉnh Hoà B́nh).
[47] Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản Văn Nghệ, California 2003, trang 312.
[48] Mạt kiếp, Phùng Cung truyện và thơ chưa hề xuất bản, Văn Nghệ, California 2003, trích dẫn từ trang 27 đến 67.
[49] Biệt tích, sđd, trang 155.
[50] Mộ phách, sđd, trang 204.
[51] Ngày 17/8 ở đây có ư nghiă chính trị: 17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến Quân Ca được Phạm Duy "cướp micro" hát lần đầu tại nhà Hát Lớn, Hà Nội. 19/8/1945, Việt Minh "cướp chính quyền", bài Tiến Quân Ca được dàn đồng ca Thiếu niên Tiền phong do Văn Cao điều khiển hát tại Nhà Hát Lớn.
[52] Các trích đoạn tên đây rút trong Mộ phách, sđd, từ trang 205 đến trang 234.
[53] Dạ kư, sđd, trang 286.
Mời qúi vị cùng các bạn trẻ đón xem chương 15