“Trai Petrus Kư, gái Gia Long”
Ăn mãi một món , thì còn gì ngon . Dù cho nó là sơn hào hải vị ! Dân mình thật dễ dạy , khéo nuôi . Cả gần thế kỷ qua được " tọng " toàn Mác - Lê rồi tư tưởng Mao - Hồ chủ tịch .... so ra có thua gì dân Bắc Triều tiên !
Để quên đi những u buồn , từng ngày , từng giờ quấn chặt lương tri . Chúng ta thả hồn vào dĩ vãng ... tìm về tuổi dại ... năm nào !!!
[size=8][color=green][b]Ơ EM BẮT HỒN TÔI VỀ ĐÂU [/b][/color][/size]
Thoạt đầu, tôi định đặt tựa bài này là “Thiên đàng mơ mộng”, v́ thấy thật đúng tâm trạng của những thằng học sinh Petrus Kư chúng tôi thời đó. Thời chúng tôi có rất nhiều thiên đàng mơ mộng: “Em tan trường về ... áo dài tà áo vờn bay” (1).
1. “Thiên đàng” của những thằng tóc hớt ngắn, quần xanh áo trắng là nơi các nữ thiên thần áo dài trắng túa ra như lũ chim bồ câu sau giờ tan học của Trường Gia Long. Thằng học sinh Petrus Kư nào chẳng mơ được “mần quen” cùng một em áo dài.
Phía bên hông cổng Trường Gia Long, trước cổng chùa Xá Lợi, “cạnh tranh” với những chiếc xe bán ḅ bía, gỏi đu đủ là những chàng áo trắng Petrus Kư đang gửi hồn qua cánh cổng thâm nghiêm có từ năm 1915 với cái tên thơ mộng “Trường nữ sinh Áo Tím”.
Nghe kể lại, trường được thành lập do đề nghị của nghị viên Hội đồng quản hạt Nam kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của tổng đốc Phương và một số trí thức người Việt. Khóa đầu tiên (1915) trường tuyển 45 nữ sinh với đồng phục là áo dài tím. Những đời hiệu trưởng đầu toàn là người Pháp.
Năm 1949, nữ sinh Trường Áo Tím cùng nam sinh Trường Petrus Kư tổ chức băi khóa kỷ niệm ngày Nam kỳ khởi nghĩa nên chính quyền đă đóng cửa trường. Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh, biểu t́nh nhiều ngày với sự ủng hộ của phong trào học sinh lúc ấy, trường được mở cửa lại.
Đánh dấu sự kiện quan trọng này, sau bảy đời hiệu trưởng trường là người Pháp, lần đầu tiên trường có nữ hiệu trưởng là người Việt: bà Nguyễn Thị Châu. [b]Năm 1953, Trường Áo Tím đổi tên thành Trường nữ trung học Gia Long. Áo dài tím được thay bằng áo dài trắng với phù hiệu là bông mai vàng. Chương tŕnh giáo dục bằng tiếng Pháp được chuyển sang quốc ngữ.[/b]
Biết đâu chính “mối t́nh” gắn kết tranh đấu của Áo Tím và sau đó Gia Long trong những năm về sau đă gắn kết “trai Petrus Kư, gái Gia Long” trong những mối t́nh thật và ảo của lứa tuổi học tṛ. Hăy mơ đi những chàng trai Petrus về “thiên đường” tuổi dại của ḿnh!
2. Khoảng giữa thập niên 1970, bài hát Con đường t́nh ta đi của nhạc sĩ Phạm Duy làm xao động những trái tim mới lớn , những lời ca mộng mị: “...Lá đổ để đưa đường/Hỡi người t́nh Trưng Vương”.
Tôi không biết đó là lời cảm thán của chàng trai nào. Nhưng có lẽ thích hợp hơn xin hăy cho chàng trai ấy là người của Trường Chu Văn An. Như một mặc định, “trai Petrus Kư, gái Gia Long” th́ nữ sinh Trường Trưng Vương lại là “của riêng” của những học sinh Chu Văn An mặc dầu hai trường cách trở về mặt địa lư một quăng đường khá dài.
Trường chàng th́ ở tận nhà thờ ngă sáu, đường Minh Mạng, c̣n “thiên đường” của nàng th́ ở đối diện Sở thú - Thảo cầm viên, số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tội nghiệp cho nam sinh Trường Vơ Trường Toản cùng ăn chung xe gỏi ḅ với các nàng nhưng chỉ đứng xa ngắm những chàng trường Chu đón nàng mà hát câu cảm thán: “Trưng Vương hôm nay mưa vẫn giăng đầy trời/ Bóng người th́ mịt mùng/ Từng hàng me rung rung” (2).
Có lẽ “nhân duyên tiền định” của hai trường này đều xuất phát từ “người phương Bắc”. Học sinh Chu Văn An đa số là người miền Bắc và Trường Trưng Vương cũng vậy. Điều này cũng dễ hiểu v́ Trường Trưng Vương là ngôi trường có gốc gác từ Hà Nội.
Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925, trên con đường Đồng Khánh, phía nam hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (College de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc. V́ nằm ở đường Đồng Khánh nên c̣n được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là Trường Trưng Vương. [b]Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài G̣n và thành lập lại Trường Trưng Vương.[/b]
Năm học đầu tiên phải học nhờ cơ sở của Trường nữ trung học Gia Long. Măi cho đến năm 1957, Trường Trưng Vương dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm (nguyên trước đó là Quân y viện Coste của quân đội Pháp).
Bởi vậy ta không lấy làm lạ khi đây là một trong những ngôi trường mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp và được b́nh chọn là ngôi trường có kiến trúc đẹp nhất Sài G̣n. Nhờ là học sinh Trưng Vương nên mỗi lần làm lễ kỷ niệm Hai Bà, nữ sinh Trưng Vương được ưu tiên tuyển chọn làm Trưng Trắc, Trưng Nhị cưỡi voi trong lễ diễn hành.
Có lần đi xem diễn hành trên đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), khi hai nàng học tṛ Trưng Vương ngồi trên voi “phất ngọn cờ vàng” đi ngang, tôi thấy thằng bạn có vẻ phấn khích. Tôi hỏi: “Mầy thích “ghệ” áo vàng hả?”. Nó trả lời buồn xo: “Không, tao thích con voi. Bây giờ tao ước ǵ ḿnh được làm con voi”.
Rồi nó cảm thán nhại theo thơ của Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm người/ làm voi nàng cưỡi, cái ṿi đung đưa”. Sau này tôi mới biết cô gái đóng vai Trưng Trắc - áo vàng đó đă cho chàng leo cây, “Trưng Vương vắng xa anh dần. Mùa thu đă qua một lần. C̣n đây bâng khuâng”. Ôi, tội nghiệp một thời mê gái!
Ơi em, bắt hồn tôi về đâu ...
3. “Áo dài trắng em mang mà anh nhớ ...” đâu chỉ ở Sài G̣n. Ở một vùng trời tỉnh Gia Định, những tà áo của nữ sinh Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt vờn bay thật nhẹ nhàng, thanh khiết.
Tôi khoái chữ “vờn bay” của nhà thơ Phạm Thiên Thư hơn chữ “tung bay” của nhạc sĩ Từ Huy khi nói về chiếc áo dài của nữ sinh trung học. Chữ “tung” có vẻ ǵ đó mạnh bạo quá khi nói về chiếc áo dài vốn dĩ đằm thắm.
