Page 2 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 11 to 20 of 35

Thread: Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P10



    1. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970 ), phụ lục C, phần “Hoạt động không vận”, tr. 3.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét về hoạt động và tin t́nh báo của SOG", tr. 5.
    3. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Partain, trong: “MACVSOG - phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG”, tr 23, 25.
    4. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét về hoạt động và tin t́nh bào của SOG” tr. 7.

    Khi Don Blackburn thay Russell tháng 5-1965, không phải mất thời gian lắm ông nhận ra ngay điều bất hợp lư của chương tŕnh gián điệp - biệt kích. Dẫu sao th́ Blackburn đă có kinh nghiệm hoạt động du kích trong vùng địch hậu. Ông là một trong số ít chuyên gia quân đội về lĩnh vực này và dự định đưa OP34 vào đúng hướng. Blackburn xem lại và mở rộng bản kiến nghị của Russell. "Điều cần thiết hiện nay là có được căn cứ ở Lào giáp với biên giới Việt Nam từ đó các toán biệt kích có thể tung đi tăng cường, tiếp tế hoặc rút lui khi cần thiết bằng máy bay trực thăng hoặc qua đường bộ". Blackburn muốn thành lập một tổ chức b́nh phong nhằm "thành lập cơ sở ở miền Bắc và phát triển một hệ thống móc nối người đi huấn luyện và tung trở lại đồng thời đưa những người Bắc di cư trở lại miền Bắc. Những căn cứ tại các khu vực dọc theo biên giới miền Bắc sẽ rất có ích cho các hoạt động đó".(1)
    Blackburn nhập cuộc. Có vẻ như những ngày huy hoàng trước kia đang trở lại. Ông không những phát triển lư luận mà c̣n t́m kiếm người Bắc di cư, những người sẵn sàng quay trở lại và chiến đấu chống Hà Nội. Blackburn nhớ rằng có sẵn những con người với "mối quan hệ với người thiểu số vùng tây bắc và những phần tử chống đối trong nhân dân". Ví dụ "một thủ lĩnh người Bắc di cư trước đây sống ở vùng đông bắc sẵn sàng giúp tuyển lựa và thiết lập quan hệ với người địa phương ở cả miền Bắc và miền Nam". Đó là cách khởi đầu, bằng việc “thiết lập cơ sở và quan hệ" và biến chúng thành tổ chức b́nh phong, "một phong trào chống đối thực sự sẽ h́nh thành".(2)
    Blackburn chuẩn bị báo cáo kế hoạch đưa hoạt động gián điệp - biệt kích quay lại tập trung vào việc gây dựng phong trào chống đối. Qua kinh nghiệm của Russell ông biết là "phong trào chống đối không thể được tổ chức nếu không có sự phê duyệt của cấp cao". Nhưng ông rất tự tin. Dù sao, những hoạt động hiện nay là vô nghĩa và không mang lại kết quả ǵ. Chắc chắn Washington sẽ nhận ra "phương pháp chủ yếu hiện nay (thả tù mù) tạo nên con đường một chiều đối với các toán biệt kích, họ không có hy vọng trở về".(3)
    Bản kiến nghị năm 1966 vượt qua được các cấp và đến Uỷ ban 303. Câu trả lời vẫn như cũ: OP34 không được phép tiến hành việc thành lập phong trào chống đối ở miền Bắc. Blackburn bị sốc trước câu trả lời của Washington. "Thật là một điều tệ hại", ông nhớ lại "v́ phong trào đó sẽ tương tự như Mặt trận giải phóng miền Nam và có thể tạo ra cơ sở đáng tin cậy hơn cho hoạt động biệt kích".(4) Một lần nữa, Washington không sẵn sàng thách thức miền Bắc bằng luật chơi của Hà Nội. Blackburn biết rằng các nhà vạch chính sách không dám tiến xa tới mức đó. Động thái này sẽ trái với chính sách đă công bố của Hoa Kỳ là không t́m cách lật đổ chính phủ Hà Nội. Đối với Blackbum, điều đó thật ngớ ngẩn. Ông tự hỏi, đây là cuộc chiến tranh kiểu ǵ?
    Blackburn c̣n phát hiện ra là CIA cũng phản đối đề nghị của ông v́ sẽ động chạm tới địa bàn hoạt động của họ ở Lào. CIA đang thực hiện chương tŕnh du kích của người thiểu số hỗ trợ quân đội người H'Mông do Vàng Pao cầm đầu. Đó là cố gắng không để Hà Nội chiếm giữ Lào đồng thời gây thiệt hại cho quân đội miền Bắc hoạt động ở Bắc Lào. H'Mông là một dân tộc thiểu số mà bản kiến nghị của Blackburn đă đề cập đến.
    Blackburn đến gặp Trưởng trạm CIA tại Sài G̣n để thương lượng. "Tôi muốn Blaufarb cho phép chúng tôi đưa các toán biệt kích xâm nhập vào miền Bắc qua Lào. Hay nói cách khác, tuyển chọn người Việt Nam và h́nh thành căn cứ ở Lào để xem họ có thể làm được ǵ trong ḷng miền Bắc sau đó sẽ đẩy mạnh hơn. Đó là cách chúng tôi đă làm ở Phillippines".(5) CIA không nhất trí với đề nghị này. Bắc Lào là địa bàn của họ. Blackburn không chỉ gặp phải sự phản đối của CIA mà c̣n của đại sứ Mỹ tại Lào William Sullivan. Sullivan không muốn cho SOG hoạt động ở Lào và phản đối kế hoạch của SOG. Tương tự, Sullivan c̣n phản đối hoạt động chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh. SOG là người không được hoan nghênh tại Lào.
    Khi một đại tá quân đội, người không thuộc giới quân sự chính thống, gặp phải sự phản đối của CIA và Bộ Ngoại giao, anh ta sẽ thất bại. SOG không được phép tiến hành gây dựng phong trào chống đối từ những căn cứ ở Lào. Uỷ ban 303 chỉ cho phép CIA hoạt động ở đó. Blackburn rất bất b́nh và "định chấm dứt hoạt động... Tôi nghĩ rằng họ đă đề ra mục tiêu sai lầm v́ đă đưa biệt kích đến một nơi mà họ biết rất ít và không thể nhận được sự trợ giúp của dân chúng. Trước sau họ cũng sẽ bị bắt. Và điều đó đă xảy ra".(6) Lư luận hoạt động và trọng tâm nhiệm vụ là phi lôgíc.
    Tại thời điểm Washington bác bỏ đề nghị của Blackburn, nhiệm vụ của các toán biệt kích đang có sự điều chỉnh. Tháng 10-1965, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương chuyển tới SOG chỉ thị về nhiệm vụ mới. Bản chỉ thị công bố nhiệm vụ các toán biệt kích hiện nay là "tiến hành các hoạt động tâm lư, phá hoại và t́nh báo". Nhiệm vụ mới này không khác mấy so với trước. Tuy nhiên, các toán biệt kích được phép tiếp xúc với dân để "tuyển lựa và hỗ trợ cơ sở tại chỗ ở miền Bắc để thu thập t́nh báo và lẩn trốn".(7) Đó là điểm mới nhưng vô nghĩa và chẳng làm thay đổi t́nh h́nh chút nào. Blackburn lắc đầu: Nếu bạn không thể tổ chức dân thành phong trào chống đối th́ "bạn đưa họ đến đó làm ǵ? Câu hỏi này cứ lởn vởn măi trong đầu tôi và đó là lư do tại sao tôi không hề hào hứng với các toán biệt kích".(8.)
    Blackburn chuyển giao nhiệm vụ lănh đạo SOG cho Jack Singlaub tháng 5-1966. Các toán gián điệp tiếp tục xâm nhập ra Bắc dưới sự giám sát của ông và mang lại kết quả tương tự như Blackburn đă chứng kiến. Blackburn xâm nhập sáu toán, bao gồm 46 người. Họ chẳng làm được ǵ đáng nói cả.
    ____________________ ____________________
    1, 2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Sđd., tr.22.
    3, 4. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Sđd, tr.22,23.
    5, 6. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các chỉ huy.của MACVSOG", tr. 10, 11.
    7. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động không “, tr. 2.
    8. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các chỉ huy của MACVSOG", tr. 14.
