-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Chúng tôi trở về, cuốn tăng, vơng, vừa ôm, vừa xách lôi thôi lếch thếch đi theo anh giao liên. Đúng là một đám tàn quân, như lời nhận xét của ông đại diện. Chúng tôi bị lùa vào một con suối cụt. Mà khi vừa bắt đầu đặt chân vô là chúng tôi phải kêu lên: “Khó thở quá ! Khó thở quá ! “
Một con suối nước trong vắt , nhưng mỗi lần nhúng chân xuống rút lên tôi có cảm giác là lông chân tôi rụng hết.
Tuy vậy Năm Cà Dom vẫn pha tṛ. Đang đi anh ta quay lại hỏi tôi:
– Cậu có nhớ hai câu ca dao không nhỉ ?
– Ca dao nào?
– Chết rồi! Nhà văn mà không biết hai câu ca dao Nam Bộ sáng tác ở miền Bắc th́ chết rồi !
– Nhưng ca dao ǵ mới được chớ ?
Năm Cà Dom nói:
– Chú ư lắng nghe nhé ! E hèm ! Nghe cho kỹ nhé !
"Ngang lưng th́ giắt su hào
Đầu đội rau muống, chân quào bánh đa."
Tôi phá lên cười thích thú. Thu cũng cười. Và cả đám lóc nhóc đi đàng sau tôi cũng cười hưởng ứng. Năm Cà Dom vẫn thản nhiên. Một chốc anh ta hỏi tôi:
– Bà con cười thế là cười ǵ ông ” nhà răng ” ?
– Cười rùm lên.
– Không phải.
– Cười ré lên ! Cười hùn !
– Không phải. Viết văn phải viết cho đúng tiếng ! Đây là cười tươi như mếu ! Chứ không phải à ? Trong lúc muốn khóc mà lại cười không phải cười tươi như mếu là ǵ ?
– Ái chà ! Đi vào lănh vực của tôi rồi đấy hả ? Nhưng mà trong đời sống của dân gian, có mấy chục cái loại cười anh có biết không nào?
– ….
– Có nhiều, ai mà tổng kết cho hết. Chỉ có ông Nguyễn Tuân ổng mới làm nổi việc đó thôi. Ổng cho là có hằng trăm tiếng cười, kể ra đâu có xiết như cười x̣a, cười khảy, cười mũi, cười rộ, cười trừ.
Năm Cà Dom cắt ngang tôi:
– Nhưng lúc năy anh và cô Thu cười th́ cười ǵ ?
Tôi ngẫm nghĩ và đáp:
– Có lẽ là cười rộ lên, phải không ?
– Chịp, tôi cũng không rơ. Nhưng mà thôi, để việc đó qua một bên. Tôi muốn nói đến cái thần t́nh của hai câu ca dao. Không biết thằng nào giỏi quá cơ. Nói chơi chơi mà thể hiện đúng cái con người của ḿnh quá nhỉ.
– Ừ nhỉ thằng nào lại đặt ra mấy cái câu đó tài thật.
– Tôi chắc chắn không có một ông nhà thơ nào làm nổi !
Năm Cà Dom nói tiếp:
– Tôi không phải văn nghệ sĩ, nhưng tôi xin phép b́nh hai câu anh xem có tài t́nh không ? Ngang lưng th́ giắt su hào! …
– Ừ tài thật. Nó bắt chước bài Lính Thú Thời Xưa: Ngang lưng thời thắt bao vàng, Đầu đội nón dấu vai mang súng dài ! Nhưng bắt chước tài t́nh hả ?
– Ừ. Hay thật !
– Đầu đội rau muống, chân quào bánh đa ! Tuyệt hả, ông văn sĩ.
Tôi cười ngất:
– Cái h́nh ảnh đó giống như một chiến sĩ.
– Chiến sĩ cái kiểu như ông văn sĩ bây giờ vậy đó.
– Sao ?
– Th́ c̣n sao nữa. Làm bộ hoài. Đầu đội rau muống mà chân th́ quào bánh đa rồi c̣n ǵ nữa mà làm bộ gà mờ !
Tôi cười. Cái thằng cha này khó chịu thật. Nó xoi mói ḿnh hoài. Nó lại c̣n trêu luôn cả Thu:
– Này cô Thu ạ! Cô đừng buồn nhé. Đó là ca dao rất phổ biến, chớ không phải tôi đặt ra đâu mà. Nước ḿnh có ba kỳ Nam Trung Bắc. Mỗi Kỳ đều có đeo “anh xin” trên trán riêng hết thảy. Nam Kỳ th́ khắc trái dưa hấu, Trung Kỳ th́ in củ khoai, c̣n Bắc Kỳ vẽ cọng rau muống. Cho nên nói tới dân Trung Kỳ th́ người anh em ta thường gọi là “Liên Khu Khoai” c̣n Nam Kỳ th́ xanh vỏ đỏ ḷng, c̣n Bắc Kỳ th́ rau muống luộc. Ông bạn văn sĩ tôi đây ra Bắc hơn mười hai năm , có lẽ ăn rau muống và su hào ngon hơn ăn dưa hấu rồi ! Phải không ông văn sĩ ?
– C̣n anh ? Ra miền Bắc chắc anh không ăn cọng rau muống nào chắc?
-Úy úy ! Nhập gia tùy tục, đáo xứ tùy dân, sao không ăn ông bạn?
– Vậy sao ông bạn cười tôi ?
– Nhưng mà tôi thấy ông bạn ra đi đă một tháng trời rồi mà vẫn c̣n ngang lưng cứ giắt su hào và đầu vẫn cứ đội rau muống như thường.
– Úy ! Anh là bác sĩ, chắc anh cũng thừa hiểu rằng su hào với rau muống là những loại rau có nhiều sinh tố lắm chứ ?
– H́ h́…
– Và lại anh cũng công nhận là ngo…on chứ?
– Hé hé…
– Thế cho nên trong ba lô tôi có cả giống su hào rau muống đây! Về tới nơi là tôi kiếm đất trồng ngay, để lấy giống !
– Há há ! Ông văn sĩ giỏi thật ! Ông đối phó trong văn chương giỏi thật. Thế c̣n bánh đa th́ ông làm sao mang về, bỏ nó trong ba lô th́ nó vỡ hết. Này, nhớ là bánh đa chớ không phải cành đa hoặc củ đa nhé!
– Lại nữa!
Tôi tiếp:
-Ông bạn lại muốn nhảy vào làng văn ngồi chồm hổm trong đó rồi. Th́ bánh đa chớ cành đa củ đa mang làm chi ? Trong ḿnh th́ có bánh tráng đó, có khác ǵ bánh đa mà phải mang cho tốn công ?
– Ừ ừ vậy hả.
– Chớ sao?
– Nhưng này ông văn sĩ !
– Ǵ?
– Tôi thú vị nhất là cái chữ quào bánh đa đó.
– Sao vậy ?
– V́ tôi h́nh dung bọn dưa hấu ḿnh sống trên đất Bắc, anh nào cũng tham lam quá. Ngang lưng đă giắt cả lố su hào rồi, lại c̣n tham lam, đầu lại đội thêm rau muống, đầu đă đội th́ hai tay phải vịn cho chắc kẻo rơi hết, thế là bận hết hai tay c̣n đâu mà hoạt động ! Cho nên hai chân phải “quào ” lấy bánh đa chớ không chịu ở không ! Gớm thật !
Năm Cà Dom bỗng đưa tay ngoặc cổ tôi lại và rỉ tai tôi:
– Như anh cũng giỏi đấy. Đi đây rồi mà c̣n ráng quào chớ cũng không chịu nghỉ ngơi!
Tôi cười và đẩy Năm ra vừa lúc Thu quay lại:
– Không nên nói nhỏ với nhau trước mặt người khác.
– Đâu tôi có nói trước mặt ai, tôi chỉ nói sau lưng thôi chứ.
– Trước mặt tôi đây c̣n không nữa à ?
– Tại cô quay lại cho nên tôi mới thành ra ở trước mặt cô như thế!
Thu quay lại giữa tiếng cười chế riễu thành công của Năm. Thu cứ lẩm bẩm:
– Các anh nói xấu tôi đó hả ?
– Cô đẹp th́ ai nói xấu được ! Ai trở mặt làm trái được ?
– Gớm! Anh lắm mồm thế. Tôi chưa thấy anh Nam Bộ nào tay năm miệng mười như anh ! Người ta bảo Nam Bộ thật thà lắm !
– Ừ đúng ! Đú. . đúng ! Thiệt thà bắt con gà đổi con vịt như ông bạn văn sĩ của tôi đây này !
– Sụyt! Thôi mà.
