-
[B]NGŨ GIÁC ĐÀI HẬU 11/9 – 1[/B]
Từ phi trường quốc tế Dulles, tôi chỉ lái xe với tốc độ vừa phải để vào Washington DC, thủ đô nước Mỹ, xa lộ thật sạch và đẹp, những rặng cây bên đường đang lác đác điểm vài chiếc lá vàng trong cảnh trời chiều mới vào Thu. Tôi vẫn thường mong có dịp trở lại miền Đông Bắc Mỹ để ngắm cảnh rừng thu bát ngát lá vàng, nhưng hôm nay, tôi không c̣n ḷng dạ nào để hưởng cảnh thanh b́nh, thư thả ấy. Tôi phải về Navy Annex, cạnh Ngũ Giác Đài (NGĐ, Pentagon), tŕnh diện Đề Đốc (hai sao), giám đốc nha Tuyên Úy Hải Quân, để nhận một công tác đặc biệt. Việc của tôi sẽ liên hệ nhiều đến vụ một chiếc máy bay hàng không dân sự bị bọn khủng bố chiếm đoạt rồi cho đâm nhào xuống NGĐ, nơi có bộ Quốc Pḥng và đại bản doanh của bộ Tổng Tham Mưu quân lực Hoa Kỳ. Sự kiện này đă xảy ra cùng ngày (September 11, 2001) với vụ hai chiếc máy bay dân sự khác đă đâm sập các ṭa tháp đôi của Trung Tâm Thương Măi Quốc Tế (World Trade Center) ở thành phố New York, cũng như chiếc máy bay thứ tư đă rớt xuống một cánh đồng ở tiểu bang Pennsylvania, v́ các hành khách trên phi cơ đă được báo tin và cùng “nổi dậy” chống lại bọn khủng bố. Tổng số nạn nhân bị thiệt mạng do các cuộc tấn công đă lên đến gần 3 ngàn người.
[CENTER][IMG]http://i64.tinypic.com/2uzwj7k.jpg[/IMG][/CENTER]
Đă vài lần có dịp đến NGĐ, cũng như những lần đứng trên sân thượng của một trong hai ṭa nhà WTC để ngắm cảnh đẹp New York; tôi cảm thấy như vừa bị cướp đi cái ǵ thật quí báu, thật trân trọng, thật riêng tư, khi nh́n những ṭa nhà đó sụp đổ.
Navy Annex là một khu dinh thự lớn tọa lạc trên đỉnh đồi, nh́n xuống NGĐ, trong một khoảng cách có thể đi bộ được. Cũng như nhiều quân nhân và các nhân viên dân chính khác đang về NGĐ công tác, tôi ghi tên lấy pḥng ở khách sạn Sheraton National Arlington, sát bên Navy Annex và cùng khu vực với trại Henderson Hall của Thủy Quân Lục Chiến, trại Fort Myer của Bộ Binh và nghĩa trang quân đội quốc gia Arlington.
Sáng hôm sau, tôi nghe thuyết tŕnh (briefing) cách tổng quát về các hoạt động của bộ Quốc Pḥng, công tác t́m kiếm và giảo nghiệm DNA các nạn nhân… Trên 50 tuyên úy thuộc các binh chủng và nhiều giáo hội khác nhau đă được gọi về thủ đô lần này để làm việc tại một trong năm trung tâm của NGĐ: (1) Ngay nơi xảy ra cuộc tấn công, để hỗ trợ tinh thần những nhân viên đang ngày đêm làm việc ở đây; (2) Navy Annex để giúp (de-brief) mấy chục ngàn dân, quân trong vùng, trường hợp có người bị PTSD (Post-traumatic Stress Disorder - Mất thăng bằng bởi dồn ép sau cơn kinh hoàng); (3) nhà quàn quân đội, nơi tập trung tất cả những xác người được t́m thấy; (4) văn pḥng loan tin cho thân nhân của các nạn nhân (CACO), cần một tuyên úy, một và hai sĩ quan, trong mọi trường hợp; (5) khách sạn Sharaton ở Crystal City, cạnh phi trường Reagan, nơi gia đ́nh các nạn nhân đang tạm trú để chờ tin tức về người thân của họ. Tôi đă được chỉ định làm việc ở Crystal City.
Sau buổi thuyết tŕnh, tôi và các tuyên úy được hướng dẫn xuống NGĐ để quan sát nơi xảy ra thảm nạn. Phải qua đến bốn trạm gác, các tuyên úy mới được cấp thẻ ra vào đặc biệt, một nhân viên an ninh ra đón phái đoàn và đưa mọi người vào khu vực bị sụp đổ (Impact Area.) Chỉ sau có mấy mày mà ṭa nhà đă được dọn khá sạch và đang thuộc phần vụ của các cảnh sát liên bang, FBI. Sự thiệt hại, nh́n từ bên ngoài đă không trầm trọng như tôi nghĩ, chỉ như một lỗ hổng nhỏ so với sự vĩ đại của toàn khu vực. Mỗi cạnh của ṭa lầu năm góc (NGĐ) dài khoảng 300 thước, dăy nhà được xây bằng đá, gạch và bê tông tạo thành một h́nh năm cạnh bằng nhau, cao năm tầng và một hay nhiều tầng ngầm dưới đất. Bên trong c̣n bốn ṿng lầu ngũ giác khác, cũng với những dăy nhà cao như vậy, nhưng, dĩ nhiên, càng ở tầng trong các cạnh càng ngắn đi. Các dăy nhà năm cạnh được nối với nhau bằng những hành lang khá rộng, từ trên cao nh́n xuống, cả khu NGĐ như được chia thành 10 khoang, ngăn cách bởi những hành lang cắt ngang. Nơi bị thiệt hại chỉ xảy ra trong một khoang, dài khoảng 30 thước thuộc dăy lầu ngoài cùng, tuy nhiên, ở những tầng dưới của hai dăy lầu bên trong cũng bị thiệt hại khá nặng v́ sức đập mạnh của phần đầu chiếc phi cơ đang trong vận tốc đến gần 500 dặm (800 Km) một giờ.
