Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.........................
Tôi mời anh trạm trưởng và Chân ở lại. Chúng tôi làm thịt con gà béo nhất. Anh bảo chúng tôi:
– Các anh nên làm lương khô để mang theo đường, không nên phí phạm! Trên đường dây này cái ǵ cũng không qua cái ăn. Anh có cái ăn rồi th́ sẽ có tất cả, ngay cả bạn bè. Cho th́ không thiếu kẻ xin, nhưng xin th́ không ai cho, ngay cả bạn thân của anh.
Tôi tin lời anh trạm trưởng là đúng. Cơm xong anh c̣n ngồi nán lại chơi. Câu chuyện anh bệnh binh lại được nhắc đến. Anh trạm trưởng nói:
– Anh chàng này không ăn uống được ǵ nữa hết, chứ nếu ăn được th́ mai tôi lục ba-lô anh ta coi c̣n cái ǵ tôi sẽ đi đổi gà cho anh ta.
Tôi đâm ra ân hận v́ lúc năy nấu cháo gà mà tôi đă quên khuấy đi rằng bên cạnh ḿnh có một người bệnh cần ăn cháo. Tôi nói để chữa ngượng:
– Để mai coi anh ta có tỉnh dậy không, tôi sẽ nấu cho anh ta tí cháo.
– Phải đó, làm phước cho con cháu sau này.
Anh trạm truởng ngồi trầm ngâm lâu lâu mới nói vài câu. Tôi cứ tưởng anh ta sắp ra về nhưng trông chừng anh ta muốn nói chuyện ǵ. Măi lúc sau anh ta mới hỏi tôi:
– Các anh có nghe đài Bắc Kinh không?
– Có!
– Các anh nghe thế nào?
– Nghe như anh nghe vậy thôi.
– Tôi muốn hỏi thẳng các anh là có nghe vụ của đồng chí Lưu Thiếu Kỳ không?
– Có, có.
– Các đồng chí nghĩ thế nào?
– C̣n biết nghĩ thế nào nữa! Bao giờ Trung Ương có chỉ thị th́ ḿnh học thế thôi!
Anh trạm trưởng lặng thinh. Tôi biết anh chàng này ít ra cũng tŕnh độ tổ trưởng hoặc chi ủy. Anh nói:
– Thiệt rầu các ông anh bà chị ḿnh hết sức. Đất nước họ hoà b́nh, ăn no phè ruột ra ngủ, em út đánh giặc mệt ứ hơi, đă không lo giúp đỡ lại c̣n chơi cái mững đó. Năm 1957, nằm hầm bí mật lính nó đái trên đầu ḿnh bầm gan tím ruột, muốn nhảy lên ăn thịt nó, vậy mà năm đó ông anh cả của ḿnh lại phạm vào chủ nghĩa “xét đi xét lại” chi đó. Liệt cường trên thế giới không ủng hộ đă đành, ông anh ḿnh lại cũng không ủng hộ. Thiệt là kỳ cục.
Anh trạm trưởng tiếp:
– Tôi nói thật với các anh nhé! Các anh không có ở Miền Nam trong những năm đó nên không biết nỗi đau thương của bọn chúng tôi. Bị bắt, đày Côn Đảo gần hết. C̣n sót mấy người không làm ăn ǵ, kẻ vô chùa tu, người mai danh ẩn tích. Ngày ngày ngóng trông Miền Bắc, ngóng trông các ông anh lớn. Rốt cuộc chẳng được cái cóc khô ǵ…
Phe ḿnh nói chuyện tày trời, nào t́nh nghĩa vô sản rùm beng. Rốt cuộc Mỹ nó đánh ḿnh mà không ai dám hó hé. Ḿnh chửi nó, nhưng coi kỹ lại, ḿnh không bằng nó.
Anh trạm trưởng trợn mắt như căi nhau với tôi:
– Ừa, tôi dám nói vậy mà. Nh́n lại mà xem có đúng hay là không. Nó nói ít hoặc không thèm nói mà làm nhiều. Nó đâu có la ó ǵ hung đâu, vậy mà đùng một cái, nhảy vô năm trăm ngàn lính Mỹ ở Miền Nam làm thiên hạ trắng mắt ra mà nh́n.
C̣n miền Bắc bị đánh tan nát như vậy đó, có anh Liên Xô nào lái máy bay đánh với phi cơ Mỹ không? Có anh Trung Quốc nào dám nhảy vô cầm súng bắn Mỹ không? Rốt cuộc ai cũng đứng đằng sau lưng thằng em út và lúc nào cũng hoan hô “thằng con nít ăn ớt giỏi quá, ăn thêm vài trái nữa đi! Ăn xong leo bẻ dùm mấy trái dừa kia nữa!”
Anh trạm trưởng cười mai mỉa:
– Mà cũng chưa hết, thằng nhỏ bắt cá cũng giỏi lắm! Thằng nhỏ vốn liếng thoắng thấy mấy anh lớn khen th́ hừng chí, nhảy a vô thộp, tưởng các lóc, không ngờ cá mặt quỷ gai góc đầy ḿnh, mới vớ vô bị nó đâm la trời nhưng v́ lỡ nhận là ḿnh gan lỳ rồi, không lẽ chịu thua, ráng bắt con cá, bắt không được mà hai bàn tay sưng vù.. kêu cha kêu mẹ. Mấy thằng lớn đầu đứng xa xa nh́n nhau cười ha hả!