– Thôi sao được ! Cô ấy bảo ḿnh tay năm miệng mười ! Chúng ḿnh chỉ có hai tay và một miệng chớ đâu có tới… nhiều miệng.. . ?
– Thôi, tôi lạy anh, anh như con đĩa đói ấy, bám vào đâu cũng khó gỡ cả.
– H́ h́… th́ để cho dưa hấu thử tài với rau muống thử xem !
-Ai mà đấu cho lại anh!
Nói lải nhải như vậy mà chúng tôi đă đến nơi. Nói là đến nơi, nhưng không có vẻ ǵ đến nơi cả. Nhưng người ta bảo là đến nơi , v́ thấy có người hạ trại dài bên bờ suối. Kết quả của bài diễn thuyết của ông đại diện bộ tư lệnh là lùa đám tàn quân này vào cái suối này để ở ngoài ông ta nhét nút lại chắc !
Tôi bàn với Năm Cà Dỏm là đi t́m một chỗ nào tốt để đóng quân. Có nhiều đoàn cũng lao nhao như gà lạc mẹ đi t́m ổ như chúng tôi thành thử ra có cả một dăy người kéo lê thê đi t́m nơi hạ trại. Cứ đi dài dài, chân th́ bước chậm răi, mắt th́ ngó hai bên bờ suối hễ chỗ nào tốt ḿnh muốn dừng lại th́ cũng đă thấy người nằm sẵn đó rồi.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Chúng tôi đi lộn xộn không c̣n giữ đoàn ba đứa như trước nữa hẹn với nhau rằng hễ đứa nào t́m được chỗ tốt th́ gọi hai đứa kia đến.
Lộn xộn như thế nào mà một chốc, tôi lại đi sau lưng cô gái tóc quăn quăn lúc năy tôi gặp trên kho gạo. Nghe cô nói chuyện với những người đi trước th́ tôi biết đó là một cô gái quê ở vùng Tân Châu thuộc tỉnh Long Xuyên hay Châu Đốc chi đó và cô là người của Trường Nông Lâm Trung ương về Nam để chỉ dẫn cho nông dân vùng “giải phóng” cày cấy lúa và các thứ ngũ cốc khác. Đang đi bỗng có một nhánh tre ngă ngang qua đường. Ai đi qua cái nhánh tre đó cũng quẹt vào người và quặt lại phía sau như một cái ngọn cần bẫy.
Cô gái đỡ cành tre không cho quẹt vào người cô, và khi đi qua xong, cô không buông nhánh tre mà cầm giữ nó quặt ra phía trước, ư cô sợ nhánh tre quất vào mặt người đi sau bất ngờ không đỡ kịp. Cô quay mặt ra phía trước mà vẫn c̣n giữ cành tre như thế chờ cho tôi đi qua xong cô mới buông nhánh tre ra.
Ôi chao ! Bàn tay cô đẹp thế. Những ngón tay thon thon hơi béo tṛn và đúng là mũi viết. Khi bàn tay buông nhánh tre ra rồi, cái h́nh ảnh dịu dàng của bàn tay ấy cứ ở lại măi trong đầu tôi.
Và cái cử chỉ lễ độ nhă nhặn đó nữa ! Đi trên đường rừng này mà cô vẫn không quên cái văn minh của những nơi không phải là rừng.
Và có lẽ ở đời luật vay trả là sự công bằng chánh trực nhất để cho cái nhân t́nh thế thái, cho nên đi lộn tới trở lui thế nào mà chập sau tôi lại đi lên trước cô ta. Rồi lại đến một cái lạch nước và mấy bậc đá khá nguy hiểm, tôi phải ch́a tay ra để lôi cô lên.
Tôi đưa tay cho cô, mà tim hơi rung động. Tôi bảo:
– Cô nắm tay tôi đây này, kẻo trợt ngă.
Cô gái tóc quăn ngần ngại măi không chịu nắm tay tôi. Cô ta ngó quanh quẩn t́m xem có chỗ nào cô bước lên mà không cần đến bàn tay của tôi không ? Một bàn tay xa lạ với cô ta. Vậy cũng phải thôi. Ai người ta lại trao tay cho người khác dễ dàng như vậy ?
Tôi chờ đợi, với một ít xốn xang trong người. Cuối cùng nàng phải đưa bàn tay cho tôi. Tôi hơi hoa mắt. Cái bàn tay ǵ đẹp kỳ lạ thế. Nó như một cái búp non đẫm sương vừa nhú đêm qua và khoe sắc trong tia nắng đâu tiên của mặt trời hồng... mà tôi đứng trước nó là một gốc cây hết nhựa.
Tôi đưa tay tôi ra chậm chạp, e ngại, có phần rung động mà nắm lấy tay nàng. Tôi không cảm thấy ǵ ngoài sự tưởng tượng rằng ḿnh đang nắm lấy một mảnh nhung.
Rồi thôi, chỉ trong chớp mắt tay tôi và tay nàng rời nhau ra, tạm biệt. Một ít đau khổ !
Tôi c̣n đang bâng khuâng trước cuộc tao ngộ và tạm biệt bất ngờ đó th́ có tiếng Thu gọi từ bên bờ suối. Tôi giật ḿnh đánh thót như một kẻ cắp bị bắt quả tang.
Chết chửa ! Đáng lẽ một con người như tôi bây giờ th́ không nên mơ ước ǵ hơn nữa. V́ trên đường Trường Sơn chó ăn đá gà ăn muối , xác rác xơ rơ tả tơi tan nát như thế này mà lại có cả một mùa … Thu th́ c̣n mơ ước cái ǵ nữa.
Vậy mà rồi tôi vẫn có trong tôi một sự nhóm lên của ước mơ. Thu đă trông thấy cái cử chỉ vừa rồi của tôi với nàng tóc quăn và .. có lẽ nàng cũng đoán ra những t́nh cảm tôi. Nàng đă t́m ra được chỗ tốt và đứng đó chờ tôi đi qua. Tôi đi theo nàng, không dám quay lại nh́n cái bàn tay kia lần nữa.
Thu nói:
– Chỗ này tốt lắm anh ạ.
– C̣n anh Cà Dom đâu ?
– Ở kia ḱa.
– Chào ông nhà. . . răng ! ông đi t́m đề tài hả ? Cha chả cái đề tài đó hay lắm đó, ông đă bắt được lúc ở kho gạo mà có hứng chưa ? Nếu tôi không nhầm ….
Năm Cà Dom tuôn ra cả loạt nghe mà mệt đi thôi. Tôi quát:
– Anh cho tôi nghỉ một chút !
– Khà khà… à .. à anh đang “mệt” phải không. Tim anh đang đập mạnh mà !
– Anh lúc nào cũng bắt mạch người ta.
Chúng tôi vui vẻ sửa soạn chỗ ở. Thôi rồi ! ở đây là nơi “nghỉ ‘ngơi” lâu dài không hẹn ngày tái hành tŕnh. Bao giờ đi tới được nữa ?
Anh giao liên không ló mặt ra lần nào để tôi có dịp hỏi chuyện, nhưng Thu thuật lại anh ta có nói với Thu rằng cứ nằm đây chừng nào có lệnh thời đi, nếu đi không được phải quay trở ra. Thu thuật lại cho tôi nghe, với sự thích thú lộ ra mặt về cái vế thứ hai của lời nói anh giao liên.
Thu đang mong điều đó. Mưa, chao ôi mưa rừng. Ở giữa rừng lạnh, đă buồn lại thêm mưa mà mưa dai dẳng vô cùng, mưa nặng hạt mưa tai hại chứ đâu phải những trận mưa mát thịt da , tươi cây xanh lá như ở đồng bằng. Mưa trói chân trói cẳng và làm rệu ră cả ḷng người.
Có lẽ trời đă về chiều, nhưng không có dấu hiệu ǵ của buổi chiều cả. Cuộc đời chúng tôi cũng đang lúc chiều tà như cảnh núi rừng này vậy.
Thu th́ đang ước mong đường tịt để “quay” một cách hợp pháp, c̣n tôi th́ đang xốn xang bứt rứt v́ sợ đường tịt phải làm một tên “bê quay” bất đắc chí, riêng bác sĩ Cà Dom th́ nằm vơng hát hê hát hà không tỏ vẻ lo lắng ái ngại chút nào cả.
Tôi hỏi anh ta:
– Anh đang nghĩ ǵ đó ?
– Cái ăn.
– Cái ǵ?
– Xem cái ǵ ăn được th́ ăn !
– Có khô có muối có gạo rồi.
– Bấy nhiêu mà đủ à ? Tôi nghi phen này nằm lại ít ra là một tháng Cậu biết chưa?
– Tôi đâu phải thầy bói.
