-
ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
................[/b]
Bị thằng bạn chơi một phát bất ngờ, tôi chới với không đáp được. Thuần tiếp:
[b]– Cách mạng hết đẹp kể từ khi cách mạng thành công. Và lũ lănh tụ trở thành một lũ súc vật mang mũ cao áo rộng cũng kể từ đó. Tao biết cả. Thằng nào cũng mong được chức cao để lănh villa và volga mày ạ. Có những thằng kèn cựa xe và nhà. Rất buồn cười. Bây giờ cũng y hệt như vậy. Cách mạng có cấp bậc hết cả. Cách mạng đầu trâu, đầu ḅ, đầu cọp và đầu c…. Cách mạng nhép, cách mạng cóc nhái, ễnh ương, cách mạng chầu ŕa, cách mạng cà nhỏng… Nhưng tất cả các tầng lớp cách mạng đều đồng qui nhất điểm: cái bánh bẻng.[/b]
– Mày phản động quá mày ! Tôi vừa cười vừa nạt.
– Ừ! Kệ tao để tao nói hết ? Sợ mày c̣n phản động hơn tao nhưng mày không nói ra thôi. Me xừ Duẩn đéo được mụ Nga đă đời c̣n đi đéo vặt vô số chỗ tao biết. Ở Hải Pḥng tên Hoàng Hữu Nhân, chủ tịch thành phố dắt tới, vô Thanh Hóa tên Ngô Tuyền bí thư tỉnh ủy dâng dưa, vô Quảng B́nh có tỉnh ủy cống hồ. Hắn làm luộc sạp hết cả , nhưng vẫn đóng vai tṛ lănh tụ vô sản kính yêu như thường.
C̣n ông đại tướng của ḿnh chộp được mụ Đặng Thị Thu Hề phải không? Mụ này dạy bài “Ba Lê công xă” dở ẹc, tao phải dạy lại mụ để mụ đi giảng cho học tṛ đại học công nông của mụ chớ ai. Sở dĩ mụ dạy Sử học là nhờ ông đại tướng gà cho, chứ mụ ấy biết Ba Lê công xă là cái đéo ǵ. Tây nó dạy tao rơ hơn chớ.
– Mày biết mụ nữa à?
– Mụ ta có những ngón tay rất dài, có cặp môi rất thâm. Học tṛ nó ngạo là môi thâm th́ cái ấy cũng thâm, làm mụ mắc cỡ bỏ giảng một tuần mà. Ông đại tướng nhà ḿnh ăn uống sâm Triều Tiên nổi gân chiến thắng Điện Biên tấn công tới tấp, bà ta vác cái đồi Him Lam chạy tới nhà tao trốn cho qua tai nạn rồi mới về. Ông đại tướng đi t́m măi không được , về nhà đánh piano, sôlô một ḿnh. Rồi có chuyện lẹo tẹo với bà thầy đờn.
– Mày biết vụ đánh đá đó nữa à?
– Mày cứ tin là tao biết hết mọi chuyện bí ẩn của các ông anh ḿnh. Lúc ông ấy bị ông đại tướng bần cố nông cho ngồi chơi xơi nước ở Hồ Tây, ổng mới nảy ra ư làm nghệ thuật, bèn mời một nữ nhạc sĩ dương cầm tới dạy, dương cầm th́ ông ta học dở nhưng tṛ dương…vật th́ ông ta mạnh lắm. Đến đỗi chồng của nữ nhạc sĩ ghen không cho vợ đi dạy nữa !
Thuần thở dài ngao ngán :
– Mày thấy có thằng cha nào đạo đức không? ? Tao c̣n quên kể cho mày cái chuyện bà Mười Thẹp nữa. Ối giời, nó có dây có nhợ, có tịch có tàng mày ơi !
– Mười Thẹp nào tao không biết?
– Bà Mười nữ chiến sĩ Nam Kỳ 40 ở Cai Lậy tỉnh mày mà mày quên à?
– Quên đâu mà quên. Bà Mười Thập ! Má thằng Quang và con Thu !
– Bả ra Bắc được cho ngồi ghế trung ương đảng. Bả phát biểu ư kiến ở đại hội Phụ Nữ Cứu Quốc có câu phản đối đế quốc, bả nói BOM HỘT NHƯN (thay v́ bom hạt nhân) bị phóng viên nó ngạo chớ đâu. Thằng Quang được cho đi học Liên Xô, không thèm. Bả bắt nó cưới vợ nó cũng không nghe. Nó bảo nó ghét cảnh ô trọc của đám lănh tụ, nên xin về Nam chiến đấu cho quê hương.
– Trời đất, cái thằng lạ vậy ? (Tôi làm bộ ngạc nhiên, chứ thực ra tôi biết thằng con Bà Mười chết ở Trường Sơn )
– Để tao nói hết cho nghe. Bà Mười chạy lên ông Hai Hùng nhờ can nó dùm và bắt nó ở lại cưới vợ nhưng nó nhất định không nghe. Nó đi vô Trường Sơn sốt rét ác tính chết dọc đường, trong ba lô c̣n cả bó sâm Triều Tiên. Vậy đó! C̣n con Thu chưa chồng nhưng lại mê thằng họa sĩ vẽ phông cải lương cho đoàn Văn Công Nam Bộ, thứ bảy chủ nhật nó đều xách cái phèng la của nó tới cho thằng họa sĩ dùng dùi cui gơ beng beng chơi.
– Mày dùng chữ chưa chính xác. Phải nói: nó xách cái đĩa màu palette của nó tới cho thằng nọ quệt cọ lông vô chớ! Vậy mới gọi là chơi chữ.
– Ừ! Phải ! Nhưng có đúng là bà Thập đó không?
– Mày c̣n sư hơn tao nữa rồi. Nhưng vụ này chắc mày không biết đâu !
– Vụ ǵ?
– Vụ người ta cáp đôi bả với anh Ba nhà ḿnh ở Nam Bộ không?
– Có vụ đó nữa sao ?
– Có chớ. Ổng th́ răng cỏ cái rụng cái lung lay c̣n bả th́ đi đâu cũng xách túi nhái đựng trầu. Hơn nữa cả hai đều là chiến sĩ cách mệnh triệt để. Xứng lứa vừa đôi biết bao nhiêu, tại sao ổng không chịu mà lại quơ con bé Nga?
– Th́ tại v́ cái mặt nạ của bả nhăn da ổi hết rồi chớ sao ! Chẳng có thằng đàn ông nào khoái lấy bà già cả. Chỉ có con gái là mê ông già thôi. V́ ông già th́ già mặt già mày , tay chân già hết…
– Mày thấy chưa ? Tao bảo nhân loại trông gần cũng xấu xa mà. Mới đầu tao nh́n Ba Duẩn, Hai Hùng, Ba Khiêm như là thần thánh cả. Nhưng khi ở gần mấy chả, tao thấy mấy chả đều phàm tục dơ dáy thấy bà. Tụi ḿnh không đến đỗi như vậy. Như tao vầy, tao có đéo vặt mấy em Liên Xô chút chút nhưng tao đâu có bỏ vợ bỏ con như các chả. Mày biết vụ bà Ba Khiêm ở Hà Nội ghen một phát vỡ cả Phủ Chủ tịch mà !
C̣n vợ lớn Lê Duẩn nữa. Mụ ta đánh bà Nga tuột quần ở Bệnh viện Việt Xô. Anh Ba phải bỏ chị nhỏ vô thùng gởi sang Tàu tá túc với cụ Mao. C̣n ông ủy viên trung ương Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh nữa. Ổng vô Nam cuỗm một bà hơ hớ. Ra Hà Nội lănh villa và volga như ai. Vợ lớn ở Nam Định nghe được tin vác cái chảo bể lên hô giáng. Ông trung tướng chạy tét không dám hô thâu tiếng nào.
– C̣n ǵ nữa hết ?
– C̣n nhiều mày ơi ! Kể sao cho xiết. Mày có viết tiểu thuyết cũng không hết.
– Tuy vậy mía sâu có đốt nhà dột có nơi mày ạ! Tôi làm bộ chống đỡ dùm cho các anh nhớn.
– Không có đốt nào không sâu, không có chỗ nào không dột hết ! Sâu tất, dột tất !
Tôi cười:
- Tao nghĩ là ông Sáu Vi là con người tuyệt vời, không có một nhược điểm nào ngoài cái mặt sắt vuông như cái khay trầu của ổng.
Thuần làm thinh. Hồi lâu lại cười hắc hắc.
Tư Mô trở ḿnh lên tiếng
– Anh Hai Hùng nữa chớ!
– Ông Hùng không lem nhem nhưng ổng phạm tội c̣n nặng hơn lem nhem.
– Tội ǵ ?
– Ổng quơ bà vợ địa chủ. Mai Khanh chị nuôi thằng nhạc sĩ Hoàng Lưu, con Hội đồng ǵ ở Phú Hữu.
– Vậy à? Tôi tưởng ông toàn bích.
Thuần tiếp:
– Tao nói theo kiểu ṿng vo Tam Quốc để kết luận bằng câu thơ của Xuân Diệu: Nhân loại trông gần cũng xấu xa. Xấu xa thật! Hồi tao ở Hà Nội, nghe văn nghệ sĩ xầm x́ oán ghét ổng, tao tự nhủ thầm: ông chỉ có tật hăng xờ máu chút thôi. Mà chính thực đảng cần những người như ổng, nếu không ai bảo vệ lập trường. Nhưng tao cũng lầm nốt !
Thuần ngưng lại rồi cười ha hả một tràng dài như liên thanh.
– Ǵ như mắc đàng bố vậy mậy?
– Mày nhớ chuyện tiếu lâm ba ông thầy tu không?
– Thầy "tu đạo" ǵ?
– Không nên hỏi đạo ǵ phạm chánh sách. Có ba thằng thầy chùa Lỗ Mũi Trâu , định sơn mặt đỏ ngoài Sài G̣n , vô nằm bên Mặt Trận đang xin yết kiến ổng. Chuyện đó như thế này. Chẳng là có ba tên trần tục lên núi tầm sư học đạo tu tâm dưỡng tánh được vài năm th́ xin hạ san. Ông thầy bảo: Muốn biết các con đă dứt ḷng trần tục chưa th́ thày cho các con một cái phép. Ông thầy lấy ba cái trống nhỏ đem đeo vào cho mỗi người.
– Đeo ở đâu?
– Để chút rồi biết! Đeo xong, ông thầy bèn dắt một cô tiên nữ cởi trần truồng ra cho đi qua đi lại trước ba tṛ. Hễ cái trống tṛ nào không khua tùng tùng th́ tṛ đó được hạ san.
Tôi phản đối.
– Tiên nữ ở đâu mà lộn lạo với tiên nam như vậy bố non ?
Tư Mô cười khè khè:
– Tiếu lâm cải biên theo đời bây giờ mà chú !
Thuần tiếp:
– Ông thầy cho cô tiên dượt qua dượt lại vài ba lần rồi đứng ưỡn ẹo một chập. Ông không nghe cái trống nào khua cả, như vậy nghĩa là dùi trống nằm im không nhúc nhích, các đệ tử thấy mỹ nhân lơa lồ mà không có bị tà dâm kích động ! Ông thầy khấp khởi mừng thầm cho các đệ tử thành công đắc quả to. Rạng rỡ danh thầy biết bao !
Ông thầy bèn đến tháo trống ra để sửa soạn phát bằng cấp “Liêm Chánh” cho họ.
– Chớ không phải bằng cấp Phó Tiến sĩ của mày à?
– Bằng này to hơn bằng của tao nhiều. Ông thầy tá hỏa tam tinh khi nhận thấy cái dùi của tên học tṛ thứ nhất thọc thủng mặt trống và kẹt trong đó luôn.
– Hớ hớ. . . hớ.
Tư Mô cười . Tôi cũng cười theo. Thuận tiếp:
– Đến tên học tṛ thứ hai th́ mặt trống c̣n nguyên mà cái dùi trống cũng không có chĩa ra chút nào.
Tôi hưởng ứng:
– Vậy là tṛ đó lănh bằng Đại Học Nhân Dân rồi !
– Nhưng mà ông thầy coi kỹ lại th́ thấy mặt trống ướt nhẹp.
– Vậy là Bùi Kiệm rồi !
Thuần tiếp:
– Đến tṛ cuối cùng. Tṛ này xuất sắc nhất. Cái dùi xuyên toạc cả hai mặt trống, ló qua cả bên kia.
– Quỉ thần ơi ! Dùi ǵ mà ghê hồn vậy?
– Thế là ba ông con phải ở lại tu tiếp.
– C̣n cô tiên nữ đó th́ sao?
– Cô ta bị đoạ luôn với ông thầy và đám học tṛ. Ông thầy chính là ông Mặt Sắt đó mày ạ. C̣n đám học tṛ kia là mấy lăo Chín Vinh, Lê Trọng Tấn, Trần Văn Chè.Trước đây tao cũng cho là ông Mặt Sắt th́ cái ǵ ổng cũng “sắt” cả. Ở Hà Nội có lần ổng đến dự tiệc của Bộ Quốc pḥng, gặp vợ Thiếu tướng Phạm Kiệt. Bà thiếu tướng trang điểm thường thôi, v́ có khách Liên Xô, Đông Âu mà, chẳng lẽ lại mang bộ mặt mụ già trầu tới đó? Ông ta điểm mặt bà ta mà mắng ông thiếu tướng; “Anh coi ḱa, vợ anh son phấn như một con đ .”
– Có chuyện đó nữa à?
– Có chớ, mày ở ru rú trong cái bếp Hội Nhà Văn của mày nên chẳng biết ǵ hết.
– Rồi ông Kiệt phản ứng ra làm sao?
– Đếch dám phản ứng ǵ cả. C̣n bà ấy th́ ôm mặt chạy ra ngoài. Khách Liên Xô ngơ ngác; có người hỏi th́ phiên dịch bảo là bà ấy có bịnh nhức đầu cấp tính! Đọ,bây giờ tới phiên ổng hạ san và được xét nghiệm bằng cái trống đạo đức… thủng toạc cả hai mặt.
– Thủng mẹ hết rồi hả?
– Cái trống này ổng không phải đeo. Nó là của người ta mà ổng xách dùi tới gơ.
– Mày nói trống nào vậy?
– Tao hổng biết ?
– Ê mày nói chuyện đó có pa-tăng không mậy?
– Tao nói láo có căn ... chứ không bỏ sách bỏ vở đâu !
– Nếu vậy th́ nói tiếp nghe chơi. Ở đây chỉ có ông bạn già ḿnh thôi ! Đâu có ai khác mà lo tai vách mạch rừng.
– Chuyện đéo vặt các cháu bây giờ ở bên Bộ Chỉ huy là thường xuyên và công khai, đâu có ai nói ǵ. Mày có qua bên đó sẽ thấy. Các ông Tư lệnh, Phó Tư lệnh, Cục trưởng, Cục phó đều có riêng nữ thư kư đánh máy thành phần học sinh Sài G̣n mới ra ḷ cả. Phá thai càng có lợi. Ngâm rượu tẩm bổ rồi lại sản xuất hài nhi tiếp. Ông Mặt Sắt là thứ dữ trong Bộ Chính trị nhưng chỉ là cắc ké so với chín Hô và Ba Chè, Sáu Bù Lạch , trong chuyện tu ở chùa “Một Cây Cột.”
– Chín Hô nào?
– Chín Hô là Chín Vinh tức Trần Độ, Ba Chè là Trần Văn Trà, Sáu Bù Lạch là Sáu Nam tức Lê Đức Anh cục trưởng Cục Tham Mưu Quân Giải Phóng. Các cha này đớp hết cả bầy tiên cô Sài G̣n mày hiểu không? Bây giờ c̣n hỏi tiên cô đâu nữa thôi ? Nhưng đặc biệt chỉ có nàng tiên của ông Mặt Sắt là gái có chồng thôi, c̣n đám kia chắc là nguyên xi. Mày nghĩ coi ở trong rừng năm này qua tháng khác mà tiên cô mang trống núc ních qua lại như vậy, dùi trống không cựa quậy hay sao?
– Tao tưởng là ông Sáu nhà ḿnh đạo đức cỡ cụ Hồ.
– Trước kia tao cũng tưởng như vậy, nhưng sau khi ổng thử trống th́ tao té ngửa ra.
– Cái thằng nói cà rỡn hoài mậy. Tao cần nghe cụ thể như sự việc đă xảy ra chứ không cần mày thêm mắm dậm muối ǵ cả.
– Ờ được ! Muốn nghe tao kể cho nghe. Một hôm có điện ngoài Bộ Tổng đánh vào. Ổng đă xem và nói nội dung cho tao thảo bức điện báo cáo. Tao thảo xong th́ mang qua cḥi ổng.
– Lúc đó nhằm buổi chiều hay buổi sáng, mấy giờ mấy phút mấy giây ?
– Buổi sáng trong rừng có chim ca vượn hú và dê kêu be he nữa. Tao qua đến nơi th́ nghe tiếng giảng bài oang oang trong cḥi: “Giai cấp vô sản là giai cấp tiền phong lănh đạo cách mạng nhưng nó phải kết hợp chặt chẽ công nông binh ! ” Tao đi trờ tới ít bước gần hông nhà. Nhà bên đó có hai loại. Loại cho trung cấp th́ ngăn pḥng nhưng vách trống chân trống đầu. C̣n cao cấp th́ bít bùng bốn bên. Nhưng tất cả đều bằng thân nứa đập dập cho nên có kẽ hở, ở ngoài ḍm vô, ở trong ḍm ra đều không thấy, nhưng kê mắt sát vào th́ thấy tuốt.
