Hỏi: - Ngày giờ... “lịch sử” ấy là ngày nào?
Đáp: - Khoảng 2 giờ chiều (giờ địa phương) ngày 7/3/1982. Hoàng Cơ Minh gầy g̣, mảnh khảnh trong bộ bà ba đen, râu ria cũng gần giống ... già Hồ! Đầu tiên, “ông Chín” (bí danh của Minh) tiến đến ôm chặt, bắt tay Phạm Văn Liễu và tươi cười nói:
“Đây là Chiến Khu của chúng ta, xin mời tất cả các chiến hữu đi theo tôi”. Rồi ông ôm từng người và giới thiệu các chiến hữu trong Bộ Tham Mưu gồm có thiếu tướng Tư Lệnh Lê Hồng, bí danh Đặng Quốc Hiền, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Văn Lộc, Hoàng Nhật, v.v... Đi khoảng 100 mét th́ đến “đại bản doanh” (sic!) của Mặt Trận. Đây là một khu đất rừng khoảng hơn một mẫu tây, cây nhỏ và cỏ tranh được dọn sạch, chỉ c̣n rải rác một số cây cổ thụ. Mọi người được dẫn vào “hội trường” là một căn nhà mái tranh, vách tre dài khoảng 15 mét, rộng 5 mét. Cuối nhà là một bàn thờ Tổ Quốc làm bằng cây rừng cao khoảng 1 mét 30, trên tường có h́nh bản đồ Việt Nam đè lên lá quốc kỳ Việt Nam màu vàng ba sọc đỏ. Trên bàn thờ ở giữa là một lư hương lớn bằng đồng khói hương nghi ngút, hai bên có hai cây cắm nến (chandeliers) cũng bằng đồng, một bên là đĩa trái cây, một bên là một b́nh bông cắm các loại hoa rừng. Dọc theo chiều dài của các bức tường, treo rải rác những cụm hoa lan (orchids) đủ màu sắc. Đầu bên này căn nhà, đối diện với bàn thờ là lá quốc kỳ VNCH được ghim chặt vào tường. Giữa căn nhà, theo chiều dài là một bàn dài làm bằng thân cây rừng, hai bên có hai dẫy ghế dài cũng làm bằng thân cây c̣n cả vỏ. Đầu bàn hướng về phía trên bàn thờ là một ghế cá nhân có dựa tay cũng bằng cây rừng. Vào đến “hội trường”, Hoàng Cơ Minh ngồi trên chiếc ghế chủ tọa và mời tất cả các “đồng chí” an tọa hai bên. Ngồi cạnh Minh bên tay mặt là Liễu, bên trái dành cho tôi, người lớn tuổi nhất trong đám. Sau những lời chào sáo ngữ, Minh lại “vở cũ soạn lại” kể lể và phân tích những khó khăn Việt Cộng đương gặp phải nhất là vấn đề kinh tế lụn bại, mức sống của người dân sau 7 năm độc lập, thống nhất vẫn đói khổ, Việt Nam được xếp hạng là một quốc gia nghèo nhất thế giới nên dân t́nh oán trách, những phong trào cách mạng trong nước bí mật thành h́nh chỉ chờ hải ngoại “bắn súng lệnh” là họ sẽ nhất loạt đứng lên tiêu diệt bọn Cộng Sản khát máu. Đến phần phát biểu ư khiến, tôi hỏi vấn đề lương thực có đủ cho các anh em chiến sĩ th́ Minh đáp: “Nhờ tinh thần vượt mọi khó khăn, quyết tâm diệt Cộng giải phóng quê hương nên các chiến hữu cũng như cá nhân tôi, cơm th́ ngày được ăn với cá khô, một tuần phải xen kẽ một vài bữa cháo hoa với trứng vịt muối, đau ốm th́ chỉ có aspirin và tylenol. Nói đến đây, Minh vén ống quần lên cho tôi thấy từ đầu gối xuống đến mắt cá chân có nhiều mụn nhọt to bằng vẩy cá hay đồng quarter, rồi nói tiếp: “Chính bản thân tôi bị ghẻ lở như thế này mà cũng không dám bỏ tiền đi khám bác sĩ.” Hít một hơi thuốc lá, Minh lại nói: “Quần áo không ai đủ mặc, nhưng ai cũng vui vẻ hăng hái làm nhiệm vụ.” Tôi lại hỏi: “Sao không sắm lấy ít chiếc nỏ để anh em chiến sĩ săn hươi nai, cáo chồn... tưởng cũng giải quyết được phần nào vấn đề lương thực.” Minh cười: “Có chứ, thỉnh thoảng cũng hạ được hoặc heo rừng hoặc mang mễn, nhưng hàng ngày th́ có