– Bói biếc ǵ, nhưng để rồi xem. T́nh h́nh này găng xi măng lắm. Nghe nói tốp đi trước ḿnh bị biệt kích xơi một cú nặng. Nguyên cả đội xích hầu Trung đoàn bị giết sạch, một tay Trung đoàn phó bi mất tích. Tôi nghi là bị bắt sống. Nếu bị bắt sống th́ nguy hiểm vô cùng. Kế hoạch hành quân lộ bí mật, nhất định nó sẽ chặn đường ḿnh. Thế là ḿnh treo vơng nằm đây đến mục dây vơng mới đi được.
Tôi thở dài. Thu lặng thinh. Có lẽ Thu không vui trong lúc đáng lẽ Thu phải vui, v́ nếu không đi được th́ phải trở lại về. .. Hà Nội, giờ đối với Thu về Hà Nội đâu phải là nhảy lên tàu điện mua cái vé hai xu rồi đứng treo tay trên nóc tàu nh́n phố xá diễn hành qua mặt ḿnh, chưa mỏi chân là từ Câu Giấy về đến nơi. Cho nên. theo tôi đoán th́ tâm sự Thu bời bời. Cứ đi một bước đi , một bước ngập ngừng nhưng phải đi vô mà đi làm ǵ, chính Thu cũng không xác định được, chỉ có đi ra là xác đinh được mục đích mà thôi. Ra để không bao giờ vô nữa.
Năm Cà Dom khuấy tan cái không khí vắng lặng mà thường thường nó là cái đống rơm đầy meo bất măn , ủ đến độ cho những tai nấm bất măn muôn màu mọc lên.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Năm Cà Dom nói:
– Thôi ḿnh đi kiếm ăn cái đi !
Tôi hỏi:
– Kiếm cái ǵ?
– Xách dao đi cái đă rồi sẽ biết ḿnh kiếm cái ǵ chớ nằm lắc vơng th́ biết kiếm cái ǵ, mà có muốn kiếm cái ǵ cũng không kiếm được ngoài mấy chú “đ̣n xóc”.
Rồi Năm Cà Dom bảo Thu:
– Thôi Công chúa Nương Mỵ Ê ở nhà nhé. Đừng có mếu nữa xem nó ê ẩm ruột gan lắm công chúa ơi !
Tôi bật cười. Thu cũng cười. Cái anh chàng này không hiểu sao mà cứ càng nói càng có duyên thêm. Ở đâu mà y lại nhớ cái tiếng Mỵ Ê và phóng ra trong lúc này vậy?
Nh́n gương mặt Thu đúng là “ê” thật.
Hai đứa xách dao ra đi như hai chàng hiệp sĩ xách đoản kiếm đi phiêu lưu trong miền hoang dă. Suy nghĩ măi rồi, không lối ra cho nên tôi cũng không buồn suy nghĩ nữa, miễn sao đừng sốt th́ thôi tới đâu th́ tới.
Hai đứa cứ đi lang thang dọc theo bờ suối, nh́n chỗ này ít cái, nh́n chỗ kia ít cái, chỗ nào cũng có người. Chúng tôi đi măi cho đến không c̣n người đóng trại nữa. Con suối lạnh buốt cho nên chúng tôi ít dám lội dốc nước và tránh ướt chân.
Tôi có cảm giác lạch suối như một làn máu bầm chảy ra từ một vết thương kinh niên.
Đi một chập thấy có mấy người chặn một khúc suối để tát bắt cá. Một chập lại thấy mấy người khác giở những ḥn đá lên để t́m bắt những chú cua. Những chú cua này đen như than và to bằng những chú cua cắn mạ ở đồng bằng Nam Bộ nghĩa là bằng ngón chân cái, nhưng trông nó khô khan man rợ chứ không có vẻ màu mỡ như cua đồng.
Đi một chập nữa, lại gặp một anh cán bộ quân sự. Anh này cầm trong tay một khẩu K54. Anh đi rón rén và nom xuống xem xét những trũng nước, như một chú c̣ soi những con cá dưới ruộng . Bỗng anh ta dừng lại rồi, đoàng! đoàng !
Nước tóe lên trắng xóa, văng vào cả mặt anh ta, vuốt mặt và càu nhàu, văng tục:
– Tao cho mày chết ! Đ. m ! Tao cho mày chết !
Rồi anh ta t́m măi cái ǵ ở chỗ anh ta vừa nổ súng. Chúng tôi hỏi ra mới biết anh ta bắn vào một đàn cá ḷng tong. Năm Cà Dom cười:
– Xạ thủ nhất hạng bên Tây
– Hạng nh́ bên ta! Tôi cười và hỏi anh chàng xạ thủ:
- Đồng chí bắn được mấy con rồi ?
– Đâu có được cái khỉ ǵ đâu ! Trông ḱa, nó chạy ngờ ngờ đó, bắn liền mấy phát mà không trúng ma nào cả.
Năm Cà Dom lôi tôi đi và nói:
– Cái thằng khùng.
– Sao?
– Cán bộ quân sự ǵ vậy ? Không hiểu qui luật của đường đạn chi cả. Bắn bừa như vậy, viên đạn có thể xẹt trúng ḿnh đấy ! Năm Cà Dom giải thích tiếp:
– Hồi kháng chiến chống Pháp, tôi cũng thấy một thằng cha bắn súng cái kiểu đó. Đó là thằng cha Thiếu lăng quân. Y đi cầu. Cá chốt bu lại rỉa. Thế là y móc súng bắn luôn một loạt remington. Viên đạn xẹt lên sượt trán may không thôi chết.
Không đợi tôi hỏi thêm, Năm Cà Dom tiếp :
– V́ viên đạn vọt ra khỏi ṇng súng đỏ như thỏi sắt nung, chạm vào nước gây ra một phản ứng rất mạnh, cho nên đường đạn không c̣n b́nh thường mà nó quặt sang hướng khác rất bất ngờ, ông văn sĩ hiểu chưa ?
Năm Cà Dom ngẫm ngẫm một lát rồi nói tiếp:
– Cũng như bây giờ ḿnh đang đi t́m cái ăn thơ thẩn dọc con suối này, nếu có thịt nai, thịt heo phía bên phải bên trái th́ ḿnh quay ngang ngay, ai cản cho lại.
Chúng tôi đang đi th́ thấy từ trên nguồn có hai người đi xuống. Họ cầm trên tay mấy cái ǵ giống như tàu hủ cau. Một người vừa bẻ ra từng mảnh và cho vào mồm. Tôi chưa kịp hỏi th́ Năm Cà Dom đă hỏi trước:
– Cái ǵ đó, cho tôi thử với.
– Cây đái ! Kia ḱa ! Thiếu ǵ đó !
Một người chỉ tay vào bụi rậm. Và tiếp:
– Hạ xuống mà ăn ! Coi vậy chớ ăn khá lắm. Giống in như cái củ hu cau trong ḿnh.
Tôi và Năm Cà Dom nghển cổ c̣ lên nh́n. Trong lùm rậm vượt lên những thân cây xám suông óng như thân cau, lá cũng giống như lá cau, nhưng nó lại không có buồng có trái. Cả một cḥm mươi cây như một bờ cau nho nhỏ ở quê nhà.
Tôi biết Năm Cà Dom cũng đang nghĩ như tôi về giống cây rừng này, nhưng Năm Cà Dom không nói chi cả. Anh ta không hay biểu lộ t́nh cảm về quê hương ra ngoài , trái hẳn với tôi, cái cây ngọn cỏ cái ǵ cũng làm cho tôi nhớ quê hương lạ lùng.
Năm Cà Dom nói phang ngang, có lẽ để gạt phăng đi cái t́nh cảm trong tôi mà y đoán biết:
– Đốn được một cây có mà hụt hơi.
– Nhưng muốn ăn th́ phải đốn.
– Cái gốc cây to quá cụ ơi !
– Sao mà to dữ vậy ?
– Xem ḱa. Tôi trỏ vào bụi rậm. Cái gốc đó làm sao ḿnh hạ cho nổi.
Năm Cà Dom nh́n tôi và cười:
– Sao cái gốc kia th́ hạ nổi ? Nhứt… nh́ kéo cưa mà !
– H́ h́… anh cũng hiểu rồi, lựa là phải hỏi.
– Th́ hỏi vậy thôi! Nhưng gốc kia hạ nổi th́ gốc này cũng phải hạ nổi chứ.
Chao ôi, bây giờ đứng lên ngồi xuống, ngồi xuống đứng lên cũng phải lượng sức ḿnh , nữa là chuyện đốn cả một cái cây to tướng như thế bằng lưỡi dao găm to bằng ba ngón tay và lụt như trành bằm. Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp.