Thật thiệt tḥi khi ngôi trường này không được nhắc đến trong âm nhạc hoặc thơ ca, có lẽ những chàng thi sĩ, nhạc sĩ chỉ thích tụ tập ở Sài G̣n mà bỏ quên một ngôi trường nữ làm đẹp và trắng khung trời Gia Định.
Từ Sài G̣n, xuôi theo đường ĐinhTiên Hoàng, quẹo tay mặt, qua cầu Bông một đoạn, nh́n sang trái là một ngôi trường kiến trúc kiểu hiện đại hơn trường Gia Long và Trưng Vương. Chuyện cũng dễ hiểu v́ năm 1960, ṭa tỉnh trưởng Gia Định đă dùng một khu đất trước kia là ao rau muống để xây dựng trường trên đường Lê Văn Duyệt , gần Lăng Ông thuộc xă B́nh Ḥa (tỉnh Gia Định).
Trước kia trường mang tên Trương Tấn Bửu, thành lập năm 1957, có hai lớp đệ thất một nam và một nữ, học nhờ tại trường nam tỉnh lỵ (nay là Trường THCS Lê Văn Tám).
Năm 1959, lớp nam sinh chuyển về Trường Hồ Ngọc Cẩn (nay là Trường Nguyễn Đ́nh Chiểu). Khi xây dựng xong, trường được đặt tên là Trường nữ trung học Lê Văn Duyệt và chương tŕnh học bắt đầu từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhị. Học sinh nào đậu tú tài I sẽ chuyển sang học Trường Trưng Vương. Khoảng năm 1965-1966 trường mới có lớp đệ nhất. So với hai trường nữ đàn chị th́ nữ sinh Lê Văn Duyệt nào có kém cạnh chi, cũng làm những chàng trai thốt lên: “Ơ em, bắt hồn tôi về đâu?” ...
Có những chàng trai lăng mạn th́ cũng có những chàng trai rất thực tế. Hiệp mập, thằng bạn của tôi, phát biểu: “Tao không lấy vợ là “ghệ” Gia Long, yểu điệu thục nữ quá cỡ, tao chỉ muốn vợ tao là nữ sinh Trường Sương Nguyệt Ánh”. Tôi sửng sốt v́ Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Ánh mới vừa thành lập năm 1971.
Sau Mậu Thân 1968, một góc đường Minh Mạng, Sư Vạn Hạnh gần chùa Ấn Quang bị cháy rụi. Vài năm sau đó, chung cư Minh Mạng ra đời, phía bắc của chung cư, ngay góc đường Ḥa Hảo, Minh Mạng (nay là đường Nguyễn Chí Thanh) . Trường nữ trung học tổng hợp Sương Nguyệt Anh cũng được xây dựng.
[b]Không phải thằng Hiệp mập không có lư của nó, v́ nữ sinh trường này được học một chương tŕnh giáo dục hoàn toàn mới. Đây là ngôi trường nữ đầu tiên tại VN với lối giáo dục theo phương pháp tổng hợp theo mô h́nh của các nước tiên tiến thời ấy.[/b]
Song song với việc giảng dạy như các trường công lập khác, trường c̣n dạy thêm kinh tế gia đ́nh (tức nữ công gia chánh, may vá nấu ăn), môn doanh thương (tức kế toán đánh máy), âm nhạc (đàn tranh, piano), hội họa, nghệ thuật cắm hoa, và cả môn vơ aikido, vovinam.
[b]Ngay từ năm lớp 6, nữ sinh Trường Sương Nguyệt Ánh đă được học cả hai sinh ngữ Anh và Pháp khi mà học sinh công lập các trường khác chỉ được học một sinh ngữ. Trường được trang bị một pḥng thính thị máy móc rất tối tân để luyện giọng chính xác với giáo sư ngoại quốc, một pḥng thí nghiệm đầy đủ dụng cụ.[/b]
Với lối giáo dục mới mẻ này, sau bảy năm trung học, nữ sinh trường có cơ hội thành một thiếu nữ VN văn vơ song toàn. C̣n theo thằng bạn tôi, giúp ích xă hội được hay không th́ chưa biết, nhưng chắc chắn là một bà xă biết dạy chồng bằng vơ vovinam và tài nội trợ.
Sài G̣n, cùng với những trường nữ trung học công lập Gia Long, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt, Sương Nguyệt Ánh cũng c̣n trắng trời áo dài với những trường nữ trung học tư khác như Thánh Linh, Hồng Đức ... đă nhốt hồn những chàng trai mặt bắt đầu nổi mụn trứng cá và vỡ giọng với những thổn thức “áo ai trắng quá nh́n không ra”...
[b]Những cô nữ sinh với những ngôi trường ấy đă là một phần hồn của chúng tôi, một phần hồn của Sài G̣n đă đào tạo những nữ lưu anh kiệt về các mặt chính trị, văn hóa, khoa học, và tiếp tục những nữ lưu anh kiệt lại là những anh kiệt nữ lưu khác.
Cảm ơn Sài G̣n đă có những ngôi trường ấy cho tôi nhớ. Cảm ơn Sài G̣n có những ngôi trường thiên đàng tuổi nhỏ dành riêng cho chàng trai mơ về những mái tóc, những chiếc áo dài trắng vờn bay ... vờn bay![/b]
(1): Ngày xưa Hoàng Thị - thơ Phạm Thiên Thư, nhạc Phạm Duy. Ngày ấy, trên toàn miền Nam, đồng phục cho nữ học sinh là áo dài trắng, quần trắng (hoặc đen), nam học sinh là quần xanh, áo trắng và đeo phù hiệu mang tên trường trên áo. Không có đồng phục cho riêng từng trường như bây giờ. Lúc ấy chỉ có Trường trung học công lập Mạc Đĩnh Chi nam sinh và nữ sinh học chung.
(2): Trưng Vương khung cửa mùa thu - nhạc và lời Nam Lộc.
(*): Trường Gia Long nay là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai. Trường Petrus Trương Vĩnh Kư nay là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong. Trường Lê Văn Duyệt nay là Trường THPT Vơ Thị Sáu. Trường Sương Nguyệt Ánh nay là Trường THPT Sương Nguyệt Anh.
tác giả Lê Văn Nghĩa đăng trên TuoiTre CuoiTuan ngày 22/05/2015
Quyển Nhật Kư Của Tắc-Kè _ Topa
Tắc-Kè tên thật là Phạm Công Tắc, con của Đại úy cảnh sát Phạm Công Kiếm dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm; chứ không phải là Ngài Phạm Công Tắc, một trong những vị lănh đạo quan trọng nhất trong việc h́nh thành, xây dựng, phát triển và kiện toàn hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài.
Tắc-Kè sinh năm 1952. Năm 1961 ba của Tắc-Kè bị Việt Cộng ban đêm đến nhà lôi ông ra sau , bắn vào đầu. Chỉ c̣n hai mẹ con, nhưng mẹ Tắc-Kè quyết định đưa Tắc-Kè vào một nhà ḍng do các vị Linh mục ngoại quốc đến từ nhiều quốc gia cai quản; phần đông đến từ Ư Quốc. Tắc-Kè được hoăn dịch v́ học vấn … Cho đến năm mất miền Nam th́ Tắc-Kè được hai mươi ba tuổi.