    Jack Singlaub đă không tin tưởng vào OP34 từ trước khi đến Sài G̣n tiếp nhận công việc. "Phải nói rằng khi nghe tường tŕnh tại Lầu Năm Góc, tôi rất ngạc nhiên trước ư nghĩ cho biệt kích nhảy dù vào địa bàn đó. Lănh thổ miền Bắc, cũng như Triều Tiên, không giống như đất Pháp hay Nam Tư bị chiếm đóng trong chiến tranh thế giơi thứ hai, những nơi Cơ quan t́nh báo chiến lược OSS đă từng hoạt động. Tôi bày tỏ thái độ hoài nghi về cách thức đưa biệt kích xâm nhập, nhưng ngay lập tức tôi biết họ không coi trọng ư kiến của tôi do vậy trong suốt thời gian tường tŕnh tôi không nhắc đến vấn đề này nữa. Anh biết đấy, tôi là người mới và trước hết cần đến xem cụ thể những ǵ đang diễn ra và có thể làm được ǵ".(1)
    Khi đă nhận chức, không phải mất nhiều thời gian lắm để Singlaub nhận ra là hoạt động biệt kích chẳng đi tới đâu nếu cứ tiếp tục như hiện nay. Sau khi nghiên cứu hồ sơ ông thấy rằng trong quá nhiều trường hợp "thả tù mù” thành "thả vào cơi tử". Theo vị tân chỉ huy trưởng, đề nghị của Blackburn cho triển khai phong trào chống đối bằng cách trước hết thành lập phong trào sau đó từ Lào xâm nhập vào miền Bắc là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, ông biết rằng "có những quy định cụ thể không cho phép OP34 thành lập tổ chức du kích ở miền Bắc...Chúng tôi bị trói buộc không được gây dựng phong trào chống đối chính phủ Hà Nội".(2)
    Singlaub quyết định tung ra một quả bóng thăm ḍ xem các nhà vạch chính sách sẽ phản ứng ra sao. Liệu họ có biết có những người dân tộc thiểu số miền Bắc đang sống ở miền Nam và có thể tuyển lựa cho nhiệm vụ chống đối không? Singlaub biết rằng "nhiều thủ lĩnh của các dân tộc ít người đă di cư vào Nam trong năm 1954... có mối quan hệ với đối tác Việt Nam của SOG". Họ có muốn trở về miền Bắc không? Theo Singlaub, "họ tỏ ra sẵn sàng trở về tái lập quan hệ với người của họ mà họ cho rằng c̣n trung thành". Nhưng v́ lư do ǵ mà họ dám chấp nhận nguy hiểm? Chỉ khi "họ được đảm bảo là họ được phép tổ chức phong trào chống đối và dùng nó để tạo ra khu tự trị ở miền Bắc".(3) Nếu Hoa Kỳ hỗ trợ mục tiêu này, họ sẵn sàng Bắc tiến.
    Singlaub nhanh chóng nhận ra là không hy vọng ǵ ở sự thay đổi thái độ của Washington. Theo một tài liệu mật, chính sách quốc gia của Hoa Kỳ là "kiềm chế cổ vũ hoặc khuyến khích bất kỳ hành động nào có thể dẫn tới nổi loạn bên trong chính phủ hiện nay ở Hà Nội".(4) Singlaub nhớ lại "họ (Washington) sẽ không bao giờ phê duyệt những điều chúng tôi muốn thực hiện mà liên quan đến chiến tranh du kích và hoạt động chống đổi".(5)
    Thay vào đó, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân yêu cầu các toán biệt kích cần phải "nhấn mạnh tối đa vào nhiệm vụ thu thập t́nh báo và thành lập quan hệ dân sự". Các toán sắp được tung đi phải tập trung vào "nơi có nhiều mạng lưới giao thông chủ yếu nối miền Bắc và Lào" với nhiệm vụ chủ yếu là "thu thập t́nh báo qua quan sát đường bộ, đường sắt và đường sông".(6) Để thực hiện nhiệm vụ mới, 25 biệt kích được tập trung huấn luyện trong nhiều tháng và xâm nhập vào các khu vực tập trung các tuyến đường trọng yếu nối với đường ṃn Hồ Chí Minh. Đây mới chỉ là sự khởi đầu.
    Đó là một nỗ lực lớn và, trong ṿng 15 tháng sau đó, có sự tham gia của hàng trăm nhân viên biệt kích. Theo Singlaub, chương tŕnh mới này tạo ra những thách thức lớn cho SOG. Trước hết, đó là kiểu "thả tù mù" với tất cả những hậu quả mà biện pháp này đă mang lại. Thứ hai, SOG sẽ t́m đâu ra hàng trăm người dân tộc đă từng sống ở Bắc rồi di cư vào Nam có quyết tâm cao và sẵn sàng trở lại miền Bắc để thực thi nhiệm vụ? Việc tuyển chọn không dễ dàng ǵ. "Những người có thể trở thành nhân vật lănh đạo của phong trào chống đối không chỉ không muốn trở thành người dẫn đường mà c̣n không giới thiệu cho SOG những người phù hợp với nhiệm vụ".(7) Họ có thể quay trở lại để giải phóng đất đai của họ chứ không phải để đếm xe.
    Tuy vậy, Singlaub đă đưa ra chỉ thị và được OP34 thực hiện dưới sự chỉ huy của trung tá Bob McLane. Trong nhiệm kỳ của ḿnh, McLane tung đi trên 50 biệt kích mới và cố bố trí lại số đă xâm nhập trước đây. Một năm với những công việc ngớ ngẩn là tất cả những ǵ Singlaub chịu đựng. Hoạt động biệt kích không có kết quả, ông biết điều đó. OP34 trong trạng thái rệu ră. John Hada, phó của McLane nhớ lại "Bob McLane chịu sức ép lớn từ Singlaub trong việc chấn chỉnh lại bộ phận. Để giải quyết vấn đề, Singlaub đưa Kingston đến OP34 tháng 5-1967 để thay McLane. "Singlaub biết Kingston" Hada nói, "và ông ta muốn thay McLane bằng người hiểu biết về hoạt động biệt kích".(8 )
    Bob Kingston đúng là người cho công việc đó. Ông nhanh chóng nhận ra khái niệm xâm nhập biệt kích -"thả tù mù” - là sai sót nghiêm trọng. Tương tự, mục tiêu chính sách cần chặt chẽ hơn. Ông phát hiện ra là OP34 không chỉ có hai vấn đề đó. Có nhiều yếu tố dẫn đến thất bại của chương tŕnh biệt kích. Nhưng, không nghi ngờ ǵ nữa, mục tiêu chính sách sai lầm là yếu tố hàng đầu. Theo suy nghĩ của Kingston, những mục tiêu được đề ra đơn giản là ngu xuẩn.
    Tại sao Washington lại không ủng hộ việc cho phép SOG thiết lập phong trào chống đối trong ḷng miền Bắc? Dựa trên căn cứ nào để Washington bác bỏ yếu tố cốt lơi của Kế hoạch 34A?
    Một trong nhiều lư do mà Singlaub biết là, theo các nhà vạch chính sách ở Washington, việc bí mật khuyến khích phong trào chống đối sẽ mâu thuẫn với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ vốn không kêu gọi gây mất ổn định và lật đổ chính phủ Hà Nội. Hay nói cách khác, quan điểm của các nhà vạch chính sách là hoạt động ngầm phải thống nhất với chính sách chính thống. V́ vậy, mỗi khi SOG "xin phép được gây dựng phong trào chống đối, Washington đều nói rằng điều đó không phù hợp với mục tiêu của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Một phong trào chống đối sẽ trái với mục tiêu quốc gia công khai".(9)
    Theo Singlaub, ít nhất đó là một trong hai lư do giải thích cho sự phản đối của Washington. Singlaub thấy quan điểm không tách biệt "chính sách công khai với chính sách ngầm" của Washington chẳng có ư nghĩa ǵ. Dẫu sao, một trong những động cơ tiến hành hoạt động ngầm là các biện pháp công khai khó đạt được kết quả đề ra. Hơn nữa, hoạt động ngầm rất linh hoạt cho phép lách qua những hạn chế về chính sách. Đối với nhân viên của SOG, lôgíc của các nhà vạch chính sách thật là kỳ quặc. Nếu hoạt động ngầm phải thống nhất với chính sách công khai th́ cần ǵ phải hoạt động ngầm nữa.