Phải nghĩ xa mà tiết kiệm số khô và muối vừa giật được, chứ nếu chúng tôi biết rơ lúc đi và ngày đến như mọi khách b́nh thường khác th́ lựa là phải tiết kiệm làm chi ? Năm Cà Dom đă lủi vô bụi vạch đường chui vào sát gốc cây và ngoắc tôi:
– Vô đây nghiên cứu!! .
– Ngửa c̣n chưa xong nữa là “nghiêng. “
-Có khi phải nghiêng, nhưng chính là phải ngửa!
– Ǵ…
– Nếu mà cậu làm cha ở dọc đường này th́ con cậu sẽ tên là Trường Sơn hả?
Tôi giật ḿnh đánh thót:
– Cái ǵ cơ?
– Ừ th́ cái đó đó!
Tôi như bị bấm trúng mạch tim, tôi ậm ờ một chốc rồi trả lời.
– Nhưng mà theo luật ô-gi-nô th́ không có đâu.
Nhưng Năm Cà Dom là bác sĩ. Hắn đâu có dễ ǵ mà nghe lời tôi phân bua. Hắn nói :
– Lần đó th́ không sao, đúng rồi, nhưng lần khác th́ biết đâu đấy!
Tôi lại muốn căi nữa, nhưng Năm Cà Dom đă nói tiếp ngay:
– Tôi nói như vậy là v́ ông bạn văn sĩ ơi, có những trường hợp kỳ cục lắm. Người vô Nam hai năm đi chưa tới nơi. Đấy, ông bạn thấy chưa?
– Ǵ mà ghê gớm thế hả?
– Ủa, có thật mà. Tôi có quen một thằng bạn. Nó khỏe như vâm.Nó đi vô nam rồi trở ra dắt vợ vào.Nói đúng hơn là nó cơng vợ nó đi luôn. Nhưng đó chỉ là một trường hợp mà cậu không tài nào làm được. C̣n có trường hợp một anh bạn đi hoài không tới. .
Cứ hễ nó vô tới khu Sáu là bắt đầu đau, đau nằm đă đời, chữa bịnh không khỏi, cho nên bắt buộc anh ta phải quay ra. Năm Cà Dom kể tiếp:
– Nhưng số kiếp long đong, Trường Sơn nặng nợ, cho nên vào không thấu th́ lại ra, ra rồi lại đút đầu vào. Mà anh ta thiệt cũng liều. Nhưng kể ra th́ cũng không phải là liều, mà v́ nhớ nhà nhớ cửa quá sá, chớ ai không biết con đường này là con đường chết. Mà vẫn phải đi. Qua cái chết, t́m cái sống. Thế đó.
Thấy ông Cà Dom đi vào triết lư, tôi chêm thêm:
– Th́ đúng vậy cũng như chúng ḿnh bây giờ đây, nếu quê hương ḿnh là Lào Kay, Yên Bái th́ buộc ḿnh đi sau đít xe tăng ḿnh cũng chơi lại. Dễ ǵ ḿnh đi ! . . .
– Ồ tớ đă nói cậu không có giấu giếm mà ! Tớ đă bảo tớ về đến nơi là tớ nuôi ngựa đua liền ! Đó là nghề của tôi, c̣n bác sĩ là nghề bất đắc chí. Chớ không bất đắc chí à ? Tôi nói thật, từ ngày tôi biết cầm kim chích cho người ta tới nay tôi toàn gặp những ǵ đâu, thật khó chịu. Nhất là trên đường này. Cậu xem đó, mổ ruột thừa mà bằng lưỡi cạo râu. Hỏi chớ thế giới cổ kim ở đâu có trường hợp này ?
Tôi lủi vào ngồi với Năm Cà Dom bên cái gốc cây mà Năm định hạ xuống để ăn củ hủ. Tôi hỏi:
– Phải kỳ ḿnh được nghe vụ mố ruột thừa bên kia sông Bến Hải đó không ?
– Ừ, cái vụ đó chớ vụ nào, anh coi có chết người không ? Nếu anh là bác sĩ, anh lâm vào trường hợp đó th́ anh nghĩ thế nào
– Nghĩ thế quái nào được. Thôi bỏ đi, bây giờ th́ lượng thử sức xem có đốn nổi cái gốc cây này không ?
Năm Cà Dom hăm hở rút con dao găm mà Năm đă bao lần khoe là rất bén ra chém hai ba cái liền, rồi năm sáu cái tiếp nữa. Năm Cà Dom nh́n vết chém trên thân cây và lắc đầu. Năm Cà Dom thở ra và lại lắc đầu.
– Không được.
– Sao ?
– Thử đốn vài nhát rồi biết.
Tôi nh́n vết chém, rồi sờ vào đó. Vết chém như vết trầy trên da bị gai quào. Nó cứng như gốc cau. Rồi Năm mau mau lủi ra. Tôi cũng lủi theo. Tuy không được ǵ nhưng rất mừng. Thà nhịn c̣n hơn phung phí sức lực với gốc cây này. Đâu c̣n sức để mà phung phí. Ở đây thiếu tất cả. Chỉ có một cái thừa. Đó là tật bệnh, đói khát.
Chúng tôi trở ra bờ suối thả xuôi về. Tôi bỗng nom thấy một dáng gầy lóm thóm đi với bộ chân chằng hiu. Và đặc biệt mớ tóc bạc trắng như bông. Tôi gọi:
– Hoàng Việt !
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
[b](Độc giả nam nữ thân mến ! Tôi viết những ḍng này với ḷng yêu mến chàng nghệ sĩ tài hoa của đất Sài Thành ra đi kháng chiến chống Pháp đầu năm 1946. Có lẽ ngày nay vẫn c̣n đôi người yêu nhạc c̣n nhắc nhở tài danh Lê Trực đă từng làm rung lên hàng vạn trái tim nam thanh nữ tú bằng tiếng đàn son trẻ của Lê Trực đă hiện lên trên ngũ tuyến biểu của khúc ca “Tiếng C̣i Trong Sương Đêm” như những cánh bướm say t́nh. ..
Tôi đă vượt Trường Sơn cùng với Hoàng Việt tức Lê Trực xưa của đất Sài G̣n. Hôm nay cả Hoàng Việt lẫn Lê Trực đều đă nằm im dưới đất ở một miền nào không rơ địa danh, nhưng có lẽ người yêu nhạc vẫn c̣n giữ lại cái dư âm của “Tiếng C̣i Trong Sương Đêm ” như một kỷ niệm u buồn.
Vậy có thể những ngày cuối cùng của chàng nghệ sĩ mà tôi sẽ ghi lại trên con đường khổ ải kia, sẽ không đến đỗi làm mất th́ giờ của độc giả.)[/b]
Đích thị là anh ta rồi ! Hoàng Việt quay lại.
Hoàng Việt gọi tên tôi, rồi phá lên cười. Tiếng cười của chàng nhạc sĩ vẫn tếu lại vừa châm chọc.
Hoàng Việt nh́n thẳng vào tôi và Năm Cà Dỏm đang đi tới và nói:
– Chà chà! Cái bụng teo là trông thấy. Thu vô mấy nấc dây nịt rồi vậy ?
– Mới có vài nấc thôi !
– Vài mà mấy?
– Tức là từ hai tới ba…!
– Khỏi tập thể dục he .
– C̣n anh cái bộ bánh chè c̣n khua hết?
Rồi chúng tôi hỏi nhau ngay về t́nh h́nh của đoàn:
– Anh nằm lại đây hôm nào ?
– Nếu so với cậu th́ bằng nhau.
– Bằng nghĩa là sao ?
– Nghĩa là tôi đi trước nhưng rồi cậu cũng bắt kịp chớ sao ! Nghĩa là trong lúc cậu nằm th́ tôi đi, c̣n lúc cậu đi th́ tôi lại nằm.
– C̣n đứa nào ở lại với anh nữa không ? Tôi lo ngại hỏi.
– Không! Chúng nó đi mất mẹ hết rồi. Đứa nào thấy ḿnh đau, cũng lẩn đi hết. Ở lại mần chi với thằng già này ? Ở lại để khiêng để vác à ?
– À,quên nữa !
– Sao?
– Thằng Lâm c̣n khóc dọc đường không?
– Hôm nay nếu cậu gặp lại nó chắc cậu sẽ không nh́n ra nó. Nó c̣n bằng con nhái bầu thôi !
– Anh ở đâu ?
– Ở đằng kia ḱa.
– Quăng ” mấy cái tựa ” th́ tới !
– Không xa đâu ! Đi giỏi th́ tới trước mặt trời, đi chậm th́ tới sau mặt trời.
Hoàng Việt nói với giọng bắt chước người Thượng. Chúng tôi nhại lại cái câu công thức của những anh giao liên người Thượng mỗi khi anh ta bị khách gạn hỏi bao giờ th́ đến, mà cười x̣a với nhau.