Nghe ổng giảng bài oang oang tao dừng lại, không vô ngay mà đừng lại ghé mắt vào kẽ hở. Tao thấy ông Sáu nằm vơng c̣n cô tiên th́ ngồi trên vạt nứa khít bên vơng. Đám vệ binh cũng có ư thức. Chúng làm vậy để khi nào ông Sáu nằm vơng chán th́ ḅ lên giường hoặc nằm giường chán th́ leo xuống vơng dễ dàng.
Mai tiếp ....
-
ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
................[/b]
Ổng giảng rất hùng hồn. Giọng ông sang sảng chứng tỏ sức khỏe ông c̣n…
- … c̣n có thể cất dùi lên ... nệ̣n vô mặt trống.
– Đến câu vô sản liên hiệp lại , hay câu xă hội không giai cấp ǵ đó th́ ông tḥ tay nắm tay cô tiên lôi xuống đặt cô ngồi trên bụng ổng.
– Không đứt vơng à?
– Vơng đôi dây ni-lông dù của Mỹ có thể treo năm tạ mà ! Cô ta ngúng nguẩy định đứng dậy nhưng hai bàn tay to sù của ông kềm lại, ông run run bảo: “Ngồi đây nghe bác giảng tiếp ”
Nhưng ông không giảng nữa mà ông rủ rỉ:
- “Cháu ở đây có buồn không?”
– Dạ buồn . Cô tiên đáp :
– Cháu muốn về Sài G̣n.
– Ở đây học làm cách mạng chứ về trong đó toàn là dân phản động đâu có ai giúp cho cháu.
– Có gia đ́nh cháu chớ!
– Ở đây bác cho đi Liên Xô.
– Cháu hổng đi bên đó đâu.
– Sao vậy? Người ta muốn đi mà không được đấy. Cháu chóng ngoan đi ! Bác khen giỏi, vừa “giỏi” bác vừa đưa tay ngoặc đầu cháu xuống sát mặt bác. Cô tiên vùng đứng dậy chạy tuốt vô pḥng trong.
– Chỉ có bấy nhiêu thôi à?
– Đó là lớp một , màn một. Sau đó c̣n nhiều màn khác. Kịch cọt đâu có ngưng ngang như vậy được. Tao hoảng quá, tao vội vă trở về cḥi tao ngay. Tao thú thực là tao sợ run lên. Như có cái ǵ đổ vỡ trong ḷng tao, tan nát, tan nát hết. Lạy Chúa! Đến bây giờ tao hăy c̣n run khi nhớ lại cái h́nh ảnh đó.
Thuần tiếp :
– Tao không dám đem cái công điện qua nữa. Tao sợ phải nh́n mặt cái người mà ḿnh kính phục lâu nay. Đúng vậy, lâu nay tao chỉ c̣n kính phục có ḿnh ổng thôi.
– C̣n cụ Hồ !
– Xịt! Thằng cha già sát nhân.
– Giỡn mậy !
– Lăo giết Dương Bạch Mai bộ mày không biết à?
– Ờ ... ờ… (Tôi biết việc đó nhưng tôi làm bộ quên đi.)
– Sau vụ đó tao nh́n lại các ông Duẩn, ông Giáp, ông Thọ, tao ớn quá trời.
– C̣n ông Đồng th́ sao ?
Thuần cười :
– Mày thấy ổng ra sao ?
– Ổng đạo đức khá chớ. Ổng có bà vợ điên chữa hoài không hết. Ổng tức giận ổng đi hỏi người yêu của tao.
– Hả?
– Mày đếch biết chuyện đó đâu. Cũng không có nhiều người biết. Chỉ có thằng cha Nguyễn Kim Cương thứ trưởng Phủ Thủ tướng biết thôi. V́ thằng chả là xếp cơ quan của con nhỏ bạn tao.
– Rồi sao có vụ đó?
– Lăo Cương đang làm Phó Giám đốc Đài Phát Thanh. Con nhỏ của tao làm việc ở đó. Thằng chả tưởng hai đứa tao “huề cờ” nên làm mai kiếm điểm. Con nhỏ thuật lại cho tao nghe. Tao bảo: Sao không nhận quách làm bà thủ tướng có phải sướng hơn không? Nó vả miệng tao, bảo: “Ổng lớn tuổi hơn tía tui mà!”
– Các ông lớn đều… thế cả. Đến ông Sáu Mặt Sắt này là hết phép . Người ta thuyết giảng đạo đức th́ . dễ ợt thôi. Nhưng giữ đạo đức lại khó. Chỉ khi nào đeo trống mà trống không khua th́ mới chắc thôi.
Thuần nói một dọc rồi chửi thề văng tê lên :
– Cái Bộ Chỉ huy đă trở thành một ổ điểm đực già, tối ngày mấy thằng đầu bạc chỉ lo cạo râu, sửa chân mày và đánh quần đánh áo để gù mấy cháu chớ đâu có việc ǵ làm.
– Rồi lớp hai màn một như thế nào ? Tôi hỏi .
– Để tao kể qua lớp một cái đă. Tao về nằm trong cḥi. Buồn thấu trời. Th́ có vệ binh tới gọi. Tao phải sang chầu. Tao cố xem cho ra ... sau cái bộ mặt sắt của ổng c̣n bộ mặt nào khác không ... hoặc trên cái mặt sắt đó ông có đeo mặt nạ không?
Ổng hỏi tao:
– Năy giờ cậu đă sang đây lần nào chưa?
– Dạ chưa. Anh Sáu có việc ǵ cần gọi tôi?
– Không, ấy là… tôi hỏi thế mà. V́ năy giờ tôi ngủ quên. Tôi sợ cậu sang thấy tôi ngủ rồi trở về ḿnh đánh điện trễ mất.
– Dạ công điện dài nên tôi viết hơi lâu. Viết mới vừa xong tôi sang ngay.
Tôi hỏi tiếp:
– C̣n màn hai thế nào ?
- Cô tiên qua cḥi tao than thở xin “trả lại đôi cánh” để về Sài G̣n. Bữa đó ổng đi họp với mấy cha xếp các Cục , ở quanh đấy không xa lắm nên tao được ở nhà, không phải xách cặp đi theo. Do đó mới biết tâm sự cô tiên. Chao ôi ! Nếu tao kể ra đây chắc thằng anh hùng Cầu Ông Lănh, ủa, cầu Trương Minh Giảng phải đội mồ sống dậy.
Cô ta kể rằng hồi đó thằng Trỗi mang về nhà mấy đồng chí để bàn công tác bí mật. Cơm nước xong, thằng Trỗi đèo một thằng đi đâu đó, chẳng ngờ là đi xem chỗ đặt bom.
Con nhỏ khóc với tao nức nở: “Nếu em biết ảnh làm việc đó th́ em cản rồi. Em thấy cảnh sát canh chừng rất kỹ, làm sao ḿnh đặt được bom. Bom chớ phải quả cà cái bánh ǵ mà dễ giấu vậy. Thôi việc đó qua rồi, em cũng không nên nhắc làm ǵ.
Một anh ở nhà với em. Có bà già chồng em nữa. Nhưng nửa đêm anh ta quèo em. Em không dám la v́ sợ bà già hay th́ mất mặt đồng chí của ảnh. À quên, ảnh làm thợ điện nên ảnh có cái thùng dụng cụ để dưới gầm giường. Em giận lắm. Em muốn rút cái búa nệ̣n vô đầu thằng này, nhưng em cố dằn ḷng. Làm đổ bể ra ảnh cũng không vui ǵ. Có thể mất đồng chí lẫn vợ. Thằng này lại giở ngón khác. Anh ta dụ dỗ đi với anh ta. Em bảo em có chồng rồi. Anh ta bảo: “Thằng Trỗi sẽ chết chớ không có thoát qua vụ này đâu ? Em nên móc với anh mà sống !”
Cô tiên ngừng lại quẹt nước mắt, nghẹn ngào hồi lâu mới tiếp. Em hỏi sao ông biết ảnh sẽ chết mà không can. Anh ta nói: Tại nó muốn hi sinh cho Tổ Quốc.
Em ngờ có một âm mưu của anh ta trong vụ công tác này. Bây giờ ảnh đă thế rồi. Em không muốn khơi lại nữa. Mà dù có âm mưu, th́ ai dám nhận?
Tao hỏi: – Sao em biết có âm mưu?
Cô tiên nói: Sau khi anh Trỗi bị bắt th́ anh ta lại xuất hiện. Không tỏ vẻ đau buồn ǵ hết, mà lại c̣n hớn hở. Anh ta xoa tay: Đă bảo mà. Lính, cảnh sát và mật thám như rươi mà làm sao qua mắt tụi nó được?
Em nói: ảnh bị bắt th́ mấy anh phải t́m cách giải thoát chớ?
Anh ta cười, không nói ǵ, rồi bỏ đi. Hôm sau anh ta trở lại, kêu em chuẩn bị vô khu. Em bảo em không đi. Anh ta dọa ở đây không có an ninh. Thế là em phải đi. Anh ta chở em vô khách sạn … Em chống kịch liệt. Anh ta bảo: Nếu ưng anh ta th́ hai đứa cùng ở lại Sài G̣n. Anh ta “lặn” luôn (nghĩa là không công tác nữa). Anh ta cũng là thợ điện và tổ trưởng tổ công tác của anh Trỗi.
Anh xem đó, loại người như vậy mà công tác ǵ ? Ở trong khách sạn anh ta ép nài đủ thứ … Em không nghe. Anh ta lại dọa: Không nghe th́ anh ta kêu cảnh sát bảo đây là liên lạc của tên đặt ḿn cầu Công Lư.
Em bảo: Chồng làm chồng chịu, em không dính vô đó.
Anh ta c̣n bảo: Tại v́ cô mà thằng Trỗi chết.
Em hỏi tại sao? Anh ta nói huỵch toẹt ra: Tôi cho nó xung phong ra trước để tôi ở lại sau chớ sao!
Cô nàng uất nghẹn. Việc ǵ đă xảy ra cho người đàn bà cô thế lại bị kẹt giữa hai gọng kềm, tao không cần nói ra mày cũng biết rồi. Cô tiên bảo khi vào khu , cô có méc ... mấy ông Nguyễn Hữu Thọ, ông Sáu Vi, nhưng mấy ổng chỉ hứa thi hành kỷ luật tổ công tác đó thôi, ngoài ra không ǵ nữa hết. Thi hành ǵ được mà thi hành, v́ bây giờ chính ông ta lại đi vào dấu ṃn đó.
Em chán nản lắm ! Em chỉ muốn về thành thôi. Ở đây không được anh ạ. Kỳ cục quá hà ! Tao không dám hỏi tới nữa. Tao sợ nghe những chuyện đánh rơi cái đạo đức như của anh Ba ḿnh ở miền Tây thời chín năm th́ buồn lắm, tuy biết rằng chuyện đó đă xảy ra rồi, dù cô nàng không tố cáo. Ai dám đi tố cáo một ông vua? Cô ta muốn xin đi ra Bệnh viện hoặc một cơ quan nào có đông người Nam để công tác cho khuây khỏa, nhưng ổng chỉ hứa nay hẹn mai, cứ giữ riệt cô tiên để thử dùi trống.
Tôi cười:
– C̣n mày đă thử cái trống cho mày chưa?
Thuần cười há há và nói:
– Tới phiên tao th́ cái mặt trống phải bằng sắt chứ không chỉ bằng da trâu.
Tôi ngáp dài. Nghe câu chuyện của thằng bạn tôi tưởng bạc hết cả tóc. Nhưng nó bảo:
– Vừa rồi bả mới vô mang cái trống bể cho ổng đánh.
– Bà nào ?
– Bà răng đen tóc quấn rế chớ bà nào.
– Bà Sáu Vi vô đây? Bộ bả lội Trường Sơn t́m phu tướng hả ?
– Giỡn hoài mậy. Bả đáp phản lực “không người lái” đấy. Phản lực hạ xuống ngọn cây bằng lăng, bả nhảy dù xuống, ổng hứng xong là phản lực trở về Hà Nội. (xem Củ Chi Đất Sét Chưa Thành Bùn, đầy đủ chi tiết rùng rợn hơn.)
Tư Mô gầm lên:
– Lại tiếu lâm cải tiến !
Thuần cười:
– Nói đùa chớ các bà tướng đi mé-bay vô Cao Mên đáp xuống sân bay Xiêm Rệp rồi trực thăng đưa xuống sân bay Mimot. Ba Chè, Chín Hô cho lực sĩ đem vơng sang khiêng về.
– Khiêng về!
– Chớ sao. Nuôi quân ngàn năm nhờ một thuở mà . Khiêng chừng tám tiếng đồng hồ th́ tới đây.
– Tao không thể tưởng tượng nổi chuyện mấy bà đó mang cái cối vô đây cho mấy lăo thọt mà lại bắt giải phóng quân khiêng như vậy.
– Vậy mới có danh từ “phải giống” của dân Bêka chớ.
– Tàn nhẫn thiệt !
– Nhân đạo bỏ mẹ chớ tàn nhẫn ǵ đâu. Để mấy ổng ở trong này bị dồn nén rồi ôm các cháu gái, các cháu la ... mất uy tín hết, hoặc các cháu không la rồi mang bầu, nạo thai, vậy c̣n tàn nhẫn gấp ngàn lần.
Trời ơi ! Bà Sáu Vi vô ngồi với con Quyên, tao thấy tao tưởng là hai bà cháu chớ không phải hai mẹ con mày ạ! Chắc bả tin tưởng ổng lắm nên không thấy bát đũa khua trong sóng. Mấy bữa đó con nhỏ qua ở tạm bên cḥi tao.
– Đọ tao biết mà, thế nào mày cũng thử trống. Có không?
– Tao cũng không biết tao có thử hay không? Nhưng nhớ chắc là trong những đêm dài dằng dặc đó, con nhỏ mới có hoàn cảnh kể với tao những chuyện vừa rồi .
Mai tiếp ....
-
ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
................[/b]
Tôi không thấy buồn ngủ. Cặp mắt cứ trong veo không cay, mi mắt không nặng chút nào. Tụi Bắc Kỳ hi sinh dân Nam Kỳ cho địa vị của chúng nó không thương tiếc. Bốn mươi năm rồi chứ không phải mới vài mươi năm nay thôi. Nhưng dân Nam Kỳ bị cùm chặt quá không gỡ ra được thành thử cứ phải vái lạy măi, chứ nếu sút cùm ra , dân Nam Kỳ sẽ vùng lên giết lũ Cộng Sản c̣n hơn giết Tây nữa.
Khi tôi ra Bắc tôi mới sáng mắt ra dần. Dân Nam Kỳ không có nhà cửa , đi lang thang ngoài bờ hồ và gặp nhau ôm khóc như mưa. Một số lớn bị đưa lên rừng khai hoang ở những nơi không có đàn bà con gái. Nhất là ở Lam Sơn. Lính như tù. Mười ngàn lính giải ngũ cuốc đất trồng khoai, chủ nhật lấy rượu làm vui. Nông trường Lam Sơn với quân số kể trên, uống một số rượu bằng hai triệu dân Thanh Hóa.
Khi tôi đi lao động ở đó, có mấy vụ “dâm ô” làm tôi hết biết nghĩ sao. Tôi thù Hà Nội tận xương tủy v́ những chuyện như vậy. Đây là những sự dă man do chính thằng Hồ gây ra.
Một hôm anh lính B, người Bắc, có vợ con đến thăm. V́ không có chỗ, anh B phải khiêng tấm gỗ ván ra ngoài rừng để hưởng tuần trăng mật. C̣n đứa con gái năm tuổi th́ anh gởi ngủ với chú A. Sáng hôm sau, trong bữa cơm, con bé nói oang oang trước mặt cả trăm người: “Chú thơm con!” Vợ anh B lườm con: “Chú thương nên chú thơm!” Con bé nói tiếp: “Rồi chú kê miệng chú vô môi con chú nút làm con tê cả người!” Không ai bụm miệng con nít được !
Nhưng cũng chưa tệ lắm! Bên cạnh trại lính chúng tôi có một cái nhà. Không biết tại sao người này lại lên ở đây có một ḿnh như vậy. Để cho việc của tôi sắp kể ra đây có chứng cớ, tôi nêu rơ tên đơn vị: Đại đội 2, Đại đội trưởng là Nguyễn Văn Quư. Trung đội trưởng quyền đại đội phó là một người bị thương nặng ở tay nhưng không có sổ thương binh. Chủ nhà có một đứa con gái mười hai, mười ba tuổi.