Anh trạm trưởng kể chuyện nghe thật hài hước cho nên người nghe càng chua chát.
Tôi ngồi lặng thinh.
Còn tiếp ...
Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.........................
Anh trạm trưởng dường như gặp được người bạn tri âm, bèn xổ thêm bầu tâm sự.
– Hồi tôi c̣n nằm trong tù, tôi thấy đau khổ cho cái số phận ḿnh quá. Đang đánh giặc ầm ầm tự nhiên kư kết Giơ-neo. Ḿnh là kẻ đang tung hoành ngang dọc bỗng nhiên lại xếp cánh nằm hang. Nghĩ thật bầm gan tím ruột. Tôi nói thật với các anh là hồi đó tôi không c̣n mong ngóng cái ǵ nữa hết. Cái sự xây dựng lực lượng hai năm ở Miền Bắc, rồi trở về thống nhất đất nước càng nhắc càng nghe nó xa vời.
Tôi ở trong tù đâu có biết tin ǵ. Có một hôm tên chúa ngục đập cửa gọi tôi vào lúc nửa đêm. Tôi đang ê ẩm cả ḿnh mẩy, tôi lên pḥng tra, bụng nghĩ chắc lănh thêm một trận đ̣n nhừ tử, nhưng không phải! Hắn ta mời tôi ngồi uống nước trà rồi hắn cười ngạo nghễ:
– Anh biết tin ǵ không?
Tôi đáp:
– Không biết!
Hắn ph́ phà điếu thuốc x́-gà rồi cười:
– Tôi cho anh hay tin mừng về sự xây dựng xă hội chủ nghĩa đại thắng lợi khà…khà… Nè, biết uống la-de không? Làm một chai đi rồi tôi nói cho mà nghe. Uống một chai để ăn mừng.
Hắn khề khà kéo dài câu chuyện một cách khó chịu, cuối cùng ra mới đứng dậy chống nạnh hai quai và nh́n thằng vào tôi mà hỏi:
– Anh có biết tổng số xe hơi Miền Bắc hiện nay là bao nhiêu không?
– Dạ không biết! – Tôi đáp.
Hắn xoè bàn tay ra và nói:
– Có tất cả là 6 chiếc, trong đó có một chiếc không chạy được mang tên là “Chiến Thắng”. Như vậy c̣n lại 5 chiếc tất cả. Thế nhưng vừa rồi, mới rồi đây, chỉ c̣n lại có 4 chiếc… Toàn Miền Bắc XHCN của các anh chỉ c̣n lại có 4 chiếc xe cam-nhông như vậy cũng nhiều quá chớ!
Tôi giận uất người lên, nhưng tôi làm ǵ được hắn, trong khi tôi nằm trong tay hắn. Hắn gọi người mang la ve nước ngọt mời tôi và nói tiếp:
– Để tôi kể anh nghe nốt câu chuyện nhé ! Số xe trên Miền Bắc XHCN các anh bây giờ tôi cam đoan không quá 5 chiếc, là v́ sao? V́ vừa rồi có một anh tư sản do chính phủ Bắc Kỳ bắt phải đi cải tạo ở Vĩnh Linh. Công việc mà y phải làm hằng ngày là xúc đá đổ đường.
Anh tư sản kia v́ không phải là vô sản tay trắng nên anh ta có xe hơi và biết lái xe hơi. V́ thế cho nên từ việc xúc đá đổ đường anh ta được gọi lên cầm lái ô-tô chở đá đổ đường. Cha chả, cầm lái xe là thành phần lănh đạo đó nghe. Như vậy là anh tư sản kia từ giai cấp bóc lột phải d́m xuống bùn đen mà ngoi lên được giai cấp lănh đạo rồi nhé!
Bỗng một hôm nọ anh chàng lái xe “vỏ công nhân, ruột tư sản” kia không đời nào cái sự chỉnh huấn thay đổi được , vọt xe qua cầu Hiền Lương mà chạy thẳng về Sàigon… Đó nguyên nhân là như thế đó, cho nên toàn bộ xe hơi ở ngoài Bắc Kỳ hiện giờ chỉ c̣n lại có 4 chiếc…
Anh trạm trưởng thở dài, một chốc anh hỏi tôi:
– Ở miền Bắc có chuyện như vậy thật sao anh?
Tôi lại ngồi lặng im. Anh trạm trưởng thở dài năo ruột :
– Nếu quả t́nh có việc đó th́ ở Miền Nam này bọn tôi c̣n trèo đèo lội suối làm chi nữa?
– Tại sao?
– Là v́ sự xây dựng cái chủ nghĩa xă hội đâu có hấp dẫn ǵ đâu.
Trong cái túi sắt của rừng thiêng nước độc này, tôi đă nh́n thấy không biết bao nhiêu mái đầu tóc đă muối tiêu, mặt mũi hốc hác, cặp mắt thao láo lúc nào cũng ngóng xem mặt trời ở hướng nào. Ở trong rừng, người đi đường, cả người dẫn đường cũng đều mất hướng.
Còn tiếp ...
Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.........................
Tôi biết họ cũng như tôi quá nửa cuộc đời theo “lư tưởng”, chân đă ṃn, trí óc đă tiêu hao. Tôi biết họ cũng như tôi, giờ đây mỏi mệt nhưng đích th́ chưa trông thấy đâu.
Anh trạm trưởng móc thuốc ra hút rồi sau khi đă nuốt trửng mấy ngụm khói vào bụng, như muốn nén đi những nỗi thắc mắc kinh niên, anh nói lăng đi:
– Tôi c̣n mấy đứa nhỏ học ngoài đó…
– Anh có con lớn vậy à?
– Tôi đă 45 tuổi rồi chớ ít sao anh?
Tôi thấy anh trạm trưởng rũ xuống với mái tóc xám tro của anh. Từ khi tiếp xúc với anh tới giờ, tôi không nom thấy anh già nhưng bây giờ khi nghe anh nói có con lên học đại học th́ tôi mới trông thấy anh già. Tội nghiệp! Con Bắc cha Nam!
Một chốc anh hỏi tôi:
– Tôi hỏi thật mà anh cũng phải trả lời thật nhé! Miền Bắc xây dựng XHCN có ngon hơn Miền Nam ḿnh không?
Tôi cười và t́m cách nói loanh quanh, không trả lời thẳng. [b]Điều tôi muốn nói với anh là: Chế độ nào nhiều cơm gạo, và thoả măn người đời nhiều nhất th́ đó là chế độ ta cần bảo vệ và vun bồi.[/b]
Chủ nghĩa Cộng Sản trên lư thuyết th́ có vẻ hay thật nhưng nó chỉ thực hiện được khi nào nhân loại chỉ có một cái dạ dày chung. Đừng nghe lư thuyết bất kỳ của ai, hăy nh́n vào nồi gạo của họ. Goethe nói một câu tuyệt hay: “Tất cả lư thuyết đều trở thành màu xám, chỉ có cây đời măi măi xanh tươi.”
Anh trạm trưởng biết tôi dù có nói cũng không nói thật, cho nên anh tiếp:
– Tôi bi quan từ hằng chục năm nay anh ạ. Nhất là từ khi tôi ra tù. Tôi không nh́n thấy cái ǵ sáng sủa nữa.
Tôi hỏi vặn:
– Nghĩa là sao?
– Nghĩa là tôi như lục b́nh trôi ... như vậy đó.
Tôi không muốn khơi vào tâm sự của anh ta nữa. Bởi v́ chích vào đó th́ cũng là động đến tâm sự của tôi, cho nên tôi kéo câu chuyện rẽ sang lối khác. Tôi nói:
– Nhưng, c̣n cả con cầy kia, mai ta làm một bữa. Anh nghe có lạc quan hay không?
– Khà..khà! – Anh trạm trưởng cười như đứa trẻ.
– Và kia nữa …
Tôi trỏ vào Thu đang đi từ suối lên. V́ sợ ướt quần nên Thu xăn lên quá đầu gối rất xa. Màu da trắng loáng thoáng qua những kẽ cây rừng. Tôi rỉ tai anh trạm trưởng:
– Cặp đùi đẹp nhất thủ đô đó, anh xem dùm một chút là hết bi quan ngay.
– Khậc..khậc!
Anh trạm trưởng nh́n theo tay tôi chỉ rồi quay lại, nét mặt hửng lên, thơ ngây như một anh chàng lần đầu mới nh́n thấy đàn bà.
Thu không trông thấy tôi và anh trạm trưởng nên cứ tự nhiên đi tới, càng lúc càng gần chúng tôi. Cái màu trắng mơ hồ lúc năy bây giờ đă hiện lên gần quá. Có thể nom thấy những hạt nước c̣n đọng trên làn da như những hạt sương điểm trên những cành hoa bạch huệ.
Nhưng anh trạm trưởng không nh́n thẳng. H́nh như anh bị loá mắt trước một hiện tượng kỳ lạ – xa lạ với cuộc sống lâu nay của anh.
C̣n tôi th́ có thói quen, khi th́ công khai, khi th́ lén lút (nếu nói theo danh từ th́ “bí mật”), khi th́ thiệt t́nh, khi th́ vờ vịt, tôi đă nh́n cái hiện tượng đó, cái kỳ quan đó không biết bao nhiêu lần, mỗi lần mỗi rung động, mỗi ư nghĩa, mỗi diễn biến tâm trạng, mỗi dục vọng. Tôi đă t́m thấy tất cả an ủi trong cái hiện vật lạ lùng ấy. Thơ tứ ở trong đó và những ư nghĩa sôi nổi, những t́nh cảm nồng cháy cũng ở trong đó.
Tôi không tự nhận rằng tôi yêu Thu nhưng tôi thấy thiếu thốn khi Thu vắng bên tôi. Tôi không thấy hài ḷng khi Thu nói chuyện thân mật với người khác, ngay cả với Việt là người mà tôi chắc chắn rằng Thu không yêu. Nói đến Thu là tôi nghĩ ngay đến thỏi ngà thon thon, không no tṛn quá cũng không mong manh quá, một cái ǵ gần như được cân tiểu ly , cân đo và một bàn tay điêu khắc kỳ diệu nhào nặn tác hợp.