Hoàng Việt hỏi.
– Miss Thu ở đâu?
– Ở với “moả”.
– Ui cha cha, tài tử giai nhân mê mệt he!
– Ghé tụi tôi chơi, anh !
– Cậu thiệt không hở, buông cái này bắt cái khác !
Rồi chúng tôi dắt ông bạn nhạc sĩ về lều. Lúc bấy giờ Năm Cà Dom mới đến trước mặt Hoàng Việt:
– Nhớ tôi không, ông bạn Lá Xanh ?
Hoàng Việt chớp chớp mắt nh́n Năm Cà Dom. Năm Cà Dom cười:
– Ông bạn đi Tây đi u nhiều quá rồi quên hết anh em.
Hoàng Việt vẫn nh́n Năm Cà Dom mà lặng thinh. Tôi xen vào:
– Năm Cà Dom!
– À ạ…Năm Cà Dom!
Hoàng Việt như vớ được một đầu mối trong kư ức, nhưng nó hăy c̣n mơ màng chưa phăng ra gốc được. Hơn nữa trên con đường này đầu óc minh mẫn của con người bị kí-ninh nhuộm vàng đâu c̣n sáng suốt mà nhớ nổi những kỷ niệm của thời kháng chiến chống Pháp đă lộn xà ngầu cùng với những sự việc mới như một mớ xà bần.
Năm Cà Dom trầm tĩnh và hóm hỉnh hỏi nhà soạn nhạc:
– Anh có nhớ lúc 307 xuống miền Tây và chúng tôi gặp anh ở Ô Môn không nào?
– À tôi có xuống Ô Môn một vùng gạo trắng nước trong của miền Tây Nam Bộ. Cảm t́nh lắm.
– Rồi kế đến chúng tôi đánh đồn Tây ở Bảy Ngàn.
– Vâng, chính nhờ trận đánh đó, tôi viết bài “Đêm Mưa Dầm”.
– Rồi sau đó chúng tôi xuống vùng Cà Mau, Bạc Liêu, đánh tàu ở Kinh Nhật Nguyệt.
- Trận đó… Hoàng Việt bỗng kêu lên vỗ đánh bốp vào bắp đùi:
– Tôi nhớ ra rồi. Kinh Xáng Nhật Nguyệt. Trận đó tôi nhờ anh mang cái ” ba-lô-ma ” của tôi phải không ! Ôi chao ! Thiệt là gặp lại anh bất ngờ. Ừ ừ, có những người chiến hữu ḿnh tưởng đă chết mất từ lâu, chẳng ngờ c̣n sống gặp lại ḿnh.
Hoàng Việt tiếp:
– Trận đó, ḿnh bị Tây rượt nột quá mà trước mặt th́ con Kinh Nhật Nguyệt rộng mênh mông c̣n ḿnh th́ toàn “lội chó. ” Thế mới biết tài Năm Cà Dom. Gớm thật.
Hoàng Việt nói với tôi:
– Sông rộng thế mà anh ta một tay cầm ba khẩu súng trường giơ lên, một tay bơi xốc đứng.
Tôi cười:
– V́ thế mới có danh hiệu Cà Dom.
Hoàng Việt ngoặt sang ngay vấn đề ăn uống:
– Này, các cậu ăn uống thế nào ? Ủa Miss Thu đâu rồi ?
Tôi đáp:
– Tụi tôi vừa mới cướp giật được một mớ cá khô. Anh c̣n gạo không? Đem lại đây nấu cơm, c̣n thức ăn th́ tôi bao cho một bữa.
– Bao có lủng không đó !
– Không sao đâu, cứ tự nhiên như một vị “khách… không mời mà đến. “
Hoàng Việt vui vẻ:
– Nhưng đăi món ǵ mới được chớ ?
- Thịt ḅ bảy món được không?
– Chà ! Dân Sài G̣n hả ông bác sĩ ?
– Không, Hóc Môn! C̣n anh ?
– Sài G̣n chánh cống con nai chà !
Hoàng Việt lại vui vẻ:
– Bỗng nhiên ông bạn làm tôi thèm rỏ dãi v́ cái món thịt ḅ đặc biệt đó. Kỳ thật, cái thằng cha này.
Hoàng Việt lên vơng của tôi ngồi đu đưa. Và cười như nắc nẻ:
– Hay thiệt! Ở giữa chốn này mà nói chuyện thịt ḅ bảy món th́ vui thật ... Hắc hắc… chỉ tiếc cái là không có thực thôi…
Hoàng Việt là một con người hồn nhiên. Sống trong khung cảnh nào cũng vui vẻ bô lô ba la như vậy.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Hoàng Việt là một nhạc sĩ có tài, nếu không nói là nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Văn Cao đă ngợi khen anh chàng này khi anh ta đi học nhạc ở ngoại quốc về và cho biểu diễn bản nhạc giao hưởng Quê Hương ở nhà hát lớn Hà Nội. Cộng sản cũng thừa biết rằng anh chàng này có tài, nhưng vẫn bạc đăi anh ta như thường.
Một cái anh chàng mà sáng tác nổi một bản giao hưởng (symphonie) như thế đâu có phải là có nhiều, mà là hiếm có, chưa có từ trước tới nay ở xứ Cộng sản miền Bắc. Ấy vậy mà… khi về Nam, Hoàng Việt cũng quảy ba lô mang dép râu lội Trường Sơn như đám cá kèo lóc nhóc.
Hoàng Việt cũng lănh một lít muối, một lon khô, một túm thuốc và quần thô áo vải nhúng nước, ướt mưa, nặng như sắt !
Vậy mà Hoàng Việt không thắc mắc chi cả. Cái lốt nhạc sĩ, anh ta quẳng đi qua một bên, làm một người Nam Bộ tha hương lâu ngày, nay được dịp may trở lại quê hương, bất chấp mọi việc. Trong lúc đó th́ không thiếu chi những vị dây mơ rễ má với các ông lớn, nhờ chạy cửa sau mà được đi ” mé bay. “
Các bạn cứ thử nghĩ xem, một con người như vậy mà lại mang bị gậy, lội Trường Sơn. Trong lúc người ta luôn luôn bô bô cái mồm đề cao văn nghệ hết mức (để khai thác khả năng phục vụ chánh sách Đảng) .
Anh ta đi như một thằng lính tải, lẫn trong đám vô danh. Nhưng không riêng ǵ anh Hoàng Việt mà cả bọn ” kỹ sư tâm hồn ” ma, khác chúng tôi, anh nào anh nấy cũng thế thôi.
Hoàng Việt ốm tong ốm teo, một người Việt Nam loại bé, chỉ có cái hồn nhiên và mái tóc bạc là cái hấp dẫn nhất trong người anh. Ngoài ra th́ c̣n mấy ngón tay nhuộm nhựa thuốc vàng cháy.
Anh ra đi phấn khởi hăng hái thực sự, vừa đi vừa cười nói râm ran, cười như nắc nẻ. Anh vui vẻ nói oang oang lên: “Tao về tới nơi th́ năm sau tháng này chỉ Bảy tụi bây (tức vợ anh) sanh một thằng con trai đặt tên là Lè Tương Phùng ! “
Anh đi dọc đường gặp cái ǵ cũng lượm, và có một sự giải thích rất hợp lư nên anh tự cho phép ḿnh nhặt tất cả những thứ ấy gắn vào ba lô. Anh nhặt cái hộp lon thi bảo: “đây là một dụng cụ toàn năng dùng vào chuyện ǵ cũng tốt cả, múc nước, nấu cơm, ca uống nước, dụng cụ nhạc! “
Anh nhặt một sợi mây với sự giải thích: “bỏ sẵn trong ba lô đó có nặng bao nhiêu đâu, khi cần, nửa đêm mắc cái tăng quờ đâu ra!”
Anh nhặt một cái mẩu ni lông th́ cho rằng “nó sẽ đắc dụng vô cùng . Tụi bây cứ quen ngồi trên ba lô hỏng đồ đạc hết ! ”
Cho nên cái ba lô của anh ph́nh to hơn người anh và đầy râu ria phụ tùng lóc cóc leng keng ở bên ngoài. Vậy mà c̣n những thứ khác không thể dồn hết vào ba lô phải mượn đám thanh niên mang dùm. Cái áo ni lông hay da không biết anh mua được ở đâu chứ Hà Nội th́ không có bán. Anh mang về cho thằng con trai. Cũng may là cái áo mất dọc đường chứ đem về cho thằng con trai th́ chắc nó càng thấy phụ tử thâm t́nh .