Tắc-Kè từ giă cơi đời đúng vào mười giờ ba mươi phút sáng ngày 30 tháng tư năm 2016, thọ sáu mươi bốn tuổi. [b]Tắc-Kè mất đúng vào thời điểm bốn mươi mốt năm trước , ông “Tổng thống cơ hội” (lời của Tắc-Kè) Dương Văn Minh đầu hàng cộng sản.[/b]
Quen thân với nhau ba mươi tám năm, nhưng, chỉ đến khi Tắc-Kè qua đời v́ bạo bệnh tôi mới biết v́ sao anh sống độc thân và v́ sao anh tự nhận ḿnh là Tắc-Kè. Tắc-Kè ít khi nói về ḿnh. V́ vậy, khi đọc xong Quyển Nhật Kư Của Tắc-Kè, tôi mới biết anh là người , [b]suốt hơn bốn mươi năm đă âm thầm chống nhà cầm quyền Việt Nam. Chống bền bỉ bằng đủ mọi cách,[/b] kể cả cách giả làm bạn với ông Đại sứ Việt Cộng đầu tiên của miền đất thấp tên là Đinh Hoàng Thắng, mà, ông này th́ cứ tưởng ḿnh đă thu phục được một tên chống cộng – tuy chỉ là loại cắc ké.
Đối với ông Đại sứ, Tắc-Kè rất xem thường nên anh thường cho ông tiền; khoảng năm ba trăm đô la Mỹ một tuần, để, khi có dịp th́ Tắc-Kè sẽ sử dụng ông. Chuyện sử dụng ông Đại sứ đă xảy ra khi có một người đồng hương gặp tai nạn với nhà cầm quyền Việt Nam, và, chính người đồng hương này đă gọi điện thoại nhờ đến sự giúp đỡ của Tắc-Kè.
Người đồng hương này rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hải ngoại, [b]ông tên là Trịnh Vĩnh B́nh; nổi danh là “vua chả gị”. B́nh đă gom toàn bộ tài sản đem về Việt Nam làm ăn. B́nh tưởng phen này nhà cầm quyền Việt Nam sẽ phải vinh danh, sẽ phải mang ơn … sẽ dựng tượng ḿnh là Việt kiều yêu nước.[/b] Tại Việt Nam B́nh luôn ủng hộ mọi dự án của nhà cầm quyền trung ương lẫn địa phương, nhất là tự ḿnh giúp cho dân nghèo với những số tiền thật lớn … để lấy điểm với nhà cầm quyền hơn là v́ ḷng nhân đạo.
[b]Nhưng, B́nh có ngờ đâu nhà cầm quyền Việt Nam đă không vinh danh ḿnh mà lại “sắc phong” ḿnh là: “B́nh Hà Lan” cho có vẻ là tay chơi, cho có vẻ là tên tôi phạm quốc tế nguy hiểm hầu có cớ để cướp hết tài sản của B́nh. Trịnh Vĩnh B́nh là người có thật tài về kinh doanh.[/b] Về chính trị th́ B́nh không hiểu cộng sản , hay ... hiểu nhưng vẫn cứ lao đầu trở về với cùng mục đích mà bọn Trung Quốc từ bao ngàn năm qua vẫn muốn thôn tính quê hương h́nh chữ S của chúng ta. Để có sự hậu thuẫn mạnh của chính giới Ḥa Lan, B́nh đă khôn khéo gia nhập vào một đảng lớn của Ḥa Lan.
Có thật sự B́nh giàu đến độ mang về Việt Nam chín mươi kư (90) vàng và nhiểu triệu đô la Mỹ không? Hay có một thế lực nào đó yểm trợ tiền cho B́nh với mục đích đen tối của nhóm? Chúng ta nên nhớ: B́nh là người Việt gốc Hoa. Khi B́nh tỵ nạn ở Ḥa Lan B́nh chỉ giao thiệp với người Hoa mà thôi, ngoại trừ những khi buôn bán lẻ tẻ th́ với người Việt Nam …
V́ lời khẩn nài của B́nh, Tắc-Kè nhận giúp đỡ , mà việc trước tiên là dàn xếp cho người em trai của B́nh là Trịnh Vĩnh Phát gặp ông Đại sứ Đinh Hoàng Thắng. Phát đă đưa tận tay cho Đinh Hoàng Thắng năm ngàn (5.000) đô la Mỹ. Từ đây Tắc-Kè đă sử dụng Thắng cho mục đích của ḿnh là buộc Thắng phải nhúng tay vào việc giải cứu Trịnh Vĩnh B́nh.
Việc giải cứu B́nh đang diễn ra suông sẻ , cho đến khi Tắc-Kè thông báo cho người đại diện của B́nh là Trịnh Vĩnh Phát biết, công việc đă giải quyết xong. Trịnh Vĩnh B́nh sẽ nhận lại được năm mươi (50) phần trăm toàn bộ tài sản đă mất. Nhưng, nhóm người lo công việc này sẽ lấy hai mươi (20) phần trăm. Và như vậy th́ toàn bộ tài sản của B́nh sẽ c̣n lại ba mươi (30) phần trăm.
Khi nghe Tắc-Kè nói như vậy , Trịnh Vĩnh Phát đă đứng lên tuyên bố: “Chúng tôi sẽ lấy lại một trăm (100) phần trăm chứ chín mươi chín phần trăm cũng không nhận.” Nói xong Phát bỏ đi thẳng và chấm dứt mọi liên lạc với Tắc-Kè.
Tắc-Kè đă v́ giúp cho Trịnh Vĩnh B́nh mà bị khốn đốn nhưng lại không dám khai phá sản. Lúc đó Tắc-Kè đang làm Giám đốc một công ty xuất nhập cảng quần áo trẻ em.
Cho đến hôm nay, tháng 9 năm 2016, Trịnh Vĩnh B́nh vẫn đang nhờ tổ hợp luật sư Covington & Burling của Mỹ đưa nội vụ ra ṭa án quốc tế thưa nhà cầm quyền Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam nghi B́nh trở về là do một nhóm tài phiệt người Tàu yểm trợ với mục đích chính trị. Nhưng, cộng sản vốn là những tên ngu dốt và tham lam với nội bộ năm phe ba phái ... phe nào cũng nghĩ ḿnh có quyền nên đă hành động bộp chộp để đưa đến hệ lụy cho đến tận ngày nay.
Theo tôi, Trịnh Vĩnh B́nh và gia đ́nh là những người “ăn cháo đái bát” v́, [b]cho đến khi nhắm mắt, Tắc-Kè vẫn hối hận là đă không đặt điều kiện từ lúc đầu khi đồng ư nhúng tay vào giúp B́nh.[/b]
Có thật là có một nhóm tài phiệt người Tàu yểm trợ cho B́nh về Việt Nam với mục đích chính trị không? Những tên tài phiệt đó là ai? Người “Việt kiều” nào đă cố vấn cho Bộ Ngoại Giao Việt Nam diệt Trịnh Vĩnh B́nh? Tên an ninh nào đă cầm đầu nhóm theo dơi Trịnh Vĩnh B́nh và lần lượt triệt hạ hết những người của B́nh tại Việt Nam?
Tất cả những thắc mắc trên đây đều nằm trong Quyển Nhật Kư Của Tắc-Kè và sẽ lần lượt được tôi gởi đến các quư độc giả.
Còn tiếp ...