hai đồng chí có kinh nghiệm cao về “bẫy chuột”. V́ sợ chuột nghe thấy nói đến tên ḿnh sẽ không vào bẫy nên các anh em cứ phải nói trệch hỏi nhau”hôm nay được mấy ông chí, chứ không dám dùng danh từ “chuột”! Tôi lại hỏi có được sự trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của Hoa Kỳ không, th́ Minh trả lời: “Hoàn toàn không. Trước hết chúng ta phải tự cứu và phải làm được những ǵ cụ thể tốt đẹp mới mong người ngoài trông thấy rồi trợ giúp chúng ta.” Rồi ông phịa ra câu chuyện: “Nếu có tiền th́ công cuộc giải phóng quê hương rất nhanh, v́ cách đây không lâu có một tiểu đoàn địch, khoảng 300 người, liên lạc cho biết muốn đem cả vũ khí chạy về với chúng ta. Nhưng chúng tôi không dám nhận v́ tiền đâu mà nuôi họ ăn hàng ngày. Người nào không có quần áo, vũ khí th́ tiền trang bị vũ khí, quần áo mỗi người cũng phải tốn khoảng 200 mỹ-kim.” Rồi Minh kết luận: “Công cuộc giải phóng quê hương là nhiệm vụ chung của mọi người Việt Quốc Gia, tôi yêu cầu các chiến hữu khi trở lại Hoa Kỳ hăy dùng cơ quan ngôn luận kêu gọi đồng hương khắp nơi trên thế giới tiếp tay cùng chúng tôi th́ chắc chắn quê hương chúng ta sẽ được giải phóng một ngày không xa.” Sau khoảng 2 giờ trao đổi ư kiến mà đúng ra là để nghe “ông Chín” phịa ra những chuyện trên trời dưới biển, mọi người được mời tham quan một vài nơi như nhà bếp, sân tập dượt quân sự, ngôi nhà tranh nhỏ nơi “ông Chín” làm việc và ngủ, rồi ông dẫn đến một cái suối nước chảy rất yếu, cách “đại bản doanh” khoảng 100 mét, được gọi là “Suối Thiên Phù”, v́ - theo lời Minh - ở một khu rừng thiêng nước độc như thế này, bỗng có một ngọn suối nằm ngay bên cạnh Mật Khu th́ quả là thượng đế thương mà phù hộ cho những người chiến đấu v́ quê hương. Khi mặt trời đă bắt đầu lặn, chim chóc đă xào xạc bay về tổ, mọi người được mời đến một góc rừng, dưới mấy cây cổ thụ có một bàn dài làm bằng thân cây rừng. Ngay gần đó là một lều tranh dùng làm nhà bếp. Ông Chín ngồi đầu bàn, mọi người ngồi hai bên. Ông Chín cho biết bữa cơm hôm nay là “đại tiệc” v́ được ăn rau, cá khô, lạp xường và ruốc thịt heo.
Sau bữa “đại tiệc”, tôi được một chiến hữu dẫn đến một căn lều nhỏ chỉ vừa một người nằm, giữa đám cỏ tranh cao ngất. V́ có muỗi và đêm lạnh nên anh chiến sĩ mắc cho tôi chiếc mùng cá nhân màu cứt ngựa và một mền đơn cũng của nhà binh. Suốt hai ngày đi đường mệt nhọc, tôi nằm xuống là ngủ như chết. Khoảng 5 giờ sáng hôm sau, Liễu đến cḥi tôi ngủ, ngồi bên cạnh và cho tôi biết hôm nay, tại buổi lễ tuyên bố Bản Cương Lĩnh Chính Trị, lúc đến phần đại diện các đoàn thể phát biểu ư kiến th́ tôi là người lớn tuổi hơn cả trong phái đoàn Hoa Kỳ sẽ được mời ra phát biểu đầu tiên. Sau những lời ca tụng sự hy sinh và can trường của các anh em chiến sĩ, Liễu dặn tôi đừng quên tuyên bố lớn rằng tôi sẽ “ủng hộ Mặt Trận 2.000 mỹ-kim để mua vũ khí”. Tôi ngồi nhỏm dậy bảo Liễu: “Tôi đem theo 2.000 mỹ-kim, nhưng nằm “valise” 12 ngày ở làng Bultarit, phần nhiều ăn uống tôi phải bỏ tiền ra trả, cộng thêm tiền mua rượu, quà tặng các anh em chiến sĩ, tôi làm ǵ c̣n đủ hai ngàn mà tặng ai?” Liễu cười bảo tôi: “V́ có gần 30 người ở Thái và Lào đến dự nên anh (tức tôi) chỉ làm cử chỉ c̣ mồi chứ đâu có phải bỏ tiền ra mà sợ.”