Đêm nào tôi cũng nghe tiếng chân đi rậm rật về phía nhà cô bé. Được một thời gian, bỗng một hôm nghe ông già tri hô lên rằng con gái ông chết. Nhiều người chạy tới. Tôi cũng sang. Th́ thấy dưới giếng sâu có hai bàn chân tḥi lên và một mảnh tóc bập bềnh. V́ vùng đồi nên giếng không có nhiều nước. Ông già nghèo không có tiền mua quan quách nên nhờ bộ đội ném đất đá chôn luôn. Rồi bỏ nhà đi. Trong đơn vị xầm x́. An ninh của nông trường (Lam Sơn) xuống điều tra, nhưng không kết luận được. Dù vậy người ta vẫn biết cô bé bị hiếp hằng đêm. Những tên hiếp dâm là lũ quỉ nông trường. Có lẽ sợ lộ bí mật, mất “danh dự” ( !) nên lũ quỉ giết và ném con bé xuống giếng.
Vụ thứ ba: Chú đưa cháu ngủ trên vơng. Cháu gái mới có một tuổi. Chú vừa hát vừa trật quần đút dương vật vào âm hộ cháu. Cháu khóc thét lên. Người ta chạy tới bắt quả tang giữa ban ngày. Chú bị bắt giam…
Ông Đại tá Trần Thắng Minh c̣n sống không, xin xác nhận ba chuyện này?
Bạn đọc tới đây có lẽ sẽ vứt sách tôi xuống đất mà chửi: Thằng nhà văn viết tởm quá! Nhưng sự thực c̣n tởm hơn nhiều, tởm đến mức độ tôi chỉ dám viết một phần. Không có nhà văn nào bịa nổi những chuyện như vậy, cũng không có con người nào làm những chuyện như vậy. Chính là bọn súc vật Hà Nội dồn những con người vào hang cùng, và biến con người thành những con vật.
Bạn thử nghĩ lứa tuổi mười tám hai mươi đi kháng chiến chống Pháp, ra Bắc chín mười năm liền không biết đàn bà con gái là ǵ. Trong khi đó các lănh tụ ở Hà Nội vợ bé vợ mọn tha hồ, bơ sữa no phè, lại c̣n có tên ủy viên trung ương là Nguyễn (Văn) Quyết dùng vi trùng giết vợ lớn để lấy con gái nuôi (hăy giở báo Nhân Dân lại mà xem, tôi không có bịa đâu !)
Và trong khi lính chết như gà toi trên Trường Sơn th́ các ông tướng họp nhau trong triều đ́nh ở Cục R, uống bia hút thuốc lá thơm, phân chia chế độ cơm bưng nước rót, cần vụ giặt quần áo, vệ binh khiêng các mệnh phụ phu nhân như hoàng hậu lại c̣n dâm dật loạn xà b́. Cách mạng đó! Thắng lợi một trăm phần trăm rồi đó và những con người ở rừng ... ngày nay đă cởi bỏ hết bộ mặt dă man chưa ? Xin thưa rằng họ c̣n dă man hơn lúc ở rừng. Họ bậy bạ hơn chính họ trước đây. Đất nước mà họ dẫn dắt sẽ đi đến một nơi thôi: đó là một cơn đại nguy đại loạn.
Khuya quá rồi, tôi hỏi Thuần ráng một câu để ngủ:
– Mày qua đây để gởi con, c̣n có việc quốc gia ǵ đại sự nữa không?
– Tao qua bảo Văn Công chuẩn bị sang biểu diễn cho đại hội mừng công.
– Công ǵ mà mừng?
– Pháo binh R vừa bắn tan mười ba chiếc B57 ở sân bay Biên Ḥa.
– Có thật mười ba chiếc hay kiểu như hai ngàn chiếc phản lực bị bắn rơi ở miền Bắc?
– Mừng công to lắm, có đám trí “ngủ” Sè-gọng. Nào giáo sư, văn sĩ, kỹ sư, nào bác sĩ nào các thứ đạo dụ mắm tôm, mắm cáy, đầu cua mắt ếch không thiếu thứ nào. Có cả thằng thầy chùa Lỗ Mũi Trâu nữa.
– Thầy chùa nào mà Lỗ Mũi Trâu?
– Tao không biết mặt nhưng nghe xầm x́ th́ ông Sáu Vi hứa cho nó làm thủ tướng nếu lật được Nguyễn Văn Thiệu.
– Bộ thầy chùa đeo súng lục à?
– Nghe nói thằng này đang làm loạn ở ngoài SàiG̣n, tên là Thích ǵ đó.
– Mẹ kiếp, nó làm thủ tướng th́ ḿnh ăn tương chao bỏ mạng.
– Đừng lo. Đám thầy chùa này là con cháu Lỗ Trí Thâm ăn ḷng chó gặm đùi dê, khoác áo cà sa nhưng bụng một bồ dao găm chớ không phải loại thầy chính thống của Thích Ca đâu. Không nói mày cũng phải hiểu rằng thầy chùa mà chạy vô tới đây để gặp ông Sáu Vi là loại thầy chùa ǵ chớ? Bọn Sài G̣n vô đây , ông Sáu Vi ổng coi như rác , nhưng ngoài mặt th́ ổng làm bộ kính trọng mày hiểu không. Có mấy thằng đồng nghiệp của mày nữa.
– Đồng nghiệp nào?
– Ba thằng văn sĩ chết nhát có lẽ ăn bơ sữa của Mỹ hết nổi nên vô đây t́m thịt cà khu chớ ǵ. Lại có một con đĩ lủng răng bàn nạo. Tao thấy mấy cái mặt dày vô kiếm ăn ké , tao đếch có thèm ngó.
– Vô đây làm ǵ đông dữ vậy?
– Bảo là vô dự đại hội mừng công mà. Sẵn dịp chia chác ghế Bộ trưởng thứ trưởng. Tư Siêng nhà ḿnh nẫng cái ghế Bộ Trưởng Văn Hóa là chắc rồi. À quên, có mấy ông thầy cũ của tao nữa.
– Ai đó?
– Nguyễn Văn Ch́ và Nguyễn Văn Chí. Nghe nói thầy Ch́ được xếp cho ngồi ghế Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên, thầy Chí th́ làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân SàiG̣n Chợ Lớn. C̣n hai đồng nghiệp của mày th́ ôm cẳng Lưu Hữu Phước tức là Thứ Trưởng Văn Hóa.
Tôi cười:
– C̣n mày giữ bộ nào?
– Tao à? Chắc là bộ DTR, tức là Bộ-dùi-trống, hoặc bộ ĐKZ.
– Là bộ ǵ?
– Là bộ Đ… không giật.
– Đ… không chạy mới đúng chớ. Ê, tao hỏi thiệt nghe. Mà mày hứa là mày nói thiệt th́ tao mới hỏi.
– Hỏi đi.
– Cô anh hùng sang tố khổ với mày, mày có cảm động không?
– Cảm chớ.
– Cảm rồi ngồi y nguyên hay là kéo tay em ngồi giằn lên bụng?
– Thôi mày ơi ! C̣n nhiều chuyện bí ẩn ở màn hai, màn ba lắm nhưng để hồi sau sẽ phân giải.
– Có mày một chân trong đó hả? Ê, mày ở như mày có ăn chung mâm với ổng không?
– Chung sao được mà chung. Ổng ăn đặc tiểu táo, c̣n tao là trung táo cách nhau ba bậc mày không biết chế độ trong quân đội à ?
– Mày đi Liên Xô học lấy bằng Phó Tiến sĩ triết học rồi mà !
– Cái bằng đó chẳng hơn ǵ cái tấm tã con nít.
– Vậy sao thằng cha Khiết đi Liên Xô một lượt mày ... nó về nước rồi vô đảng làm Trưởng Pḥng Huấn Học của Ba Trà.
– Ba cái thứ đó tao ỉa cũng ra. Thằng Khiết học ngu như ḅ. Nó đếch có dám phát biểu ư kiến ǵ mới. Giáo sư bảo nó nên nghỉ đi đừng có học môn triết học , v́ biết nó không có óc sáng tạo. Những thằng có óc sáng tạo, về nước đều văng dênh hết cả. Hễ trong học bạ, bên Liên Xô phê cho mấy câu “sáng tạo” hoặc “có t́m ṭi nghiên cứu, có ư kiến mới” th́ về Hà Nội bỏ mạng sa tràng ngay. Sáu Thọ chẳng đề bạt lại c̣n đày đi đất trích.
– Sao vậy ?
– V́ Trung ương sợ nuôi ong tay áo cái kiểu Lê Vinh Quốc và Vơ Văn Doăn tao nói hồi năy chớ sao. Lănh tụ đảng ḿnh gồm những bộ óc ḅ, vô học nên rất sợ văn hóa văn minh. Nói ra câu ǵ đảng muốn một trăm năm sau nhân dân nhắc lại y như vậy không được thêm bớt chữ nào.
– Vậy sao ông đại tướng bắt mày làm bí thư cho ổng?
– Ổng thích nghe triết học. Tao thường giảng cho ổng nghe. Ổng có óc cầu tiến hơn xừ Giáp. Xừ Giáp ỷ ba cái chữ Tây nhưng về việc tổ chức th́ Sáu Vi giỏi hơn v́ ông ta có óc thực tế lại muốn t́m hiểu triết học. Lắm khi ổng thú thật với tao rằng ổng dốt và chẳng biết Mác Xít là cái ǵ. Ổng không học Mác Xít ngày nào cả, nhưng v́ ghét Tây, yêu nước nên ổng chiến đấu vậy thôi.
– Thế à?
– Th́ ổng xưng tội thế, ai biết đâu !
– Vậy sao mấy lần ổng đến nói chuyện với văn nghệ sĩ ổng khạc ra Mác vậy.
– Ừ th́ lập trường ai nói chả được, nhưng vận dụng triết học Mác là chuyện khó chớ mậy.
– Mày có khá không?
– Tao chẳng hiểu giống máu ǵ cả. Đại khái như cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam này th́ ai làm cũng thế thôi nghĩa là cứ nhắm mắt đánh bừa may ăn rủi thua , chớ có ai thấy Các Mác Xít là ở chỗ nào. Tao học th́ thuộc bài lắm, nhưng nhiều khi tao tự hỏi: Tốn cơm đi nhai ba cái này để làm ǵ? Đi cày một vạt đất trồng mấy cây lúa c̣n có ích hơn.
– Luận án của mày có ǵ khác không?
– Là Chủ Nghĩ Mác và Vấn Đề Tôn Giáo thôi, không có ǵ khác hết.
– Mày định luận thế nào để nẫng cái bằng Phó Cối?
– Tao nêu lên một luận điểm chính là tôn giáo là kết quả của cả triệu năm lạc hậu của nhân loại. Khi được ánh sáng Mác Xít rọi vào tôn giáo sẽ tan ngay không cần phải dùng những phương pháp giết chóc tù tội tàn bạo như đảng làm đối với Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Ḥa Hảo ở nước ḿnh. Tao lấy ví dụ về những chiến dịch , ḿnh tàn sát dă man các vùng Ḥa Hảo ở Láng Linh năm 1947, ở Ba Dầu Định Mỹ năm 50-57 và nêu những tṛ hề dùng Mười Trí làm một loại keo để hàn gắn sự đổ vỡ đó. Tất cả đều chỉ mang lại một kết quả: TẤT CẢ ĐẠO GIÁO Ở VIỆT NAM ĐỀU THÙ CHÚNG TA MỘT MỐI THÙ BẤT CỘNG ĐÁI THIÊN.
Đọc bản thảo luận án của tao xong chắc ông thầy cho tao điểm cao nhất. Ngoài ra c̣n điện riêng về Ban Tuyên Huấn nhà , hăy nhận tao vào làm công tác tuyên huấn đảng, ổng c̣n nói rằng ở Liên Xô đảng có giết phản động nhưng không có trường hợp nào Hồng Quân bắn vào dân chúng giết một lúc cả trăm người hoặc thiêu hủy các làng mạc tôn giáo như thế.
Khi tao về nước, Tố Hữu không ngó ngàng ǵ tới tao ... mà lại đưa tao làm bí thư cho ông Vịnh. Ông này th́ chả biết ǵ cả ngoài cặp mông bà vợ nhỏ. Tao than với ổng rằng , tao xa nhà lâu quá, muốn về Nam chiến đấu, ổng bèn đưa tao vô Bộ Quốc Pḥng nằm chờ. May sao Cục Tổ Chức chộp được, đưa tao cho ông Sáu Vi.
– Bây giờ mày định làm loong - toong suốt đời à?
– Ở thế, sau đây tao xin về tỉnh nhà.
– Ở đâu?
– G̣ Công. Thôi nhé ! Đừng có hỏi thêm nữa ! Tao đă vui miệng mà khai hết nỗi ḷng của tao cho mày rồi. Đó là sự thực tao đă sống qua. Chắc mày cũng có những điểm giống tao! Nhưng bây giờ làm ǵ ? Chúng ḿnh đă đi từ đầu, th́ phải đi đến cuối, mặc dù hết muốn, cũng phải đi.
Tôi buồn vô kể. Đêm rừng là một thứ day dứt tàn nhẫn cả thể chất lẫn tâm hồn. Nghe thằng bạn tâm sự mà chán chê tê tái. Tôi nói:
– Mai mốt tao đi đồng bằng.
– Đi đâu?
– Về xứ! Thăm cha mẹ ông bà, mồ mả tổ tiên. Đi hai mươi năm chẳng ra cái tích sự ǵ .
– Đi cho cẩn thận nhé. Mày là con một trong gia đ́nh. Nếu hồi ở Hà Nội mày nghe lời tao lấy vợ th́ đă có con rồi. Dù bề ǵ gia đ́nh mày cũng có người nối dơi. Nói không phải trù, nhưng cây một trái, rủi mưa gió sái mùa, nó rụng rồi làm sao. Do đó khi tao về tới nơi tao kêu vợ vô. Thấy thằng con trai lớn xộn, tao mừng quá cỡ. Tao bắt nó vô luôn với tao.. Vợ tao bảo để cho nó học xong Tú Tài đă. Tao nhất định đem nó vô đây. Cha con nghĩa nặng mà mậy. Dù sao cũng có nhau. Cha con hai bên chàng hảng, ra trận giết nhau đau lắm. Mày về đồng bằng phải cưới vợ ngay đi. Muộn mẹ nó rồi. Nhưng muộn c̣n hơn không.
[b]Nghe bạn khuyên , tôi luống ngậm ngùi. Mải mê đi theo cách mạng mà “cách cái mạng” ḿnh luôn. Người ta đi theo cách mạng cưới cả vợ bé vợ mọn thứ hai thứ ba cơ đấy. Ḿnh th́ tuổi gừng cạy rồi vẫn không ngờ. Chả biết vợ con là ǵ.
Ngu thật, ai biểu tôi mê cụ Hồ, mê xă hội chủ nghĩa, mê những thứ ǵ đâu đâu. Nữa thôi ?[/b]
– Mai ... biết c̣n gặp nhau không! Tao khuyên mày nhớ lời tao nhé.
– Như Nguyễn Văn Trôi trối “Hăy nhớ lấy lời tôi” vậy hả?
– Bậy nào! Tao đă sắp chết đâu mà trối. Thôi ngủ đi, gần sáng rồi. Mai tao gặp bà Thanh Loan bảo bả sửa soạn đem mấy chục cái “trống” qua cho người ta “thử.”
Tư Mô vốn là tay mất ngủ thường xuyên. Đêm nào cũng nuốt vài viên Tranquinol để vỗ an giấc điệp, nghe Thuần bảo “ngủ đi” th́ cười x̣a:
– Làm sao ngủ được mà ngủ ! Nghe chú kể chuyện có lẽ tôi phải uống cả ống Tranquinol họa may mới ngủ được.
Tôi bảo Thuần:
– Ổng cũng xa vợ hằng chục năm rồi đó. Bởi do cái tánh ham vui. Phen này hai anh em tao lội Đồng Chó Ngáp về Bến Tre một keo, coi nhà cửa ra sao !
– Ủa ổng cũng dân bà Ba Định à?
– Ừ, làm thi sĩ sớm lắm.
– C̣n chuyện cái bà Tư Lệnh Phó của mày nữa. Có lẽ phải mất một đêm mới kể hết.
– Chuyện ǵ ? Bả được ông Sáu Vi đề bạt ngồi chồm hỗm trên đầu tụi “trí ngủ” ngoài thành là vinh quang tột đỉnh rồi c̣n chuyện ǵ nữa.
– Cái ǵ lên tột đỉnh rồi cũng rơi xuống đáy cả. Thôi ngủ đi. Để sáng mai có “dưa hấu” rụng c̣n sức mà đội.
– Bậy bạ hoài mậy!
Sáng hôm sau Thuần cuốn vơng uống trà rồi đi về.
Tôi rất buồn. Những thằng bạn cũ dám nói với nhau những chuyện bất măn của ḿnh và chuyện lăng nhăng của thượng cấp không phải là nhiều. Ở gần những thằng đạo đức giả như thằng Hồ Chí Meo, Lê Xuẩn và thằng cha X,Y,Z… thiệt không thoải mái chút nào. Tôi vốn là tên thích nói nhảm, nói tục, nói tào lao, không ưa lễ mễ dạ thưa ... th́ ở rừng là phải lắm , nhưng lại không có bạn. Nếu có th́ sắp xa nhau rồi: thằng Sáng.