Cái Radio của ông thầy dạy nhạc anh ở Bungarie. Cả hai thứ này đều thừa thăi ở Sài G̣n nhưng tội nghiệp anh đi xa Sài G̣n lâu quá , anh muốn đem về cho con một chút t́nh cha. Ngoài ra c̣n cái băng nhạc bài “Quê Hương Giao Hưởng” của anh. Nhưng cậ̣u mang dùm lại sốt rét ác tính chết dọc đường. Cậu này là họa sĩ tên Nguyễn Văn Núi.
Đấy rành rọt chi tiết về một con người mà tôi quen không nhiều chứ ít ra cũng hai mươi năm. Cho nên gặp lại Hoàng Việt tôi rất mừng không ngần ngại đăi thức ăn cho anh (c̣n cơm th́ tự túc) một cách thẳng thắn như thế đó.
Chúng tôi nấu cơm. Hoàng Việt cũng về lo nấu cơm để mang lại. Năm Cà Dom hỏi tôi:
– Thằng cha có tài vậy mà bắt đi bộ như ḿnh à ?
– Ai?
– Hoàng C̣ chớ ai!
– Suỵt, đừng gọi Hoàng C̣, ổng la dữ lắm.
– Sao la ? Việt cũng nh́n C̣ vậy chớ khác ǵ ?
– Ổng đổi tên rồi.
– Tên ǵ?
– Lê Quỳnh.
– Tại sao phải đổi?
– Vi hai lư do. Lư do thứ nhất là trên đường đời này không ngờ lại có một thằng khác cũng tên Việt đi gần bên cạnh anh hằng ngày mà lại là một thằng xạo, một thằng láu cá vô dụng mà lại hưởng tiêu chuẩn cao hơn anh trong lúc đi đường.
– Là cái thằng chó chết nào kỳ cục vậy ?
– Là cái thằng Trí Việt đại úy quân đội dốt đặc cán mai mà làm biên tập Điện Ảnh đó. Nó mê con Thu lắm. Nó giả đau nằm lại trạm chờ con Thu để mong nhờ hoàn cảnh rừng núi mà hoạt động có kết quả, nhưng Thu vẫn không yêu như thường , cho nền hắn lủi mất rồi. Có thể nay mai anh ta lại gặp ḿnh, rồi tôi giới thiệu cho mà tiếp xúc.
– Chao ôi ! Văn nghệ của ông nhiều nhân vật đặc biệt lắm.
– Đó, v́ thế cho nên cụ Hoàng ta mới thay danh đổi tánh. Nhưng c̣n một lư do nữa là… cụ Hoàng sợ lộ bí mật.
Năm Cà Dom ngẫm ngẫm một cuộc rồi nói:
– Đi giải phóng Miền Nam, la om trên đài nghe oai linh hùng vĩ lắm, thế mà trên mặt đất th́ lén lút như đi ăn trộm. Đi đâu chẳng dám đi đâu, c̣n tên họ th́ lại đổi hết. Nói chuyện th́ xầm x́ rỉ tai chằng dám nói to với nhau, giống tuồng bọn móc túi !
– Nói bậy cậ̣u !
– Đúng vậy chớ, bậy sao được !
– Vậy sao cậ̣u c̣n đi, c̣n đổi tên ?
– Chứ không đi đường nào về xứ được ?
– Vậy trên đường đi này cậu lấy tên ǵ ?
– Cà Dom!
– Nhưng có ai gọi bằng cái tên đó đâu ?
– Bây giờ th́ tôi không cần, ai gọi ǵ cũng được, miễn tôi đi lọt vô Nam th́ thôi.
– Đôi khi phải chịu nhục cậu ạ !
- Ứ hự!
– Tôi đây họ xét đi xét lại, “nghiền úp nghiền ngửa” mất ba năm trời mới cho tôi về đây.
– Tôi như cậu th́ tôi không về làm mẹ ǵ , ở ngoài Bắc như các cậu, viết văn ngồi mát ăn bát vàng tà tà, về làm mẹ ǵ cho nó mệt. Ở đâu mà viết chẳng ra văn ?
– Cậu nói dễ ăn quá !
– Chớ sao.
Tôi cười:
– Cuộc đời của ḿnh, ḿnh không c̣n chủ động nữa, mà do ai đâu quyết định. Tôi bực ḿnh lắm nhưng mà biết làm sao ? Có lần tôi đă nói thẳng với thằng cha tổ chức cơ quan: nếu kỳ này mà không cho tôi về, là tôi cưới vợ. Và khi tôi đă cưới vợ rồi th́ tôi không về nữa. Có làm ǵ tôi cũng không về.
Năm Cà Dom cười kh́ kh́:
– Trung thành với rau muống luộc dữ vậy ? Rau muống quấn chân hả ?
– Không phải vấn đề giản đơn là rau muống quấn chân nhưng đây là vấn đề nhân đạo.
– Nhân đạo làm ..?
– Nhân đạo đối với con người, với ḿnh.
– Nghĩa là sao chớ ?
– Cậu có nh́n thấy ở đâu có t́nh trạng như nước ḿnh không ?
- Nhưng mà sao mới được chớ ?
– Đất nước chia đôi, chồng Bắc vợ Nam ! Vợ trong Nam chờ đợi mười mấy năm trời, chồng ngoài Bắc cũng lóng ngóng mười mấy năm trời, kêu trời không thấu.
Năm Cà Dom cười:
– Khặc khặc ? V́ thế mới có câu thơ “đất Bắc anh ǵn con tí ngẳng, trời Nam em giữ cái bề hê” là vậy đó.
Tôi không để ư tới sự pha tṛ của bác sĩ Cà Dom mà tôi quạu thực sự . Tôi nói:
– Giữ với ǵn cái con mẹ ǵ. Đàn bà mà bỏ đi mười lăm, mười bảy năm thời trẻ trung th́ c̣n ǵ nữa.
– Chưa tới mười lăm năm, mới có mười bốn năm thôi, 1954-1967 mà !
Tôi nói:
– Bây giờ th́ mới mười bốn năm thôi, chứ tương lai th́ vô hạn định. Trời ! Vậy mà hồi được người ta đem vợ con theo lại không cho.
– Để tàu rộng người ta chở lúa ra Bắc chớ !
Tôi nói tiếp:
– Anh có thấy cảnh chia ly đó không ? Cha con không biết mặt nhau. Vợ chồng chờ nhau từ tóc xanh đến tóc bạc! C̣n chờ làm ǵ?
– Ư, có nghĩa lắm chớ. Chờ ổng về bả ngoáy trầu cho ổng ăn!
Tôi lại tiếp:
– Cho nên tôi nhất định không lấy vợ Bắc, mà chờ ngày về Nam. Nhưng hễ không cho tôi về, tôi cưới vợ rồi th́ tôi không về nữa.
– Cho rau muống quấn chết luôn.
– Nhất định, chớ có vợ con rồi về Nam bỏ vợ bỏ con ḿnh ngoài đó mà chịu được sao ?
Năm Cà Dom cứ nói toạc ra:
– Úy chu choa, anh Nam Kỳ mà lấy Bắc Kỳ th́ đẻ con khôn nhất trần đời. Tôi thấy rất nhiều rồi đó !
Năm Cà Dom ngẫm ngẫm một chốc rồi nói:
– Nói đùa vậy chớ tôi có khác chi ông bạn, gần bốn mươi tuổi đầu rồi c̣n “solo” đây , không thấy sao. Đi bướng về Nam để có mà “hốt ổ” cho kịp kẻo tụi nó về trước chúng nó hốt hết.
– Anh Hoàng Việt làm ǵ mà lâu thế nhỉ ? Cơm ḿnh chín từ lâu rồi mà ảnh chưa xong à ?
Tôi bảo:
– Thôi cậu ở nhà tôi đi t́m lăo coi. Cái lăo này gà mờ lắm chỉ được cái tài “Tiếng C̣i Trong Sương Đêm “ thôi. C̣n ngoài ra th́ vô tích sự lắm !
Rồi tôi đi t́m Hoàng Việt.
Kể th́ gặp lại ông cụ non này cũng vui. Có người ḿnh nói chuyện nhưng có một cái khổ khác cụ thể hơn , là anh bạn yếu quá. Đi chung lại mệt cho ḿnh. Đă phải d́u cô Ba Lê rồi, lại đèo thêm một ông Giao Hưởng nữa sao xuể ?
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
Hoàng Việt chiếm đóng một nơi rất hiểm hóc. Có tảng đá, có hang và có cả hai thân cây rất vừa làm để mắc vơng. Tôi gọi:
– Anh Hoàng!
Hoàng Việt quay trở lại giụi mắt nh́n tôi, nước mắt nước mũi ṛng ṛng cặp mắt đỏ chạch. Tôi hỏi:
– Làm cái ǵ lâu vậy?