Đă có sự may mắn cho phía Mỹ cũng như sự thất bại chiến thuật của bọn khủng bố, may mắn là v́ khoang nhà bị tấn công đang được sửa chữa chưa hoàn toàn xong, c̣n mấy ngày nữa mới chuyển giao. Đa số trong 130 người bị thiệt mạng lúc đó đang làm việc ở các lầu bên trong của NGĐ, không kể 59 hành khách trên máy bay và 5 tên khủng bố. Chiến thuật mà bọn khủng bố đă xử dụng để tạo sự công phá tối đa cho các ṭa nhà ở New York, là trước khi đâm vào các ṭa nhà đó, phi công của chúng đă bay nghiêng cánh để gây thiệt hại cho nhiều tầng lầu, v́ vậy đă làm cho các ṭa nhà yếu đi hơn; sau đó, sức nóng do sự bùng cháy của hàng chục ngàn gallons xăng (các máy bay chúng chọn đều thuộc loại lớn, chứa đầy xăng để bay xuyên nước Mỹ) đă làm mềm các cột thép khiến các ṭa nhà đă sập từ trên xuống.
Bọn khủng bố đă dùng cùng một chiến thuật đó ở NGĐ, nhưng đây lại là một ṭa nhà quá rộng lớn, lại chỉ cao có năm lầu; hơn nữa, ṭa nhà c̣n bị chắn bởi hai ngọn đồi nơi có Navy Annex và nghĩa trang quân đội Arlington. Chúng đă phải bay tránh hai ngọn đồi này, rồi lại phải nghiêng cánh trong một vận tốc lớn như vậy, nên đă không được chính xác hoàn toàn. Cánh phải của chiếc máy bay đă xà quá thấp, chạm vào một máy phát điện khá lớn của nhà thầu đặt ở bên ngoài, khiến chiếc máy bay gần như quay ngang trước khi đập vào ṭa nhà. Nếu chúng giữ cho hai cánh thăng bằng th́ máy bay đă có thể ở vị trí cao hơn và xuyên qua cả mấy dăy lầu bên trong, như vậy sự thiệt hại sẽ không thể nào lường được. Những người bị thiệt mạng trong khảnh khắc đó đă có trung tướng Timothy J. Maude, tham mưu phó của Lục Quân Hoa Kỳ, nhiều sĩ quan cấp tá và các nhân viên dân chính, kể cả một người gốc Việt, kỹ sư Nguyễn Ngọc Khang, đang làm việc cho bộ Hải Quân.
(Còn tiếp)
-
[B] NGŨ GIÁC ĐÀI SAU 9/11 - 2[/B]
Trung tâm yểm trợ gia đ́nh các nạn nhân của NGĐ (Pentagon Family Assistance Center) đặt ở khách sạn Sheraton thuộc khu Crystal City, đă do trung tướng John van Alstyne, của Lục Quân chỉ huy (Trung tướng: ba sao, theo cách gọi của quân lực VNCH.) Cộng sự với ông có một chuẩn tướng tuyên úy (một sao), và hơn mười tuyên úy thuộc các binh chủng. Trung tâm c̣n có các cơ quan khác như Hồng Thập Tự, Quân Y, Salvation Army v.v… cùng hợp tác trợ giúp gia đ́nh các nạn nhân đang lưu ngụ nơi đây để chờ tin về người thân của họ.
Ngay sáng hôm đầu tiên, tôi đă được lệnh phải chuẩn bị để dâng thánh lễ cầu hồn và an táng cho một trung tá Lục Quân, Dennis Johnson, ở nghĩa trang quân đội Arlington vào ngày thứ Bảy sắp tới. Nhưng trưa hôm sau, tôi lại được cho biết rằng cấp trên đă t́m được một tuyên úy Công giáo bên bộ binh (Lục Quân) rồi và tôi không phải lo cho công tác đó nữa. Hơi ngạc nhiên về sự “chọn lựa” kỹ càng này: “Tại sao cứ phải tuyên úy bộ binh mới lo cho bộ binh được?” Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn t́m đến vị linh mục tuyên úy bộ binh đó để cùng làm việc. Cha Bill Metzdorf, trung tá tuyên úy Vệ Binh Quốc Gia (National Guard) đến từ San Diego, California, đă niềm nở chào đón và mời tôi cùng dâng thánh lễ cầu hồn và nghi thức an táng cho cố trung tá Johnson. Báo tin cho cấp trên bên Hải Quân, tôi đă được chỉ thị về những chuẩn bị cần thiết và phải mặc quân phục đại lễ mùa Hè (giày, mũ, găng tay, quần áo trắng – cổ cao, tay dài – với các huy chương loại lớn.)
[CENTER][IMG]http://i65.tinypic.com/24cy0jl.jpg[/IMG][/CENTER]
Cố trung tá Johnson được an táng với đầy đủ nghi thức quân cách cấp quốc gia. Ban quân nhạc và đại đội chào kính (Honor Guards) đứng trước cửa nhà nguyện của doanh trại Fort Myer, cạnh nghĩa trang Arlington, đă nghiêm chào và trổi nhạc khi linh cữu của ông được rước vào nhà nguyện. Ở những hàng ghế đầu trong nhà nguyện, tôi thấy có đại tướng Eric K. Shinseki, gốc Nhật, tham mưu trưởng Lục Quân cùng một đại tướng, hai trung tướng và nhiều sĩ quan cao cấp khác.
Sau thánh lễ, áo quan của cố trung tá Johnson được đặt trên cỗ xe “Caisson,” kéo bằng sáu con ngựa, trông như xe kéo trọng pháo thời xưa và tương tự như cỗ xe đă chở linh cữu cố tổng thống Kennedy đến nghĩa trang Arlington năm 1963. Quốc kỳ, quân kỳ và ban quân nhạc đi đầu, kế đến là đại đội chào kính, tiếp theo là cỗ xe caisson có tuyên úy Matzdorf đi trước, và sau cùng là gia đ́nh và tất cả những người tham dự lễ an táng. Đoàn quân hoàn toàn trong những bộ quân phục đại lễ màu xanh lá rừng của Lục Quân, tôi cảm thấy lạc lơng với bộ quân phục trắng toát của ḿnh và thật sự đă hiểu tại sao họ phải t́m bằng được một tuyên úy bộ binh cho lễ an táng này. Tôi định cùng đi với gia đ́nh nhà Johnson, vợ và hai con gái, nhưng tuyên úy Matzdorf đă nhờ tôi đi xe dẫn đầu để mở đường cho đoàn tuần hành. Chính nhờ ở vị trí này mà tôi đă được chiêm ngắm sự trang trọng, thanh thoát và trầm hùng của nghi thức an táng theo quân cách Hoa Kỳ.