    Lư do thứ hai mà Singlaub nêu ra là "sự e ngại rằng phong trào chống đối sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát" và gây ra điều ǵ đó. Năm 1964, đại sứ Mỹ tại Việt Nam Herry Cobot Lodge đă nói như sau: "Tôi hoan nghênh việc gây áp lực lên miền Bắc với hai mục đích buộc Việt Cộng và Pa thét Lào ngừng bắn và trung lập hoá Bắc Việt Nam... Tôi không cho rằng việc lật đổ Hồ Chí Minh là có ích v́ người thay thế ông có thể c̣n xấu hơn đối với chúng ta".(10) Người ta chỉ có thể tự hỏi là ông đại sứ đang nghĩ ǵ trong đầu. Tại sao lại xấu hơn nếu có ai đó thay thế Hồ Chí Minh? Lodge có hiểu ǵ về đối phương không? Thật là lư sự quanh quẩn, Singlaub nghĩ.
    Tương tự, các nhà vạch chính sách lo ngại là làm cho miền Bắc mất ổn định có thể "tạo ra sự trả đũa quy mô lớn của miền Bắc". Họ có thể gia tăng chiến tranh ở miền Nam nếu Mỹ làm cho họ quá khó chịu ở miền Bắc. Nhưng Washington có hiểu là Hà Nội đă quyết định tăng cường hoạt động ở miền Nam khi đưa quân chủ lực vào Nam năm 1963?
    Cuối cùng, Washington sợ rằng nếu Hà Nội sụp đổ, Trung Quốc sẽ nhảy vào như trong chiến tranh Triều Tiên. Vào mọi thời điểm Washington đều lo ngại sự dính líu của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mao đang lănh đạo cách mạng văn hoá và, nhiều năm sau, Trung Quốc tiếp tục cuộc thanh lọc nội bộ hàng loạt làm tê liệt hoạt động của chính phủ, kể cả chính sách ngoại giao. Washington có hiểu được tác động của cuộc cách mạng văn hoá không? Để hệ thống hai mang thành công, cả người lừa lẫn người bị lừa đều đóng vai tṛ quan trọng và Hoa Kỳ chắc chắn đă làm rất tốt vai tṛ của ḿnh.
    ____________________ __________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K. Blackburn, trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các chỉ huy của MACVSOG", tr. 44.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970): phụ lục B, phần "Nhận xét hoạt động và tin t́nh báo của SOG”, tr. 60-61.
    3. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Sđd. tr. 64.
    4. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động chiến tranh tâm lư", tr. 137.
    5. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K. Singlaub, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các chỉ huy của MACVSOG", tr. 49.
    6. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần “Hoạt động không vận”, tr. 4.
    7. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét hoạt động và tin t́nh báo của SOG", tr. 65.
    8. Phỏng vấn lịch sử với John Hada, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 40,48.
    9. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét hoạt động và tin t́nh báo của SOG", tr. 32.
    10. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trường liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần “Hoạt động chống miền Bắc của MACVSOG", tr. 59.
    Thiếu kinh nghiệm trong OP34
    Trừ Bob Kingston, không một chỉ huy nào của OP34 từng trải qua hoạt động chỉ đạo biệt kích tại địa bàn bị từ chối. Trái ngược với những ǵ mà các nhà vạch chính sách h́nh dung, hoạt động này không là một phần năng lực chiến tranh đặc biệt của Lầu Năm Góc. Chương tŕnh học tại Trường chiến tranh đặc biệt ở Fort Bragg cũng như trong học thuyết quân sự không có nội dung này.
    Ed Partain, chỉ huy trưởng của OP34 từ giữa năm 1964 đến giữa 1965, là một ví dụ. Ông không phải là chuyên gia trong công việc được giao là leo thang hoạt động trong ḷng miền Bắc. Được khoảng nửa năm, Partain nhận thấy có những vấn đề nghiêm trọng về nội dung nhiệm vụ, biện pháp cài cắm và việc huấn luyện người Việt Nam. Ông cũng biết rằng ḿnh hiểu rất ít về mục tiêu, ở đây là miền Bắc. Vậy tại sao Partain tiếp tục xâm nhập các toán biệt kích theo đúng cách thức vốn chẳng mang lại kết quả ǵ? Việc thiếu kinh nghiệm đă phần nào dẫn đến thái độ không muốn chấp nhận sự thực.
    Thật ra, Partain hầu như không thể làm được ǵ để thay đổi t́nh h́nh. Ông ở cấp bậc thấp trong hệ thống chỉ huy và có ít kiến thức để xử lư vấn đề. Partain nhận ra điều này khi "đến gặp và nói chuyện với Russell" về toàn bộ t́nh h́nh. “Tôi đă ở đây được năm, sáu tháng. Tôi thấy chúng ta đang phung phí thời gian, tiền bạc và sinh mạng. Tại sao chúng ta không làm cái ǵ khác? Russell nói: Anh không biết, cấp trên muốn tiếp tục như vậy. Tôi đoán đó là ư kiến tử Washington...".(1)
    Nhân viên Mỹ được cử đến cho Partain cũng như vậy. Họ bao gồm những thiếu tá quân đội trẻ nhiệt t́nh như Pete Hayes. Tốt nghiệp Học viện Westpoint, Hayes rất thông minh và hăng hái nhưng không được chuẩn bị cho việc thực hiện nhiệm vụ của OP34. Hayes đă chỉ đạo các toán biệt kích biển xâm nhập tấn công các mục tiêu ven biển Bắc Triều Tiên và cứu hộ các phi công bị bắn rơi. Chắc chắn đó là một khía cạnh của chiến tranh không quy ước nhưng không bao gồm việc huấn luyện và chỉ đạo mạng lưới biệt kích trong địa bàn bị từ chối. Ít nhất là dường như quân đội đă cố gắng chọn cử những sĩ quan tốt nhất. Nhưng thực tế không phải như vậy. Hayes được cử đến OP34 là do nhầm lẫn. "Tôi nghĩ Russell là chỉ huy trưởng vào thời điểm đó. Ông ấy nhầm tôi với John Hayes, người cũng đă công tác tại SOG và từng công tác tại Nhóm lực lượng đặc biệt số 10 với Russell. Do vậy khi tôi đến tŕnh diện, ông ấy tưởng tôi là John Hayesn. V́ đă có kinh nghiệm trước đây nên Pete Hayes phải ở lại.(2)
    Trong nhiệm kỳ của ḿnh, Hayes cũng nhận ra những vấn đề nghiêm trọng của chương tŕnh. Hayes nhắc lại những sự kiện xảy ra với toán Bell và điệp viên Ares đă giúp ông nhận thức được t́nh h́nh. "Máy bay của chúng tôi suưt nữa bị bắn rơi khi bay tiếp tế cho toán Bell. Phi hành đoàn nói rằng họ bị một chiếc trực thăng phục kích và phải đổi hướng bay về Thái Lan. Tương tự, có một số dấu hiệu trong việc tiếp tế cho Ares cho phép Hayes kết luận "anh ta đă bị khống chế... và đó là các đồng nghiệp miền Bắc đang chơi lại chúng tôi".(3)
    Vấn đề nhân sự c̣n kéo dài cho đến khi Reg Woolard và Bob McLane chỉ huy OP34. John Hada, phó của McLane, nhớ lại nhiều sĩ quan chỉ đạo trực tiếp không mấy nhiệt t́nh với công việc. Ông mô tả "họ không biết cách giao tiếp với người khác và với nền văn hoá khác... Nhân viên trung cấp ở O P34 không có bằng cao đẳng... họ không thể ngồi đánh giá những ǵ đang xảy ra v́ thực sự họ không hiểu". Hada kết luận "tôi nghĩ cách mô tả tốt nhất là chúng tôi bay trong mù tối và không kiểm soát được ǵ cả".(4)
    Đó chính là những ǵ mà Bob Kingston gặp phải khi tiếp quản OP34 tháng 5-1967. Ông tiếp nhận những người thuộc quyền hoặc là kém nhiệt t́nh hoặc thiếu kinh nghiệm. Kingston sa thải một số chỉ giữ lại những ai có thể bồi dưỡng thành nhân viên chỉ đạo hoạt động biệt kích.
    OP34 đối mặt với một chế độ rất chú ư đến an ninh nội bộ. Các lực lượng an ninh và t́nh báo có tŕnh độ nghề nghiệp và giỏi xử lư các thách thức và đe doạ từ bên trong. Phát triển mạng lưới gián điệp, biệt kích trong môi trường như vậy là quá mệt mỏi đối với CIA trong những năm 1950 trong khi họ có kiến thức, kinh nghiệm và được đào tạo về hoạt động này. Đối với OP34, đó là sự đối đầu không cân sức và thực tế cũng chứng tỏ như vậy.