Sáng hôm đó vừa ăn cơm xong th́ cơ quan lại họp để quyết định phân tán tránh CZ Johnson City. Những ai ở lại tiểu ban th́ lo chuẩn bị dời sâu vô đất Con Mên. Bên bộ phận nhạc nhọt ǵ của Lưu Hữu Phước gồm năm, sáu ngoe trong đó có anh chàng chơi vĩ cầm có hạng ở Hà Nội. Anh ta treo cây violon trong lều ni-lông thấy mà tội nghiệp. Sợ nó ướt khi trời mưa, anh ta trùm ba bốn lớp ni-lông.
Lâu lâu mới mở ra kéo một vài bản. Chẳng ai buồn để ư. V́ nó lạc lơng, chối tai thế nào ấy. Ai lại đói thấy mẹ c̣n ngồi nghe Schubert hay Mozart? Anh ta mê một cô vũ ba-lê cùng vượt Trường Sơn vào cùng chuyến với tôi tên là Hồng. Hồng đẹp lắm, tay chân vóc ḿnh ǵ cũng tuyệt cả. Đi học Liên Xô mới về xung phong đi Nam để “biểu diễn cho đồng bào Sài G̣n xem.” Vô tới đây cặp đùi ngọc trở thành hai con lươn bông, mặt mũi bủn x́, tóc rụng có nùi, đầu gần trọc hết. Và không có nhảy một bản nào cả.
Mặc dù vậy cô nàng cũng được coi là một mỹ nhân. Và ông vĩ cầm vẫn cứ mê như thường. Nhưng cô Hồng th́ tối ngày cứ ngồi thở hắt ra hoặc gỡ mài ghẻ ở chân. Ai hỏi ǵ, ai bảo ǵ cũng lắc !
Mai tiếp ....
-
ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
................[/b]
Bạn của Hồng là Điệp. Điệp kém hơn nhưng đă có “chồng” rồi. Chúng nó “lễ gai cho nhau” từ trên đường Trường Sơn, vào đến đây th́ xin làm đám cưới, nhưng tổ chức không cho. Bảo rằng vào đây là để phục vụ không phải để yêu đương. Nhưng chúng cứ đánh du kích hoài hoài, cơ quan can không lại nên đành chịu thua.
Anh chàng cũng là nhạc sĩ, nhưng thổi kèn đồng, học bên Hungari mới về, có sứ mệnh đi vào đây để xây dựng đội quân nhạc cho giải phóng quân đi “ô pà” trong ngày diễu binh mừng chiến thắng. Anh ta hít vô hay thở ra đều rặt bất măn. Nghe kẻng đánh gọi lănh cơm, anh em bảo hắn đi.. Hắn bảo: “Cơm cần nhưng không cần bằng nói thật!”
Được mời họp, hắn bảo: “Họp để nói láo thêm chuyện ǵ ? ” Kiểm thảo hắn léng phéng với cô bạn, hắn nói toạc ra: “Các đồng chí cứ thiến tôi đi, chớ để tôi nguyên thế này th́ chỉ mất công kiểm thảo.”
Hắn chỉ phục có mỗi một ḿnh Hoàng Việt nhưng Hoàng Việt bảo hắn có lư nên không khuyên can ǵ cả. Thế là ông Cai kèn cứ bất măn lồng lộng chẳng nể nang ai. Ông Cai gặp ông họa sĩ Đức th́ kể như hết chỗ chê. Một ông th́ châm biếm, một ông bất măn, nói toàn những danh từ trời ơi ! Khỉ nghe cũng chạy tét.
Rồi một hôm tôi nhận được thư chính thức của Nguyệt ở bên Bộ Chỉ Huy Quân Giải Phóng. Thiệt là vui mà cũng thiệt là buồn. Vui là v́ phen này tôi có vợ. Buồn là từ nay, không có làm thơ t́nh, cũng không có viết thơ loại trời trăng mây nước nữa. Tôi phải nghe lời ông Mô và thằng Thuần: lấy vợ!
Thư của Nguyệt gởi từ Bộ Chỉ Huy qua đến đây mất một tháng. Nàng đă đến nơi. Khi vô đây tôi có nghe danh từ “bên Bộ” nhưng đâu có biết “bên” Bộ là bên nào. Rừng th́ ở đâu cũng như ở đó. Cây cao bạt ngàn, lá che bít mặt, khỉ già khỉ con lao xao, đâu đâu cũng chỉ là người sống chung với khỉ, hoặc người trở thành khỉ sống chung với người.Tôi bàn tới bàn lui với Tư Mô rồi tôi quyết định đi sang gặp Nguyệt. Đi bằng cái ǵ? Ở đâu th́ cũng chỉ xe đạp muôn năm. Cả tiểu ban có ba cái, một cái cho tiếp phẩm, một cái cho ông trưởng tiểu ban và một cái cho toàn thể thần dân Văn Nghệ.
Như nguyên lư của cuộc sống, cái ǵ chung th́ tồi tệ, cái ǵ riêng mới đẹp đẽ. Cái của tiếp phẩm th́ không thể mượn được, cái của thần dân th́ nát bét ra rồi, hai lốp chưa x́ nhưng một cái pê-đan đă lọi, nghĩa là không thể đạp được. Đó là điều quan trọng nhất. Đă kêu là xe đạp mà pê-đan hư th́ làm sao đạp. Mà đă không đạp được th́ bánh xe không thể lăn. Tôi muốn làm gan mượn chiếc xe riêng của đồng chí trưởng tiểu ban nhưng Tư Mô can:
– Ổng để làm chân làm cẳng lên họp trên Ban (Tuyên Huấn), chú mày đi ít nhất cũng vài ba tuần, ở nhà rủi có chuyện ǵ hỏa tốc ổng làm sao ?
Thế là c̣n cái xe của tiếp phẩm, nhưng tiếp phẩm không xe, th́ anh em nhịn đói ! Khả năng giao thông cuối cùng là chiếc xe công cộng. Tôi xem tới xem lui bèn sực nhớ cái xe đạp của ông bưu điện trong Quê Người của Tô Hoài.
Một hôm chiếc xe bị hỏng ghi-đông, ông ta đẽo nhánh dúi thay vào. Thế mà lại có một cô nàng mê ông ta ốm lăn ốm lóc ra cơ đấy. Vậy cái xe này chỉ găy pê-đan th́ hăy c̣n khá hơn xe của ông ta nhiều. Tôi bèn vác dao đi đốn một nhánh cây tra vào trong cái cần pê-đan. Thế là ổn. Tôi từ giă Tư Mô với sự cảm động c̣n hơn buổi Kinh Kha sang Tần. Tư Mô cũng rưng rưng nước mắt như tôi:
– Chú đi cho cẩn thận nhé. Mau mau rồi về đi Bến Tre !
– Đi th́ đi chớ biết cẩn thận là thế nào anh !
– Bom đạn phía bên đó nhiều hơn bên này. Tôi ở nhà lo sắm sửa đủ hết chờ chú về rồi đi !
– Tôi sang gặp cô ấy bàn định công việc rồi trở về ngay.
– Chú nói vậy sao được ! Ít ǵ cũng ở chơi một tuần lễ chớ!
Tối hôm đó anh em họp lại đông đủ ở lều Tư Mô. Ai cũng tỏ vẻ mừng cho tôi cả. Con quỉ phen này chịu phép rồi, không c̣n “phá tán” ai nữa. Thế là tôi đi. Bạn có tin rằng câu chuyện sau đây là sự thực không? Xin hăy đọc tiếp.
Tôi đạp xe đi một lúc th́ cái khúc cây thay cho pê-đan găy lọi. Tôi phải chặt một khúc khác tra vào. Đạp một lúc lại găy. Bởi v́ đường rừng, phải đạp mạnh xe mới trườn tới được. Một khúc gỗ chỉ to bằng ngón tay cái thay cho thỏi thép tra vào cần pê-đan th́ làm sao bền được ?
Nhưng tôi cũng không bỏ chiếc xe đạp. Có ai dùng xe đạp một pê-đan trên thế giới này không? Nếu có th́ đó là nhà văn Xuân Vũ của tiểu ban Văn Nghệ R năm 1963. Thiệt là một kỳ quan kỳ cục. Vứt nó đi th́ không thể, c̣n dùng nó với chức năng b́nh thường th́ cũng không được. Tôi đành phải nhảy xuống dắt nó đi. Cho đến chiều tối đến một cái xóm không biết tên là ǵ. Tôi vào đại một ngôi nhà bên đường xin nước uống. ..
Tôi bèn trỏ cái xe cho chủ nhà là một người Miên xem. Thời may ông ta có cái sườn xe đạp hư treo lủng lẳng trên vách. Ông ta lấy xuống, tháo chiếc pê-đan tra vào cho xe tôi. Tôi trả cho ông một, hai trăm rịa (ǵ đó không nhớ). Ông ta tỏ vẻ thương người nên tối hôm đó tôi ngủ nhờ trong chuồng trâu của ông. Hai con trâu nằm trong vũng śnh để khỏi bị muỗi chích, hôi hám lạ lùng: Giống như RẶC TRÂU ở vùng Nghệ Tĩnh ta vậy.
Ông cho tôi ăn cơm nếp hấp trong giỏ mây với mắm ḅ hóc. Ối chao ơi ! Ngậm miếng mắm măi và phải vận dụng tất cả lập trường mới nuốt nổi. Chỉ một miếng thôi, rồi chỉ ăn cơm nếp không.
Đêm ngủ tôi sợ quá ! Đi như thế này liều mạng thật. Nếu lăo già Miên giết tôi chết để lấy chiếc xe đạp và cái ba lô th́ chắc không có ai hay. Nhưng cũng may, sáng hôm sau tôi vẫn c̣n sống. Lăo già lại cho tôi ăn cơm. Tôi trả thêm rịa và lên đường một cách hùng dũng. Trưa hôm đó mới tới con đường đá. Cứ theo bản đồ của anh em ở nhà vẽ cho mà đạp miết. Gần đến chiều th́ lại vỡ lốp.
Mẹ kiếp tai nạn ǵ mà liên tục thế này ! Thấy một cái xe ḅ đi tới, tôi bèn hỏi đi nhờ. Th́ ra là xe ḅ chở gạo tiếp tế của phe ta. Người đánh xe ḅ là dân Mùa Thu và là cán bộ chăn ḅ ở nông trường Lam Sơn nơi tôi từng vào lao động thực tế sáu tháng. (Do đó có mấy chuyện tôi kể ở trên kia). Anh ta tên là Tư Thêu (sau này gặp lại ở Củ Chi, cũng vẫn “lái” xe ḅ). Tư Thêu cho cả tôi và xe đạp lên xe ḅ. Tôi ngồi ngất nghểu trên những bao gạo và nói chuyện ba đồng bảy đổi với Tư Thêu:
– Về hồi nào ?
– Mới mấy tháng đây thôi, c̣n anh ?
– Vừa vô tới ! Có bỏ cọng rau muống nào ngoài đó không ?
– Tôi chưa bị quấn, chớ tụi đại đội 2, đại đội 4 bị thiếu ǵ. Có đứa cưới vợ Mường nữa anh ạ. Vui lắm. Bây giờ về hết rồi.
– Rồi làm sao?
– “Dang mi ra” cho ta về nước chớ làm sao ! Chuyến tôi đi liên hoan to lắm. Hùn tiền mua gà vịt mấy bội, nhậu sáng đêm. Mấy bà bầu tới khóc lóc, nhưng đi th́ vẫn cứ đi.
– Về trong này cưới vợ chưa?
– Tôi quê ở Thanh An, mấy ổng cho về công tác Củ Chi. Về một tháng là gia đ́nh cưới vợ cho xong.
– Rồi sao lên đây?
– Lên đây cũng gần. Lâu lâu xách xe đạp chạy về rồi trở lên. Tôi tính đưa vợ lên cất cḥi ở trên này luôn. Nhưng coi ṃi găng quá nên tôi chưa quyết định. C̣n anh đi đâu lang bang đây?
– Cũng đi cưới vợ!
– Giỡn hoài anh !
– Bên Bộ Chỉ Huy ! Thiệt mà !
– Ờ phải. Nhưng anh ở đâu tới?
– Bên dân chánh.
– Rồi cưới ai bên này?
– Người này chắc chú biết.
– Ai vậy ?
– Văn Công Sư Đoàn 330.
– Ai?
– Cô Nguyệt, trưởng đoàn.
– À tôi biết rồi. Tôi quen nhiều người trong đoàn đó lắm. Tôi coi họ hát hoài mà.
– Ai?
– Tám Thơm, Huyền Tung, chị Cuộc, chị Hiên v.v… Sao ở ngoài anh không cưới, để về trong này mới cưới.
– Chịp ! Th́ khổ vậy đó chú ơi !
– Chị ấy vô hồi nào?
– Vừa vô tới, cô ta gởi thơ cho tôi, tôi phóng qua ngay đây !
– Làm gấp gấp, kẻo không kịp.
– Không kịp ǵ ?
– Coi bộ Mỹ nó làm tới nơi rồi. Nó chơi cái kiểu xây cù bắt chuột. Nó gom ḿnh vô rọ rồi hốt một phát là sạch.
– Đây vô đó c̣n xa không?
– Không xa lắm, nhưng anh có giấy giới thiệu đặc biệt không?
– Đặc biệt ǵ ?
– Vô tới trong cái “nồi gọ” đó không có dễ đâu nghen anh. Toàn là thứ dữ không thôi. Anh phải qua mấy trạm gác mới tới được.
– Chiều nay tới không?
– Tới nhưng mà tối rồi, nó không có cho anh vô đâu.
– Xe ḅ ở đâu vầy nè?
– Của đảng chớ ở đâu anh !
– Sao chú lại làm cái việc này?
– Đảng bảo th́ phải làm. Hồi ở ngoải tôi có hứa miễn về được trong này, làm ǵ tôi cũng làm, bất kể là chuyện ǵ. Đánh xe ḅ cũng vinh quang lắm chớ. Nhưng chỉ một ḿnh tôi mới liều mạng đánh xe đi giữa đường ban ngày như thế này. Anh coi giờ này có bóng dáng chiếc xe nào không. Độc một ḿnh tôi thôi.
– Sao vậy?
– V́ máy bay nó thấy là nó xơi tái ngay thôi. Tôi ớn lắm, nhưng đi đêm rất cực. Bây giờ tôi sợ chết hơn hồi đi trên Trường Sơn. Anh biết tại sao không?
– Không.
– V́ sắp có con rồi !
– Ủa, mau vậy hả?
– Th́ nàng tắt kinh ngay tháng đầu mà. C̣n tám tháng nữa th́ có con nít oe oe. Ít nhất con tôi phải nh́n thấy mặt bố rồi bố nó hăy chết chớ.
– Sao chú bi quan vậy ?
– Không phải tôi bi quan đâu anh ơi. Cái chiến tranh này ác lắm. Ḿnh không có sống được để ăn mừng thống nhất đâu !
– Chú nói thiệt chớ !
– Chết lạ lắm anh ạ. Mới thấy đó lại chết liền. Ngay trên đường này. Đêm hôm kia. Một đoàn xe ḅ nhé. Bỗng một trái pháo bắn rầm. Hai con ḅ tan xác. Hai người chủ cũng văng theo ḅ. Bốn chiếc hỏng, ba bị thương. Xe tôi đi chót nên không việc ǵ. Con người có mạng anh ạ. Tôi lụt tụt đi đằng sau nên chẳng việc ǵ !
Tư Thêu móc túi lấy thuốc hút và tiếp.
– Tháng trước xe tôi đi đầu th́ pháo bắn vét trúng khúc đuôi. Tôi chết hụt hai lần rồi. Chắc lần thứ ba th́ dính. Không lẽ tôi hên hoài.
– Sao không về quê công tác?
– Tôi cũng định xin về Thanh An làm cán bộ xă để ở gần nhà, nhưng ở trên bảo thiếu người nên cứ xét tới xét lui hoài.
– Đánh xe thế này chừng nào th́ lên đại tướng được?
– Lên đâu mà lên anh. Tôi đi bộ đội mười năm, ra Bắc đào đất tám năm, anh biết tôi lănh quân hàm ǵ không?
– Quân hàm ǵ?
– Thượng tá. Há há… há. Thiệt mà, nhưng Bộ Quốc Pḥng phát lộn cho ông Cống đeo dùm, nên được thượng sĩ. Tôi đeo được vài hôm th́ ở trên lại bảo phát lộn nữa nên tôi chỉ c̣n trung sĩ. Vô đây th́ không c̣n ǵ hết. Nhưng tôi thấy không cần nữa. Tôi đâu có công ǵ. Chính con ḅ mới có công chứ. Nếu ở trên gắn quân hàm th́ xin gắn cho nó. Ờ ờ… gắn ở chỗ Nguyễn Công Trứ lấy cái quạt che.
– Chú về trong này rồi rượu ở Thanh Hóa ai uống cho hết ?
– Tại tụi tôi uống bạt mạng cho nên họ mới kháp nhiều ... chớ nếu không có tụi tôi th́ họ kháp bán cho ai ?
Chiều hôm đó tôi tá túc với Tư Thêu. Y chở gạo tới giao cho quản kho rồi trở ra:
– Bây giờ hết giờ làm việc rồi. Anh ra cḥi tụi tôi nghỉ đỡ. Ở đây toàn là dân thuộc F330 hồi trước. Ở ngoài đó chăn ḅ, móc gốc lim, về trong này lại đánh xe ḅ vác gạo. Kể ra lính Nam Kỳ ḿnh cũng hân hạnh lắm đấy!