Đoàn tuần hành đă đi khoảng hai cây số, hết sườn đồi này qua sườn đồi khác, giữa rừng mộ bia thẳng tắp bằng đá cẩm thạch của đại đa số là những quân nhân đă được an táng ở đây. Tiếng nhạc trầm buồn trong một chiều Thu không nắng như đang chiêu hồn tử sĩ; từng ngọn cỏ, từng mộ bia đă được chăm sóc rất chu đáo, xứng đáng là nghĩa trang quốc gia của một đại cường. Tôi bỗng ngậm ngùi chợt nhớ đến người anh họ, thuộc lực lượng đặc biệt của quân đội VNCH, đă tử trận năm 1968 và được an táng ở nghĩa trang quân đội Biên Ḥa. Đă từ mấy mươi năm nay, mộ của anh cũng như của hàng chục ngàn chiến hữu khác đă trở nên hoang phế, khói lạnh, hương tàn…
Cố trung tá Johnson được an táng ngay trên sườn đồi nh́n xuống Ngũ Giác Đài. Trớ trêu thay, đó cũng là hướng chiếc máy bay định mệnh đă đâm nhào xuống văn pḥng của ông! Sau lời nguyện của vị tuyên úy, những bản quân nhạc, những chào tiễn biệt với ba loạt súng, đến tiếng kèn truy điệu, rồi lá quốc kỳ được các quân nhân cẩn trọng xếp chéo góc, trước khi trao cho một chuẩn tướng, vị này, có lẽ là chỉ huy trực tiếp của cố trung tá Johnson, lại kính cẩn trao tận tay bà quả phụ Johnson với lời phân ưu và cảm ơn bà, thay cho cả nước. Đại tướng tham mưu trưởng Lục Quân, Eric Shinseki, đă đến tận nơi, một chân quỳ bên cạnh ghế ngồi của bà Johnson, để nói những lời an ủi. H́nh ảnh thật đẹp, nói lên t́nh nghĩa huynh đệ chi binh của quân lực Hoa Kỳ. Tướng Shinseki đă từng tham chiến ở Việt Nam hai lần, thuộc các sư đoàn bộ binh Mỹ 9 và 25, cả hai lần ông đều bị thương trên chiến trường đó. Tuyên úy Matzdorf và Nguyễn cũng lần lượt đến phân ưu với gia đ́nh nhà Johnson.
Trước thánh lễ an táng, tôi đă tiếp chuyện với hai cụ già, t́nh nguyện vào nhà nguyện giúp lễ và đọc sách thánh. Cả hai cụ đều mặc thường phục nhưng dáng người quắc thước, thoảng nét oai phong, một cụ tự giới thiệu tên là Ken Robinson, đă từng phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) suốt 30 năm.
“Như vậy, chắc cụ đă từng tham chiến ở Việt Nam?” Tôi hỏi.
Cụ đáp: “Dạ đúng, thưa cha, tôi đă là tiểu đoàn trưởng của một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1 TQLC, trấn đóng trong vùng Đà Nẵng và thung lũng Quế Sơn.”
Tôi hỏi tiếp:
- “Chắc cụ c̣n chỉ huy nhiều đơn vị lớn hơn trong binh chủng TQLC?”
- “Có lần tôi đă là tư lệnh sư đoàn 1 ở Camp Pendleton, California.”
- “Như vậy chức vụ cuối cùng của cụ phải là?”
- “Trung tướng.” Cụ đáp.
Thật b́nh dị, thật khiêm nhường nơi vị danh tướng đă từng cầm quyền sinh sát của hàng vạn quân, giờ đây, cụ t́nh nguyện phục vụ trong ngôi thánh đường nhỏ bé này để tăng sức cho đời sống tâm linh của cụ, nhưng có lẽ cũng là để cụ có dịp chào tiễn biệt những chiến hữu trở về với ḷng đất quê hương; và rồi một ngày nào đó, chính cụ cũng sẽ được an táng nơi nghĩa trang rất danh dự này.
Cựu trung tướng Robinson còn giới thiệu tôi với vị cựu trung tướng thứ hai với vẻ kính trọng đặc biệt, tuy nhiên vị này có vẻ ít nói, vả lại chúng tôi cũng không có giờ nhiều để tṛ chuyện thêm trước thánh lễ nên tôi cũng không nhớ nổi tên của vị thứ hai. Sau này nghĩ lại, tôi tin chắc rằng tên vị trung tướng về hưu thứ hai là Harold Gregory “Hal” Moore, Jr., người đã viết cuốn sách bán chạy hàng đầu, theo tờ New York Times, “Chúng tôi đã từng là lính trẻ” năm 1992. Đến năm 2002 cuốn sách đó được đóng thành phim, kể trận đánh vang dội ở thung lũng Ia Drang, phía Tây Nam thành phố Pleiku, giữa hai tiểu đoàn 1 và 2 của trung đoàn 7 Không Vận Kỵ Binh Hoa Kỳ và khoảng 2000 bộ đội Cộng Sản Bắc Việt. Lúc đó trung tướng Moore là trung tá chỉ trưởng của tiểu đoàn. Vai chỉ huy của CSBV đã do cố tài tử Đơn Dương thủ diễn. Sau phim này anh ta bị chỉ trích nặng nề và phải lưu vong qua Mỹ để rồi đã từ trần ở đây. Tôi nghĩ, chắc chắn phải là cựu trung tướng Moore, vì đã có bao nhiêu trung tướng về hưu, người Công Giáo trong quân lực Hoa Kỳ vào tháng 9 năm 2001?