Thu: có nghĩa như vậy nhưng không phải chỉ như vậy mà thôi.
Tôi là kẻ đa t́nh. Tôi tự biết như vậy, mà ở giữa cảnh rừng này đâu có cái đẹp để mà nh́n. Cho nên quanh đi quẩn lại tôi chỉ c̣n có đôi chân của Thu.
Thu vẫn giữ đôi chân trần như thế đi đến bên cạnh chúng tôi và nói:
– Thôi.. đi ăn đi anh! Cháo chín rồi!
Tôi lặp lại lời của Thu mà mắt vẫn không rời đôi chân Thu.
– Thôi đi ăn đi anh!
Anh trạm trưởng nói:
– Ăn ǵ?
– Gà nấu cháo! Cháo nấu với gà!
– Thế à?
Không để cho anh ngượng ngùng, tôi lôi tay anh đứng dậy và nói ngay:
– Đi làm bậy một chén cho ấm bụng.
Anh chống chế:
– Để các anh tẩm bổ, các anh c̣n đi xa quá.
– C̣n chơi, hết thôi ! Mà sao anh kỳ cục vậy?
Anh trạm trưởng miễn cưỡng đi theo tôi. Cháo gà nấu trong 3 cái cà-mên đang sôi ùng ục bốc lên sực nức.
Đây cũng là một kỳ quan nữa. Kỳ quan bên cạnh kỳ quan. Thu sợ ướt ống quần nên vẫn cứ xăn lên như thế mà chạy lăng xăng lo việc này việc nọ.
Bỗng dưng tôi lại được hưởng một loại hạnh phúc xấp đôi này.
Còn tiếp ...
Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.........................
Không biết giờ này là giờ nào nữa nhưng nghe có tiếng gà cục tác. Trong mấy chú gà c̣n bị giam lại có cả một chú gà trống mới tập gáy như con trai mới bể tiếng. Nó kêu te te chứ chưa thành tiếng gáy. Vậy mà tôi nghe cũng vui, tưởng như ḿnh ở giữa thôn xóm quê hương.
Bất giác tôi nhớ tới anh bệnh binh khi chiều. Nếu c̣n sống th́ hắn ta đang ngủ hay thức? Nếu đang thức th́ hắn ta nghĩ ǵ, ao ước ǵ? Có cái quân đội nào mà đứng về phương diện tổ chức kỳ cục vậy không? Hô đi, con người ta đi!. Con người ta ốm nằm dọc đường thế là bỏ phế không thuốc men, không săn sóc.
[b]Có thứ t́nh người nào kỳ cục vậy không? Mạnh giỏi th́ chơi với nhau, khi đau ốm th́ không ngó ngàng tới nữa. Có thứ người ngợm nào kỳ cục vậy không? Khi c̣n mạnh giỏi th́ nai lưng ra khiêng vác trèo leo bất kể đêm ngày, sống chết, khi nằm xuống rồi nh́n quanh quất bạn bè đồng chí, lănh đạo, chỉ huy chẳng thấy một ngoe.[/b]
… Chúng tôi đang nấu cơm sáng.
Nấu cơm hôm nay là niềm phấn khởi lớn nhất đối với chúng tôi bởi v́ sau bữa ăn ngon chiều qua, bữa ăn sáng nay cũng sẽ rất ngon.
Ấy vậy mà nó lại không ngon. Chúng tôi đang ăn cơm th́ có người đến. Đáng lẽ các ông này đến chiều hôm qua th́ bây giờ các ông mới đến. Sau khi nghe họ tiếp xúc với bệnh nhân và họ nói chuyện với nhau th́ tôi biết ngay rằng đó là các cán bộ chính trị trong đó có một trợ lư chính trị tiểu đoàn. Anh ta đến bên vơng giở mí chăn lên xem hồi lâu rồi hỏi thật to:
– Cậu đau có nặng lắm không?
Tôi không nghe bệnh nhân đáp, nhưng tôi đoán là anh ta chỉ khẽ gật đầu thôi. Anh ta hỏi tiếp:
– Có ăn cơm ăn cháo ǵ không?
Tôi lại cũng không nghe tiếng bệnh nhân đáp. Ai chớ ông trợ lư chánh trị thừa biết là những người khiêng bệnh nhân tới đây đều rút lui có trật tự hết rồi.
– Bệnh tư tưởng chứ bệnh ǵ! – Anh trợ lư tiểu đoàn ném ra một câu bông lông.
Tôi nh́n anh ta mà điếng cả người như bị roi da quật. Tôi không hiểu anh ta định nói ai. Anh trợ lư tiểu đoàn quay sang chúng tôi:
– Các đồng chí nghĩ coi bệnh ǵ mà kỳ cục vậy? Mới hôm qua đây nó c̣n ăn cơm rơ ràng. Chiều lại th́ ngă ra đau nặng. Đang đi lại nằm ỳ ra, bắt người ta khiêng như thế ? Không có người khiêng súng, người đâu mà khiêng người? Phá sản cả kế hoạch hành quân! Bệnh ǵ? Bệnh tư tưởng chứ bệnh ǵ?
Anh trợ lư chính trị nói rất hăng làm như diễn thuyết cho nên vừa chấm câu xong, anh ta mệt , thở hào hển như leo dốc.