Quyển Nhật Kư Của Tắc-Kè _ Topa
Tắc-Kè rất muốn tham gia vào một tổ chức chính trị nào đó để cùng nhau tranh đấu, nên tổ chức đầu tiên mà Tắc-kè t́m đến là của ông kỹ sư mang tiếng nhiều về một quyển sách được ông viết và xuất bản. Trong khi Tắc-Kè tỏ thái độ xem thường viên Đại sứ Đinh Hoàng Thắng th́ ông kỹ sư lại tỏ ra “hồ hởi phấn khởi” và hănh diện mỗi khi nói: “ Viên Đại sứ đă đích thân đến thăm tôi và c̣n ngủ lại nhà tôi nữa.”
Ông kỷ sư học cao và nhiều tham vọng nhưng lại có tính lăng mạn nên, theo Tắc-Kè th́ ông không phải là người để làm chính trị v́ ông đă không nh́n ra được cái dă tâm của viên đại diện của nhà cầm quyền là, chỉ muốn lợi dụng ông kỹ sư giúp cho hai người con của ông ở lại Pháp mà thôi. Tắc-Kè thất vọng và từ giă ông kỹ sư để không bao giờ c̣n gặp lại nhau.
Từ đầu quyển nhật kư cho đến kết thúc, Tắc-Kè luôn gọi Hồ Chí Minh và nhóm người của ông là bọn cộng phỉ, là bọn lật lọng, là bọn xảo trá, là bọn dă man, là bọn dâm đăng, là bọn hèn hạ … nhất lịch sử dân tộc Việt Nam. Một trong những tên đó hiện đang làm Thiếu tướng Phó giám đốc công an thành phố Saigon cũ, tên Phan Anh Minh.
Trước khi Tắc-Kè bị hôn mê, anh đă kịp để lại quyển nhật kư tặng tôi nên tôi mới được biết Tắc-Kè có một lần thoát khỏi địa ngục cộng sản Việt Nam đúng vào ngày 30 tháng tư. T́nh bạn giữa Tắc-Kè và tôi không dính dáng ǵ đến chuyện chính trị v́ đó là điều tôi không có khả năng. Nhưng, tiền bạc của hai người th́ “vô tư.”
Tôi gặp Tắc-Kè ngày 15 tháng 5 năm 1978, để rồi sau đó không bao lâu chúng tôi trở thành đôi bạn thân thiết cho đến nay. Ngày tôi gặp Tắc-Kè , hôm đó là buổi trưa nắng gắt. Khi đó Tắc-Kè làm công việc mua bán quần áo cũ ở chợ trời Saigon. C̣n tôi là người đi lang thang v́ không có việc gì để làm. Thấy Tắc-Kè cầm trong tay ba cái quần và vài cái áo, tôi lựa một cái quần màu nâu đen và muốn mua nhưng lại không đủ tiền.
Tắc-Kè nh́n cái quần tôi đang mặc với vẻ ái ngại nên Tắc-Kè hỏi: “ Anh có bao nhiêu?”- “Chỉ bằng phân nửa giá tiền anh nói.” Tắc-Kè nh́n ngay mắt tôi chằm chằm – Tắc-Kè luôn nh́n thẳng mắt người đối diện.
Sau này Tắc-Kè tâm sự: “Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Người ngay thẳng th́ khi nói chuyện với người đối diện sẽ không bao giờ nh́n láo liên như những thằng cộng sản, vốn là những thằng ba que xỏ lá.”
– Tắc-Kè ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Như vậy th́ chưa đủ vốn anh à.”
– “Tôi cũng nghĩ vậy nhưng …” Tôi lắc đầu tỏ vẻ tiếc nuối rồi bỏ đi, th́ bất ngờ Tắc-Kè nói với theo:
- “Anh à.” Tôi quay lại nh́n Tắc-Kè.
- “Tôi nghĩ anh là người thành thật chứ không như bọn rừng rú mới đạp đất Saigon nên tôi bán thiếu cho anh. Mặc cái quần như vầy th́ … cũng như không mặ̣c.”
Tắc-Kè lấy cái quần đưa cho tôi, và anh nắm nhẹ tay áo tôi kéo đi theo vào quán nước gần đó , cho tôi thay quần. [b]Cái quần của tôi đang mặc là cái quần vốn đă bị phai màu và sờn rách nhiều chỗ ... nên đă được thợ may lộn từ bề trong ra bề ngoài cho thấy mới hơn, nhưng lâu ngày bị sờn cả hai bên mông đến nỗi nh́n thấy cả quần lót.Tôi đưa hết số tiền trong túi cho Tắc-Kè với lời cảm ơn chân t́nh.[/b]
- “Thà chịu nhịn đói chứ mặc cái quần rách như vậy th́ quả là quá mắc cở nếu như chẳng may gặp người quen, nhất là những bạn gái năm xưa mà bây giờ cũng đang đứng đâu đó nơi đầu đường xó chợ để kiếm sống như … anh vậy.”
Tôi nh́n Tắc-Kè mà vô cùng biết ơn xen lẫn xúc động. Chúng tôi trở thành đôi bạn kể từ hôm đó. Mấy tháng sau tôi chứng kiến Tắc-Kè giúp đỡ một người phụ nữ có chồng đang bị tập trung cải tạo.
Nh́n người phụ nữ phải đem bán từng quyển sách thuộc loại khoa học của chồng, Tắc-Kè nói với tôi: “Người Saigon đang bị trăm ngàn điều khổ đau , thiếu ăn , thiếu uống , làm cho con người phải keo kiệt, phải tính toán chi li từng đồng từng cắc … vốn không phải là bản tính của người Saigon. Người Bắc khi theo đoàn quân chiến thắng vào Saigon vốn cũng là bọn người tham lam quỷ quyệt và nhiều thủ đoạn.
Tôi giúp chị ấy v́ chúng ta là mẫu người chính gốc Saigon c̣n giữ lại được nhân tính và t́nh thương đồng loại. Nếu tôi không nhờ ở sự cứu giúp của Thượng Đế th́ rồi cuộc sống của tôi cũng không khá hơn chị ấy đâu. [b]Tôi cũng có cha có mẹ có anh chị em cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà êm ấm. Chỉ đến khi chế độ văn minh và tự do của miền Nam bị thay thế bởi chế độ man rợ của bọn người Hồ Chí Minh th́ gia đ́nh tôi mới bị chia ly, mà nay chỉ c̣n ḿnh tôi hiện diện trên cơi đời này thôi.[/b]
Tôi hy vọng, tôi tin tưởng những người đă bỏ chạy rồi sẽ trở về quang phục lại quê hương. Nếu không, th́ ít ra những người đó cũng sẽ làm một việc ǵ , để cho bọn man rợ Hồ Chí Minh phải chùn tay lại mà không c̣n vấy máu đồng bào miền Nam vô tội nữa. Đến nay anh, tôi, và người miền Nam đă sống năm thứ ba trên cái đất rệu ră bởi bọn người không biết một chút ǵ về làm kinh tế nên người người bị biến dạng v́ đói ăn , thiếu uống.
Mới chỉ có ba năm mà từ một đất nước phồn thịnh thật sự nay đă bị phá sản hoàn toàn. Các bạn tôi đă anh dũng đứng lên chống lại bọn người man rợ Hồ Chí Minh với những vũ khí ít ỏi c̣n sót lại để mong làm được một việc ǵ đó cho quê hương cho đồng bào. Tiếc thay … tất cả đều đă bị tiêu diệt v́ mạng lưới t́nh báo của bọn cộng phỉ Hồ Chí Minh giăng đầy khắp mọi nơi. Tôi thoát được chỉ nhờ ở một sự may mắn ...”