(Còn tiếp)
-
[CENTER][B]
[COLOR="#B22222"]
CUỐN THEO MỆNH NƯỚC [/COLOR][/B][/CENTER]
[B]PENTAGON SAU 11/9 – 3[/B]
Trở lại với những ngày, hay đêm, làm việc dài đăng đẵng (12 hour shift) ở trung tâm yểm trợ gia đ́nh các nạn nhân, tôi đă có dịp gặp gỡ, thăm hỏi và an ủi nhiều người, nhiều gia đ́nh. Chính nơi đây t́nh nhân ái giữa những con người đă được thể hiện đến cao độ, từ vị trung tướng, trung tâm trưởng, đến những em nhỏ, không ai nhắc đến bọn khủng bố hay chửi bới, nguyền rủa, đ̣i phục thù… Nhưng tất cả đă luôn sẵn sàng cười với nụ cười hiếm hoi của gia đ́nh các nạn nhân, cũng như nếu cần, khóc với niềm đau của họ.
Mấy hôm sau đó, Bộ Quốc Pḥng đă quyết định dùng ngày 11 tháng 10, đúng một tháng sau ngày thảm nạn 11 tháng 9, để tổ chức lễ truy điệu cho tất cả các nạn nhân ở New York, Pennsylvania và Pentagon. Riêng với gia đ́nh những nạn nhân ở NGĐ, bộ Quốc Pḥng đă mời mỗi gia đ́nh có thể cử đến 15 người tham dự. Tổng số người được cung cấp phương tiện chuyên chở (đến từ bất cứ nơi nào trên đất Mỹ), cũng như nơi ăn, chốn ở, có thể lên đến gần 3 ngàn người, v́ vậy trung tâm yểm trợ lại càng bận rộn hơn để đón thêm khách, chuẩn bị cho ngày đại lễ.
Thứ Bảy kế tiếp, thay v́ đi tham dự lễ truy điệu cố trung tướng Timothy Maude, nạn nhân cao cấp nhất của cuộc thảm nạn, tôi đă đến dự lễ tưởng niệm kỹ sư Nguyễn Ngọc Khang ở Falls Church, Virginia. Nghi thức tưởng niệm được gia đ́nh chia làm ba phần: điếu văn của các bạn quân, dân đồng nghiệp, cũng như của đại diện chính phủ và các hội đoàn gốc Việt; chia sẻ của những người thân trong gia đ́nh; và lễ cầu siêu.
Tiếp xúc với chị Tú, vợ anh Khang, tôi được biết sau lễ cầu siêu, gia đ́nh sẽ hỏa táng di hài của anh. Một đề đốc (hai sao) và nhiều sĩ quan đại diện Hải Quân đă nhân danh chính phủ trao huy chương Danh Dự (Dân Sự) cho anh Khang, chị Khang đă nhận lănh thay chồng. Huy chương này mới được thiết lập để tuyên dương những nhân viên dân chính đang làm việc cho chính phủ, bị tử nạn trong thời chiến, tương đương với Chiến Thương Bội Tinh (Purple Heart) của bên quân đội. Đại diện cộng đồng người Việt trong vùng Washington DC, Maryland, Virginia… cũng đến phúng điếu. Đặc biệt, nữ tài tử Kiều Chinh cũng có mặt để chia sẻ nỗi mất mát lớn lao này của gia đ́nh chị Khang.
Trở lại trung tâm, hàng ngày gặp gỡ và cùng cầu nguyện với trung tướng Alstyne, trung tâm trưởng, tôi quen dần và rất mến vị tướng nhiều kinh nghiệm và đầy ḷng vị tha này. Một hôm, ông đến bá vai tôi và phát âm tiếng Việt rất rơ ràng: “Chào cha!” Ngạc nhiên đến thích thú, tôi hỏi:
“Năm xưa, trung tướng phục vụ ở vùng nào của miền Nam?”
“Tôi làm cố vấn quân sự ở tỉnh Định Tường (Mỹ Tho).”
“Có phải là sư đoàn 7 của quân đội VNCH?”
“Không, chi khu Cai Lậy.”
Sau một lúc trầm tư như đang hồi tưởng về một quá khứ xa xưa trong thời trai trẻ, ông hỏi tiếp, giọng ân cần như muốn nhắc đến vùng quê hương của chính ḿnh:
“Cai Lậy bây giờ ra sao?”
[CENTER][IMG]http://i67.tinypic.com/5xkfu0.jpg[/IMG][/CENTER]
Quên sao được thị trấn nằm bên quốc lộ số 4 (bây giờ là QL 1), con đường huyết mạch nối liền Sài g̣n với các tỉnh miền Tây. Những đồng lúa và thôn ấp hiền hòa chunh quanh Cai Lậy đă là băi chiến trường, nhiều khi rất đẫm máu, của bao nhiêu cuộc thư hùng giữa hai bên Quốc – Cộng.
Trung tướng Alstyne đă làm cố vấn quân sự cho lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của quận Cai Lậy, khoảng cuối thập niên 60s. Ông vẫn luôn nhớ những người bạn Việt Nam đă cùng sát vai chiến đấu với ông, những người đă gọi ông bằng cấp bậc, nhưng thân mật như một tên riêng: “Đại Úy.” Ông c̣n nhớ cả những bữa ăn thanh đạm giữa lúc hành quân, mà các bạn, đa số nguyên là những nông dân chất phác của miền đồng bằng sông Cửu, đă chẳng bao giờ cho ông biết đó là những món ǵ! Câu nói bằng tiếng Việt mà có lẽ ông đă dùng nhiều nhất, nay ông vẫn c̣n rất nhớ: “Ngày mai, chúng ta đi hành quân!”
(Còn tiếp)
-
[B]NGŨ GIÁC ĐÀI SAU 11/9 – 4[/B]
Đại lễ tưởng niệm các nạn nhân bị thiệt mạng trong ngày bi thảm 11 tháng 9, 2001 đă diễn ra ngay cạnh Ngũ Gíac Đài, chỉ cách nơi bị thiệt hại vài trăm thước, phía hướng ra ḍng sông Potomac. Hôm ấy, bầu trời trong xanh, rực nắng, nhưng vẫn thoảng những làn gió Thu dịu mát. Các tuyên úy đă chia nhau hướng dẫn những chuyến xe bus đưa gia đ́nh các nạn nhân đến khu hành lễ. Họ đă được xếp ưu tiên vào những hàng ghế ngay sát cạnh lễ đài, và các tuyên úy cũng ngồi với họ. Phía sau, c̣n những hàng ghế thẳng tắp chạy dài đến cuối tầm mắt, đủ chỗ cho gần hai mươi ngàn dân quân đang làm việc ở NGĐ và khách đến dự lễ.