Sau khi rửa mặt, tôi được một “chiến hữu” đem hành trang của tôi gồm hai máy ảnh cùng nhiều phim ảnh và cuốn sổ đựng trong hai bao da đen, hướng dẫn tôi đến địa điểm hành lễ là một khu bằng phẳng nằm bên cạnh đồi, phía trong là một phiến đá thiên nhiên mặt bằng phẳng như một bức tường cao khoảng hơn 10 mét, rộng 5 mét. Một lá quốc kỳ VNCH màu vàng ba sọc đỏ vĩ đại được căng thẳng trên mặt tường đá. Phía dưới có ba hàng ghế dài để Chủ Tịch và Ban Tham Mưu ngồi hàng ghế trước, c̣n các đồng bào và phái đoàn các nước ngồi hai hàng ghế sau. Những khẩu hiệu dài nền vàng chữ đỏ được giăng từ cây cổ thụ này sang cổ thụ kia kín cả khu hành lễ. Dưới mỗi khẩu hiệu là những lá quốc kỳ VNCH treo dầy đặc như một rừng cờ. Đến địa điểm hành lễ khoảng 8 giờ, tôi thấy ông Minh và mọi người trong Bộ Tham Mưu đă có mặt đầy đủ. Ông Minh, Liễu và Lê Hồng ra đứng nơi chiếc cổng duy nhất để đón các đơn vị vơ trang vào tham dự buổi lễ. Loa phóng thanh bắt đầu hô to: “Đây là tiểu đoàn Pháo Binh 27 vào khu hành lễ” th́ khoảng 20 anh chị em chiến sĩ vũ trang đủ loại súng săn cổ lỗ sĩ, mousquetons, tiểu liên AK..., đi đầu là chiến hữu chỉ huy đơn vị vừa đeo súng vừa vác hành lư, cùng đi hàng một qua chiếc cổng được “chiến hữu Chủ Tịch” tươi cười vỗ tay đón chào. Rồi đại đội “Thám Báo 36”, trung đoàn “Xung Kích 45”, “trung đội Cảm Tử 72”, vân vân và vân vân... Điều đáng chú ư là số của mỗi đơn vị, nếu cộng lại đều thành số hên “9 nút”. Khoảng gần 200 chiến sĩ vừa đực vừa cái lần lượt vào đứng chung quanh khu hành lễ. Tôi đứng chụp h́nh khi họ đi qua khiến tôi lại nhớ đến cái đoàn quân “Tàu phù ô hợp” của Lư Hán khi sang miền Bắc nước ta tước vơ khí quân đội Nhật năm 1945. Có những chiến sĩ lối phục sức. mặt mày, tóc tai khá kỳ dị! Trong lúc hành lễ, lợi dụng đệ tứ quyền của một nhà báo tôi len lỏi đi vào những nơi các binh sĩ đứng để chụp ảnh và phỏng vấn một số chiến sĩ đứng phía sau th́ không ai thèm trả lời! Đến một nơi khác, tôi lại hỏi th́ một chiến sĩ người Việt bảo tôi: “Họ là người Lèo, đâu có biết tiếng Việt mà bác hỏi!” Th́ ra, Bộ Tham Mưu Mặt Trận đă thuê khoảng 3/4 số người Lèo giả là binh sĩ đứng phía sau với mục đích “mập mờ đánh lận con đen” để chúng tôi chụp h́nh quay phim quảng cáo với đồng hương rằng lực lượng của Mặt Trận có nhiều, rất nhiều, nhưng chỉ có một số tối thiểu từ các mặt trận gần về tham dự mà thôi. Thật ra th́ thực lực quân số của Mặt Trận vỏn vẹn có khoảng không hơn 40 thanh niên ốm yếu lấy từ các trại tị nạn ra.
Buổi lễ khởi sự bằng nghi lễ thông thường: chào quốc kỳ, phút mặc niệm, đến diễn văn khai mạc của ông Phan Thái Ḥa, lời hiệu triệu chiến sĩ của tướng Đặng Quốc Hiền (Lê Hồng), diễn văn của Trần Trung Sơn (Phạm Văn Liễu) rồi kế tiếp là “hịch” của chủ tịch Hoàng Cơ Minh; sau đó Bản Cương Lĩnh được đọc to, mọi người đồng loạt giơ quả đấm lên cao hô to “Việt Nam Độc Lập Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản!” Sau đó một số chiến sĩ được tuyên dương công trạng và được gắn huy chương trong đó có bà Cao Thị Phượng Loan (vợ Nguyễn Chí Trung), Trần Văn Lộc là hai người có công tiếp tế đều đều cho Mặt Trận. Chiến sĩ Hoàng Nhật được khen thưởng v́ đă chỉ huy mặt trận tả ngạn sông Cửu Long đánh nhiều trận làm đối phương thiệt hại lớn về nhân mạng và vũ khí (sic!). Cuối cùng là phần phát biểu của đại diện các phái đoàn và đoàn thể. Tôi được mời đầu tiên.
(c̣n tiếp)
Bookmarks