Còn tiếp ...
Quyển Nhật Kư Của Tắc-Kè _ Topa
Thời gian đằng đẵng mấy chục năm tôi không có dịp thăm lại ngôi nhà ḍng cũ ở xă Trạm Hành thuộc thành phố Đàlat. Nhưng tôi có nghe là nhà ḍng đă sụp đổ đến độ nhà cầm quyền không có tiền để sửa chữa nên đă bán lại cho Đài Loan làm nhà máy chế biến trà. Các Cha trong nhà ḍng không bao giờ muốn rời xa nơi đó v́ các Ngài đă bỏ rất nhiều của cải và tâm sức để mong đào tạo cho miền Nam có những Linh mục theo đường của Chúa đi truyền đạo.
Các Ngài cũng không muốn rời bỏ các chủng sinh, nhưng các chủng sinh ngoan đạo đó bây giờ ra sao? [b]Chiến tranh cướp nước và cướp của đă đi qua nhưng hận thù chia rẽ th́ không bao giờ dứt được , bởi tội ác của bọn cộng phỉ đối với dân tộc vĩnh viễn không bao giờ gột rửa được[/b], ngoại trừ khi cả bọn thành tâm hối lỗi cùng đứng cúi đầu nhận tội trước đồng bào cả ba miền th́ khi đó mọi oán hờn và mọi tội ác mới may ra được bỏ qua.
Tôi cũng không gặp lại Cha Chung. Không biết Cha ra sao, từ ngày bị mất nước ... những đêm phải ngủ ở nhà ga, ngủ trong công viên, tôi đă khóc nhiều khi nhớ đến Cha. Tôi cũng không gặp lại Cha Hoàng mặc dù sau này tôi ở một đất nước cũng gần với nơi mà Cha đang sống. Tôi không có nhiều kỷ niệm với Cha. Có một điều làm cho tôi cười hoài đó là, khi tôi đến với trung tâm của Cha Hoàng trong “Chương tŕnh trợ giúp thiếu niên sống ngoài hè phố.” Th́ nay tôi cũng đang là người sống ngoài hè phố.
Tôi tự nguyện rằng: “Không sao cả, miễn là ḿnh giữ được trong sạch trong cuộc sống và giữ cho ngọn lửa căm thù bọn cộng phỉ măi măi bừng cháy trong tim th́, tôi sẽ có cơ hội góp phần làm cho chế độ man rợ Hồ Chí Minh phải bị đánh đổ.”
Tôi tin chế độ này phải sụp đổ !
30/4/1975. Tôi đang ngồi uống café với ông Giám đốc Đỗ Ngọc Long ở nhà của ông th́ nghe tin đầu hàng . Tiếng của ông “Tổng thống cơ hội” Dương Văn Minh phát ra từ cái radio văng vẳng như tiếng gọi hồn ai.
Ông Long đang nói chuyện về những ngày sắp tới tôi sẽ phải làm ǵ th́ giờ đây ông ngồi chết lặng đến không có một hành động hay một lời nói nào nữa. Gương mặt của ông gằm xuống và như đang bị đổ chàm. Một lúc thật lâu , tôi nh́n thấy từ hai con mắt của ông đỏ hoe và có nước. Tôi không dám nh́n ngay ông mà nh́n xuống ly café và tự hỏi: Tại sao lại là hôm nay mà không để đến cuối tháng 5 rồi hăy đầu hàng.
V́, chỉ mười ngày nữa thôi là chúng tôi sẽ rời khỏi nơi này rồi mà. Chúng tôi chưa bỏ đi v́ c̣n chờ Cha Hoàng từ Thái Lan sẽ trở về trong nay mai. Cha Hoàng rời Việt Nam khi Xuân Lộc bị bọn cộng phỉ tấn công được bốn ngày, Cha đi ngày 13/04/1975. Theo như vậy th́ từ hôm nay chúng tôi sẽ xa Cha Hoàng mà chưa biết bao giờ mới được gặp lại. Tôi hỏi ông Giám đốc Long như vẫn không tin vào đôi tai của ḿnh: “Như vậy tiếng súng đă ngưng thật rồi sao ông Giám đốc? Ngưng thật rồi à? Như vậy là kể từ hôm nay sẽ không c̣n người bị chết v́ súng đạn nữa … thật sao … ông Giám đốc?”
Ông Giám đốc Long vừa ngẩng đầu lên nh́n tôi , th́ ngay lúc đó có tiếng súng bắn một tràng thật dài phía trước nhà ông. Ông Long nh́n tôi với vẻ mặt hốt hoảng. Tôi đứng lên , đến bên cửa sổ vén hé cái màn mỏng nh́n ra phía trước. Trước nhà của ông Giám đốc Long là công viên nhỏ. Trước mặt công viên, tức bên phải nhà của ông Giám đốc Long là con đường Công Lư.
Một chiếc xe jeep có bốn anh thanh niên ngồi trên với súng M16 cầm trên tay và mỗi người có miếng vải đỏ đeo nơi cánh tay. Trên sàn xe jeep có một xác người bị bắn chết để nằm ngửa , cái đầu cùng hai cánh tay buông thơng đến gần sát đất. Tôi không thấy máu v́ quá xa. Tôi cũng không biết nạn nhân già hay trẻ. Chiếc xe chạy ṿng ṿng công viên ba ṿng , vừa chạy vừa bắn chỉ thiên, sau đó chiêc xe jeep chạy ra đường Công Lư.
“Đóng hết cửa lại đi Tắc.” Tôi đóng hết các cánh cửa lại , rồi đến ngồi đối diện với ông Giám đốc Long. Ông Giám đốc Long đứng lên đi đến bên tủ rượu , rót ra hai ly rượu mạnh. Ông đi đến bên và đưa cho tôi một ly. “Uống đi Tắc. Có thể đây là ly rượu cuối cùng của anh em ḿnh c̣n được ngồi bên nhau. Mai này nếu tôi có bị bắt đi làm đường xe lửa Xuyên Việt th́ tôi cũng phải cam chịu.
Tôi … sướng quá nhiều rồi nên nếu có bị khổ th́ cũng phải ráng chịu.” Nói rồi ông khóc hu hu hu. Nước mắt cứ thế chảy dài xuống hai bên má ông. Lúc này tôi cũng không biết rồi số phận ḿnh sẽ ra sao khi mà ông Giám đốc Long đă “tiên đoán” là ông sẽ bị đi làm đường xe lửa. Tôi cũng chưa h́nh dung ra được nhà tù sẽ như thế nào, và bọn cộng phỉ có bắt tôi đi tù không?
Tôi đă làm ǵ có tội đâu mà bắt tôi đi tù? Tôi cảm thấy sợ hăi nên người tôi cứ run lên nhè nhẹ như đang bị sốt rét. Tôi sợ đám thanh niên kia quay lại rồi xông vào nhà bắt ông Giám đốc Long và thấy tôi nên chúng cũng bắt luôn và … bắn cả hai.