Đúng 11 giờ sáng, tổng thống George W. Bush đến và buổi lễ bắt đầu bằng lời cầu nguyện của thiếu tướng Lorraine Potter, giám đốc nha tuyên úy Không Quân. Sau đó, thiếu tướng Gaylord Gunhus, giám đốc nha tuyên úy Lục Quân đă giới thiệu trung tướng John A. Van Alstyne, thay mặt gia đ́nh các nạn nhân để phát biểu ḷng chân thành ghi ơn của họ đối với tổng thống và nhân dân cả nước. Đại tướng Richard B. Myers, tổng tham mưu trưởng liên quân (Chairman of the Joint Chiefs of Staff) đă phát biểu sau lời đọc sách thánh (Cựu Ước) của đại tá Bruce Khan, một tuyên úy thuộc Do Thái giáo của Hải Quân.
Tiếng kèn truy điệu đă trổi lên, trong khi tên của 189 nạn nhân lần lượt được chiếu trên những màn ảnh lớn quanh khu lễ đài. Tôi nh́n vào tên của trung tá Dennis Johnson và tên của kỹ sư Nguyễn Ngọc Khang mà cảm thấy như đó là tên của những người thân trong gia đ́nh. Cùng với hàng trăm triệu người đang theo dơi cuộc lễ ở Mỹ, cũng như trên khắp thế giới, gần 20 ngàn tâm hồn trên sân cỏ cạnh NGĐ đă thâm hiểu ư nghĩa và cái giá phải trả cho Tự Do. Những hàng chữ vô tư trên màn ảnh đó đă có thể là tên của bất cứ quân nhân hay của bất cứ người dân nào trên đất Mỹ. Cả nước như vừa choàng tỉnh sau cơn ác mộng, nhưng đây không phải là mộng mị mà sự thật trăm phần. Kẻ thù đă lẻn vào đến tận sân nhà để mưu ám hại họ và từ nay họ sẽ phải đương đầu với một cuộc chiến mới, trong đó nhiều tự do cá nhân sẽ chắc chắn phần nào bị giới hạn.
Gần hai triệu người Việt đang sinh sống trên đất nước này không thể c̣n đứng ngoài như những kẻ bàng quan; đă có những lời nói, những bài viết cách tắc trách về nước Mỹ như các tác giả vẫn c̣n oán hận vu vơ từ một nguyên do nào đó… Cuộc sống của người Việt ở Mỹ, dù muốn hay không, đang dính liền với vận mệnh của quốc gia này, đó là một thực tại không thể chối căi, một sự thật hiển nhiên như lời của chị Khang, nói về cháu bé Nguyễn Ngọc An, đứa con duy nhất của anh chị: “Chúng tôi vẫn nghĩ rằng con của chúng tôi được may mắn hơn nhiều đứa trẻ khác trên thế giới, v́ cháu được sinh ra ở Mỹ với thật nhiều cơ hội để xây dựng tương lai; nhưng nay, mới có bốn tuổi… cháu đă mồ côi cha!” Cha của cháu đă thiệt mạng v́ cuộc tấn công của kẻ thù và cha của cháu đă được cả nước Mỹ vinh danh là “Anh Hùng, Vị Quốc Vong Thân.”
Bộ Trưởng Quốc Pḥng, ông Donald H. Rumsfeld đă phát biểu, rồi đến lời đọc sách Thánh (Tân Ước) của đề đốc (hai sao) Barry Black, giám đốc nha tuyên úy Hải Quân, sau đó là lời phát biểu của tổng thống George W. Bush với toàn dân. Tất cả đều là những lời đanh thép, nhất định phải t́m bắt, đưa những tên khủng bố và đồng bọn ra trước công lư. Điều đó, nước Mỹ đă và đang nhanh chóng được thực hiện, họ đă bắt đầu ném bom các cứ điểm của quân Taliban ở nước Afghanistan (A Phú Hăn) từ hôm 7 tháng 10, nơi có tên trùm khủng bố Osama bin Laden và đồng bọn đang lẩn trốn. Đây chỉ là khởi đầu của một cuộc chiến mới, một cuộc chiến chắc chắn kéo dài và rất có thể sẽ không có ngày kết thúc.
(Ngày 2 tháng 5, 2011, Osama bin Laden đă bị Navy Seals và những biệt kích khác của Mỹ hạ sát ở thành phố Abbottabad thuộc nước Pakistan - Hồi Quốc.)
Nh́n ra phong cảnh chung quanh khu lễ đài, tôi thầm nghĩ: “Đất nước này và thế giới này, thật sự đă đổi thay!” Cây sồi (oak) lớn, mọc thật gần bờ tường của NGĐ đă thay quá nửa lá vàng, thời gian cứ vận hành, nhưng con người của thế kỷ mới, của thiên kỷ mới đang đi vào một khúc quanh lịch sử, với muôn vàn nguy hiểm không tên.
Trước khi ra đến chỗ đậu xe bus, một người đă th́nh ĺnh ôm chầm lấy tôi, quay lại và nhận ra ngay người bạn cố tri, cùng học với tôi ở nhà ḍng Maryknoll, New York, năm xưa, thuở đầu đời tị nạn: Linh mục Giuse Vũ Đức Minh, cựu chủng sinh của địa phận Sàig̣n, thiếu tá tuyên úy Không Quân (trong hình). Sau thời gian phục vụ ở Trung Đông (Saudi Arabia), hiện ông đang làm việc ở căn cứ Không Quân Andrew, bên ngoài Washington DC. Căn cứ này có đơn vị lo chuyên chở tổng thống Mỹ bằng chiếc “chuyên cơ” Boeing 747, trang bị đặc biệt nhất thế giới, được mang tên “Air Force One.” Đă mấy năm không gặp, nay lại trong hoàn cảnh này, hai người siết tay nhau thật chặt, nh́n nhau tận mắt trong như cùng thầm nói rằng: “Chúng ḿnh sẽ c̣n phục vụ trong quân đội thêm ít lâu nữa…”
[CENTER][IMG]http://i66.tinypic.com/fml0np.jpg[/IMG][/CENTER]
Quả nhiên, chỉ vài tháng sau sự kiện Ngũ Giác Đài, cả hai chúng tôi đă cùng được thăng cấp Trung Tá, và mùa Thu năm 2005, hai người lại gặp nhau lần nữa, khi đang phục vụ giữa chiến tranh ở một quốc gia nghìn trùng xa cách, hoàn toàn xa lạ, mang tên… Iraq!