    ____________________ ____________________ _
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Edward Partain, trong "Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP34 của MACVSOG” tr. 34.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Emest Pete Hayes, trong "Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của MACVSOG", tr. 171, 182.
    4. Phỏng vấn lịch sử với John Hada, trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 40.48.
    Việc tuyển lựa, động cơ và huấn luyện biệt kích.
    Hoạt động biệt kích trong ḷng miền Bắc đ̣i hỏi có động cơ và huấn luyện cao- Đó là môi trường khó khăn. Tuy nhiên, việc tuyển chọn, động viên và huấn luyện bị nhiễm nhiều căn bệnh từ khi thành lập 1964 đến lúc Chương tŕnh đánh lạc hướng được h́nh thành vào cuối năm 1967.
    Chất lượng của từng cá nhân được tuyển lựa cho chương tŕnh biệt kích cài cắm lâu dài rất không đều. Có một số người hăng hái nhưng theo các nhà lănh đạo của OP34 số này là ngoại lệ chứ không nhiều. Có rất nhiều khó khăn, trong đó tuyển lựa và tạo động cơ là hai khó khăn hàng đầu Trạng thái tinh thần kém của biệt kích là hệ quả trực tiếp của tiến tŕnh tuyển lựa.
    Rắc rối mà Russell gặp phải trong việc tuyển chọn người phù hợp nhanh chóng trở nên rơ ràng khi ông tiếp nhận số đang huấn luyện đo CIA bàn giao tháng 1-1964. Russell nhớ lại "khi tiếp quản, chúng tôi nhận ra là một số trong đó không đạt tiêu chuẩn cho bất cứ nhiệm vụ nào. Họ được tuyển dụng và thích mức lương được hưởng, nhưng đến lúc cần đến, họ không hăng hái lên đường". Việc tiếp nhận số người này đặt sếp của SOG vào t́nh huống khó xử. Ông không tin là một khi được xâm nhập họ có thể làm được điều ǵ đó nên hồn. “Những người mà chúng tôi tiếp nhận từ CIA cho chương tŕnh này không có khả năng đi đâu cả”. Tuy vậy, Russell vẫn phải nhận, “chúng tôi không thể thả rông họ ở miền Nam v́ họ đă được nghe về hoạt động ở miền Bắc".(1) Họ biết quá nhiều và không đủ tin cậy và v́ thế với một phần thưởng nào đó họ sẵn ḷng để lộ toàn bộ hoạt động cho đối phương hoặc bất cứ người nào muốn biết.
    Giải pháp của Russell là tung họ ra Bắc. Ông "không hy vọng họ liên lạc trở lại mà nghĩ là họ sẽ đầu hàng đối phương ngay sau khi chạm đất và họ đă làm đúng như vậy". Theo chỉ huy trưởng của SOG, chỉ có một lư do duy nhất để họ đi là "chúng tôi phải loại bỏ họ... và giải pháp là đưa họ ra Bắc".(2) Chắc chắn cách này sẽ không làm cho tin tức về hoạt động biệt kích lọt ra tờ Thời báo New York. Tuy nhiên, ai cũng có thể h́nh dung là Hà Nội sẽ khai thác số bị bắt này về toàn bộ chương tŕnh một cách không mấy vất vả.
    Quá tŕnh tuyển chọn không được cải thiện ǵ trong năm 1964 và sau đó v́ SOG phải dựa vào đối tác Nam Việt Nam là Tổng nha kỹ thuật chiến lược để tuyển lựa nhân sự. Người Nam Việt Nam không làm tốt việc này: "sự bất lực của Tổng nha trong việc chọn lựa được người có đủ tiêu chuẩn cho huấn luyện biệt kích đă buộc phải sử dụng những toán trung b́nh" bản báo cáo của SOG năm 1964 đă thừa nhận như vậy(3).
    Có một vấn đề lớn mà Partain gặp phải khi tiếp nhận OP34. Theo Partain, chủ yếu đó là vấn đề quan hệ với bên thứ ba, người cung cấp nguồn tuyển lựa... Họ cho rằng số được tuyển là sẵn sàng, có tŕnh độ văn hoá mà chúng tôi không có cách nào thẩm định được". Partain c̣n nói thêm: "Với nhũng ǵ tôi biết, số được tuyển không phải thuộc tầng lớp trung lưu có văn hoá. Nếu anh nhớ lại, phần lớn số điệp viên của chúng ta trong chiến tranh thế giới thứ hai là người có học, sẵn sàng hy sinh và chấp nhận rủi ro. C̣n số này th́ không". Hơn nữa "OP34 không đủ khả năng ngôn ngữ để hỏi han họ. Và do vậy không thể dựa vào việc kiểm tra lư lịch mà chúng ta thường làm".(4)
    Một khi số tuyển lựa đă qua huấn luyện, Partain phát hiện ra là "phần lớn số họ không muốn đi. Chúng tôi gần như phải hối lộ để họ bước ra khỏi máy bay". Bạn phải cho họ "thêm súng, thêm tiền và trong một trường hợp chúng tôi đă phải đẩy một người lên và sau đó ra khỏi máy bay".(5)
    Pete Hayes cũng gặp một trường hợp tương tự. "Tôi nhớ một trường hợp năm 1965 khi chúng tôi đă đưa họ lên hết máy bay th́ một người, là nhân viên điều khiển điện đài, nói: tôi không đi, tôi không có đồng hồ đeo tay. Tôi nói chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề đó và tháo đồng hồ đưa cho anh ta. Anh ta lại nói: Tôi quên mất bản tín hiệu và tín hiệu nhận biết. Tôi lại nói: không lo, tín hiệu nhận biết của anh đây... Nói chung, nhân viên điện đài là ngon hơn các thành viên khác nhưng đôi khi họ cũng bị ảnh hưởng bởi các thành viên khác trong nhóm và cố tạo ra lư do để không phải đi...Cuối cùng th́ chúng tôi cũng đưa được anh ta lên máy bay".(6)
    Ed Partain kết thúc nhiệm kỳ và được thay thế bằng Reg Woolard và sau đó Woolard được thay bằng McLane, nhưng chất lượng tuyển chọn vẫn ở mức thấp. Báo cáo năm 1966 của SOG nói rơ mức độ của vấn đề: "Trong năm, việc tuyển được người đủ tiêu chuẩn ngày càng trở nên khó khăn hơn". Hơn nữa "việc đào ngũ của số đang huấn luyện tiếp tục là vấn đề lớn có tác động xấu đến khả năng duy tŕ sự thống nhất của toán. Tỷ lệ đào ngũ trong số đang huấn luyện tăng từ 8% vào tháng 3 lên 21% vào tháng 5. Họ trốn trại v́ "sợ bị cử đi hoạt động trong toán biệt kích ở miền Bắc". Rơ ràng là Tổng nha kỹ thuật chiến lược không hề cho họ biết nhiệm vụ phải thực hiện. Khi họ biết sự thật khắc nghiệt về nhiệm vụ và "không có một cố gắng nào nhằm đưa các toán trở về Nam thành công" sự lo ngại của họ tăng lên nhanh chóng".(7)

    1, 2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần "Nhận xét về hoạt động và tin tức t́nh báo của MACVSOG", tr. 8.
    3. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần “Hoạt động không vận", tr.15.
    4. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Edward Partain, trong "Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP34 của MACVSOG” tr. 29, 34.
    5. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Eaward Partain, Sđd, tr.24, 29.
    6. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Ernest Pete Hayes, trong "Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của MACVSOG" tr. 90.
    7. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng hên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động không vận tr.16.
    John Hada nhớ là OP34 không hề biết trước Tổng nha kỹ thuật chiến lược sẽ mang đến những ǵ. "Trong nhiều trường hợp, rất khó phác hoạ lư lịch, học vấn, và địa vị kinh tế xă hội. Họ đều hăng hái v́ lương cao. Nhưng, trên cơ sở quan sát, tôi phải nói rằng họ không tỏ ra yêu mến Cộng hoà miền Nam". Sự hăng hái của họ nhanh chóng bị xẹp xuống khi đến lúc phải xâm nhập. Hada cho rằng họ "tham gia chủ yếu v́ tiền".(1) V́ OP34 không kiểm soát quá tŕnh tuyển lựa, ông kết luận "việc lựa chọn người huấn luyện rất bừa băi và không đạt như mong muốn".(2)
    Giải pháp cho vấn đề này là rơ ràng, như Hada nhận xét: giá như chúng ta có thể kiểm soát việc tuyển lựa th́ công việc đă khá hơn nhiều(3). Nhưng không ai trong OP34 có đủ ngoại ngữ hoặc hiểu biết để làm điều đó.