Đây là thời điểm vô chính phủ th́ tha hồ mà thanh toán hận thù lẫn nhau. Tôi không có kẻ thù và tôi cũng không thù oán ai cả, nhưng, tôi sợ người ta nghĩ tôi theo mấy Cha, nhất là mấy Cha người ngoại quốc, tức tôi là kẻ thù của họ. Cuộc sống của tôi phải nói là vô cùng khiêm tốn. Tôi luôn sống thật với ḷng và không bao giờ phán xét ác ư với người nào chỉ v́ tôi tin Chúa và sợ bị tội với Chúa.
Tôi cầm ly rượu lên nhấp thử một chút. Tôi thấy thứ nước có màu vàng vàng này , sao nó cay sè và đắng nghét chứ chẳng có ǵ ngon để mà uống cả. Tôi đă hai mươi ba tuổi rồi , nhưng tứ đổ tường th́ tôi hoàn toàn chưa trải qua, chưa nếm qua bao giờ. Tôi chỉ uống café và trà thôi. Đây là lần đầu tiên tôi nếm những giọt rượu.
- “Chú cầm tiền về lo cho các em và nhớ là phải b́nh tĩnh. Nói các em cứ ở trong nhà. Nay mai tôi sẽ liên lạc với chú khi tôi gặp được những người của nhà cầm quyền mới này.”
Nói rồi ông Long lấy từ trong cặp táp ra một cọc tiền giấy năm trăm được cuộn tṛn bằng sợi dây thun. Tôi nhận cọc tiền , để vào trong cặp mà kể từ bây giờ tôi luôn ôm trước ngực. Khi tôi đứng lên từ giă ông th́ ông ôm tôi và lại khóc làm cho tôi xúc động quá.
- “Đi đường cẩn thận Tắc nhé.”
– “Dạ. Ông Giám đốc yên tâm. Em sẽ cẩn thận.”
Ra khỏi nhà, tôi đi theo đường Công Lư rồi quẹo phải lên Yên Đỗ. Tại đây tôi thấy mấy anh lính Nhảy Dù mà có một anh vác súng đại liên trên vai. Một người đàn bà có lẽ là thân nhân của anh lính Nhảy Dù vác cây đại liên nói: “Đem súng lại Quân Vụ Thị Trấn bỏ ở đó nhanh lên.” Mấy anh lính liền bước đi và đi trước tôi khoảng chục bước th́ lúc đó có một chiếc xe jeep chạy lên và người ngồi trên đó la lớn: “Bỏ hết súng xuống bên đường và cởi đồ ra rồi về nhà … nhanh lên.” Mấy anh lính Dù làm theo lời mấy anh mặc thường phục ,chỉ v́ mấy người này có đeo tấm vải đỏ trên cánh tay.
Tôi đi tiếp đến đường Lê Văn Duyệt. Tại công trường Dân Chủ tôi thấy súng đạn và quần áo lính liệng đầy. Nghĩ đến những người lính, những người tuổi trẻ đă hy sinh cho quê hương miền Nam, đă chết cho nhiều người được sống yên ổn; nhưng bây giờ th́ …
Tôi nh́n thấy phía trước mặt xuất hiện một đoàn người đang đi bộ hàng dài mà nước da của người nào người nấy tái mét cứ như là đang bị bệnh sốt rét vậy. Họ vừa đi vừa cười vừa nói chuyện râm ran vẻ khoái chí lắm. Th́ ra họ là những người tù Chí Ḥa vừa được “giải phóng” nên họ vui. Tôi nh́n thấy một chiếc taxi từ bên cảnh sát quận ba chạy đến tôi liền đưa tay lên ngoắc lại.
- “Bác cho cháu về bên Bến B́nh Đông.”
– “Tôi cứ chạy được đến đâu th́ hay đến nấy chứ … không biết đường bị cấm đoạn nào cả.”
– “Dạ.”
Xe chạy đến chợ cá Trần Quốc Toản, tôi nh́n thấy đoàn xe GMC của Sư đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa , đậu dọc theo con đường chạy đến trường đua. Những người lính của Sư đoàn, có người đang ôm con, có người đang đứng với vợ , và có nhiều người lính đứng chung với nhau ... họ khóc họ nói với nhau nhưng tôi không dám nh́n v́ hai con mắt của tôi đă bắt đầu có nước mắt.
Ông Long khóc chỉ làm cho tôi xúc động. Nhưng, những người lính của Sư đoàn 18 Bộ Binh mà phần đông đă cởi bỏ quần áo chỉ mặc mỗi cái quần đùi. Chính cái cảnh đau thương này đă làm cho tôi phải khóc.
Những ngày qua ông Giám đốc Long hết lời khen [b]lính Sư đoàn 18 Bộ Binh đă đánh cho bọn cộng phỉ một trận mà ông nói là “nên thân.” Những người lính đó chắc không ngờ cái kết của họ lại bi thảm đến tận cùng như thế này, vào sáng ngày oan nghiệt hôm nay.[/b]
Xe taxi chạy được đến chợ B́nh Tây th́ bác tài taxi quay qua nh́n tôi và nói những lời mà sau này tôi nghĩ lại thấy thương hại cho ông, cho những người không hiểu một tí ǵ về cộng sản nên nghe bọn chúng nói cứ tưởng chế độ của bọn chúng thật sự là thiên đường.
Đa số đồng bào miền Nam v́ quá đau khổ bởi chiến tranh quá dài mấy mươi năm chỉ đem lại chết chóc và ly tán nên đă bị cộng sản tuyên truyền và lợi dụng. Bọn lănh đạo các tôn giáo và bọn trí thức bọn sinh viên nghe theo bọn cộng phỉ để phá hoại miền Nam đều là những kẻ đáng bị nguyền rủa muôn đời.
Trong bọn họ chắc chắn có nhiều tên khao khát được nh́n thấy vị lănh tụ mà họ hằng suy tôn. Bọn người mang tiếng trí thức nhưng đối lập với chính phủ để phá hoại và để được nổi tiếng v́ hằng ngày bọn họ chỉ làm mỗi một việc duy nhất là kêu gọi đồng bào, nhất là giới trẻ xuống đường . Nhưng, hôm nay cuộc chiến đă kết thúc rồi th́ bọn họ sẽ bị thất nghiệp và bị cho về vườn ngay lập tức.
[b]Bác tài xế taxi nói: “Tới từng tuổi này tôi mới được nh́n thấy đất nước thật sự hết chiến tranh. Thật là một sự may mắn vô cùng đối với tôi. Ḥa b́nh rồi th́ sẽ không c̣n cảnh chết chóc nữa. Mỗi người sẽ có công ăn việc làm và sẽ không c̣n người nào đói nữa.”[/b]
Tôi nhớ lại ngày hôm kia, ngày 28 tháng tư, ông Giám đốc Long đưa tôi đi ăn ở nhà hàng Thanh Thế. Đang ăn th́ trước nhà hàng xảy ra chuyện lộn xộn và có nhiều viên cảnh sát đang chận đường một người mặc áo chùng đen. Đích thị đó là ông Linh mục rồi. Nhưng, tại sao ông lại bị cảnh sát chận không cho đi. Ông Giám đốc Long bỏ tôi ngồi đó rồi ông đi ra ngoài xem chuyện ǵ.
Một lúc lâu sau ông trở vào và nói cho tôi biết: “Cảnh sát chận đường một ông Linh mục. Tưởng ai hóa ra là Phan Khắc Từ. Ông Linh mục Từ đang kết tội ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng.”