-
[B] ĐẢO GUAM, 27 NĂM SAU – 1[/B]
Viên phi công loan báo cho hành khách chuẩn bị để hạ cánh, đồng thời cho biết những ai ngồi ở ghế cạnh cửa sổ bên cánh phải, phía tôi đang ngồi, đă có thể nh́n thấy căn cứ Không Quân Anderson ở phía Bắc của đảo Guam. Quả nhiên, trên phi đạo, một chiếc phi cơ vận tải quân sự loại mới C-17 vừa hạ cánh và đang từ từ tiến về băi đậu. Cách đây đúng 27 năm, tôi đă từng đặt chân lên phi trường này, cảm giác nôn nao không thể ngăn chặn với muôn vàn kỷ niệm và những ư nghĩ ngổn ngang như cùng bừng dậy trong thâm tâm tôi.
Đúng đêm 30 tháng Tư, 1975, tôi cùng trên 200 đồng bào di tản đă được chuyển từ (đảo) Grande Island thuộc căn cứ Hải Quân Mỹ Subic Bay ở Phi Luật Tân đến căn cứ Không Quân Clark để đi đảo Guam. Nhưng khi qua đến phi trường, mọi người lại được thông báo rằng trại tị nạn ở Guam đă đầy, chúng tôi sẽ phải đi đảo Wake, xa hơn Guam khoảng ba tiếng đường bay.
Bay qua khỏi đảo Guam độ một giờ đồng hồ, th́nh ĺnh viên phi công loan báo rằng phi cơ đang gặp trục trặc kỹ thuật, phải quay lại Guam, mọi người đều lộ nét lo âu, nhưng rồi máy bay cũng an toàn đáp xuống phi đạo của phi trường quân sự Anderson. Đoàn người được đưa vào một nhà chứa máy bay (hangar) rất lớn để ngồi chờ, trong khi các chuyên viên lo sửa chữa chiếc vận tải C-141 của Không Quân Hoa Kỳ. Hôm ấy là sáng mùng 1 tháng Năm. Hơn hai tiếng đồng hồ sau, máy bay được sửa xong, mọi người lại tiếp tục chuyến bay đến đảo Wake. Chỉ vài tiếng dừng chân ngắn ngủi nhưng cũng đủ gây ấn tượng sâu đậm trong ḷng, khiến tôi đă tâm niệm rằng phải trở lại hải đảo này khi có cơ hội. Cơ hội đó đă không đến với tôi, cho mãi đến 27 năm sau.
Trung Tá Tuyên Úy Trưởng, David Girardin, của Bộ Tư Lệnh lực lượng Hải Quân trong vùng quần đảo Marianas (U.S. Naval Forces Marianas), đặt bản doanh trong căn cứ Hải Quân ở bán đảo Orote Point, và trung sĩ nhất trưởng ban phụ tá pḥng tuyên úy, Mannix Babanto, đă thân mật ra tận phi trường đón tôi. Một ư nghĩ ngộ nghĩnh chợt nảy sinh: “Tên anh chàng này cũng dễ nhớ đây, Bà-Bán-Tô.” Họ đă giúp tôi nhận xe thuê và hướng dẫn tôi đi một ṿng quanh căn cứ trước khi về nơi tạm trú. Tôi hơi ngạc nhiên v́ họ không để tôi nghỉ ở lưu xá dành cho các sĩ quan độc thân (Bachelor Officers’ Quarters) như thường lệ, nhưng là một khu ở ngoài căn cứ, tận trên đỉnh núi, pḥng của tôi đầy đủ tiện nghi như một “suite” của các khách sạn sang trọng.
Sáng hôm sau, ở văn pḥng các tuyên úy, tôi đem việc này nói với vị tuyên úy Công Giáo, Thiếu Tá Kent McCord, ông nói ngay: “Úi chào, Nimitz Hill, họ đă đưa cha về lưu xá của các sĩ quan cao cấp đấy.” Tôi thầm nghĩ: “Thảo nào.” Tuyên úy trưởng Girardin đã dành riêng cho một văn pḥng với đầy đủ điện thoại và máy điện toán, rất tiện lợi cho việc đọc và viết điện thư hàng ngày (ở thời điểm 2002). Được biết trước về chuyến công tác của tôi, một nhân viên dân sự, đă và đang làm thư kư cho văn pḥng tuyên úy suốt 26 năm qua, bà Bennie Limtiaco, trao ngay cho tôi hai tập albums đầy những h́nh ảnh của dân tị nạn ở Orote Point từ cuối tháng Tư năm 1975. Tôi không có giờ xem ngay, nhưng biết chắc các h́nh ảnh này sẽ gợi lại trong tôi bao nhiêu tủi hận của những ngày bất chợt phải ly hương từ mấy mươi năm cũ.
Cũng như Puerto Rico và Phi Luật Tân, đảo Guam, nguyên là thuộc địa của Tây Ban Nha, đă nhượng lại cho Hoa Kỳ từ năm 1898. Cái tên “đảo Guam” đă bắt đầu đi vào tâm tư của người dân Việt từ khoảng những năm 1965-66; lúc ấy, cuộc chiến Quốc-Cộng đang đến hồi khốc liệt và bộ Quốc Phòng Mỹ đă bắt đầu sử dụng các siêu pháo đài bay (Stratofortress) B-52, cất cánh từ đảo Guam, để dội bom “trải thảm” (carpet bombing) trên chiến trường Việt Nam. Mỗi chiếc phi cơ này có thể chở được đến 70 ngàn cân (Lbs.) bom, tính trung b́nh mỗi qủa bom nặng 250 cân (khoảng 120 kư lô), vị chi là 280 quả. Mỗi phi vụ thường có ba chiếc B-52, họ bay thành hàng ngang và dội bom cùng một lúc. 840 qủa bom thi nhau nổ, tạo cơn địa chấn trên một dải đất chiều ngang chừng 500 thước và dài khoảng một cây số rưỡi. Thường th́ rất ít sinh vật có thể sống sót trong tầm “tấm thảm” đó, nếu không chết v́ mảnh bom, cũng chết v́ bị nội thương do sức ép khủng khiếp trong không khí.