Cả ba chúng tôi không bảo nhau mà đều ngồi im. Anh ta bèn ngồi xề lại gần chúng tôi và lải nhải:
– Thiệt là một thứ bệnh nguy hiểm các đồng chí ạ! Nó lây hơn tất cả các chứng bệnh khác. Anh này thấy anh kia làm có kết quả th́ bắt chước làm theo. Rồi anh nọ lại bắt chước làm theo nữa không thể nào ngăn nổi. Các đồng chí xem trong một tiểu đội mà có hai người bệnh phải khiêng th́ c̣n đánh đấm ǵ nữa?
Anh trợ lư phân trần với tôi làm như chúng tôi cũng chú ư nghe hoặc đồng t́nh với anh ta.
– Có một dạo có một cái dịch tự sát thương để nằm lại và sau cùng là “bê quay”. Đó là lúc qua giới tuyến. Họ làm như vậy để trở về Bắc. Bây giờ tới đây th́ quá sâu rồi không thể trở về được nữa th́ họ lại t́m cách lùi lại , và dần dần không c̣n ai biết tới nữa. Rồi họ tự xoá tên trong đơn vị và trở thành người rừng, như một thứ thổ phỉ. Tôi làm cán bộ chính trị cho nên tôi thuộc hết tất cả ngóc ngách tư tưởng của họ, tuy nhiên tôi không làm sao chận đứng lại được.
Anh trợ lư nuốt nước bọt và trỏ về phía vơng:
– Đó là một bằng chứng của những lời tôi nói. Hôm qua anh ta c̣n ăn cơm rơ ràng mà. Chính mắt tôi thấy! Đang đi bỗng nhiên lại khuỵu xuống không đi được nữa. Riêng tôi th́ tôi không sợ v́ tôi có biệt tài trị chứng bệnh này rất nhanh. Chỉ có một phương pháp thôi: đó là không phát gạo! Đói là đầu gối phải ḅ!
Nghe anh trợ lư mà anh chính trị cấp tiểu đoàn tuyên bố cái phương pháp trị bệnh của ông ta, tôi nổ lỗ tai.
Còn tiếp ...
Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.........................
Anh trợ lư chính trị tiểu đoàn nói tiếp:
– Phức tạp lắm anh ơi. Đi trên con đường này, lănh đạo một tiểu đoàn bằng lănh đạo một sư đoàn. Mỗi một binh sĩ là một cái nợ đối với chúng tôi. Mỗi người mỗi kiểu, mỗi người mỗi hành động để chống lại chuyện đi vô Nam, chống việc khiêng đạn vác súng. Cuối cùng giả đau là thần diệu nhất. Đau để nằm lại, để t́m cách quay về Bắc, đó là mục đích của cơn đau.
Anh chính trị viên giải thích cặn kẽ mạch lạc và đoan chắc mọi điều anh nhận định là đúng hoàn toàn. Anh nói tiếp:
– Như cái anh này đây, tôi nói rồi để các anh xem! Anh ta sở dĩ đau nặng như vậy là v́ chặng đường sắp tới rất gay go. Hai ngày không có suối, do đó cơm ăn trong hai ngày tới phải nấu đem đi từ đây.
Tôi làm công tác chính trị quân đội nhiều không có , chứ ít ra cũng 7, 8 năm cho nên anh lính nào nháy con mắt là tôi biết trong bụng anh ta muốn cái ǵ rồi. Tôi hứa chắc chắn với các anh một câu xanh dờn rằng anh binh sĩ này nằm lại đây cho đến sáng mai là khỏi ngay bởi v́ sáng mai đơn vị hành quân rời khỏi chỗ này. Sau đó anh ta hoạt động lại ngay, lại đi đổi gà nấu cháo xơi phây phây ra thôi!
– Nếu họ “đau” cái kiểu đó th́ cứ để cho họ ở lại chớ lôi kéo họ theo làm ǵ cho nặng hở đồng chí? – Thu hỏi.
Bị hỏi bất ngờ, anh trợ lư “già kinh nghiệm” bị chới với nhưng anh ta cũng trả lời ngay:
– Trời! Nếu bỏ họ ở lại hết th́ c̣n ai đi?
Anh cán bộ chính trị đă nói một câu hết sức thành thật. Nhưng anh ta biết ngay rằng ḿnh nói hớ nên anh ta bỏ đi ngay. Anh ta quay trở lại vơng bệnh nhân. Anh lắc lắc cái vơng vô tri mà nói với giọng chua ḷm:
– Bịnh có nặng cũng cố gắng lên, không có ai khiêng nổi đâu!
Nói xong anh cán bộ chính trị ngoe ngoảy bỏ đi. Cái vơng không động đậy, cũng không lên tiếng, cơ hồ như không hay biết chuyện ǵ đang xảy ra bên ngoài.
Khi anh cán bộ chính trị vừa khuất dạng th́ chúng tôi cũng vừa bên cơm nước thịt cá dọn ra. Bữa ăn chúng tôi đang ngon lành th́ bỗng có tiếng ú ớ đằng vơng. Tôi buông đũa chạy sang, v́ tôi nghĩ rằng bệnh nhân đang cần sự có mặt của một người.