Tôi nôn nóng muốn vào gặp Nguyệt ngay, nhưng Tư Thêu bảo:
– Nói là tới, nhưng anh cũng phải mất nửa ngày nữa ! Thủ tục phiền phức lắm.
– Thủ tục ǵ ?
– Thủ tục vô khu vực của Bộ Chỉ Huy chớ thủ tục ǵ. Xin lỗi anh cấp bực ǵ ?
– Tôi đâu có cấp bực ǵ.
– Muốn vô đó phải là đại úy trở lên. Cỡ tụi tôi c̣n khướt ... mới vô được.
– Vậy muốn vô đó phải làm sao?
– Anh cứ ở đây nhậu chơi đă, để tôi lo cho. Anh chân ướt chân ráo lại không có cấp tước, vô đó bị tụi nó xài nguyên tắc, có khi bảy ngày anh chưa gặp được chị Nguyệt. Tụi tôi tuy là đám chăn ḅ nhưng có đường dây riêng. Chăn ḅ móc với chăn trâu, đi cửa sau mau hơn cửa trước.
Tôi đành nghe theo Tư Thêu, mắc vơng lắc lư nằm chờ. Tổ đánh xe ḅ toàn là dân Nam Kỳ, anh nào anh nấy đều quá lứa cả. Họ rất vui mừng coi tôi như một thằng đồng bệnh Nam Kỳ ế vợ ở miền Bắc. Họ có thừa gạo c̣n thức ăn cũng không thiếu. Họ có một tốp đi săn thịt rừng. Cho nên ăn uống rất phè phỡn.
Tôi uống rượu cũng khá lắm. Hồi ở Hội Nhà Văn tôi uống rượu nổi tiếng hơn viết văn mà ! Tôi đóng góp thêm rịa và tiền Sài G̣n. Một người vác xe đạp chạy đi, một tiếng rưỡi đồng hồ trở về với bốn b́nh toong rượu óc ách máng trên ghi đông xe đạp. Thịt mển nướng nguyên con như bê thui. Không chặt ra. Cứ để trên bếp xẻo từng miếng ăn và tu rượu như dân thiểu số dọc Trường Sơn.
Một anh tên là Biều cụt hai ngón ở bàn tay phải rót rượu mời tôi rồi hỏi:
– Anh c̣n nhớ tôi không?
– Đồng chí cũng ở Lam Sơn à?
– Đại đội trồng cao su. Anh đến coi rồi về Hà Nội viết bài “Lam Sơn Quê Hương Mới” gởi vô tụi này đọc khóc muốn chết.
– Tôi viết cái ǵ trong đó.
– Lúc anh vô th́ báo nói là trong Nam Ngô Đ́nh Diệm bỏ thuốc độc giết cả ngàn tù ở Phú Lợi. Anh em trong đại đội biến căm thù thành sức mạnh thức suốt đêm, đốt đuốc đỏ rừng để trồng hột cao su.
– Ờ, ờ, tôi nhớ rồi.
– Lúc đó trời lạnh nên tụi này phải quạt khói cho ấm để cao su không chết.
– Rồi sau đó có mọc lên được không?
– Có.
– Chắc bây giờ gần có mủ rồi.
– Nó chỉ lên được hơn gang tay rồi héo đọt chết ráo anh ạ.
– Sao vậy?
– Đâu có biết. Chắc là v́ trồng không đúng đất chớ ǵ. Cũng như cây so đũa vậy, ở Ba V́ và Viện Nông Học Hà Nội trồng lên rất tốt nhưng không có trái.
Tôi buột miệng nói:
– Đúng là trồng sai đất, như cây vú sữa vậy thôi.
– Cây vú sữa nào ?
– Cây vú sữa của Hồ chủ tịch đấy mà.
– Vẫn không có trái à anh ?
– Trái ǵ được mà trái !
Con người cũng thế. Sống ở miền Bắc dân Nam Kỳ vất vơ vất vưởng như một lũ ốc mượn hồn. Bây giờ được vứt về Nam cũng chẳng làm được ǵ ngoài sự cúi đầu phục tùng sự đô hộ của bọn Bắc Kỳ xâm lược.
Tôi hớp một ngụm to rồi bảo:
– Bây giờ sắp tập kết một phát nữa đó các bạn ạ.
– Sao?
– Sắp tập kết lần nữa . H́..h́..!
– Giỡn hoài anh Hai ơi ! Chuẩn bị bỏ vợ bỏ con phát nữa hả?
Vừa đến đó th́ Tư Thêu từ bên ngoài đẩy một người vào:
– Ê thằng Bắc Kỳ này chơi được lắm. Cho nó đi vài chầu đôi rồi chốc nữa sẽ bàn công việc giúp ông “nhà dăng” của ḿnh. Nè, Tám Nghĩa mày muốn chơi với tụi này th́ phải lấy bằng cấp mới được.
Tám Nghĩa nói giọng rặt su hào:
– Dưa hấu chơi tới đâu rau muống chơi tới đó, sợ ǵ !
Tư Thêu cầm bi đông rượu mở nút kê vào miệng Tám Nghĩa:
– Hết b́nh này là cao cấp, nửa b́nh là trung cấp, một phần ba là sơ cấp. Làm đi. Không có nói nhiều.
Tám Nghĩa ngửa cổ ra nốc hai ba cái bị sặc, lấy bi đông ra, chùi mồm và nói:
– Có ǵ đưa cay không chứ?
– Ờ quên !
Tư Thêu bẻ cái gị mển khét cháy đưa cho Tám Nghĩa. Tám Nghĩa nhai rau ráu rồi nốc tiếp một hơi dài, đưa bi đông cho Tư Thêu. Tư Thêu lắc lắc bi đông và nói:
– Mày chỉ đậu sơ cấp thôi. Cho ăn đại táo!
– Thế cũng được ! Tôi bảo :
– Tửu bất khả ép.
Tám Nghĩa lắc đầu:
– Em chịu thua các đại ca thôi.
Một anh to lớn, mắt đỏ lừ, râu ria như chổi xể, tay chân như hộ pháp năy giờ không nói ǵ cả, bây giờ mới rót rượu cho tôi và hỏi:
– Bộ quên tôi à ?
– Ơ …ơ…
– Vương Tư Đồ đội trưởng đội đánh cá của nông trường Lam Sơn nè cha!
– Ờ ờ…Tôi có gặp ông ở kho gạo trên Trường Sơn mà.
– Về đây vẫn làm thủ kho.
– C̣n đờn “vặn cổ bà con” không?
– Mới gởi mua được cây Xi-ta ở ngoài chợ Long Hoa.
Đó là Bảy Nguyên, một tay chơi nhạc cổ rất khá nhưng không chịu vô Văn Công. Ngón tay y thật to, bấm bít cả phím đờn. Tôi hỏi:
– Mấy thằng Mỹ giam trong hầm ở kho gạo ông trên Trường Sơn ông giao lại cho ai ?
– Chết mẹ nó hết ráo c̣n giao cho ai ǵ?
– Sao vậy ?
– Nó không muốn sống th́ nó chết chớ sao! Thôi bỏ đi, uống!
– Uống th́ uống!
Một chập Vương Tư Đồ nói với tôi:
– Chú muốn vô trong Bộ th́ tôi bảo thằng Bắc Kỳ này dắt đường cho ! Nó là cai ngục ở đây đấy. Nè Nghĩa, đây là nhà dăng Nam Kỳ của tao, mày có cách nào đưa ổng vào trỏng được không?
– Để làm ǵ ?
– Cưới vợ ! Vương Tư Đồ kể luôn câu chuyện của tôi và hỏi:
– Có cô Nguyệt ngoài Bộ Tổng vừa vô phải không? Vợ chưa cưới của ông này đấy !
– Thế à ?
– Có không ?
– Có một đoàn vừa nam vừa nữ, nhưng không thấy ai tên Nguyệt . . . .
Tư Đồ cười :
– Đây là lũ ăn trộm như tụi ḿnh vậy, đâu có ai dám giữ nguyên tên họ mà mày biết. Nè nhớ nghe, mai mày vô trong đó hỏi có ai tên là Nguyệt Văn Công F330, th́ xin phép ra đây có chồng cô ta tới thăm.
– Dạ được rồi. Tưởng chuyện ǵ chớ chuyện đó th́ dễ mà. Em là trưởng pḥng thường trực, ai ra vào em đều nhật kư cả. Nhưng muốn vô bên trong phải là đại úy trở lên.
– Tao biết rồi, nhưng văn sĩ làm ǵ có cấp bậc.
– Được rồi, để em lo.
– Nội đêm nay mày phải t́m cho ra cô Nguyệt và cho cô ấy hay như tao nói.
– Dạ được.
– Được th́ thưởng cho nửa b́nh toong đấy !
Tư Thêu vừa nói vừa ấn cái miệng b́nh rượu... khóa mồm Tám Nghĩa.
Mai tiếp ....
-
ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
................
[/b]
Nhờ Tám Nghĩa trưa hôm sau tôi gặp Nguyệt ở pḥng thường trực. Kể từ ngày tái hợp Nguyệt trên Trường Sơn với hai ông bạn nhạc sĩ của tôi đến nay có trên ba tháng. Nguyệt cho tôi biết sau chuyên công tác phục vụ bộ đội trên đường dây, nàng về Bộ Tư lệnh Sư đoàn 330 xin đi Nam ngay. Nàng được đi con đường đặc biệt có nhiều quăng đi bằng xe hơi nên vào đến đây một cách bất ngờ.
Bất ngờ nhất , là nàng không có màu da xanh vàng bủng beo như dân Trường Sơn.
Bây giờ nảy ra trước mắt tôi rất nhiều chuyện phải giải quyết: Cưới hỏi? Chia tay? Chừng nào gặp? Nếu cưới th́ chừng nào đi đồng bằng? Nếu ở lại rừng th́ đóng đô ở đâu, bên này hay đem nàng về tiểu ban Văn Nghệ ? Rồi ăn ở với nhau cách nào ? Vợ chồng là điều mơ ước của tôi từ lâu, nhưng khi đụng vào thực tế th́ cả một trời khó khăn.
Đây tôi kể ra một vấn đề thôi: Cái mùng? Làm sao có được cái mùng và cái giường để vợ chồng ngủ với nhau. Chả lẽ lại treo vơng nằm gần nhau thôi ư? Chẳng có ai yêu vợ trên vơng cả. Tôi đă từng mục kích một anh Huyện ủy làm tét vơng chết một cô bé ở Trường Sơn. Đá nhọn đâm găy đốt xương sống ở lưng quần. Anh chàng dông mất bỏ cô gái nằm quằn quại rồi chết.
Ngoài cái mùng c̣n cái giường, ngoài cái giường c̣n cái nhà, ngoài cái nhà c̣n túi tiền. Cả hai đứa đều là vô sản hoàn toàn. Và nếu nàng có thai th́ đẻ con ra ai nuôi . Tôi đă từng thấy hai cặp vợ chồng ở tiểu han Văn Nghệ. Nó không ra làm sao cả. Nhếch nhác, lăng xẹt !
Nhưng mà đă đến đây rồi, tôi không thể trở lui nữa.
Sau một ngày chờ đợi sự duyệt y của bên trên, tôi mới được Tám Nghĩa cho vào khu ngoài của Bộ Chỉ Huy và được phép mắc vơng gần Nguyệt.
Ở khu này có khá đông người: Những cán bộ từ sơ cấp đến trung cấp từ Bắc vào đây nằm chờ đợi sự phân công của Bộ để đi các tỉnh hoặc các cơ quan.
Đúng như lời Tư Mô nói: “Ít nhất cũng phải ở chơi một tuần.” Nhưng vừa mắc vơng gần bên Nguyệt là tôi đă thấy một tuần lễ không dài hơn một cái chớp mắt. Câu đầu tiên tôi nói với Nguyệt là:
– Chúng ta nên thành hôn em ạ!
Nguyệt làm thinh. Tôi không biết Nguyệt không đồng ư hay đồng ư, bèn rấn tới :
– Có lẽ anh phải xin phép hoăn lại chuyến đi đồng bằng.
Nguyệt vẫn làm thinh. Tôi không biết phải nói ǵ nữa. Đang nhúm bếp nấu hai chiếc cà mèn cơm, Nguyệt quay lại nói :
– Rồi làm sao anh . Làm sao sống?
[b]Làm sao sống ?
Bây giờ tới lượt tôi làm thinh. Tôi nằm trên vơng tḥ đầu ra nh́n những ngọn lửa nhảy múa dưới đít cà mèn. Quả thật nàng có những suy nghĩ giống tôi. Cuộc sống ở rừng, ngoài bom pháo ra c̣n một ngàn vấn đề khác phải giải quyết trước khi lấy nhau. Hoặc cứ lấy nhau rồi tới đâu hay tới đó. Vợ có bầu sắp đẻ, làm sao? Nhà bảo sanh đâu? Đi bằng cách ǵ để tới đó nếu có một nơi gọi là nhà bảo sanh như những cái cḥt vịt trong kháng chiến chống Pháp chẳng hạn. Cuộc sống ở đây dă man không thể tả hết.[/b]
Tôi ngồi dậy để lấy một mớ khô nai mà Tư Đồ cho tôi bữa trước.
– Chúng ḿnh ăn bữa cơm đầu tiên với nhau.
Nguyệt thút thít khóc. Tôi không biết sợ ǵ hết, chỉ sợ đàn bà khóc thôi. Nàng khóc là v́ sung sướng được gặp lại tôi hay v́ sắp phải chia tay? May quá vừa lúc “tắc nghẽn” t́nh cảm đó th́ Lập và Sử tới.
Lập là nhạc sĩ nổi tiếng Hà Nội với chiếc clarinette. Anh ta chỉ thổi một tiếng “đô” là rúng động ḷng người. Không có nhạc sĩ nào thổi tiếng “đô” bằng Lập. Nó nhỏ thó lại gầy, hai con mắt như hai trái dầu u. Cổ cao như cổ con c̣ ngảng . Không rơ người ở đâu. C̣n Sử là bạn tôi từ lúc ở Cần Thơ, tôi làm trưởng tiểu ban Văn Nghệ và đă làm lời cho nhiều bản nhạc rất phổ biến của nó. Anh của Sử là Thanh Cao không về v́ vợ đă lấy chồng trong Nam. Sử và Lập đều ở chung đoàn Văn Công với Nguyệt.
Thấy hai người tới, Nguyệt đon đả:
– Hôm nay tôi đăi anh Sử và chú Lập một món.
– Món ǵ ?
– Thịt nai khô.
– Ở đâu mà chị có? Lập hỏi.
– Anh Vũ mới kiếm ở đâu đó không biết.
– Vậy để tôi đi lănh cơm đem lại hùn vô ! Nói vậy rồi Lập chạy đi.
Sử bảo tôi:
– Thôi, mày lo xong cho rồi. Đây là màn chót đó. Ông Cao ổng bảo tao vô nói với mày đừng có xụt xịt nữa. Già ngắt cả đám rồi ! Nó vô đây là v́ mày.
– Tao biết rồi. Nhưng mày tính, làm sao sống?
– Kệ mẹ ! Trong chiến tranh ai mà tính trước được những ǵ sẽ xảy ra. Sống ngày nào hay ngày ấy. Bây giờ ở Hà Nội c̣n loạn xà ngầu lên kia, trong này thế mà khỏe hơn đó.
– Giỡn hoài mày !
– Tao về đây đâu có từ giă được vợ con. Mẹ con chúng nó di tản đâu lên Bắc Ninh Bắc Giang ǵ đó. Tao chỉ gởi ít chữ rồi đi.
– Thế cơ à !
– Ngay Bộ Tổng Tư Lệnh cũng đă rời khỏi Hà Nội.
– Mày bảo tao làm ǵ bây giờ?
– Làm cái ǵ th́ tùy mày nhưng chuyến này nếu lôi thôi nữa là tại mày.
Sử nói thẳng với tôi trước mặt Nguyệt. Sử biết Nguyệt từ lâu và rất thương tôi. Hồi 1952 đă có lần Thanh Cao có ư định bắt em vợ ở Nữ Học Đường Sài G̣n về gả cho tôi, nhưng hồi đó tôi lại không muốn vợ con ǵ hết để nhẹ gót “lăng dư” theo kiểu Dũng trong Đoạn Tuyệt. Lăng bây giờ trở thành lăng nhách, du bây giờ thành du hí.
– Sao, Nguyệt tính thế nào? Sử quay sang Nguyệt.
– Em đâu có tính sao. Mọi việc đều do ảnh hết cả.
– Đó thấy chưa. Tao sẽ vô báo cáo với tổ chức dùm mày. Rồi th́ tiến hành.
Tôi bảo:
– Mày muốn làm ǵ đó mày làm.
Chúng tôi ăn bữa cơm khá thịnh soạn. V́ là đi đường đặc biệt, nên nhạc sĩ Lập c̣n mấy cặp lạp xưởng mang đi từ Hà Nội. Nguyệt c̣n nhiều ruốc thịt. Sử góp vào mâm cơm một mớ bột ngọt. Vừa ăn vừa nghe tin đánh máy bay Mỹ ở Hà Nội từ chiếc radio Lập mượn của bạn trong Bộ Chỉ Huy.