[CENTER]
[IMG]http://i66.tinypic.com/w2jeps.jpg[/IMG][/CENTER]
Khoảng tháng 7, năm 1967, cả hai chính phủ Mỹ và VNCH cùng loan tin rằng đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tư lệnh các lực lực quân sự của phía Cộng Sản ở miền Nam, đă thiệt mạng trong một cuộc oanh tạc của B-52. Tuy nhiên, chính phủ của CSBV (Cộng Sản Bắc Việt, VNCH đã gọi họ như vậy) lại loan báo rằng tướng Thanh đă chết v́ một cơn đau tim ở Hà Nội! Khi đó ông ta mới được 53 tuổi! Sự thật về sự kiện này, sớm muộn rồi cũng sẽ được phơi bày. (Con trai út của tướng Thanh là thượng tướng (ba sao) Nguyễn Chí Vịnh, hiện đang giữ chức thứ trưởng bộ Quốc Pḥng của Việt Nam).
(Còn tiếp)
-
[B]ĐẢO GUAM, 27 NĂM SAU[/B]
Chỉ vài ngày sau khi tấn công căn cứ hải quân Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) và các cơ sở quân sự khác, thuộc tiểu bang Hawaii, khai chiến với Mỹ trong Đệ Nhị Thế Chiến, quân Nhật đă chiếm hải đảo Guam, hôm 10 tháng 12, 1941. Tuy nhiên, đến tháng 10 năm 1944 Guam đă được quân Mỹ phản công tái chiếm. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, chiếc siêu pháo đài bay B-29, mang tên riêng “Enola Gay” đă cất cánh từ đảo Tinian thuộc quần đảo Marianas, để thả qủa bom nguyên tử đầu tiên (hình 3) xuống thành phố Hiroshima của Nhật, tạo những hệ lụy c̣n vương vấn măi đến ngày nay.
Giữa tháng 7 năm ấy, chiếc tuần dương hạm USS Indianapolis, CA-35 (hình 1), do đại tá Charles B. McVay, III làm hạm trưởng đă được lệnh tối mật, chở chất uranium và các thành phần khác của quả bom nguyên tử đầu tiên đó đến đảo Tinian. Kế đến, tàu được lệnh ghé qua Guam, trước khi trực chỉ vịnh Leyte thuộc Phi Luật Tân, nhưng không may, trên chặng chót của chuyến công tác định mệnh này, chiếc Indianapolis đă bị một tàu ngầm của Nhật phóng thủy lôi đánh ch́m vào đêm 30 tháng 7. V́ đó là một công tác tối mật, ít người biết, nên măi đến năm ngày sau Hải Quân Mỹ mới được tin chẳng lành của chiếc Indianapolis. Khoảng 900 trên tổng số 1196 thủy thủ, kể cả thuyền trưởng McVay, đă sống sót khi tàu ch́m, nhưng sau năm ngày, hai phần ba những người lính thủy đó đă chết v́ các vết thương, đói khát, và nhất là làm mồi cho cá mập, chỉ c̣n 316 người được cứu.
[CENTER][IMG]http://i64.tinypic.com/2nktfdd.jpg[/IMG][/CENTER]
Vị thuyền trưởng của tuần dương hạm Indianapolis, đại tá Mcvay, đă bị bộ Hải Quân Mỹ đưa ra ṭa án quân sự, mặc dù có sự phản đối của Thủy Sư Đô Đốc (Fleet Admiral – 5 sao) Chester W. Nimitz, tư lệnh các lực lượng quân sự của Mỹ ở Thái B́nh Dương, lúc bấy giờ. (Kể từ sau đệ nhị thế chiến đến nay, chính phủ và quốc hội Mỹ đă không c̣n phong hàm 5 sao cho các đại tướng và đô đốc nữa.) Đại tá McVay bị kết án là bất tuân lệnh chiến thuật: Phải cho tàu chạy ngoằn ngoèo (zigzag) trong vùng có nhiều tàu ngầm của địch. Nhưng ngay cả khi điều này đă được thực hiện, tàu vẫn bị đánh đắm, theo như lời khai của chính vị thuyền trưởng chiếc tàu ngầm Nhật (I-58, tương tự như chiếc I-10 trong hình số 2) đă đánh ch́m chiếc Indianapolis, trung tá Mochitsura Hashimoto.
[CENTER][IMG]http://i64.tinypic.com/jsixi0.jpg[/IMG][/CENTER]
Sau đó, ông Mcvay đă được ân xá, hoàn lại cấp bậc cũ, ít lâu nữa lại được thăng cấp Phó Đề Đốc (một sao), rồi về hưu vào năm 1949. Nhưng có lẽ v́ bị ám ảnh triền miên trước cái chết đau thương của bao nhiêu chiến hữu (điều mà hiện nay các tâm lý gia gọi là PTSD – Post-traumatic Stress Disorder – Bị mất thăng bằng bởi dồn ép sau cơn kinh hoàng), nên cuối cùng phó đề đốc Mcvay đă tự sát vào năm 1968. Cho đến nhiều năm sau, các chiến hữu và người thân của ông vẫn đang cố gắng vận động để ông chính thức được trắng án trước ṭa quân sự. Mãi đến ngày 30 tháng 10 năm 2000, Phó Đề Đốc McVay mới được Quốc Hội Hoa Kỳ và Tổng Thống Bill Clinton tuyên bố trắng án.
[CENTER][IMG]http://i68.tinypic.com/23m3dcg.jpg[/IMG][/CENTER]
Trong khi đó, về phần thuyền trưởng Hashimoto của chiếc tàu ngầm Nhật I-58, lúc đầu đă không biết rằng chính ông đă đánh ch́m chiến hạm Mỹ chở qủa bom nguyên tử (uranium-235) tàn sát thành phố Hiroshima của quê hương ông. Rồi Hashimoto lại được hung tin cho biết, cùng với 70 ngàn người dân Nhật khác, nhiều người trong gia đ́nh của ông đã bị thiêu hủy hoàn toàn chỉ trong vài giây đồng hồ vì quả bom oan nghiệt đó! Về cuối đời, ông đã trở thành một nhà sư thần đạo (Shinto) và tạ thế năm 2000, hưởng thọ 91 tuổi.