Tôi mất hết sự ngon lành của bữa ăn. Người nằm trên vơng là một cái xác không hơn không kém. Tôi không có can đảm nh́n lâu.
Tôi thấy đôi môi anh ta mấp máy nhưng không ra tiếng. Tôi chỉ đoán anh ta cần uống nước và ăn cháo. Tôi hỏi:
– Anh khát nước phải không?
Bằng đôi mắt và với cử động rất khẽ của mí mắt, bệnh nhân trả lời với tôi. Tôi quay về lều và trở lại với ca nước trên tay. Tôi hỏi:
– Anh ngồi dậy được không?
Tôi thấy khổ tâm quá. Một tay tôi nâng bệnh nhân lên, một tay tôi cố giữ thăng bằng ca nước, và đưa ca nước vào đôi môi của anh khô như đất nẻ mặt ruộng trong kỳ đại hạn.
Chỉ vài hớp thôi bệnh nhân đă uống cạn nước trong ca, rồi ngă vật ra trên vơng dường như bất tỉnh. Tôi nom xuống và hỏi:
– Anh cần ǵ nữa không?
Bệnh nhân khẽ lắc đầu.
– Anh có ăn cháo chúng tôi nấu cho. Chúng tôi đang có thịt!
Mắt anh bạn đang nhắm nghiền bỗng mở to ra như chợt trông thấy điều lành xảy đến. Anh ta nh́n tôi rất đổi ngạc nhiên. Có lẽ anh ta nghĩ rằng anh ta nghe lầm điều tôi vừa nói.Tôi vội vă trở về múc mớ cháo loăng nấu với xương chó đang sôi sùng sục trên bếp rồi mang sang cho anh ta…
Nghe hơi cháo phất qua, anh bạn ngồi bật dậy trước mặt tôi một cách không ngờ, một tay níu chặt mép vơng, một tay run run đưa ra đỡ lấy ca cháo, rồi không ngần ngại đưa lên miệng húp lia lịa, dường như không biết đó là cháo sôi mới múc ra. Anh bạn húp một hơi hết ca cháo.
Anh ta nằm vật trên vơng, mồ hồi ướt trán, mồ hôi thấm qua lớp áo kaki dày mo, gương mặt anh ta sáng hẳn lên. Đột nhiên anh ta nói, tiếng nói rơ ràng và trong sáng:
– Dù sao tôi cũng có 3 đứa con rồi ! 1 gái 2 trai.
Tôi hỏi:
– Quê anh ở đâu?
– Quăng B́nh, hợp tác xă Đại Phong.
– Anh em đơn vị anh có hứa bao giờ đến rước anh không?
Anh ta ngơ ngác tỏ vẻ không hiểu ǵ hết về câu hỏi của tôi. Tôi kể vắn tắt lại sự việc vừa xảy ra ở đây cho anh nghe nhưng tôi cố ư không kể lại sự qui kết của anh trợ lư chính trị về “cái bệnh tư tưởng” mà anh ta đă cố gán cho bệnh nhân. Rồi tôi mới trở về lều.
Thu nằm trên vơng nhưng nghiêng qua một bên mà lại cong queo lên như nằm trên giường và quay lưng hẳn lại Việt. Tóc Thu rơi một ít bên mép vơng. Thu nh́n xuống đất có vẻ như theo dơi một chú rắn mối hay một đàn mối càng đang di chuyển trong đám lá khô.
Tôi th́ nằm vặn ḿnh như chiếc bánh quai chèo, chân tḥi ra phía bên kia, đầu th́ ngoặt sang phía bên này mép vơng. Tôi không nh́n ai mà cũng không nh́n ǵ, cũng không muốn gợi chuyện với Thu.
Tôi đang nằm lim dim bỗng nghe phía vơng có tiếng è è làm như có một bàn tay nào chặn cổ bệnh nhân vậy. Tôi bật dậy nh́n về phía vơng thấy chẳng có ai ngoài chiếc vơng xám xịt im ĺm.
Tôi dự đoán rằng anh lính bất hạnh này sẽ chết nay mai.
Còn tiếp ...
Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.........................
Không hiểu tại sao tôi không biết sợ ǵ hết, tôi chạy ngay lại vơng. Đến nơi th́ thấy anh lính không c̣n thở nữa.
Tôi không sờ mũi, không sờ ngực nhưng quả quyết rằng tiếng è è lúc năy là hơi thở cuối cùng của anh. Anh đă chết v́ chứng “bệnh tư tưởng”!
Tôi gọi:
– Việt! Việt!
– Ǵ anh?
– Chạy vô trạm báo anh bệnh binh đă chết rồi.
Việt sững sờ. Thu cũng ngồi dậy ngơ ngác. Chúng tôi im lặng nh́n nhau như trao đổi với nhau nỗi buồn thảm vô tận.
Chập sau th́ anh trạm trưởng và Chân ra. Và chỉ trong ṿng vài tiếng đồng hồ sau anh trạm trưởng đến gặp tôi. Anh xoa hai tay một cách toại nguyện:
– Xong rồi!
– Vậy à đồng chí?
– Tôi nói có sai không?
– Chậc!
– Thiệt là vô nhân đạo! Đồng chí, đồng đội đó!