Thấy tôi nh́n ông với hai con mắt như của con nai nên ông nói thêm cho tôi rơ: “Mấy ông Cha này quá nông nỗi nên bị Việt Cộng giật dây hết. Việt Cộng mà chiếm được miền Nam rồi th́ mấy Cha sẽ sáng mắt ra hết. Lúc đó có hối cũng không c̣n kịp. Việt Cộng ghét nhất là đạo Thiên Chúa th́ chẳng lẽ tụi nó thương quư mấy Cha lắm sao. Tội nghiệp mấy ông cảnh sát. Mấy ổng không có một hành động nào dám tỏ ra xúc phạm mà chỉ đứng vây quanh ông Linh mục để không cho ông nhập vào với số người của Phật giáo đang biểu t́nh trước chợ Bến Thành.”
Tôi không phải là trí thức nhưng tôi hiểu bọn cộng phỉ c̣n hơn các ngài nhiều. Giết người lén lút là hành động của kẻ tiểu nhân. Bọn cộng phỉ đă làm việc đó với ba tôi th́ làm sao tôi có thể quên cho được. Chỉ khi nào tôi nhắm mắt th́ may ra … Tôi xem bọn cộng phỉ là kẻ thù muôn kiếp của tôi, của dân tộc tôi, cho đến khi nào bọn chúng bị đánh đổ mới thôi.
Còn tiếp ...
Quyển Nhật Kư Của Tắc-Kè _ Topa
Saigon hôm qua có mưa nhưng hôm nay lại có nắng. Saigon mưa đến nhanh mà đi cũng nhanh. Saigon là chốn phồn hoa đô hội với hằng hà sa số những nhà cao tầng và biệt thự; nên ai cũng muốn đến ... Bọn cộng phỉ cũng vậy.
Chỉ khác một điều là, bọn cộng phỉ đến bằng bạo lực và tàn phá Saigon để toàn nước Việt Nam trở thành quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Bọn cộng phỉ đă biến những nhà lầu và những căn biệt thự của Saigon thành những chuồng nuôi heo nuôi gà, vịt. Có một rạp hát lớn ở khu Ông Tạ (h́nh như rạp Đại Lợi) vốn là nơi giải trí của người Saigon cũng đă được bọn cộng phỉ biến thành nhà tù gây ra bao kinh hoàng và đau thương cho đồng bào Saigon.
04/05/1975.
Ông Giám đốc Long và tôi có mặt tại Uỷ ban nhân dân quận bảy đúng chín giờ sáng theo giấy mời. Buổi sáng hôm nay có nắng ấm nhưng sao tôi thấy lạnh và trong ḷng ảm đạm quá. Cũng là người Việt Nam đi gặp người Việt Nam nhưng sao trong ḷng tôi cứ lo sợ hoài một sự trả thù. H́nh ảnh ba tôi bị bắn vào đầu cứ theo ám ảnh tôi mấy ngày nay.
Đêm qua tôi không thể nào nhắm mắt , cho đến gần năm giờ sáng mới thiếp đi được một chút , th́ cái đồng hồ báo thức gọi dậy. Tôi lo sợ bọn Cộng phỉ sẽ bắt tôi và đầy đọa tôi th́ làm sao tôi sống nổi. Những truyện tôi đọc về những trại tù khổ sai khi cộng phỉ vào Hà Nội … tôi tin là cộng phỉ đối xử với tù nhân rất tàn bạo với cái đầu lạnh ngắt; mẹ tôi hết lời van xin bọn Cộng phỉ tha mạng cho ba tôi nhưng bọn chúng vẫn lạnh lùng nă đạn.
Ông Giám đốc Long và tôi đi đến trước cổng Uỷ ban th́ thấy một chiếc xe tăng đậu trước cổng, ṇng súng quay ra hướng bờ sông như sợ lính Việt Nam Cộng Ḥa sẽ đổ bộ từ bờ sông lên để chiếm lại Toà hành chánh quận. Có lẽ ông Giám đốc Long v́ quá lo lắng nên ông hút thuốc liên tục. Tôi không biết hút thuốc nên chỉ nh́n ông rồi nh́n xuống chân chứ cũng không biết nói ǵ.
Như vậy là sáng hôm nay tôi sẽ ngồi đối diện và thấy tận mắt những người của cái gọi là Việt Cộng, mà trước kia tôi nghĩ họ có nhiều răng nanh v́ quá ác độc giết đồng bào không biết gớm tay. Nhất là h́nh ảnh của Huế trong Tết Mậu Thân.
Khi hai chúng tôi đă an tọa sau một cái bàn , dài khoảng năm thước , bề ngang hai thước, theo sự chỉ dẫn của một anh lính Việt Cộng c̣n khá trẻ, th́ có bốn người từ pḥng bên cạnh đi ra trên tay một người , cầm chồng hồ sơ. Người này được giới thiệu là Bí thư huyện ủy. Câu đầu tiên mà tên Bí thư huyện hỏi ông Giám đốc Long có muốn tŕnh bày những yêu cầu ǵ th́ cứ nói ra. Ông Giám đốc Long nói (đại khái) :
- “Tôi là Giám đốc của sáu trụ sở nuôi dạy trẻ mồ côi sống lang thang ngoài hè phố. Tôi xin cách mạng cho phép tôi được tiếp tục công việc và tôi sẽ tuân theo những điều mà cách mạng cho phép.”
- “Tiền ở đâu để ông tiếp tục?”
– “Tôi sẽ liên lạc với các cơ quan từ thiện hiện đang ở Thái Lan … giúp đỡ.”
Sau câu nói của ông Giám đốc Long th́ tên Bí thư huyện liền tuôn ra một tràng những câu mắng chửi thậm tệ. Nào là nhận tiền của đế quốc Mỹ, rồi đưa các em đi Mỹ trong các chuyến bay trước khi mất Saigon để hy vọng sẽ có ngày các em cùng Mỹ trở lại đánh phá cách mạng.
Có một câu của tên Bí thư huyện đă làm cho tôi nhớ đến Linh Mục Lương Tấn Hoàng. Hắn nói:
- “Tôi nói thật với anh, cho dù hai mươi năm nữa cha của thằng Mỹ cũng không dám vác mặt đến đây đâu. Chúng tôi biết anh là CIA v́ thằng Hoàng (LM Hoàng) chính là CIA mà chúng tôi có đầy đủ bằng chứng. Chúng tôi hỏi là để xem anh có hối cải v́ đă lầm lỡ tin vào thằng Mỹ không. Nhưng anh vẫn ngoan cố và c̣n muốn giữ những cơ sở đó để làm nơi liên hệ với thằng Mỹ. Đây, tôi cho anh xem những bằng chứng về thằng Hoàng đây.”
Tên Bí thư lấy từ trong cái “xắc cốt” ra mấy tấm h́nh rồi đưa cho ông Giám đốc Long và tôi xem. H́nh chụp Cha Hoàng đang đứng nói chuyện với ông Đại sứ Mỹ Martin nhưng không đề ngày, cùng nhiều tấm h́nh nữa đă làm cho ông Giám đốc Long hốt hoảng đến mặt mày xanh lét như tàu lá chuối. Tôi ngồi cạnh ông nên tôi cảm nhận được là ông bị mất b́nh tĩnh đến độ người của ông đang run.
Ông run nên tôi cũng sợ quá và rồi tự nhiên tôi cũng run theo, mặc dù trời đang nóng v́ đă hơn mười giờ sáng rồi. Tên Bí thư đưa một tờ giấy ra trước mặt ông Giám đốc Long và nói:
- “Anh kư vào tờ giấy này xác nhận có mặt buổi họp vào sáng nay.”