(Còn tiếp)
-
[B]ĐẢO GUAM, 27 NĂM SAU – 3[/B]
Trung tá tuyên úy trưởng Girardin đă gặp riêng tôi để nhắc rằng Guam là đơn vị mà tôi sẽ phải tŕnh diện khi có lệnh tổng động viên. “Như cha đã biết, cha sẽ phải giữ trách nhiệm chức tuyên úy trưởng của bộ tư lệnh này, v́ vậy trong những ngày sắp tới, cha sẽ cùng làm việc với tôi như một tuyên úy trưởng thứ hai vậy. Chiều nay, chúng ḿnh sang tŕnh diện đề đốc tư lệnh, nhá.”
Sáng hôm sau, tôi lại cùng tuyên úy Girardin đi dự buổi họp thường lệ với đề đốc tư lệnh (2 sao) và ban tham mưu của ông. Bước vào pḥng họp khá rộng, tôi đă ngạc nhiên đến sững sờ trước bức h́nh lớn như một màn ảnh chiếu phim, trong đó có trung tướng Nguyễn Văn Thiệu (3 sao), thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ (2 sao), đại sứ Bùi Diễm và phái đoàn của Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia Việt Nam, cả thảy chín người; đang ngồi họp với tổng thống Lyndon B. Johnson và phái đoàn cũng chín người của ông, trong đó có đại tướng Westmoreland và các ông McNamara, Cabot Lodge, Dean Rusk, Bunker... Tuyên úy Girardin nói với tôi: “Cha nh́n kỹ cái bàn trong h́nh với cái bàn này (trong pḥng họp) xem có giống nhau không?” Th́ ra đó chính là cái bàn h́nh bầu dục mà hai phái đoàn Việt-Mỹ đă họp trong những ngày 20-21 tháng 3, 1967 ở Guam. Sau cuộc họp “thượng đỉnh” này, miền Nam Việt Nam có tuyển cử và hai ông Thiệu-Kỳ đă trở thành tổng thống và phó tổng thống của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa.
[CENTER][IMG]http://i67.tinypic.com/nfsar4.jpg[/IMG][/CENTER]
Tôi ngồi vào bàn họp với tâm trạng thật ngổn ngang, họ c̣n quyết định thêm những ǵ nữa? Chắc chắn những quyết định đó đă ảnh hưởng đến số mệnh của biết bao sinh linh Việt tộc (và cả một số người Mỹ nữa). Tôi đặt tay xoa nhẹ trên mặt bàn mà ḷng trĩu nặng những ưu tư…
Thăm viếng các pḥng tuyên úy của những đơn vị trực thuộc bộ tư lệnh là việc tôi đã làm kế tiếp. Tiểu đoàn Công Binh (Construction Battalion hay Sea Bees) CB-40 vừa mới từ California ra đáo nhậm công tác trong ṿng 6 tháng. Tuyên úy đại úy Haagen đă đưa tôi đi thăm các thành phần của tiểu đoàn, một số trung đội đă được trải ra khắp địa bàn hoạt động ở miền Tây Thái B́nh Dương, kể cả việc hỗ trợ cho cuộc tập trận thường niên giữa quân Mỹ và quân của các nước đồng minh trong vùng Đông Nam Á, mang tên Hổ Mang Vàng (Cobra Gold) đang diễn ra ở Thái Lan. Cách ban chỉ huy khá xa, một toán công binh đang đổ bê tông làm mái nhà cho vài căn lều nghỉ mát trên băi biển. Ở Guam, tất cả các cơ sở phải được xây cất vững chắc để có thể chịu đựng được những cơn băo “Tứ Phương” (Typhoons ) rất lớn mà sức gió có khi lên đến 250 cây số một giờ (category 5.)
Th́nh ĺnh tuyên úy Haagen nói nhỏ vào tai tôi: “Sir có thấy cô bé đang đổ hồ trên mái nhà đó không? Cũng là một Miss Nguyễn đấy!” Thật ngạc nhiên, v́ trong ngành rất vất vả này mà cũng có một thiếu nữ gốc Việt tham gia, tôi đă cho gọi cô ta xuống để hỏi thăm vài câu. Được biết cô T. Nguyễn đă lớn lên ở Houston, Texas, năm nay 21 tuổi, nhưng trông nhỏ bé như cô gái 16, mới gia nhập Hải Quân hơn một năm. Qua quân trường căn bản ở Great Lakes, Illinois, rồi trường huấn luyện chuyên môn, th́ cô được gửi về tiểu đoàn CB-40, vừa tŕnh diện không bao lâu đă đến lượt tiểu đoàn phải ra công tác 6 tháng ở Guam. Hỏi tại sao cô lại gia nhập cái ngành cực khổ này, cô chỉ cúi đầu chúm chím cười. Hỏi cô có dự tính ǵ trong thời gian công tác ngoài này không? Cô đáp rằng ở đây gần Việt Nam quá, chỉ hơn 4 giờ bay nữa, cô muốn được một lần về thăm quê cha, đất mẹ. Tôi đă chúc cô sớm được toại nguyện.
Guam là hậu cứ lớn của toàn lực lượng Hải Quân Mỹ ở Tây Thái B́nh Dương, nên các chiến hạm thường xuyên thay nhau vào bến ở đây. Tôi đă lần lượt xuống thăm tuần dương hạm (Cruiser) USS Lake Champlain (CG-57), “Tender Ship” USS Frank Cable (AS-40) là loại “tàu mẹ” của các tiềm thủy đĩnh, chở tất cả những thứ cần thiết cho tàu ngầm, ngay cả việc sửa chữa cấp tốc, nếu cần. Tiểu hạm đội (Battle Group) của hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk (CV-63) có hậu cứ ở Yokosuka, Nhật, cũng ghé bến trong những ngày này. Cả hải đảo như bừng lên v́ trên 8,000 thủy thủ của các tàu chiến đă chia nhau “xuống phố.” Các nhà thương mại địa phương đă ước tính, trung b́nh mỗi thủy thủ sẽ tiêu khoảng 1,000 đô cho năm ngày ghé bến. Chỉ năm ngày, hải đảo đă thu vào 8 triệu đô-la, ai mà không “thương” lính thủy?
(Còn tiếp)