Tôi đứng lặng thinh lắng nghe anh trạm trưởng tiếp:
– Đấy, đồng chí thấy đơn vị có cho thằng nào trở lại không? Tôi đă nói là tụi nó đổ gánh nặng cho tôi mà!
Tôi thấy anh trạm trưởng không chút xúc động, chỉ thấy anh tức giận thôi. Anh nói:
– Tôi mà biết đơn vị nó đóng ở đâu, tôi tới níu đầu thằng chỉ huy xáng cho nó mấy bốp tai và bảo nó nghỉ đi, đừng có chỉ huy lính tráng nữa.
Câu nói của anh làm cho tôi nghĩ đến những vị chỉ huy khác. Tôi thấy eng eng muốn sốt. Tôi ngồi bật dậy và nói với Việt:
– Việt à!
– Chi anh?
– Tớ muốn hai đứa ḿnh đi làm cái này một chút.
– Cái ǵ anh?
– Cậu với tôi đi xuống suối t́m một tấm đá phẳng khiêng lên đây rồi hăy hay. Có đồng ư không?
– Được rồi…nhưng để làm ǵ?
– Làm ǵ rồi sẽ hay mà!
Rồi hai đứa cùng đi. Tôi nói với Việt:
– Khắc cho anh ta một mộ bia cậu à! Tớ nói thật mà! – Tôi nói tiếp với sự kiên nhẫn – Ḿnh nằm không sẽ bị sốt, đi hoạt động có lợi hơn!
Việt ngần ngại:
– Tôi đồng ư cái kinh nghiệm đó, nhưng khắc một bia đâu phải chuyện chơi.
– Không phải chuyện chơi nhưng ta nhất định làm được…Tội nghiệp anh ta chết không một người bên cạnh. Chỉ có cây rừng đứng lặng chung quanh. Tụi ḿnh cũng vô t́nh quá…
Việt giẫy nảy:
– Vô t́nh khỉ mẹ ǵ! Đến phiên ḿnh rồi phải nằm ngay cán cuốc ra như hắn thôi, có ai ngó ngàng tới? Chôn người chưa chắc người ta chôn ḿnh!
Tuy nói vậy nhưng Việt vẫn đi với tôi xuống suối. Hai đứa chọn măi mới được một mặt đá phẳng. Cái tấm đá không to lắm. Nó bằng gấp đôi tập vở học tṛ . Tôi cứ tưởng tôi xách một tay mà đi bon bon về nhà, nhưng khi tôi nhấc thử nó lên th́ tôi mới biết là tôi không thể.
Việt th́ có vẻ anh hùng hơn, Việt xăn tay áo và bảo:
– Để tôi vác cho!
Thế là cu cậu đỡ tấm đá lên vai vác về lều.
Tôi bèn chạy vô trạm, lục lạo một hồi mới được một cái lưỡi lê găy và tên họ người xấu số. Tôi mừng quá xách cái lưỡi lê chạy về mà đưa cho Việt:
– Cậu đục trước đi, mỏi tay rồi tôi thay , khắc tên tuổi quê quán của anh ta.
Việt đục cả tiếng đồng hồ, mồ hôi mồ hám ướt đẫm mà chưa xong một nét.
Việt ném dụng cụ và thở phào:
– Thôi! mệt bỏ mẹ! Cái thằng cha này nó lại báo hại ḿnh. Chớ phải nó họ Lư họ Lê ǵ th́ đỡ cho ḿnh biết mấy, đằng này nó nhảy , nó đè họ Nguyễn mới chết tươi ḿnh chớ ! Nội cái dấu ngă thôi khắc cũng đủ bỏ mạng ḿnh rồi.
Tôi nói:
– Th́ viết tắt.
Việt căi lại:
– C̣n tên nó làm sao viết tắt? Phải nó tên A tên B và quê ở Hà Nội cũng đỡ mệt cho ḿnh. Đằng này cái tên đă dài cả cây số rồi, c̣n quê th́ lại ở Quảng B́nh, kéo thêm nửa cây số nữa. Khắc cái mộ bia này bằng đi một trạm!
Măi tới chiều chúng tôi mới đục đẽo xong cái “mộ bia”. Tuy nó không ra cái hồn ǵ nhưng người đi qua có thể đọc và biết được kẻ nằm dưới mồ tên ǵ, mấy tuổi và quê ở đâu.
Tôi và Việt khệ nệ khiêng tấm bia đá đặt trên nấm mộ cách chỗ anh ta mắc vơng nằm không xa.
Tôi hỏi anh trạm trưởng tại sao không đắp nấm cho người chết? Anh trạm trưởng hỏi lại tôi:
– Anh có sức đắp nổi không? – rồi anh lại tiếp – Đắp để làm ǵ? Sở dĩ người ta đắp nấm mộ cho người chết là để người sống tới thăm, dẫy cỏ, đốt nhang . C̣n ở đây th́ ai tới? Vả lại nay mai trạm chúng tôi cũng dời đi, con đường ṃn này đâu c̣n. Ai mà đi qua đây? Tất cả đều ch́m lắng, đều bị nuốt mất trong cái bụng thăm thẳm của rừng, tất cả sẽ trở thành đất … một cách vô danh.
Còn tiếp ...
Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
.........................
Trong lúc chúng tôi đang chuẩn bị cơm nước th́ có hai vị khách đến, một nam một nữ. Cả hai đều tỏ ra rất thuộc đường rừng và quen cuộc sống ở rừng cho nên họ không cần hỏi chúng tôi một điều ǵ.
Một người đàn ông trạc 40 tuổi, da đen sạm với chiếc nón nỉ cũ không c̣n ru-băng sụp đến tận mắt. Anh ta mặc bộ đồ bà ba đen, ống quần th́ túm lại cho nên nó phùng ra ở phía trên như y phục của một tay kiếm hiệp. Anh chàng mắc vơng xong rồi mới đến giúp cô nàng. Cô ta mắc vơng vào đúng hai cái cây của anh “bệnh tư tuởng” vừa mới ra đi. Hai người nói ǵ với nhau, tôi không nghe rơ, nhưng có vẻ bí ẩn lắm. Gương mặt cô gái không vui không buồn. Cô ta c̣n trẻ quá, thừa tiêu chuẩn về tuổi tác để làm con anh kia.
Suốt từ khi họ đến, tôi không nghe họ gọi nhau bằng ngôi thứ mà chỉ nói trỏng trỏng suông suông. Có lẽ cô ta là y tá, c̣n anh kia là cán bộ cao nên cô ta đi theo để phục dịch thuốc men. Cán bộ cao th́ phải có gạc-đờ-co chứ! Các cha lớn đi ra th́ khác nào ông nghè bái tổ vinh qui. Hay cô kia là con gái ông ta, nhân trong một chuyến về thăm gia đ́nh, anh ta xúc nó theo đi làm cách mạng cho luôn tiện rau nào sâu ấy.
Không hiểu sao từ lúc hai nhân vật nầy xuất hiện ở đây, tôi cứ nghĩ hết giả thuyết này đến giả thuyết khác, không biết vô lư hay có lư, nhưng tôi không dứt tôi ra được khỏi vấn đề.
Tôi c̣n để ư thấy cô bé hơi bẻn lẻn. Cô không đến tṛ chuyện với Thu, cũng không ra khỏi tăng. Đến chiều khi được lệnh nấu cơm, th́ họ chỉ dọn cơm ra ăn thôi chứ không nấu. Hai người ngồi cả trong tăng cô gái. Anh đàn ông quay lưng hẳn lại phía tôi làm như cố ư che kín cả cô gái và che cả những ư nghĩ của y. Cái lưng to bản của y quả thật là tấm vách tường chắn ngang, thỉnh thoảng tôi mới trông thấy được bàn tay hoặc một mép tóc của cô nàng thôi.
Cái áo của anh ta có lẽ đă mấy ngày không có dịp giặt cho nên mồ hôi đóng thành muối, in h́nh một tấm bản đồ rất rơ nét.
Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại chú ư người ta kỹ như vậy. Chuyện của người ta mà, đâu có dính dấp tới tôi?
[b]Cơm nước xong, trời vừa tối. Đó là thời khắc thiêng liêng của những kẻ vượt Trường Sơn, đàn ông hay đàn bà kẻ khoẻ người yếu đều yên trí rằng ḿnh sắp được nghỉ ngơi trọn vẹn. Chỉ c̣n có máy bay hoặc biệt kích mới đáng sợ mà thôi.[/b]
Tôi thấy anh chàng từ dưới suối đi lên, ngang qua vơng của tôi, tay cầm cái bàn chải gơ gơ vào ḷng bàn tay và quay mặt sang bên kia, không nh́n tôi. Anh chàng đă thay chiếc áo bà ba “có in bản đồ” và mặc cái áo thun trắng. Y làm dáng, tôi nghĩ vậy.
Rồi y ta đi vào lều. Tôi ngoài cổ nh́n theo, nhưng cái cử chỉ không được lịch sự cho nên tôi ngồi dậy và lẳng lặng nằm quay đầu lại để được nh́n sang bên kia tự nhiên hơn.
Bỗng Thu gọi:
– Anh c̣n nước uống không?
– C̣n! Bi-đông treo ở đầu vơng đây, có uống th́ sang.
Tiếng chân Thu đi lào rào trên lá khô. Thu vào lều và rỉ tai tôi:
– Anh có thấy ǵ không?
– Không!
– Anh th́ lúc nào cũng vờ. Đóng kịch tài lắm!
– Lại kiếm chuyện! Kịch với chả kẹt!
– Anh không thấy ǵ hết hở?
– Không thấy ǵ cả, ngoài em!
– Xùy! Ghét cái mặt anh quá!
Tôi cười và bảo:
– Thôi về an dưỡng đi.
Thu biết tôi đối xử với nàng rất thân thiết nhưng cũng rất mực thước, cho nên nàng không ngần ngại đến với tôi bất cứ lúc nào. C̣n tôi th́ cứ ôm cây đàn ḷng, lắm lúc ở giữa núi rừng này cũng muốn trổi lên cái cung “mi-nưa” lắm, nhưng lại sợ tiếng đàn ngân lên mà không có tiếng vang, cho nên cứ lên dây, rồi lại so dây, ḿnh chỉ dạo lên cho ḿnh nghe mà thôi.
Còn tiếp ...