– Mai mày vẽ dùm tao cái khẩu hiệu nghe Lập ! Sử bảo.
– Khẩu hiệu ǵ anh ?
– “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ.”
– Chà! Oai vậy hả?
Cơm xong Sử và Lập nằm vơng của tôi và Nguyệt nói chuyện khào , trong lúc tôi và Nguyệt đi xuống suối rửa gà -mèn và lấy nước lên nấu trà. Tôi hỏi Nguyệt:
– Em c̣n giận anh hết?
– Em đâu có giận ǵ anh.
– Vụ cải cách ruộng đất, thành phần không cơ bản v.v… mà không giận à?
– Ôi thôi, ba cái vụ đó, bỏ đi anh ạ.
– Em hứa là không giận anh chớ .
– Cũng tại em một phần. Tự ái to quá, nên mới như thế đó.
[b]Tôi thấy Nguyệt rất chân thành. Nếu không có ba cái vụ chỉnh huấn Cải cách Ruộng Đất, th́ đă không có sự xích mích nhau v́ thành phần… Cải Cách Ruộng Đất đă phá nát không biết bao nhiêu t́nh duyên cán bộ tiểu tư sản và địa chủ.[/b]
– Nay mai anh phải đi đồng bằng. Anh muốn có một tấm ảnh của em để đem về gia đ́nh.
– Em đâu có máy ảnh.
– Anh có nhưng không c̣n. Khi anh đi qua khu 6, đói quá, anh đổi lấy nửa con chó ăn mất. Bây giờ cần th́ lại không có.
– Máy ảnh mà đổi cho ai ở khu 6?
– Một ông nhà ḿnh đổi được con chó. Anh ném cho ổng cái máy ảnh , được ổng chia cho một nửa. Chịp! Lúc đó đổi tán đường hay lạng thịt anh cũng đổi. Nhờ thịt chó ăn liên tiếp mấy bữa và mớ thịt nạc làm ruốc mà anh băng qua nổi vùng Mă Đà. Để anh bảo thằng Lập vô trong đó t́m họ̣a may có.
– Thôi anh ạ! Để em đưa cho anh cái ảnh của em.
– Anh muốn ảnh hai đứa kia chớ!
– Phải rồi nhưng không có th́ làm sao bây giờ.
Chúng tôi trở lên với bốn chiếc gà-mèn đầy. Tôi thổi lửa đun nước. Lập chạy về lều lấy gói trà Ba Đ́nh và gói mứt dừa mứt hột sen đem tới.
Sử nói:
– Bữa nay coi như đám tuyên bố của tụi bay luôn. Không cần phải có sự chứng kiến của tổ chức ǵ cả. Kể từ bây giờ tụi bây thành vợ chồng. Không có cặp t́nh nhân nào tiến tới vợ chồng gian nan và hằng chục năm như tụi bây vậy.
Nguyệt không nói ǵ. Nâng ngồi trông chừng lửa, không quay mặt lại. Lập rót một nắp gà mèn trà đưa cho nàng và nói:
– Em chúc mừng anh chị.
Sử lấy một nhúm mứt đưa cho Nguyệt:
– Ăn đi cô nữ sinh. Kẹo này là kẹo ngọt không c̣n đắng cay nữa.
Sử và Lập cũng làm vậy đối với tôi. Uống vài tuần trà, hai đứa từ giă ra về. Bây giờ tôi nghĩ tới chuyện làm một chiếc giường dă chiến, nhưng không có dao rựa bén. Với con dao găm Hàng Mă tôi không thể đốn nạng và số cây đủ để làm một chiếc giường. Cho nên tôi đi gom lá rải dưới đất rồi trải hai chiếc vơng lên. Chiếc lều không có vách. Chúng tôi dùng hai cái mùng giăng khít nhau làm vách nhà.
Tuy giăng hai chiếc nhưng chỉ một chiếc có người nằm c̣n chiếc kia bỏ trống. Tôi nhớ lần gặp Nguyệt trên Trường Sơn. Nhờ có bàn tay của thằng bạn dược sĩ mà chúng tôi có chỗ kín đáo để yêu nhau. Lần đó đă trở thành bước quyết định cho cuộc đời chúng tôi. Cái đêm vừa hạnh phúc vừa hăi hùng. Chúng tôi bị bom trộm suưt chết. Đại úy Mật đă hi sinh v́ trận bom đó, không xa chúng tôi mấy.
– Em nhớ lần vừa rồi không?
– Em không nhớ ǵ khác ngoài anh. Kỳ đó trở ra đến Bộ Tư Lệnh, em xin đi vô với anh liền. Ban tổ chức cho ngay. Mấy ổng cũng biết vụ anh với em, nên trước khi em đi ông Xuân Ôn có gởi lời thăm anh. Ông Xuân Ôn ở pḥng Chính Trị ấy mà.
– Ừ, ông ta học trước anh hai lớp, dân cùng quê.
– Với ông Dương Thông nữa.
– Dương Thông nào?
– Ông Phó ban Tuyên Huấn sư đoàn, người Bắc.
– Anh không ngờ em vô nhanh vậy. Nếu em vô trễ chừng hai tuần chắc chúng ḿnh hết gặp nhau. Sẽ có chừng vài ba năm hôn nhau trên giấy nữa.
– Em ngại quá. Chúng ta sẽ sống cách nào?
– Thôi đừng tính lui, chỉ nên tính tới.
– Chừng nào anh đi đồng bằng?
– Đang chuẩn bị đi th́ được thư em. Từ đây qua đó mà thư đi mất cả tháng.
– Em vô sau anh chỉ một tháng thôi.
Tôi hôn Nguyệt trên má và trên môi rồi chúng tôi ôm nhau. Chúng tôi sẽ thành vợ chồng đêm nay không có dè dặt không có nhín nhút ǵ nữa. Câu nói của Sử và Lập đă xe duyên chúng tôi. Tôi cảm thấy không cần có mặt của tổ chức. Chính tổ chức đă suưt phá hỏng t́nh duyên của chúng tôi. Ôi cái thứ lập trường rởm!
Nguyệt không phản đối bất cứ cử chỉ nào của tôi. Tôi ngồi dậy cúi hôn hai bàn chân nàng và thầm th́:
– Hai bàn chân em đă đạp lùi những dăy núi đá tai mèo để đến với anh.
Tôi hôn lên tóc nàng và nói:
– Tóc em dù có trổ bạc như hoa rừng cũng sẽ măi măi đẹp như một bài thơ bất tận của anh. . .
Tôi không muốn nh́n quần áo hay bất cứ thứ ǵ che khuất thân thể chúng tôi nữa. Da thịt của người con gái trên ba mươi tuổi thơm như hương rừng đọ̣ng đặc. Tôi ôm choàng lấy nàng. Nàng kêu lên khe khẽ:
– Anh ! Anh ! Em yêu anh !
– Anh yêu em, Nguyệt !
– Anh đừng giận em nữa nghe. Em xin lỗi anh.
– Không phải lỗi của em.
– Em không bao giờ yêu ai khác.
Tôi hôn môi nàng như uống những tiếng nàng vừa thốt vào trong hồn. Chúng tôi quấn riết lấy nhau. Những đầu núi nhọn, những con dốc trút người, những ngọn suối chảy như điên, những đói rét, những cơn sốt mưa, những chiều nắng cháy , những ngọn gió Lào khét man rợ,… tất cả, tất cả đều tan biến trong đôi cặp môi của cô gái và chàng trai Trường Sơn. Chúng tôi sống ngoài trái đất không biết bao lâu.
Độ lúc nửa đêm, tôi bỗng nghe gió ù ù thổi đến. Nàng quay đầu ra lắng tai nghe rồi thầm th́:
– Gió to quá anh ạ !
– Bên em, anh không nghe ǵ hết!
Tôi càng ôm riết lấy Nguyệt và hôn lên hai đóa hoa lan liên tục. Nàng vặn vẹo người và đưa tay sờ lên mặt lên cổ rồi đưa dài xuống ngực tôi.
– Anh với em ghi thêm một kỷ niệm nơi đây nhé? Tôi thầm th́ .
Nguyệt trả lời bằng một cái hôn môi rất dài rồi làm một cử chỉ hiến dâng hoàn toàn. Tôi không ngờ tôi c̣n nhiều sức lực đến thế. Khi tôi vừa dứt khúc cuối cùng của bản nhạc t́nh ái th́ Nguyệt lại thầm th́ :
– Mưa anh ạ.
– Kệ nó. Mưa th́ mưa.
– Lều của ḿnh dột hết.
– Anh yêu em giữa mưa, giữa băo, giữa trời long đất lở .
Mặc cho nàng tỏ vẻ lo lắng, tôi vẫn cứ tiếp tục dấn thêm lên con đường hạnh phúc.
Bỗng mưa đổ rào rào trên lưng tôi. Nước trút như ai xối từ ngọn cây. Cả hai đều phải ngồi dậy. Nền đất ướt, rồi nước xâm xấp lớp lá khô. Mưa càng lúc càng to không phải một trận mưa thường. Chúng tôi ngồi đợi nhưng mưa đă không tạnh lại càng lúc càng to thêm.
Những cơn mưa như vầy tôi có lạ ǵ trên Trường Sơn, nên tôi vẫn phớt lờ, tỉnh khô. Tôi ṃ lấy trong ba lô ra những tấm ni-lông mà chúng tôi dùng làm áo che mưa dọc Trường Sơn, quấn quanh ḿnh chúng tôi. Nguyệt như chú gà con rúc vào cánh gà mẹ. Nàng rủ rỉ:
– Em ước được trốn mưa măi như thế này.
Tôi hôn lên tóc lên má ướt đẫm của nàng. Chúng tôi ngồi, tay quàng tay nhau lâu lâu lại ngửa mặt nhau ra mà hôn, không thấy sợ sệt ǵ hết. Hóa công bất chấp hạnh phúc của đôi trai gái rừng, cứ trút nước xuống mặt đất.
Bỗng Nguyệt kêu lên:
– Nước ngập hết rồi anh ạ !
Tôi lấy đèn pin bấm lên th́ thấy những chiếc lá trôi lềnh bềnh trên mặt đất và mép mùng th́ phập phều và nḥe ra những phẩm nhuộm xanh cả vùng nước.
– Để anh qua bên lều thằng Sử chút.
– Chi vậy?
– Coi nó có ni-lông dư không anh lấy đem về che thêm lều ḿnh và mắc vơng nằm.
– Ảnh làm ǵ có ni-lông dư?
– Nếu không anh bảo nó sang lều thằng Lập ở .
– Anh có đi th́ mau lên. Ngồi một ḿnh, em sợ lắm.
Tôi cầm đèn rọi trên mặt đất và lội lơm bơm. Đến nơi thấy Sử đang ngồi chong ngóc trên vơng trong lều.
– Vũ hả? Nó hỏi.
- Đi đâu vậy ông nội ?
– Đi qua mày mượn một ít ni-lông về che lều.
– Nóc lều bay hết trơn rồi đâu c̣n tấm nào. C̣n một tấm tao đang choàng đây, có lấy th́ lấy. Nói xong nó quăng tấm ni-lông cho tôi.
– Tao đi qua ké lều thằng Lập.
Tôi chụp lấy rồi đi qua lều của thằng Lập. Tôi không ngờ là tôi đi lạc v́ nước ngập không c̣n đường ṃn. Tôi đi loanh quanh măi mới tới lều của Lập để lấy thêm ni-lông.
Lập ở khá xa Sử, nên lúc trở về tôi lại đi lạc. Mưa vẫn trút ào ào. Tôi cố t́m lối về nhưng vẫn cứ đi lang thang. Chiếc đèn pin hết điện lu dần trong màn mưa dày đặc. Tôi cất tiếng gọi to nhưng không có tiếng đáp lại.
Sấm sét nổi lên trên đầu. Lưng trời rách ra bởi những tia chớp. Gió xoáy. Những ngọn cây quay ù ù như những cái đầu tóc của người điên.
Tiếng cây đổ ầm ầm. Một gốc cây to nằm ngổn ngang trước mặt. Tôi hoàn toàn mất hướng về. Tôi sốt ruột muốn về với Nguyệt ngay tức khắc. Tôi ân hận đă bỏ Nguyệt mà đi trong lúc giông gió. Dù có một ít kinh nghiệm ở rừng, nhưng tôi cũng chưa từng lâm vào cái cánh hăi hùng như đêm nay: lạc lối hoàn toàn.
Măi đến lúc tạnh mưa tôi cũng vẫn không về được lều. Tôi bắt đầu thấy ánh đèn xa xa lấp loáng trong màn đêm. Đó là những toán an ninh đi cứu cấp. Họ biết trận mưa đă làm bật gốc cây rừng. Đă có nhiều người chết v́ bị cây ngă đè. Tôi đă từng trông thấy một anh lính bị một nhánh cây găy phóng ngay bụng như một lưỡi kiếm khổng lồ, trên Trường Sơn.
Mai tiếp ....
-
ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
................
[/b]
Toán an ninh đến gần. Tôi kêu cứu. Họ đi tới và chập sau chúng tôi về lều. Nhưng tôi đă không t́m ra chiếc lều hạnh phúc của tôi nữa. Loay hoay măi lúc lâu tôi mới t́m ra gốc cây và dưới những nhánh cây khổng lồ, chiếc lều mong manh của chúng tôi nằm bẹp dí. Tôi thét lên:
– Nguyệt ! Nguyệt !
Không có tiếng đáp. Một nhân viên an ninh trèo lên thân cây ḅ theo những nhánh cây mà đu người xuống đất. Từ trong những nhánh cây ngổn ngang, anh ta gọi :
– Chết rồi !
– Ai chết ?
– Không biết ai trong này.
Tôi đứng lặng ngắt, không c̣n biết nói ǵ làm ǵ nữa. Phải đợi tới sáng người ta mới đem cưa đến , cắt những nhánh cây để lôi xác Nguyệt ra. Nó bẹp dí như nghiền. Tôi không c̣n nhận ra Nguyệt nữa.
Năm tấm linh hồn đă qui tiên trong đêm mưa băo hăi hùng đó. Gă nhạc sĩ clarinette cũng chung số phận của Nguyệt !
Áo quan làm bằng thân nứa đập dập đan lại với nhau và huyệt mộ là cái hố dưới gốc cây bật rễ.
Tôi chôn người yêu ở nơi rừng đất nước người mà không c̣n một giọt nước mắt nào để khóc.
Nàng quyết chí về. Nàng đă đến. Hạnh phúc đă chụp bắt được. Nhưng chính nàng lại biến đi. Thành ra đến rồi cũng như không. Do đó tôi đặt tên cho tập hồi kư này cái tên “Đến Mà Không Đến” để kính viếng hương hồn Trương Thị Nguyệt, quê ở Cần Thơ. Cũng như tôi, nàng đă đến mà không đến.
Ba mươi năm tấm thảm kịch xảy ra, bây giờ ngồi viết thấy rơ lại như in.
Thế là trên đường Trường Sơn về tới R, tôi mất hai người yêu, người nào cũng suưt làm vợ tôi cả. Phương chết ở khu 5 tôi chỉ nghe Thiệp kể lại mà không thấy trước mặt, c̣n ở đây tôi nh́n tận mắt thi thể của Nguyệt bị đè bẹp dưới thân cây.
Sọ đầu bẹp nát quến với bùn và tóc lầy nhầy. Phải mất năm sáu tiếng đồng hồ một tiểu đội công binh của Bộ Chỉ Huy mới cưa thân cây từng khúc và lôi xác nàng ra. Mới vừa là một người con gái xinh xắn mà bây giờ đă trở thành một vật kỳ cục nh́n mà phát kinh hăi. Ruột gan ḷi cả ra hai bên hông, lưỡi thè ra một bên mồm và đôi chân nhừ nát, be bét máu me.
Thân cây đă ngă đè nguyên trên người nàng nên không bộ phận nào c̣n nguyên. Nhưng trong cái rủi có cái may: ở đây có một đội công binh xây cất nhà cửa và đào hầm hố, cho nên có sẵn dụng cụ cắt cây. Nếu ở tiểu ban Văn Nghệ th́ phải mất một ngày mà chưa chắc đă đem xác nàng ra được.
Bạn thử tưởng tượng, trước đây một giờ, nơi đấy là giường cưới của chúng tôi. Bây giờ là mộ nàng. C̣n nỗi đau đớn nào bằng?
Khi đem được xác nàng ra th́ trời cũng hừng đông. Ở chỗ lều kia, một toán công binh khác cũng đă đem được chàng nhạc sĩ clarinette ra. Cây ngă đè lên ḿnh nó như một ngọn roi to vắt ngang. Cái cây nhỏ hơn cây của Nguyệt. Lập không c̣n ngáp ngáp, mi mắt hết run run, c̣n tay chân đă tím xanh.
Kẻ mất hồn là Sử. Nó sắp chui vô lều thằng Lập th́ cây ngă. Nó chỉ bị nhánh cây quất tét trán. Nếu hai đứa nằm chung vơng th́ nó sẽ lănh nguyên thân cây với thằng Lập.