Ông Giám đốc Long đón tờ giấy , đọc qua thật lâu, thật kỹ, rồi mới kư vào. Tên Bí thư nhận tờ giấy và nói:
- “Mấy đồng chí cán bộ đây sẽ đưa anh đi làm bản tự khai và sơ yếu lư lịch.”
Ba người cùng đến với tên Bí thư th́ hai người đứng lên và dẫn ông Giám đốc Long đi. Từ đó tôi không bao giờ c̣n gặp lại ông nữa. Tôi không ngờ là từ ngày hôm đó ông bị nhốt luôn cho đến năm 1993 ông mới được một ông Tướng Mỹ qua Việt Nam xin trả tự do cho ông rồi sau đó ông qua Mỹ.
Còn tiếp ...
Quyển Nhật Kư Của Tắc-Kè _ Topa
05/05/1975
Chổ ở tạm của tôi từ trưa ngày hôm qua cho đến bây giờ, hiện cũng đang là buổi trưa; là nhà để xe của Toà hành chánh quận 7 cũ. Sau khi ông Giám đốc Long bị hai người đồng chí của tên Bí thư đưa đi th́ người c̣n lại nói tôi đi theo hắn.
Tên Bí thư huyện nói với theo:
- “Anh xuống đó ở tạm ít ngày.”
Tôi không biết xuống đó là xuống đâu nhưng không dám hỏi. Điều lo sợ của tôi đă thành sự thật. Tôi bị nhốt ở đây như là tù nhân v́ có bộ đội gác bên ngoài. Trong pḥng giam - nếu gọi đây là pḥng giam - không có toilet. Không có giường và cũng không có vật dụng nào cả ngoài một chiếc chiếu và tấm vải cũ dùng làm mền. Nếu khi nào tôi muốn đi vệ sinh th́ tôi kêu cửa và sẽ được người bộ đội giữ cửa đưa tôi đi đến nhà vệ sinh cách đó khoảng ba mươi thước. Tôi hoàn toàn thụ động v́ sợ quá.
H́nh ảnh ba tôi bị bắn vào đầu cứ lởn lởn trước mặt tôi hoài. Tôi không dám đ̣i hỏi bất cứ điều ǵ. Họ cho tôi mỗi bữa một dĩa cơm đầy với nhiều thức ăn th́ c̣n ǵ để tôi phải lên tiếng đ̣i hỏi. Tôi giữ thái độ hết sức đứng đắn … v́ quá sợ. Mặc dù không bị bắt buộc nhưng tôi luôn ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu.
Mặt trời đă lên cao và sắp đến bữa ăn trưa. Bữa ăn sáng không có nên tôi đói lắm. Tôi nhớ có lần đọc tờ báo “Đứng Dậy” mà tôi thấy trên bàn của linh Mục Lương Tấn Hoàng. Tờ báo của ông Linh mục Chân Tín, Chủ tịch của cái gọi là, Ủy Ban Cải Tạo Chế Độ Lao Tù.
[b] Ông Chân Tín thật sự đă giúp một tay làm rối loạn, làm tan nát cái thành phố Saigon thân yêu và toàn cơi miền Nam này. Tôi nhớ đến ông Chân Tín v́ tôi đang bị nhốt, đang bị là tù nhân và đang bị đói.[/b]
Khoảng hai giờ chiều tôi được gọi ra để viết Bản tự khai và Bản Sơ yếu lư lịch. Viết xong th́ cũng chẳng có ai đọc. Cứ để trên bàn, nhưng tôi được tên Bí thư huyện đến thông báo:
- “Chúng tôi cho anh về v́ anh … Anh cứ ở nhà chờ thông báo rồi đi tŕnh diện.”
Tôi đi như chạy v́ tôi không ngờ bọn cộng phỉ lại tha tôi. Bến B́nh Đông có cây cầu nhưng ở măi tận phía xa. Tôi v́ nôn nóng quá nên sẽ nhờ chiếc ghe nhỏ nào đó chở qua sông cho mau. Tôi không về nhà, là trụ sở “Gia đ́nh hy vọng 5” v́ hiện có mấy tên bộ đội ở đó. Một em ở trong đó gặp tôi trên đường và cho biết:
- “Mấy ngày nay mấy người bộ đội lục tung hết mọi chỗ. Không biết họ t́m ǵ nhưng rồi họ ở luôn tại đó. Họ nấu cơm và cho tụi em ăn chung.”
– “C̣n mấy em ở đó?”
– “Bảy đứa. Họ phát súng bắt tụi em mỗi đứa gác một tiếng.”
– “Chỉ gác ban ngày thôi phải không em?”
– “Đâu có anh, ban đêm cũng gác luôn.”
Tội nghiệp các em quá. Tuổi thơ Việt Nam bị đọa đầy bắt cầm súng thay v́ cầm viết. Tôi mới về đây chưa được bao ngày nên tôi không làm sao nhớ hết tên sáu mươi ba em được. Em đang đứng nói chuyện với tôi tên ǵ tôi cũng không nhớ. Gương mặt em nh́n hiền như thiên thần với hai con mắt thật thơ ngây. Thiên thần mà phải bị sống chung với lũ ác quỷ th́ sẽ thành ác quỷ.
[b] Chỉ với bảy thiên thần th́ làm sao cảm hóa được bầy quỷ đang dương dương tự đắc v́ bách chiến bách thắng nên xem thiên thần chẳng là cái quái ǵ cả. Thay v́ dạy cho các em học làm toán và viết chính tả. Bọn quỷ dạy các em cầm súng và dạy ḷng căm thù. [/b]
Tôi sinh ra đời trước mấy em nên tôi được may mắn hơn các em. Tôi được sống dưới chế độ tự do và nhân bản nên tôi được học chữ. Sách vở dạy tôi phải sống thành thật và thương yêu mọi người như thương yêu chính bản thân ḿnh. Phải luôn đối xử công bằng với mọi người dù sau này tôi có là ông này ông nọ th́ cũng vậy. Tôi nh́n em và tôi biết em đói v́ em cứ nh́n gánh xôi mà nuốt nước miếng. Tôi muốn cho em một chút tiền nhưng buổi sáng hôm đi theo giấy mời họp cùng ông Giám đốc Long tôi đă để hết tiền ở nhà.
Chắc chắn số tiền đó đă bị lũ quỷ lấy hết khi bọn chúng lục soát. Tôi đưa tay xoa xoa lên đầu em rồi lẳng lặng bước đi thẳng mà ḷng đau như cắt. Tôi không dám nh́n lại em v́ tôi sợ tôi sẽ khóc. [b]Số phận của các em, và số phận của trẻ thơ miền Nam đă hoàn toàn bị ch́m trong bóng tối kể từ hôm ông “Tổng thống cơ hội” Dương Văn Minh lên cầm quyền.[/b]
Bến đ̣ B́nh Đông không biết trước khi tôi được đưa về đây có đông khách không. Nhưng hiện tại th́ vắng tanh. Trong túi tôi không c̣n đến một đồng. Rồi những ngày sắp tới tôi chưa biết phải làm ǵ để có chén cơm ăn. Tôi quyết định đi bộ đến Ṭa Tổng Giám Mục Saigon trên đường Phan Đ́nh Phùng.
Còn tiếp ...