    Năm 1967, Kingston đau đớn phát hiện ra là người Nam Việt Nam đang tuyển chọn thiếu niên bằng cách tuyên truyền vật chất, theo kiểu: "Bạn sẽ làm việc với người Mỹ. Đây là một cuộc phiêu lưu thú vị và bạn sẽ được trả hậu hĩ khi tham gia cuộc phiêu lưu đó". Kingston không thể biết Tổng nha kỹ thuật chiến lược đă nói ǵ với họ. "Chúng tôi không biết họ tuyển người như thế nào và hứa hẹn những ǵ(4). Kingston có kế hoạch kiểm soát tiến tŕnh tuyển mộ. Đó là một bước nhỏ nhưng đúng hướng. Tuy nhiên việc này hầu như không được thực hiện và sau đó trở nên không cần thiết khi OP34 tiến hành Chương tŕnh đánh lạc hướng.
    Người được tuyển được huấn luyện về hoạt động biệt kích cài cắm lâu dài ở trại Long Thành, nhưng việc huấn luyện không đồng đều. Cố vấn Mỹ hướng dẫn họ cách sử dụng vũ khí, chiến thuật chiến đấu, phá huỷ, xâm nhập bằng đường không và các kỹ thuật quân sự khác. Tuy nhiên, lẽ ra họ cũng cần được huấn luyện để nắm được kỹ năng t́nh báo. Nhiều khả năng là họ không được huấn luyện đến tŕnh độ cần thiết. Ed Partain nhấn mạnh, "chúng tôi cố dạy họ vũ khí, cứu thương, phá hoại, thông tin liên lạc... nhưng không đào tạo họ về các kỹ năng đó”.(5) Đó là công việc của Tổng nha kỹ thuật chiến lược. Họ làm công việc đó thế nào? Lănh đạo của OP34 không có câu trả lời.
    Huấn luyện không phải là vấn đề duy nhất ở trại Long Thành. C̣n có cả những bất cập về an ninh nữa. Điệp viên không được tách riêng sau khi đă nhận nhiệm vụ, vi phạm nguyên tắc cơ bản của hoạt động loại này. Thậm chí họ sau đó c̣n được nghỉ phép. Với mạng lưới t́nh báo rộng răi của Việt Cộng ở khu vực Long Thành, điều đó thật đáng để giật ḿnh.
    Với chất lượng tuyển lựa như trên, không có ǵ ngạc nhiên khi kỷ luật huấn luyện bị vi phạm ở Long Thành. Nhiều trại viên có "danh tiếng đáng ngờ và làm nổi lên vấn đề kỷ luật ở trại".(6) Các yếu tố khác cũng góp phần tạo ra t́nh h́nh này: Tổng nha kỹ thuật chiến lược thường sử dụng những lời hứa hăo và một khi người được tuyển biết được nhiệm vụ thực sự th́ "tư tưởng cho rằng đằng nào cũng bị chết làm cho trại viên và một số cán bộ của trại cho rằng họ cần hưởng thụ khi có cơ hội".(7) Tất cả điều này đă góp phần làm tăng tỷ lệ trốn trại.
    ____________________ ____________________ _
    1, 2, 3. Phỏng vấn lịch sử với John Hada, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG” tr. 41, 42, 43.
    4. Phỏng vấn lịch sử với tướng Robert Kingston, trong "MACV8OG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG” tr. 70.
    5, 6. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Edward Partain, trong "Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP34 của MACVSOG", tr. 30, 29.
    7. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Edward Partain, Sđd, tr.29.
    Kỹ năng chỉ đạo hệ thống hai mang của Hà Nội

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P11



    Kỹ năng chỉ đạo hệ thống hai mang của Hà Nội
    Hệ thống hai mang mà Hà Nội sử dụng chống SOG cũng giống như các hoạt động tương tự mà các nước xă hội chủ nghĩa sử dụng để chống cơ quan t́nh báo phương Tây trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Cũng như các nước cùng hệ thống, miền Bắc chú trọng vấn đề an ninh nội bộ, phản gián và kiểm soát dân. Đó là quốc gia phản gián. Những nước này quan tâm sâu sắc đến vấn đề an ninh trong nước. Lực lượng an ninh và t́nh báo thường đông đảo và nhiệm vụ của họ là chống lại mọi mối đe doạ an ninh nội bộ. Trong thuật ngữ t́nh báo, điều này được gọi là phản gián chủ động, bao gồm việc xác định, bắt giữ, và vô hiệu hoá phần tử khủng bố, lật đổ, phản cách mạng, gián điệp, biệt kích. Chính phủ Hà Nội rất coi trọng những vấn đề này và trên thực tế c̣n tỏ ra lo ngại thái quá về âm mưu hoạt động gián điệp và lật đổ.
    Để đảm bảo ổn định trong nước, chính phủ Hà Nội thành lập và duy tŕ các cơ quan cảnh sát, an ninh và t́nh báo mà đặc trưng là sự chồng chéo về tổ chức. Điều này đúng như ở Liên Xô, vốn là mô h́nh cho các nước xă hội chủ nghĩa khác. Từ khi thành lập, việc "t́m kiếm, phát hiện và tiêu diệt kẻ thù là nhiệm vụ chủ yếu của nhà nước".(1)
    Miền Bắc tiếp nhận triết lư đó vào công tác phản gián và an ninh trong nước. Tương tự như đồng nghiệp Liên Xô, Hà Nội bị ám ảnh bởi vào những vấn đề này. Theo John Dziak, cựu nhân viên của cơ quan t́nh báo quân đội Mỹ, người đă từng đương đầu với KGB trong hơn ba thập kỷ, những nhà nước như vậy "thể hiện sự lo lắng thái quá về đe doạ cả bên trong lẫn bên ngoài. An ninh và việc trừ bỏ tận gốc các mối đe doạ là một nhiệm vụ chính của hệ thống đó”. Để đánh bại đối phương, các quốc gia phản gián "bỏ ra nhiều nguồn lực". Như Dziak nhận xét, "nhiệm vụ này đ̣i hỏi phải tạo ra cơ quan an ninh quốc gia xâm nhập vào mọi thể chế của đất nước".(2)
    Hà Nội duy tŕ một cơ quan như vậy. Cơ quan này có hệ thống từ Hà Nội đến các cấp hành chính thấp nhất. Công an nhân dân là nền tảng của hệ thống an ninh của Hà Nội. Dưới sự quản lư của Bộ Nội vụ, lực lượng công an phát hiện, ngăn chặn và trấn áp mọi hoạt động phá hoại và lật đổ đồng thời kiểm soát và vô hiệu hoá mọi phần tử phản cách mạng. Để đạt được mục đích này, công an được giao quyền hạn lớn trong việc khám xét, giam giữ, thu thập chứng cứ và sử dụng vũ khí để bóc gỡ gián điệp, chống phá hoại và dập tắt hoạt động lật đổ.
    Ở cấp xă và cao hơn, công an duy tŕ quan hệ mật thiết với các cơ quan quân đội, dân quân và t́nh báo. Đây chính là chỗ chồng chéo về tổ chức xuất hiện. Mỗi một cơ quan có trách nhiệm an ninh nội bộ và quyền hạn trùng lặp với công an, trong đó công an vũ trang là một ví dụ. Dưới sự quản lư của Bộ Quốc pḥng, một trong những nhiệm vụ của công an vũ trang là bảo vệ an toàn cho các cơ sở quan trọng chống phá hoại; giữ ǵn an ninh biên giới, phát hiện việc xâm nhập của biệt kích; nắm tin, phát hiện và trấn áp các hành động phản cách mạng trong dân tộc thiểu số ở vùng núi cao dọc theo biên giới với Lào. Đây chính là những nhóm dân tộc ít người mà ba người chỉ huy đầu tiên của SOG đề nghị được sử dụng để thành lập phong trào chống đối ở miền Bắc, Washington không nhận ra tiềm năng của họ, nhưng Hà Nội th́ có.