Nó với tôi đi đốn nứa vác về, chẻ ra rồi với sự chỉ dẫn của đội công binh chúng tôi đan thành những tấm liếp rồi ghép lại thành chiếc hộp nứa thay cho ḥm. Xác của Nguyệt nát ngướu mềm nhũn. Tôi phải lấy tay hốt những mảnh phổi văng ngoài đất cho vào tấm ni-lông rồi gói lại..
Xong, bốn đứa nắm bốn góc nhấc lên để lọt vào ḷng chiếc ḥm rồi đậy nắp, ràng bằng dây mây.
Tử đâu táng đó: nơi nàng vừa hưởng hạnh phúc cũng là nơi nàng thọ nạn. Tôi và Sử đắp mộ cho hai kẻ bạc mạng. Xong lại đẽo cây làm mộ bia. Tôi dùng cái lưỡi dao công binh mà khắc có một chữ “N” trên gỗ tươi.
Không có nhang để đốt trên mộ cho ấm ḷng người chết. Cũng không có một đóa hoa. Sau cơn băo, tất cả đều điêu tàn. Tôi c̣n ở đây làm ǵ nữa. Đi cho khuất mắt.
Tôi thầm nhủ:
– Thôi, nằm đây em nhé. Anh đi ! Miệng run run nói mà chân đi không đành.
Gia đ́nh nàng có hai chị em. Chị tên là Loan, có chồng là y sĩ trong kháng chiến. Chị Loan thương tôi lắm. Chính chị đă xe sợi tơ duyên cho chúng tôi. Khi ra miền Bắc, chị thấy chúng tôi tự ái rồi chia tay, chị buồn nhưng không biết làm ǵ để hàn gắn. Tự ái giai cấp th́ khó mà dẹp được. Thành phần bóc lột.
Khi tôi vác chiếc xe đạp trở ra đường lớn th́ gặp Tư Thêu. Hắn cũng đang đánh xe ḅ không về hướng cơ quan tôi để ăn gạo. Hắn hay mọi chuyện bên trong Bộ Chỉ Huy. Hắn chỉ thở dài rồi ném chiếc xe đạp lên xe ḅ.
Tôi ngồi nghe bánh xe lăn nghiến mà đứt từng đoạn ruột. Có ngờ đâu một chuyện lạ lùng như vậy lại có thể xảy ra. Mà lại xảy ra cho tôi. Rốt cuộc cưới vợ rồi vẫn không có vợ ngay sau đó. Tôi không c̣n ham muốn ǵ nữa. Nhưng vẫn phải về cơ quan để đi đồng bằng. Cứ chốc chốc tôi quay lại ngó cái ngàn cây um tùm mỗi lúc một xa dần.
– Thôi, em nằm đấy nhé. Anh phải đi. Anh sẽ trở lại xây mộ cho em !
Tôi biết chắc chắn là tôi không đời nào c̣n có dịp trở lại đây nữa mà miệng th́ nói thế để tự an ủi ḿnh và vỗ về linh hồn người xấu số.
Trên đường Trường Sơn tôi cũng đă chôn một thằng bạn đồng hành với tôi và cũng hứa như thế. Tôi cũng đă gặp những cái xác chôn vội bên đường không biết thuộc đơn vị nào. Giải phóng Miền Nam là một sự hi sinh quá đáng, vô ích nữa. Những cái chết thấy mà thương tâm. Dù có chết, người cán bộ hoặc chiến sĩ không phải chết như vậy. Con cái ǵ của họ mà họ thương xót ?
Đến chỗ rẽ, Tư Thêu dừng xe, nhấc chiếc xe đạp bỏ xuống đất cho tôi rồi bệu bạo nói:
– Thôi, anh đi nhé.
– Ừ, tao đi. Mạnh giỏi nhé.
Hai thằng đàn ông ôm nhau khóc. Nó khóc thay cho tôi. Và đến bây giờ tôi mới khóc được. Khóc cho nàng và khóc cho tôi. Khóc trong hờn đau. Hai khoé mắt như hai hốc suối cạn.
Hết vượt núi, ở rừng bây giờ tới lội śnh. Toàn những cực đoan của sự đi đứng. Leo núi th́ có đoạn đường hai ngày không có nước, ở rừng th́ không thấy ánh nắng mặt trời, da bủn x́ như da người chết , c̣n lội śnh th́ ngâm nước suối suốt ngày đêm, thân ḿnh như con mắm sống. Đường đi thật là dài và vô cùng ngao ngán với sức khỏe xuống dần từng ngày.
Những người đă đi đồng bằng như Mỹ Tho, Long An, Bến Tre, Rạch Giá, Cà Mau vẽ lại cho tôi con đường đó bằng mồm một cách chi tiết. Nghe xong, muốn nghỉ chơi luôn, nằm tại R tiếp tục lănh thưởng của muỗi đ̣n xóc. Nhưng… sứ mệnh thiêng liêng của tôi là về tận Bến Tre viết cho được quyển tiểu thuyết về Đồng Khởi kia mà !
Đâu có “sọc dưa” nửa chừng như vậy được ! Hơn nữa, tôi c̣n có một thúc giục khác có lẽ c̣n to hơn. Đó là trở lại quê nhà thăm lại ông bà cha mẹ và hàng xóm mà khi ra đi từ 45 tôi mới mười lăm tuổi bây giờ đă ba mươi ba.
Mười tám năm xa cách. Đứa bé mới sinh thời đó có thể đă có con bây giờ! Biết bao nhiêu biến đổi. Thế là tôi tự động viên lấy quyết tâm đi !
Ông Hai Tân phó Ban Tuyên Huấn R đến bảo tôi: “Anh đi cho cẩn thận nhé ! ” Biết thế quái nào là cẩn thận. Với bom đạn ai có đám đùa chơi mà không cẩn thận. Tôi trả lời bằng một tiếng “Vâng” cũng vô nghĩa như lời khuyên của ông ta.
Đêm. Chúng tôi được đưa xuống ghe tiếp vận ở một bến sông mà chúng tôi không biết đó là sông nào.
Khi ngồi dưới ghe người lái ghe (chạy bằng đuôi tôm) bảo chúng tôi nằm xuống không được ló đầu lên. V́ có bọn “Thầy Bùa” Cao Miên hay ŕnh bắn bậy để giật đồ. Chúng nó vừa làm mấy phát. Ghe tiếp vận bị cướp sạch, người bị giết chết.
Tôi nằm ngửa. Bầu trời đen kịt như mặt táo tầu bị gà mổ tóe ra với những mụn rỗ xanh, giống như một truyện cổ tích hăi hùng nào. Đường đi từ làng Ho vô đến đây không biết là bao nhiêu trạm đă qua rồi. Một điều tôi nhận thấy là cuộc trường chinh này rất phiêu lưu. Mạng sống của cán bộ không có được một sự bảo đảm tối thiểu. Ở vùng Cao Nguyên th́ bị thổ phỉ, Fulro, vô tới đây th́ lại bị “Thầy Bùa.”
Bất cứ lúc nào cũng có thể chết được cả. Anh tài công ghe có cây cạc-bin nạp đạn sẵn để ở sau lái c̣n tôi th́ vừa được “nhà văn” Bùi Kinh Lăng “ủy viên” Hội Văn Nghệ Giải Phóng cấp cho một cây P38 c̣n tốt. Thủy Thủ cho tôi một sợi dây dù để buộc vào thắt lưng cho đúng mốt con nhà binh. Như ở trên đă nói, chỉ những cán bộ trung cấp mới được phát đồ ni-lông K54 Trung Quốc. Tôi không được nhận lănh súng ở trường đi B. Cũng may, nếu tôi được cái ân huệ đó th́ một là tôi vứt bỏ v́ không mang nổi, hai là đổi đồ ăn.
Bây giờ tôi mới thấy cần súng vô cùng. Trên đường Trường Sơn tuy là tay trơn nhưng lúc nào cũng có AK của bộ đội đi chung “bảo vệ” cho. Bây giờ ra đi chỉ có hai đứa, ông bạn già th́ không có ǵ cả ngoài cái mái tóc hoa râm và những khớp xương lỏng lẻo khô chất nhờn.
Máy chạy êm ru. Độ một lúc thấy không có ǵ xảy ra, tôi ngủ quên hồi nào không hay. Khi được đánh thức dậy th́ đă đến nơi. Anh tài công ghe máy giao chúng tôi cho giao liên xuồng bơi.
Tôi bấm đèn pin để thấy đường bước qua xuồng. Trời đất một chiếc thuyền bể c̣n tang thương hơn cả tôi. Nếu tôi không nạo vét hết cả nghị lực cách mạng c̣n sót lại trong người th́ tôi không thể bước sang chiếc xuồng này nổi.
Chỉ một mảng lấp lánh ở ven bờ hiện ra dưới ánh đèn nhưng tôi vẫn thấy nước xoáy. Tôi buột miệng hỏi:
– Sông ǵ đây đồng chí ?
– Vàm Cỏ Đông !
– Waico oriental ! Chú nhớ hồi ḿnh học Địa Dư không?
Tư Mô pha tṛ “Oàm” Cỏ Đông ơi “Oàm” Cỏ Đông. .
Chúng tôi bước qua xuồng, nghe cái chết nhẹ bông như chiếc lá. Anh giao liên vừa xô xuồng ra vừa bảo:
– Có pháo bắn các đồng chí cứ ngồi yên nghe.
– Vâng!
– Có pháo nữa sao đồng chí ?
– Có pháo bầy chứ không phải pháo độc chiếc đâu.
– Pháo bầy là pháo ǵ đồng chí ?
Anh giao liên không trả lời, nói một cách quạu quọ:
– T́nh h́nh dưới này động lắm! Mai dám có chụp!
– Chụp là ǵ đồng chí?
– Nhảy gị ít nhất là một trung đoàn.
– Nhảy gị là ǵ đồng chí?
– Tụi này thường là Sư 7 hoặc Sư 9. Sư 9 mới trên Cao Miên về đóng ở Mỹ Tho. Vùng này là mục tiêu của nó.
Anh giao liên bơi nhanh ôm doi lách vịnh theo nước xuôi như thuộc ḷng. Anh không chú ư những câu hỏi của tôi. Không rơ anh ta đang bận tâm lái xuồng hay không thèm trả lời những câu ngớ ngẩn. Vốn là kẻ đă từng sống trên sông nước miền Tây nên đi được một lúc, tôi nghe xuồng lướt chậm, tôi bèn quơ t́m đồ tát nước. Tôi đụng nhằm miếng bập lá dẹp tả tơi. Điều này chứng tỏ chủ nhân dùng nó liền tay. Tôi tát lia lịa.
Tôi hơi yên tâm v́ thấy không đến nỗi ch́m xuồng.
Hồi ở nửa đường Trường Sơn tôi đă nghe những đoàn cán bộ từ Nam ra Bắc kể về t́nh h́nh miền Nam. Họ đă dùng những danh từ chụp, pháo, nhảy gị, nhưng tôi chưa nghe họ nói tới pháo bầy.
Tôi lại hỏi :
– Pháo bầy là pháo ǵ đồng chí?
– Nó bắn “la-phan” nổ như súng máy chứ không có bắn cắc bùm đâu !
– Nghĩa là sao? Tôi vẫn chưa hiểu nên hỏi tiếp.
– Nghĩa là nó bắn lia lịa chứ không có bắn từng phát từng phát, mỗi phát cách nhau hai, ba phút và đạn nó nổ rồi mới nghe tiếng đạn đi veo véo. Cho nên đâu có nhảy hầm kịp.
Tôi vẫn không hiểu ǵ hết. Tư Mô đáp thay cho anh giao liên:
– Cái thứ đạn pháo này độ nhanh trước tiếng động như phản lực vậy chú ạ. Khi máy bay qua khỏi đầu ḿnh rồi th́ mới nghe tiếng động cơ ầm ầm. Loại pháo này bắn đạn nổ xong ḿnh mới nghe tiếng đạn đi và tiếng tống đạn ở ḷng pháo. Siêu âm là nó đó.
Anh giao liên tiếp:
– Tụi nó có một giàn ở Đồng Tâm Mỹ Tho hay Long An ǵ đó.
– Ở Mỹ Tho Long An mà bắn vô tới đây?
– Tới chớ ! Ở đâu th́ tôi không biết chớ ở tỉnh này chỗ nào nó bắn cũng tới hết cả. Không một ngơ hẻm hang cùng nào nó không với tới.
Nghe tiếng nói của anh giao liên tôi đoán anh ta chưa tới ba mươi tuổi. Đêm tĩnh mịch gần như chết. Cái thứ im lặng rợn người.
Tôi sợ cả tiếng nói vang to nên chỉ thầm th́:
– Đồng chí có tham gia kháng chiến chống Pháp không?
– Hồi đó tôi c̣n nhỏ. Ba tôi đi tập kết th́ tôi mới mười lăm tuổi.
– Ủa, đồng chí có bố đi tập kết?
– Bố là cái ǵ ?
– Bố là tía. Tư Mô trả lời thay tôi :
– Đó là tiếng Bắc.
Bỗng có tiếng “hụp hụp hụp” ở xa xa. Rồi tiếng nổ oàng oàng oàng. Anh giao liên vẫn điềm nhiên bơi.
– Nó thụt đấy ! Nhưng pháo nhỏ, không phải pháo Đồng Tâm hoặc Long An.
– Nó bắn xa không?
– Xa lắm.
– Bao xa ?
– Không rơ, hai ba chục ba bốn chục cây số, tôi không rơ .
Anh giao liên tiếp :
– Bữa nay nó thụt ven bên kia Đồng Tháp Mười.
– Thụt là sao ?
– Là bắn đó ! Tư Mô giải thích.
– Hai bên cùng là Nam Kỳ mà xa lạ trong ngôn ngữ. Chú em không hiểu bố nghĩa là ǵ, c̣n chú th́ không rơ thụt là sao! Người ḿnh quan niệm cà-nông bắn như ống thụt nước, nghĩa là dồn vô ống trúc rồi thụt bắn ra cũng vậy!
Tôi cười ngất:
– Như trẻ con chơi nhà cḥi à ?
– Nó bắn ḿnh đỡ không kịp mấy chú ơi !
Anh giao liên nói với giọng buồn nghiến :
– Nó nổ ḿnh chết rồi ḿnh mới biết là ḿnh chết mấy chú ơi ! Anh giao liên gọi chúng tôi bằng chú.
Giao liên ở đây cũng giống như giao liên Trường Sơn ở cái điểm là bi quan và bất măn cực độ, nhưng mới nghe qua vài câu tôi cũng đă thấy rơ anh giao liên ở đồng bằng kề cận tử thần gấp mười lần anh giao liên Trường Sơn.
Mai tiếp ....
-
ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN
[b]Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
................[/b]
Tôi hỏi:
– Ban năy nó thụt ở vùng nào vậy đồng chí ?
– Nó cắt đường dây của ḿnh đó. Nó biết hết đường đi của ḿnh hai chú ạ !
– Ḿnh không mở đường khác được sao?
– Mở đường mới luôn nhưng đi vài tháng là nó biết, nó lại cắt.
– Ban năy đồng chí có nói là ông già đi tập kết?
– Dạ! Mấy chú ở ngoải về phải không?
– Phải ! Sao biết ?
– Chú nói giọng Bắc.
– Ủa vậy sao? Tôi giật ḿnh hỏi.
– C̣n “ủa” ǵ nữa. Ăn rau muống tám, chín năm líu lưỡi nghe rơ lắm. Tư Mô nói.
– Anh có nhận thấy điều đó ở tôi không?
– Có chứ. Vâng, nhỉ, nhé, thế à ! Những chữ đó đầy trong tiếng của chú. Hổng chừng trong máu của chú cũng có “chất Bắc.”
Tôi quay lại anh giao liên:
– Bố cháu ở đơn vị nào ?
– Cháu đâu có biết. Cháu không có gặp ổng. Cháu chỉ nghe má cháu nói lại thôi. Ổng thoát ly đâu hồi cháu bảy, tám tuổi ǵ đó lận !
Tôi định lấy cảm t́nh với anh giao liên bằng cách nói ṿng quanh sự tiến bộ của dân Nam Kỳ tập kết, những đơn vị và cá nhân Nam Bộ được khen thưởng, được huân chương và được tuyên dương anh hùng quân đội, anh hùng lao động. Trước nhất tôi nịnh đám dân Long An một phát. Tôi nói:
– Ở ngoài Trung ương khen ngợi dân Long An dữ lắm. Sau Bến Tre là Long An. Hai tỉnh này được Trung ương Đảng tuyên dương là “Lá cờ đầu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ! ” Bí thư Trung ương Cục Miền Nam bây giờ là đồng chí Sáu Lầu gốc Long An.
Thấy anh ta im lặng , tôi chắc anh ta “thấm bài” nên tương thêm một loạt để chiếm thêm cảm t́nh.
– Thống nhất đất nước rồi đồng chí dắt gia đ́nh ra thăm Hồ Gươm, Tháp Rùa, Chùa Một Cột… cho biết.
– Đẹp lắm hả chú?
– Sau đó đi thăm lăng Bác !
– Ủa, Bác Hồ chết rồi sao?
– Chưa, chưa, nhưng chừng đó th́ chắc Bác không c̣n sống!