– Th́ có làm cái ǵ đâu. Có cái nấu ga-men cơm mà năy giờ chưa xong chớ đâu có làm cửa làm nhà ǵ.
Tôi nh́n vào bếp của anh. Củi leo heo vài cành. Mà của đáng tội toàn củi mục. Cho nên nhóm không cháy. Trong bếp chỉ có ít lá tre c̣n ga-men cơm th́ chưa có hơi tí nào cả. Hoàng Việt lại lắc đầu:
– Lửa ǵ mà nhóm măi không cháy he?
- Thôi xách cái cà mèn lại đằng tôi, tôi nấu cho. Nấu giờ này là nấu trộm mà anh cứ dềnh dàng măi như vậy giao liên nó bắt gặp nó chọc lủng nồi của anh ngay !
– Ừ nhỉ ! Nhưng mà muốn đi đằng đó th́ tôi phải cuốn hết đồ đạc quảy đi chứ nếu để ở nhà th́ nó “mượn không thời hạn” hết ráo.
– Ừ th́ đi.
Thế là Hoàng Việt quảy cả tăng màn ba lô đi theo tôi. Trở về đến nơi th́ nghe tiếng Thu và Năm Cà Dom căi nhau léo nhéo. Vừa trông thấy tôi, Năm Cà Dom đă vọt miệng nói ngay:
– Mất mẹ nó hết thức ăn rồi.
-Thức ăn ǵ?
– Khô cá, khô voi, muối.
– Thế à ? Tôi tâng hẩng, đứng chết trân, chẳng hiểu ra làm sao cả Thật t́nh tôi không hiểu ra sao cả.
Tôi hỏi Thu:
– Chớ c̣n em đi đâu ?
– Th́ em nằm bên vơng em ngó sang.
– Ngó sang sao nó ăn cắp mà không biết ?
Năm Cà Dom đỡ cho Thu:
– Ngó sang nhưng ngó lâu quá th́ mỏi mắt… mỏi mắt rồi th́ mí mắt sụp xuống nhắm lại luôn. Thế đó.
Hoàng Việt cười khè khè:
– Thật là tài dách he ! Giữa ban ngày mà…
– Thôi cũng được. Vậy ḿnh đăi ông bạn ḿnh bằng món b́nh thường. Năm Cà Dom vui vẻ nói :
- Gặp nhau đây liên hoan cái mồm thôi cũng đủ vui rồi.
– Nào dọn ra đi ! Tôi bảo.
Tôi cố làm ra vẻ tự nhiên để lướt qua nỗi đau đớn trong ḷng. Mất bấy nhiêu thức ăn đó trên đường này bằng người ta mất cả lạng vàng trong hoàn cảnh bình thường. Có khi c̣n hơn.
Tôi dọn cơm ra. Nói là dọn vậy, nhưng có cái ǵ đâu, ngoài mớ thịt kho mặn mà tôi c̣n giữ được một phần, rất kỹ, dù thèm cách mấy cũng không mang ra ăn, định bụng để khi nào đau đắng miệng mới dùng tới. Nhưng hôm nay, tôi mang ra “đăi” Hoàng Việt là v́ cụ Hoàng đă từng đăi tôi nguyên cả một cái lạp xưởng lúc đi được vài tuần lễ.
Một cái lạp xưởng ở giữa Trường Sơn, đó là một điều vô cùng bất ngờ, không thể đào bới ra đâu được. Ăn cái lạp xưởng đó, tôi tưởng đời tôi không bao giờ c̣n được hưởng cái ǵ, món ǵ, vật ǵ ngon lành, thú vị, khoái chí hứng thú hơn nữa. Bây giờ nh́n lại cụ Hoàng tóc bạc trắng dựng đứng lên như bọt suối mà đôi má thỏn, cái cầm nhọn hẳn xuống như một giọt chấm than, mà cái mồm hốc hác không ngậm kín lại được cứ phô hai hàm răng đầy nhựa thuốc lá vàng ệch ra, tôi nhớ cái lạp xưởng lúc trước vô cùng. Giá bây giờ mỗi đứa được một cái th́ chắc tất cả những nét thảm thê đó sẽ biến đi .
Hoàng Việt sẽ lại là anh chàng nhạc sĩ tuy có tuổi nhưng vẫn bảnh trai, nho nhă, các cô nàng ở thủ đô nom thấy phải mê v́ sắc kính v́ tài. Nhưng bây giờ th́ không có lạp xưởng cũng không có cái ǵ cả, cho nên Hoàng Việt nhạc sĩ số một của Nam Bộ kháng chiến và người nhạc sĩ đạt tới đỉnh cao nhất của nền âm nhạc Cộng sản ở xứ Bắc Kỳ, trông thiệt là gớm ghiếc quá !
Cái đầu chờ vờ như con cá lóc ghe. Tay chân tóp lại và dài ngoẳng như tay vượn, quần áo rộng thùng th́nh. Ấy vậy mà vẫn c̣n tếu, tuyên bố tháng này năm sau chị Bảy mày,. . . nọ kia ! Thấy tôi giở lon kho lưng đến phân nửa, Hoàng Việt kêu lên:
– Cậu phí quá! Chưa ǵ mà đă hết từng ấy hàng chiến lược rồi.
– Chưa ǵ là sao anh Bảy ?
– Tức là mới được đâu gần gần… nửa đường thôi.
– Thế à.
- Thế à thế ừ ǵ nữa.
– Th́ cho là nửa đường đă qua rồi. Ḿnh hết một nửa lon kho mặn cũng là hợp lư chứ sao.
– Cái “nửa”sau này bằng ba cái “nửa” trước cậu ạ. Đừng có dốt quá như vậy. Bây giờ cậu nhớ lại xem. Nếu con Phương c̣n đi chung với cậu thử xem cậu c̣n có dắt vô rừng rậm như lúc mới đi nữa không?
Tôi nháy mắt cụ Hoàng bảo có Thu. Thu đang nấu cơm đàng kia. Hoàng Việt trừng mắt nh́n tôi rồi lại gầm lên, tỏ ư hiểu tôi đang có “vấn đề” với cô Ba Lê Thu:
– Cũng nữa hè ! Nó kiểm thảo, nó bắt hứa là chấm dứt yêu đương ở trong trường mà thoát ra một cái là cứ thế!
Tôi cười:
– Chíp ! Con người không có sự đó , như cục đất không mặt trời vậy anh Bảy à !
– Nhưng mà để cho cặp đầu gối c̣n nước nhờn mà co vô dăn ra với . Nó đóng vôi lại một cái là bỏ mạng !
Thấy tôi sớt kho mặn nguyên chất ra, anh Bảy kêu lên:
– Ấy chết!
– Ǵ thế anh Bảy ?
– Trộn muối vào chớ ăn puya (pur) thế này à ?
– Th́ lâu lâu mới đem ra đăi khách.
– Thôi đừng làm thế, nó phí đi. Để dành lúc đau hăy mang ra xài. Đau trên đường này khổ lắm. Ai lo cho. Chị Bảy cậu mà nó biết tôi đi đường như thế này nó không đồng ư đâu.
– Sao anh không xin đi máy bay ?
– Máy mẹ tôi chớ máy bay.
– Cỡ anh là thừa sức đi mà ! Chớ ông chủ trại cưa Kim Hữu (tức Lưu Hữu Phước ngủ có tật ngáy rầm trời như cưa cây nên anh em đặt ông ta là trại cưa Kim Hữu. V́ khi vô trường đi B, ông thay tên là Kiến Hữu) đi máy bay đó th́ sao ?
– Ổng là vụ trưởng ! Ổng là người ” có chức , ” cậu hiểu chưa ? Hoàng Việt nhấn mạnh chữ “có chức ” một cách cố ư :
– C̣n ḿnh là thằng cán bộ quèn lo mà cuốc bộ cho có. Được về quê đây cũng đă là mang ơn mưa móc và hồng ân của Chúa Thượng rồi !
Bữa cơm không có ǵ đáng kể cả. Cơm xong, Hoàng Việt nấu nước sôi rồi lấy trà ra châm và mời tụi tôi. Hoàng Việt quay sang vui vẻ tṛ chuyện với Thu, c̣n tôi và Năm Cà Dom th́ đi sưu tầm số chiến lợi phẩm bị ăn trộm.
– Sao ? Chân cẳng thế nào ? Hoàng Việt hỏi.
– Đau quá anh ơi.
– Liệu có đi đến nơi không cô em ?
– Chưa biết anh ạ.
– Cố mà đi chứ.
– Các anh th́ nên cố, c̣n em. . .
– C̣n em th́ không à?
Thu lặng thinh.
– Tại sao bây giờ em có ư nghĩ lừng chừng như vậy?