    Khi xem xét đến các cấp hành chính cao hơn như huyện, tỉnh và thành phố, người ta nhận thấy đầy đủ đại diện của các cơ quan có mặt ở cấp xă. Sự chồng chéo này là ở mức cao. Cuối cùng ở cấp bộ, Bộ Nội vụ có trách nhiệm chính trong việc chống lật đổ, phá hoại, gián điệp do số gián điệp biệt kích thâm nhập thực hiện. Bộ máy này cho phép Hà Nội tiến hành chiến dịch phản gián chủ động. Như William Colby giải thích, "chiến dịch đó thấm vào toàn xă hội... không ai đứng ngoài".(3) Các toán biệt kích của SOG phải đối mặt với bộ máy an ninh khổng lồ. Với tất cả những căn bệnh của SOG, các toán này hầu như không có cơ hội. Đó là cuộc chiến không cân sức.
    Hà Nội không thoả măn với việc xác định, bắt giữ, và vô hiệu hoá các toán biệt kích của SOG. Tương tự như các nước xă hội chủ nghĩa khác, chiến lược phản gián chủ động của Hà Nội tỏ ra rất hiệu quả. Trên thực tế, kế hoạch hai mang mà Hà Nội thực hiện chống lại SOG là một trong nhiều chiến dịch chống cơ quan t́nh báo phương Tây thành công mà các đồng nghiệp của họ ở các nước xă hội chủ nghĩa gặt hái được trong chiến tranh lạnh. Hà Nội đă rút ra nhiều kinh nghiệm qua các mối quan hệ hợp tác với cơ quan an ninh, t́nh báo của các quốc gia bè bạn. KGB cũng có mặt ở Việt Nam và các nhân viên an ninh Việt Nam được học tập tại trường t́nh báo ở Matxcơva, nơi mà giáo tŕnh giới thiệu chi tiết về nhiều hoạt động khống chế hai mang.
    Tuy nhiên, ít nhất có ba yếu tố góp phần quan trọng vào sự phát triển các cơ quan an ninh, t́nh báo của Hà Nội trong kỹ năng phản gián thụ động và chủ động. Thứ nhất là tâm lư, các nhà lănh đạo Hà Nội luôn quan tâm tới các âm mưu hoạt động của đối phương và coi việc phát hiện và vô hiệu hoá các âm mưu đó là ưu tiên hàng đầu. Thứ hai, Bắc Việt Nam dành nguồn lực đáng kể cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh nội bộ và phản gián. Điều này phản ánh ở quy mô, đào tạo và khả năng nghề nghiệp của các cơ quan an ninh.
    Yếu tố thứ ba, có tính chất đặc biệt quan trọng, có liên quan đến kinh nghiệm trong nghệ thuật lật đổ, đánh lừa đối phương, và hoạt động bí mật. Trong nhiều thập kỷ, Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong bí mật với nhiều phương thức khác nhau. Việt Cộng đă áp dụng hiệu quả các kinh nghiệm này. V́ vậy, kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp góp phần vào khả năng chống lại các thủ đoạn tương tự. Hà Nội biết phải làm ǵ và áp dụng biện pháp nào để vô hiệu hoá các hoạt động đó.
    ____________________ __________________
    1. Dziak, "Lịch sử của KGB", tr. 1, 2.
    2. Dziak, "Lịch sử của KGB", tr. 1.
    3. Phỏng vấn lịch sử với William Colby, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 9.
    CHUƠNG TR̀NH ĐÁNH LẠC HUỚNG VÀ NGHỆ THUẬT CHƠI TR̉ BA MANG
    Khi Singlaub và McKnight xem xét các thiệt hại trong năm 1968, họ suy nghĩ cần phải làm ǵ với OP34. Phải chăng cách tốt nhất là chấm dứt chương tŕnh, hay là tiếp tục làm như cũ? Tuy nhiên, khi nghiên cứu báo cáo của nhóm chuyên viên phản gián về chương tŕnh gián điệp, biệt kích và sự đánh giá trước đó của Kingston, Singlaub và McKnight gặp phải rất nhiều chi tiết lạ lùng, thậm chí c̣n kỳ lạ. Đầu tiên, những chi tiết đó không làm họ chú ư.
    Các chuyên gia phản gián khi nghiên cứu hồ sơ đă phát hiện ra Hà Nội tuyên bố đă bắt giữ một số lượng biệt kích lớn hơn nhiều so với số SOG đă tung đi. Nếu con số đó chỉ xuất hiện trên báo chí và đài phát thanh th́ lănh đạo SOG đă không để ư đến v́ đó chỉ nhằm mục đích tuyên truyền. Tuy nhiên, số liệu này xuất hiện trong tài liệu nội bộ, chỉ thị, và tài liệu đặc biệt. Ví dụ, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đă báo cáo trước Quốc hội tháng 3-1966 là trong năm trước đó, gián điệp đă tích cực hoạt động thu thập tin tức chính trị, kinh tế, quân sự và điệp viên của đối phương đă gây ra sự bất măn trong dân tộc thiểu số và các tổ chức tôn giáo. Bức thông điệp có vẻ nghiêm trọng.(1)
    Hà Nội dường như đang quá lo ngại về gián điệp, Singlaub nghĩ, mọi việc cuối cùng đă trở nên thú vị hơn. Càng nghiên cứu các tin tức t́nh báo, Singlaub càng trở nên thích thú. Ông nhận ra các cơ quan an ninh của Hà Nội tập trung nhiều thời gian và công sức rà soát mọi khu vực để t́m kiếm các toán biệt kích vốn không tồn tại. Các hoạt động t́m kiếm này không khác ǵ công việc "kéo lưới". Họ ḍ hỏi dân làng, bao vây số đối tượng nghi vấn. "Người nào bị nghi vấn ủng hộ hoạt động phản cách mạng trong quá khứ" đều bị tra hỏi.(2) Sự cảnh giác dường như đang lan rộng trong tư tưởng của các quan chức miền Bắc. Singlaub suy nghĩ, chẳng mấy chốc họ sẽ tự đánh lẫn nhau. Nếu như vậy, Singlaub lập luận, đây chưa phải lúc chấm dứt chương tŕnh OP34 mà ngược lại. OP34 cần được tổ chức lại và mở rộng nhưng với mục đích khác. Hà Nội dễ bị mắc lừa về quy mô và mức độ họ khống chế hoạt động biệt kích của OP34. Có lẽ, có thể làm cho họ tin là có nhiều toán khác mà họ không biết vẫn đang hoạt động bên trong biên giới. Trong hệ thống thuật ngữ t́nh báo, đây là tṛ chơi ba mang. Tṛ chơi này không dễ dàng, nhưng đây là điểm khơi đầu. Đă đến lúc khai thác nỗi lo sợ của Hà Nội. Với mục đích đó, SOG vạch ra "Chương tŕnh đánh lạc hướng”. Với chương tŕnh đó đến lượt SOG giữ vai tṛ chủ động.
    Chương tŕnh đánh lạc hướng
    Với mật danh Forae, chương tŕnh này được tướng Westmoreland phê chuẩn bằng miệng ngày 14-3-1968. Với tính chất của chương tŕnh, điều này không có ǵ lạ.
    Đầu tiên, Forae bao gồm “sáu đề án", trong đó ba đề án "được chuyển cho bộ phận chiến tranh tâm lư của SOG".(3) Ba đề án c̣n lại được giao cho OP34 và trở thành hạt nhân của tṛ chơi ba mang.
    Forae rất đơn giản nhưng việc thực hiện rất phức tạp. Mục tiêu của Forae là làm cho Hà Nội tin rằng họ mới chỉ phát hiện ra một phần nhỏ và rằng điệp viên của đối phương đă ăn sâu bén rễ ở miền Bắc. Bản kế hoạch nhằm "thuyết phục Hà Nội là có nhiều toán gián điệp biệt kích đang hoạt động ở miền Bắc hơn con số thực tế".(4) SOG hy vọng là Forae sẽ làm cho Hà Nội tập trung lực lượng quân đội, an ninh... tăng cường kiểm soát dân chúng, tạo môi trường thuận lợi cho chiến tranh tâm lư và khai thác quấy rối hậu phương của đối phương".(5)
    Nội dung chủ yếu của Forae là hoạt động đánh lừa do Bob Kingston đề xướng. Kingston quyết định "đưa máy phát thanh vào miền Bắc qua các toán biệt kích và thả qua đường không để tiếp sóng hai chương tŕnh phát thanh tâm lư chiến (Đài Gươm thiêng ái quốc và Đài Cờ đỏ). Những ǵ chúng tôi muốn là lực lượng an ninh miền Bắc sẽ truy lùng cái mà họ nghĩ là biệt kích nhưng thực tế chỉ là đài phát".(6) Hoạt động này chủ yếu dựa vào đài phát thanh. Một khía cạnh khác là gửi các bức điện yêu cầu "các toán đang hoạt động liên hệ với các toán không tồn tại. Chúng tôi chỉ thị cho toán di chuyển để liên hệ với toán giả tạo khác. Đây là mật khẩu của anh, đây là mật khẩu của họ, đây là đường đi”.(7) Đây là nỗ lực rất khiêm tốn và khó làm cho Hà Nội phải lo lắng.