Tôi tiếp :
– Miền Bắc ta tươi đẹp vô cùng. Dân chúng đang hăng hái xây dựng xă hội chủ nghĩa. Lúa tốt gấp mấy lần lúa trong ta nhờ lai giống lúa Liên Xô và Trung Quốc, Triều Tiên. Có những hợp tác xă được mùa, lúa chín bông lúa dầy đặc đến nỗi ḿnh leo lên đứng trên ngọn mà lúa không sập.
– Trúng quá hả chú ?
Tôi tuôn ra thao thao bất tuyệt, tuyên truyền anh giao liên mút mùa, c̣n Tư Mô th́ ngồi im hút thuốc. Anh ghiền nặng. Trước khi đi anh đă nhờ mấy cậu tiếp phẩm mua giùm thuốc rê dồn cứng một bịch ni-lông to bằng nửa chiếc gối đệm, anh dự định cục nhựa này có thể đủ xài trong cơn thắt ngặt ... chạy không ra chất đốt trên đường. Nghe tôi tuyên truyền hơi mạnh cho anh giao liên, anh nhắc khéo:
– Chú không phải lo! Mai mốt bố về sẽ nói cho con nghe !
Xuồng lách vào trong rạch nhỏ quanh co tối om. Độ hai ba giờ sáng về đến trạm. Không biết trời đâu đất đâu , cứ việc lao vào ṃ mẫm t́m chỗ mắc vơng. Anh giao liên đến bảo:
– Chú nào có muốn mua ǵ cháu mua dùm cho !
– Ủa, ở đây có quán sao cháu? Tôi kêu lên.
– Dạ có ! Mắm, khô, xà bông thơm, thuốc lá thơm, kẹo đậu phộng, trà con Tôm, con Khỉ, đường cát, đường tán có đủ hết.
– Tôi muốn mua cây bút máy có không?
– Báu ǵ ba cái đó .
Tư Mô nói:
– Bút Bic có thiếu ǵ. Ở trong này không xài Stylo Kaolo hay Pilot hút mực ng̣i vặn ló ra thụt vô như thời kháng chiến nữa!
– Vậy à? Tôi không biết.
– Vậy ở ngoài Bắc xài bút ǵ ?
– Toàn ng̣i bút lá tre chấm mực trong lọ.
– Cơ quan xài ǵ ?
– Cũng thế.
– Trong này một cây bút giá mấy xu thôi.
Tôi bảo:
– Mua cho tôi một “lố.” Tôi móc tiền đưa cho anh :
– Mua luôn các thứ ăn uống và một cục xà bông thơm.
[b]Tôi giăng vơng nằm chụm đầu với Tư Mô. Anh giao liên xuống mé rạch tát nước xành xạch rồi bơi đi. Tôi thấy trong người khỏe khoắn vô cùng v́ cái quán mà anh giao liên vừa nói. Bằng ấy mặt hàng ở trong một cái quán cóc trong vùng giải phóng ư? Khác nào Tổng Hợp Bách Hóa Hà Nội ? Mà ở đây lại không cần phiếu.[/b]
Tư Mô hút thuốc và chậm răi cất giọng:
– Tôi nói với chú chuyện này, chú đừng có giận tôi nghe.
– Chuyện ǵ ? Anh cứ nói đi ! Ǵ mà giận !
– Mấy việc tốt đẹp chú nói hồi năy ở trong này người ta biết hết rồi.
– Vậy hả? Sao biết ?
– Th́ cũng mấy ông ở ngoài đó về trong này nói tùm lum ra. Họ c̣n biết nhiều chuyện đẹp ác nữa. Tiểu ban ḿnh cũng đă ngập tràn những chuyện như vậy rồi. Ấy là mấy cha ngoài Bắc về c̣n giữ kỷ luật cơ quan đấy. C̣n mấy tướng bung ra ngoài, bất măn đâu hồi đời nào, đi tới đâu họ ria tới đó. Bây giờ không có ai tin mấy ông tập kết nữa đâu.
– Có vụ đó nữa sao anh Tư?
– Có chớ !
– Sao anh chưa đi đồng bằng mà anh biết ?
– Th́ mấy cậu ở tiểu ban ḿnh đi về, uống trà nói. Dân ḿnh trong này bây giờ không có muốn thống nhứt đâu. Đây tôi nói nhỏ với chú thôi. Chú của chú cũng từng đi kháng chiến như tôi, nhưng tại sao bỏ ngang? Đó là một vấn đề. Các ông bà tập kết ra Bắc rồi về đây toàn nói chuyện bất măn. Đó là hai vấn đề.
Tôi thở dài. Mệt c̣n hơn lội một keo Trường Sơn.
Tư Mô tiếp:
– Dân Nam Kỳ ra ngoài đó bị chết xe chết tàu dữ hả chú?
– Đâu có ai bị chết tàu đâu ! Chỉ có ông Mười Kỉnh Tổng Thư Kư ủy Ban Hành Chánh Tỉnh ḿnh ra đó làm ǵ ở Bộ Nội Vụ, thay mặt cho Bộ đi Hải Pḥng đón tiếp Việt kiều ở Tân Đảo về, khi chuyền qua tàu, ông bước hụt chân té và chết ch́m thôi chớ đâu có ai chết tàu chết xe ǵ .
Tư Mô thở khói một hơi dài rồi bảo:
– Thôi, ngủ đi. Mai t́nh h́nh dám “động” lắm! Xuống đồng bằng th́ phải chuẩn bị cặp gị và cái lỗ mũi. Tụi đi trước về cơ quan khuyên như vậy.
– Chuẩn bị cặp gị th́ phải, c̣n cái lỗ mũi, tại sao?
– Chém vè dưới lục b́nh lú lỗ mũi lên thở. Hiểu chưa ?
Buổi sáng chúng tôi dậy th́ mặt trời đă ló lên ba sào. T́nh h́nh yên tĩnh. Trong trạm đă có trên ba bốn chục khách v́ đường nghẽn nên bị ứ lại. Có những người đă nằm cả tuần lễ, cứ nhao nháo đi ra đi vào, chặc lưỡi găi đầu găi tai: “Kiểu này th́ bỏ mạng sa tràng rồi !” “Kiểu này th́… th́…” v.v…
Tôi và Tư Mô chẳng “bỏ” ǵ cả. Cuộc sống rừng khan hiếm đủ thứ, kể cả không khí và trời xanh, nên ló đầu ra được khỏi tàng cây rậm bịt đến đây hít thở không gian mênh mông th́ sốt ruột cái ǵ ?
Anh giao liên đem về các thứ mua ở quán. Tôi muốn kêu lên như một đứa trẻ con. Sau năm tháng không biết, cái mái nhà, không biết mua một món hàng… bây giờ có tất cả.
Buổi sáng hôm nay là buổi sáng lịch sử. Tôi thấy một mái nhà. Cái nhà của anh giao liên, một cái nhà nhỏ hai mái như cḥi trâu nhưng có vách phên và lợp bằng lá dừa nước… Tuy vẫn phải giăng vơng ngoài bờ ngoài bụi nhưng mắt được nh́n thấy một cái nhà.
Một điều lạ lùng nữa là ở đây nấu nướng tha hồ, nước nôi ở ngay bờ mương, củi, không phải đẽo gốc cây đứng như ở Trường Sơn và có cả quán bán đồ.
Ơn Bác ơn Đảng con suưt làm phân bón rừng Cao Nguyên, nhờ hồng phúc của Bác mà con được trông thấy miếng kẹo đậu phộng và cục xà bông thơm. Nhưng không phải của Hợp Tác Xă Thống Nhứt hoặc nhà máy Cao Xà Lá sản xuất mà là của nguy Sài G̣n.
Có cá mắm sặc, khô mực, khô cá đuối, cá hố, đường, đậu v.v…. những thứ ở Hà Nội rất khó mua hoặc không có để mua. Tôi nói với Tư Mô:
– Ḿnh nhậu một ván tẩy trần đi anh Tư!
– Tẩy Rờ đó chớ!
– Sao ḿnh gọi là R anh Tư?
– Hừ, chú hỏi cắc cớ vậy ! Chính tôi cũng không hiểu R là cái ǵ. Rờ ǵ, rờ rún hay rờ m… Nhưng tôi cứ hiểu R là Rừng. Không có tự vị để tra nghĩa.
– Bây giờ trước nhất là làm ba con khô mực đi !
– Nhờ chú giao liên đi mua giùm một xị “sum sum” mới được.
Tôi gọi anh giao liên tên là Tôn đến và nhờ thi hành lệnh của anh Tư. Tôn sẵn sàng đi ngay. Tôi hỏi:
– Ngày mai có chuyến đi xuống chưa đồng chí ?
– Chưa đâu chú à! Đường c̣n kẹt. Nó đang đổ dù ở miệt dưới.
– Nghĩa là phía nào ? Tôi chẳng biết đâu là trên đâu là dưới cả.
– Dưới là dưới chứ c̣n chỗ nào nữa . Tư Mô pha tṛ :
– Chú nốc một xị rồi sẽ thấy cái chỗ dưới nó đổ dù ngay.
Tôn cười và hỏi:
– Có thịt trâu hai chú có làm vài kí không?
– Bộ trong này dư trâu làm ruộng hả chú?
– Trâu bị cà-nông hồi hôm !
– Bắn sơ sơ vậy mà có thiệt hại rồi à?
– Có chứ. Chuyện đó xảy ra hằng ngày. May mà không có người chết. Đạn pháo là đạn mù mà chú. Nó đâu có ngắm mục tiêu. Nó chỉ nhắm mắt thảy đùa trúng ai trúng? Chú gặp dịp may, mua vài kí đi. Lớp ăn tươi lớp làm lương khô. Đường đây c̣n dài, và c̣n nhiều việc chông chênh lắm chú ạ. Có ba cái lương khô giắt lưng là vững bụng nhất.
Tôi gật và đưa tiền, rồi nói với Tư Mô:
– Lương khô heo, gà, chó, nai, khỉ, voi, rồi bây giờ tới lương khô trâu ! C̣n thứ ǵ làm lương khô được nữa không?
– Cá chú ạ!
– Cá đă đành rồi!
– Chuột chúng cháu cũng làm lương khô luôn!
– Vậy nữa ?
– Chuột tháng mưa mập lắm. Chú mua vài con làm thử coi. Ăn cũng chết giấc chứ chẳng chơi đâu! Bữa nào t́nh h́nh yên tĩnh, vài ba chúng cháu đi dậm cù bắt chuột lớp ăn lớp bán tự túc.
– Dậm cù là sao ?
Tư Mô nói:
– Chú đi ra Bắc lâu quá rồi quên mấy cái vụ quen thuộc của xứ ḿnh. Dậm cù là một trận chiến gồm năm sáu người bao vây một đám lác ruộng, dùng chân dậm lác ngă xuống và càng ngày cụm lác càng thu nhỏ lại. Chuột rút vào. Cuối cùng bị đuổi nột, chúng liều chết vọt ra. Ḿnh chụp đầu. Dậm cù có càng nhiều người càng tốt v́ chuột khó chạy thoát.
– A, tôi nhớ ra rồi. Hồi tôi ở nhà mỗi lần băi trường về quê cũng chơi cái tṛ dậm cù này. Tụi ở vườn có đứa bắt chuột giỏi, chúng chụp ngay đầu và bóp cổ con chuột nhăn răng, nhưng cũng có đứa chụp cái đuôi chuột quay lại cắn la trời.
Tôn đứng đó, chưa chịu đi làm sứ mạng. Tôi giục th́ nó nói mua có một xị không đủ đổ lỗ mũi mua làm ǵ. Nghe nói thế Tư Mô móc túi đưa thêm tiền và dặn:
– Đong một lít chẵn đi, c̣n bao nhiêu th́ mua đậu phộng. Nếu dọc đường có gặp lá cách quơ dùm một mớ. Có mỡ heo không? Chậc, quên mất cái vụ mỡ dầu. Xào thịt trâu không có mỡ th́ xào làm sao?
– Ôi ồi ! Mỡ đằng quán thiếu chi. Tôi đăi mấy chú mỡ Mỹ.
– Mỡ Mỹ là mỡ ǵ ? Tôi ngạc nhiên hỏi.
– Mỡ từ bên Mỹ đem qua bán cho ḿnh.
– Sao Mỹ lại bán mỡ cho ḿnh ?
Tư Mô trả lời giùm thằng Tôn:
– Đây là mỡ của dân Mỹ tặng cho dân Việt Nam tức là ba thằng Nguy đó ! Tặng phẩm của Mỹ nhưng vợ quan chộp lấy đem bán đầy các chợ. Ḿnh mua đem về ăn. Vậy chớ chú không thấy mấy cái thùng mỡ tổ nải ở nhà bếp tiểu ban ḿnh đấy à?
– Tôi tưởng là thùng không chớ?
– C̣n ba cái thịt hộp nữa. Hộp sơn màu cứt ngựa là của nhà binh. Nó đem sang cho lính Mỹ nhưng cũng chạy tọt vô trong này tiếp tế cho ḿnh. Chú chưa thấy hộp thịt heo nạc năm kí lô trút ra cục nào cục nấy bằng đầu gối ḿnh vậy.
Tôn xen vô:
– Ở dưới này cũng có thiếu ǵ ba cái ngữ đó chú. Bà chủ quán này cứ mỗi chuyến đi chợ là mua về cả xuồng. Tha hồ bán cho cán bộ, bộ đội.
Tư Mô vụt hỏi :
– Ở gần đây có bán dừa khô không chú? Thịt trâu xào lá cách th́ phải xài nước cốt dừa mới đúng điệu.
– Trời đất ! Nước cốt dừa ! Tôi kêu lên.
– Sao? Xào lá cách th́ phải nước cốt dừa chớ la cái
– Th́ đúng rồi ! Nhưng tôi sực nhớ ra rằng gần mười năm tôi không có ăn dừa.
– Sao vậy? Ngoài đó không có dừa à?
– Có nhưng ít thôi.Ở Quảng Xương Thanh Hóa! Nhưng chánh quyền cấm bán. Chính phủ ḿnh mua hết cả để gây vườn dừa.
– Thế à?
– Tôi quên mất xứ ḿnh là xứ dừa.
Thấy thằng Tôn cứ đứng lần chần măi không chịu đi, tôi giục, hắn bảo:
– Chờ cho tan phèn mới đi được.
– Tan phèn là sao? Tôi lại hỏi.
– Là chờ cho trưa trưa th́ đi mới bảo đảm ! Điểm bán thịt trâu hơi xa. Đi bỏ trạm rủi nó chụp dù bơi về không kịp. Nó tới nhanh lắm chú ơi. Trước khi tới nó chào mừng bằng nửa giờ pháo bầy. Không có thứ ǵ ngóc đầu lên được. Xong pháo bầy th́ trực thăng tới. Vài cặp cá lẹp ria như mưa bấc. Nếu không có cá lẹp th́ phản lực bỏ bom. Xong đâu đấy mới cho đầu láng tới.
– Cá lẹp, đầu láng là cái ǵ?
Tôn nói :
– Đầu láng là một trong các loại trực thăng tụi nó dùng để chụp ḿnh đó chú ạ. Nó cũng là trực thăng bành bạch thôi nhưng ḿnh nó như c̣n cá chẻm có vảy sáng trưng và cái đầu nó láng dùng để chở cấp chỉ huy, c̣n đen thui và có càng trông rất dị hợm th́ dùng chở lính.
C̣n cá lẹp, chời ơi ! Cái thứ cá lẹp, nhắc tới đâu teo tới đó. Cũng là trực thăng thôi nhưng ḿnh nó dẹp và mỏ nó dài. Trước khi đổ dù nó thả hai con cá lẹp tới phóng rốc-kết tàn nhẫn. Mỗi phát bốn quả. Ai lọt vô giữa th́ lượm không được miếng da ! Rồi c̣n bắn nữa. Nó bắn không có nghe rồn rột như trung liên đâu. Súng của nó nổ như ḅ đái … e e e… éc. Mỗi loạt dài chừng hai phút. Nó phóng rốc-kết rồi bắn th́ hầm nào cũng không chịu nổi.
Tôi chú ư nghe , c̣n Tư Mô th́ phớt lờ.
Lúc lội Trường Sơn, tôi có nghe một cán bộ từ trong Nam ra Bắc nói cho nghe cái vụ nhảy gị của trực thăng … Hồi đó tôi chỉ hiểu mơ màng, bây giờ đến thực địa mới h́nh dung rơ hơn.
Vụ nhậu thịt trâu quy mô thực hiện một cách dễ dàng nhờ nhiệt t́nh của thằng Tôn. Liệu chừng tan phèn nó đi mua rồi bơi xuồng theo mé sông t́m hái được cả lá cách và mua được một trái dừa khô trong xóm. Tư Mô là người ăn uống kỹ lưỡng, tỉ mỉ, chứ không phải như tôi ... món ǵ cũng ăn, chín sống ǵ cũng xực , không kén thứ ǵ. Anh đ̣i cho được lá cách và dừa khô để xào thịt trâu “ăn cho nhớ nhà chơi” , chứ không chịu xào bằng mỡ Mỹ.
Nhưng được dừa khô rồi th́ không có bàn nạo. Đó là món đồ nghề thiết thân với dừa khô. Không có bàn nạo th́ chỉ ăn dừa kho thôi ! Cho nên đành chịu v́ không t́m đâu ra cái bàn nạo ở giữa cái chốn ma quỉ này.
Mai tiếp ....