– Các anh đi về quê, c̣n em th́ càng đi xa quê.
– Thế ra em nghĩ rằng quê anh và quê em là hai quê à?
– Tất nhiên.
- Tại sao? .
- Nam là một. Bắc là một !
– Nam Bắc một nhà mà !
[b]– Khi em ở ngoài Bắc, ở tại nhà em th́ em nghĩ như vậy, nhưng khi em đi một bước rời Hà Nội th́ em lại nghĩ khác ngay.[/b]
– Sao bấp bênh vậy ? .
– Có những cái anh xa rồi anh mới hiểu.
– Tại sao vậy ?
– Đối với em có những cái như vậy. Ví dụ có khi em múa một điệu rồi, người ta hoan nghênh ầm ĩ, em chẳng thấy ǵ cả, không biết rằng ḿnh đã biểu diễn một tiết mục đặc sắc, mà chỉ gục đầu vào một cô bạn mà khóc, hoặc nếu không khóc th́ cứ bàng hoàng lâng lâng không có cảm xúc ǵ cả. Nhưng sau đó có khi một giờ , có khi một tuần, có khi một năm, em nhớ lại cái điệu múa mà ḿnh đă biểu diễn, nhớ từng “phi-guya” một, từng cử chỉ một, cười ngạc nhiên, ngạc nhiên, em không hiểu sao em lại làm được những động tác đó .
Thu ngừng lại nuốt ực, rồi tiếp ngay như những ư nghĩ đă đến tràn đầy óc Thu. Thu nói tiếp:
– Cũng như khi em ở Hà Nội th́ em đâu có nghĩ rằng những t́nh cảm của ḿnh sẽ biến động ra sao khi em phải xa Hà Nội một ngày một tháng hay một năm?
Hoàng Việt ngồi thừ người ra. Hoàng Việt cả tôi đều công nhận rằng Thu đúng là một cô gái thông minh, t́nh cảm rất tế nhị và chân thành .Hoàng Việt cũng có những t́nh cảm đối với Sài G̣n như Thu đối với Hà Nội. Chính v́ thế mà anh mang cái tấm thân c̣m cơi của anh trên con đường chết tiệt này.
Còn tiếp ...
-
Xương Trắng Trường Sơn
Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.
Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!
........................
[b]Quê hương! Đó là bản giao hưởng thứ nhất cũng là bản cuối cùng của anh. Đó, Cộng sản dùng một con người như Hoàng Việt như thế đó ! Để rồi khi anh chết đi, thân thể tan tành, chỉ c̣n một chỏm tóc bạc th́ ở ngoài Hà Nội làm một cái lễ truy điệu thật to , đọc một bài diễn văn tràng giang đại biển, khóc khóc, mếu mếu, c̣n khi anh ta c̣n sống th́ xem như con chó, đi lang thang trong rừng Trường Sơn không có một tấc sắt trong tay, không có ai giúp đỡ với cái chân què mưng mủ sưng to lên như cái bánh ḅ. Mỗi lần qua suối ai hảo tâm th́ cơng dùm, không hảo thời thôi, ông bạn nhạc sĩ số một đó cứ lội bơi và đi cà lỉa với cái chân què.[/b]
Hoàng Việt bất thần bảo Thu.
– Đâu xăn quần lên coi.
– Cái anh này.
– Tôi nói thật mà, cô em !
– Anh kỳ quá, Hoàng Việt chứ phải Trí Việt sao ?
– Ừ th́ Hoàng Việt chứ Trí Việt làm sao mà dám bảo Thu làm như vậy ?
– Anh kỳ quá hè!
– Cha chả, cô em bị lai Nam Bộ rồi đó nhé.
– Lai ǵ?
– Lai cái tiếng “hè “đó.
Thu ngồi tưng hửng. Hoàng Việt lại cười:
– Có lẽ cô đă Nam Bộ hóa hồi nào cô không hay phải không ?
– ….
– Bây giờ trong máu cô có chất Nam Bộ rồi đấy nhé.
Thu nh́n xuống đỏ rừ đôi má. Hoàng Việt cười:
– Cho anh Bảy xem cặp chân thần kỳ của cưng chút cưng !
– Thôi mà anh… kỳ cục quá hà !
– Anh Bảy muốn xem xem vô Sài G̣n Thu c̣n múa “ba lê” được nữa không ? Hay vô tới đó rồi chỉ c̣n “lết, ba lết ? ” hả ? Cha chả… cặp chân của Thu đem mà mài trên đá tai mèo này lắm lúc tôi cũng xót ruột quá. C̣n cái khỉ khô ǵ mà lê với lết ?
Thu bỗng ̣a lên khóc, úp mặt vào hai bàn tay.
– Úy chết. Sao vậy Thu ? Ḱa, coi ḱa.
Hoàng Việt có tính hay trêu đám con gái, mà trêu rất nghệ thuật, cho nên có đứa bị trêu th́ cười lăn ra mà thích thú c̣n Thu th́ khóc ̣a lên. Hoàng Việt không ngờ Thu lại khóc như vậy. Hoàng Việt định đùa chơi chút thôi chớ đâu có ngờ đó chính là tâm sự của Thu mà lâu nay tôi không dám đụng vào.
Hoàng Việt hơi hoảng, cố vuốt ve Thu:
– Nói vậy chớ đâu có sao. Chân cẳng có rêm chút đỉnh vô trong đó ḿnh tẩm bổ vài… tháng thế là đâu lại vào đấy, có ǵ đâu. Rồi th́ đôi má căng lên, đôi chân tṛn như ống chỉ, Thu lại lên sân khấu với đôi chân ngà ngọc chớp lóe như sao sa. . .
Thu vụt vén ống quần lên và nói:
– Sao sa đây này, anh xem đây này.
Hoàng Việt nh́n đôi chân của cô con gái mà Hoàng Việt đă quen mắt nh́n ngắm trong lúc cô nàng biểu diễn cũng như đôi lần lội suối trên đường này. Cặp chân gầy đi, và đầy vết sẹo thâm thẩm, chẳng khác da con lươn bông.
Hoàng Việt quay mặt đi lắc đầu, tang thương quá. Nghệ thuật ǵ nữa. Đôi chân đă trở nên một nỗi khố tâm cả cho Hoàng Việt.
Hoàng Việt thấy ngồi lâu không ổn cho nên chàng nhạc sĩ ṛm quảy đồ lề rút lui với cái chào của một bá tước gửi lại công chúa Trường Sơn. Chàng gập ḿnh xuống ba mươi lăm độ, đặt bàn tay phải trên tim, và lại giơ lên một cách cung kính. Xong chàng ba chân bốn cẳng chạy t́m tôi mà kể lể hết mọi sự t́nh. Rồi chàng nói:
– Tôi lỡ tôi đụng nhằm trái mít ướt rồi. Nó đang sút củi đổ ṭe loe ra đó. Vê mà gom mà hốt vô!
– Cái ǵ vậy anh?
– Nó khóc hu hu đằng đó.
– Sao vậy ?
– Th́ có ǵ đâu, tôi thấy cặp chân của cô ta thảm hại quá…
– Thôi chết rồi. Cái vết thương của người ta mà anh đụng vào mần chi ?
Hoàng Việt cười khè khè.
– Vết thương “ṇng” hả ? Vết thương mà hóa công đă rạch th́ kim chỉ phàm cũng khó nỗi vá may !
– Ở đâu mà ông nhạc sĩ lại gẩy Điệu Đàn Muôn Thuở của Lê Văn Trương vậy ?
– Khè khè. Thôi, tớ về nhé. Thỉnh thoảng rồi tớ sang.
Tôi trở về lều. Thu vẫn c̣n ngồi khóc. Tôi biết tính Thu. Ức mà khóc cũng có, nhưng giá đáng khóc vài giọt th́ đủ rồi, nhưng lại khóc đầm đ́a ra cho có vẻ bi đát thêm lên. Mà nếu tôi có an ủi dỗ dành th́ nàng lại làm già nên tôi hỏi sang chuyện khác, xoáy vào cái khuyết điểm của Thu vừa rồi:
– Sao em lơ là để cho mất khô và muối hết vậy ?
– Em có ngờ đâu?
– Không ngờ ǵ, đă bảo là nó ăn cắp như rươi mà ! Chứ em không thấy bao nhiêu vụ trước mắt đó à ?
Thu lặng thinh.
Tôi biết như thế là vừa đủ để đắp một cái đê ngăn con sông Hồng nước mắt cho nên tôi ngưng lại ngay chớ nếu xoáy sâu vào thêm nữa th́ nước mắt lại trào ra và cái đê nọ lại vỡ ngay v́ một lư do mới.
Còn tiếp ...