    ____________________ ___________________
    1. Trích trong "Sổ tay địa bàn miền Bắc Việt Nam" (Washington DC, Cơ quan in ấn của chính phủ, tháng 6-1967, tr.338.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhận xét về hoạt động và tin tức t́nh báo của MACVSOG", tr. 63.
    3. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần “Hoạt động không vận”, tr. 85.
    4. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động không vận", tr. 7.
    5. MACVSOG "Lịch sử chỉ huy 1969" Phụ lục F, tr. IX-1-2.
    6, 7. Phỏng vấn lịch sử với tướng Robert Kingston, trong “MAEVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 68, 69, 70.
    Ba đề án chính của Forae
    Một chương tŕnh tham vọng như Forae đ̣i hỏi có hàng loạt kỹ thuật đánh lừa mới có kết quả. Chương tŕnh phát thanh là không đủ. Nhiệm vụ triển khai các hoạt động liên quan khác trong năm 1968 được giao cho Bob McKnight. Ông có một nhóm các sĩ quan triển khai các nội dung hoạt động khác nhau của Forae. Họ tỏ ra rất sáng tạo. Những sĩ quan này và sếp của họ trở nên "hiểu biết những lo ngại về an ninh nội bộ của miền Bắc và mức độ lo ngại của họ về vấn đề này".(1) Với kiến thức này, OP34 bắt đầu tạo ra tṛ chơi ba mang phức tạp.
    McKnight cho biết, ngoài việc lừa Hà Nội, Forae c̣n đánh lạc hướng đối tác của SOG, Tổng nha kỹ thuật chiến lược. Họ chỉ được biết một phần và tin rằng Forae chỉ là một phiên bản mới của hoạt động gián điệp, biệt kích của OP34. Theo McKnight, Tổng nha kỹ thuật chiến lược nghĩ rằng mọi thứ "tiếp tục được thúc đẩy. Tôi tin rằng họ không bao giờ biết những ǵ chúng tôi thực sự đang tiến hành”. Tṛ chơi ba mang không chỉ "chơi" Hà Nội mà c̣n cả "đối tác của chúng ta" v́ SOG tin rằng cơ quan t́nh báo Hà Nội đă xâm nhập được vào Tổng nha kỹ thuật. Cốt lơi của Forae là ba đề án chính: Borden, Urgency, và Oodles.
    Đề án Borden
    Đề án Borden tuyển chọn tù binh của Bắc Việt Nam làm điệp viên cho SOG. Khi được tuyển mộ, các tù binh sẽ phục vụ mục đích của Chương tŕnh đánh lạc hướng một cách không tự giác.
    Bert Spivy, lúc bấy giờ là đại uư, đă tốt nghiệp Westpoint là "một trong mười bảy" học viên của khoá 1960, những người "thực sự tin tưởng vào quan điểm của Kenedy về nhiệm vụ của lực lượng đặc biệt". Spivy nhớ lại, "vào lúc bấy giờ, người ta bảo chúng tôi công việc đó không thuận lợi cho sự nghiệp. Tuy nhiên, tổng thống nhấn mạnh thách thức của nổi dậy cách mạng cộng sản và nhu cầu phát triển công cụ hữu hiệu để đối phó của Hoa Kỳ".(2) Đầu năm 1968, Spivy đến nhận công tác tại OP34 giúp điều hành đề án Borden.
    Nhiệm vụ đầu tiên của Spivy là chọn từ số bị bắt ở các nơi giam giữ tù binh chiến tranh do quân đội Mỹ quản lư ra những người cộng tác. OP34 tránh tuyển chọn tù binh do quân đội Việt Nam Cộng hoà giam giữ. Spivy mô tả tiến tŕnh tuyển lựa như sau: "chúng tôi xác định những người có khả năng thông qua việc trao đổi với nhân viên quản lư trại giam. Sau đó chúng tôi tiếp xúc với số đă qua sơ tuyển để xem họ có muốn trở thành điệp viên hay không".(3)
    Điều mà số tù binh được tuyển lựa không biết là những người điều hành đề án Borden không quan tâm đến việc họ tự nguyện trở thành điệp viên hay không. Thực ra, theo hồ sơ của Borden, "chúng tôi muốn số được tuyển lựa này để lộ nhiệm vụ được giao cho miền Bắc khi đầu hàng hoặc bị thẩm vấn".(4) Spivy nhấn mạnh, "chúng tôi muốn họ tin là việc tuyển lựa họ là thành thật. Hay nói cách khác, chúng tôi muốn họ tin là chúng tôi thật sự muốn họ làm việc cho chúng tôi và trở thành một bộ phận của mạng lưới gián điệp và phong trào chống đối trong ḷng miền Bắc".(5) Dĩ nhiên, mối quan tâm thực sự không phải là độ tin cậy của họ mà là liệu OP34 có thể tuyển chọn họ hay không để phục vụ cho mục đích đánh lừa mà họ không hề hay biết.
    Khi đă được đưa về miền Bắc, các điệp viên của Borden sẽ phục vụ mục đích của OP34 một cách không tự giác. Sếp của SOG đại tá Steve Cavanaugh, người thay thế Singlaub, giải thích "trong khi huấn luyện, chúng tôi giao cho họ những nhiệm vụ cụ thể là móc nối với toán giả tạo ở miền Bắc để lấy tin tức... Tất nhiên, chúng tôi lừa họ bởi v́ chẳng có toán nào tồn tại để liên lạc. Chúng tôi dự kiến họ sẽ bị bắt và thẩm vấn, và v́ chúng tôi không tin tưởng họ thực sự muốn cộng tác, tôi nghĩ họ sẽ khai ra hết. Chúng tôi muốn họ bị bắt, bị thẩm vấn để khai ra những ǵ chúng tôi đă nói với họ về các toán gián đỉệp-biệt kích đang hoạt động ở miền Bắc.(6) Đó mới chỉ là một phần của tṛ chơi đố chữ mà OP34 đang đề ra trong đề án Borden.
    Sau đó là việc huấn luyện số tù binh đă được tuyển chọn. Như Spivy mô tả, đó là một công việc được kiểm soát chặt chẽ và theo kịch bản có trước. “Chúng tôi sử dụng một số biệt kích do Tổng nha kỹ thuật chiến lược tuyển chọn cùng huấn luyện chung với họ. Sự có mặt của số này sẽ cung cấp cho họ một cách không chính thức thông tin về các toán khác đă Bắc tiến hoặc sự đồn đoán về phong trào chống đối ở miền Bắc. Kiểu thông tin không chính thức này sẽ củng cố thêm các thông tin chính thức mà chúng tôi nhồi cho họ trong quá tŕnh huấn luyện".(7) Kiểu đưa tin chính thức bao gồm việc "cung cấp cho họ đầu mối liên lạc, cách móc nối với các tổ gián điệp. Chúng tôi cũng có thể cho biết thông tin về các quan chức chính phủ tham nhũng mà chúng tôi nói rằng có được là nhờ các toán cài cắm cung cấp”.(8 )
    Borden được "thiết kế để làm Bắc Việt Nam phải tiêu tốn nguồn lực quân sự để đối phó với sự xâm nhập này". SOG hy vọng rằng Hà Nội sẽ bắt đầu chiến dịch săn lùng trong hàng ngũ của ḿnh và tạo ra "sự bất măn và xa cách giữa binh lính và chỉ huy, kích thích sự đảo ngũ”.(9) Khi việc huấn luyện kết thúc, các điệp viên "giả hiệu" đă sẵn sàng xâm nhập về miền Bắc hoặc vùng lănh thổ do Bắc Việt Nam kiểm soát tại Lào hoặc Campuchia. Ngay trong giai đoạn xâm nhập, các thủ đoạn đánh lừa vẫn được áp dụng. Một điệp viên của Borden được "một phần thưởng là nhảy dù trước v́ đạt kết quả tốt khi huấn luyện", sau đó đến các thành viên khác. Dĩ nhiên, "anh ta không biết là khi ḿnh vừa nhảy ra khỏi máy bay vào bóng đêm, đồng đội của anh ta cởi bỏ móc dù và ngồi xuống". Họ chính là một phần của tṛ chơi. Khi lực lượng an ninh miền Bắc đến t́m kiếm, họ sẽ thu được những chiếc dù "treo ở trên cây”. Những chiếc dù này không chở điệp viên mà là các cục nước đá. Khi bị phát hiện các "điệp viên này đă tan thành nước".(10)
    Thậm chí những tù binh không được tuyển chọn là điệp viên cũng có vai tṛ nhất định trong tṛ chơi. Theo hồ sơ của Borden, họ được "đưa về trại giam như b́nh thường để lan truyền thông tin về đề án cho những người cùng bị giam giữ để cuối cùng chuyển đến các nhà phân tích t́nh báo của miền Bắc".(11)
    Điều này bổ sung thêm một khía cạnh nữa cho đề án Borden nhằm vào số tù binh nói chung mà từ đó SOG tuyển chọn điệp viên. Sáng kiến này do một sĩ quan không quân trẻ đến công tác tại SOG năm 1967-1968 đề xuất. Clem Tamaraz khá xa lạ với công việc của ḿnh. Không quân thường không tạo ra sĩ quan có sự quan tâm đến lĩnh vực phản gián và đánh lửa. Nhưng nhiều ư tưởng của Tamaraz đă trở thành nội dung hoạt động của Chương tŕnh đánh lạc hướng.
    Tamaraz nhắc lại một thủ đoạn như sau: "Tù binh không được tuyển chọn cũng vẫn được tiếp xúc với người đi tuyển theo cách làm cho họ tin rằng chúng tôi đang chào đón một điệp viên, người thường xuyên sinh hoạt cùng với họ". Thủ đoạn này được thực hiện như sau "cách chúng tôi làm là sử dụng bột bắt sáng. Chúng tôi (giả vờ tiến hành) nghiên cứu về hội chứng quá căng thẳng trong số tù binh miền Bắc. Chúng tôi có một bác sĩ quân y đến tận trại và khám từng tù binh. Viên bác sĩ sẽ đánh dấu vào trán một người nào đó thứ bột bắt sáng không nh́n thấy được bằng mắt thường. Ngày hôm sau, tôi sẽ đến phỏng vấn số tù binh đó và dùng đèn chiếu để vết đánh dấu đó hiện lên, khi đó tôi tiến đến chào hỏi vồn vă, bắt tay, ôm hôn và đưa anh ta ra chỗ khám. Số tù binh c̣n lại cũng nh́n thấy vết sáng hiện trên trán... và v́ vậy họ biết anh ta không giống người khác".
    Không cần phải thiên tài lắm để kết luận là anh ta là điệp viên. Thông tin này được củng cố bằng số bị loại ra trong quá tŕnh huấn luyện. "Do đó, cơ quan t́nh báo miền Bắc có được thông tin từ số tù binh chiến tranh mà chúng tôi đă cấy người vào. Rồi họ có thông tin...rằng chúng ta đang tung người đi. Điều này tái khẳng định kết luận của họ là chúng tôi đang huấn luyện người đưa ra Bắc".(12) Cuối cùng, người tù binh bị đánh dấu bằng bột phát sáng được lựa chọn hoặc là trở thành điệp viên hoặc trở về nơi giam giữ cũ. Đó không phải là sự lựa chọn khó khăn. Và thế là OP34 có nhiều điệp viên hơn để tung ra Bắc.
    Theo Spivy, mục đích đầu tiên của đề án Borden là tung đi khoảng vài trăm điệp viên một năm.(13) Trong năm 1968, hồ sơ cho thấy đề án đang được triển khai với 98 tù binh đă được tuyển lựa. 50 người trở về trại giam, 44 người được đưa ra Bắc và các vùng do Bắc Việt Nam kiểm soát. 4 người dự kiến sẽ được xâm nhập vào tháng 1-1969".(14) Đối với những người chỉ đạo Borden, 1968 được coi là năm khởi đầu tốt đẹp. Họ vạch kế hoạch làm nhiều hơn nữa trong năm 1969, tuy nhiên Washington đă can thiệp vào cuối năm 1968 và chấm dứt mọi hoạt động chống lại miền Bắc của SOG có liên quan đến việc đưa người qua giới tuyến.
    ____________________ ___________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với tướng Robert Kingston, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr.117.
    2. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bert Spivy, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 162.
    3, 5. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bert Spivy, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 165.
    4, 11. MACVSOG "Lịch sử chỉ huy 1969” Phụ lục F, tr. IX-4.
    6. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Stephen E. Cavanaugh, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những chỉ huy của SOG" tr. 95.
    7, 8, 13. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bert Spivy, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 166.
    9. MACVSOG "Lịch sử chỉ huy 1969" Phụ lục F, tr. IX-3.
    10. Plaster, “SOG: cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Mỹ tại Việt Nam", tr.228.
    12. Phỏng vấn lịch sử với trung tá C.P.Tamaraz, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 153-154.
    14. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động không vận", tr. 87.
    Đề án Urgency
    Đề án Urgency, yếu tố cốt lơi thứ hai của Forae, bao gồm hai nội dung. Nội dung thứ nhất có liên quan đến bộ đội, dân quân, cán bộ đảng miền Bắc trung kiên, không hợp tác đă bị bắt hoặc bị bắt cóc. OP34 có được tiếp cận với số này thông qua hai con đường. Thứ nhất, là qua các trại tù binh do quân đội Mỹ quản lư và là nơi đề án Borden tuyển lựa điệp viên. Thứ hai, là qua hoạt động trên biển có mật danh Plowman chuyên bắt cóc công dân miền Bắc. Khi bị bắt cóc và lựa chọn, số này được đưa ra đảo Thiên Đường, nơi họ được tuyên truyền về phong trào chống đối nguy tạo có tên Gươm thiêng ái quốc do bộ phận hoạt động tâm lư chiến của SOG chỉ đạo. Những người bị bắt giữ và tù binh chiến tranh được Urgency lựa chọn là những người không chịu hợp tác. Họ là những người cứng rắn và không thể khai thác được ǵ. Rơ ràng là họ không thích ǵ phong trào chống đối giả tạo. Nhưng đề án Urgency biết cách sử dụng họ. Theo Bob McKnight, chỉ huy trưởng của SOG năm 1968, SOG dự định biến họ thành gián điệp và đẩy trả về miền Bắc.
    Đây thật là một đ̣n hiểm. Thứ nhất, những công cụ gián điệp được khâu vào áo của họ mà họ không biết. Đây là một công việc chuyên môn. Sau đó, theo McKnight, "chúng tôi huấn luyện họ một chút về cách lên xuống máy bay trực thăng (hoặc sử dụng dù) rồi đưa họ vào vùng nào đó nơi họ có thể đi bộ đến chỗ có dân cư không mấy khó khăn".(1)
    Những người điều hành đề án dự tính rằng lực lượng an ninh miền Bắc sẽ bắt và giam giữ họ và sau đó sẽ phát hiện ra tài liệu giấu trong người, trong đó có danh sách những điệp viên và các hoạt động gián điệp khác. Khi họ phủ nhận việc biết có các tài liệu này, nhiều khả năng là tiến tŕnh thẩm vấn trở nên tồi tệ. Họ càng giải thích th́ càng phải chịu đựng các biện pháp xét hỏi khắc nghiệt hơn.
    Nội dung thứ hai liên quan đến số bị giữ trên đảo Thiên Đường, nhưng người muốn hợp tác, hay ít nhất là tỏ ra như vậy. Dù thái độ thật thế nào, họ đều được những người điều hành Urgency quan tâm. Những người này có thể là điệp viên thật hoặc giả. Trong phần lớn các trường hợp điều đó không quan trọng v́ Urgency về cơ bản là hoạt động đánh lừa. Tuy nhiên, trong quá tŕnh tuyên truyền, một số ít điệp viên được tuyển chọn và huấn luyện sơ bộ, sau đó tung về miền Bắc chờ liên lạc sau. Trên thực tế, OP34 đă thực hiện một chương tŕnh tương tự với một số ít được lựa chọn tại đảo Thiên Đường năm 1967. Theo hồ sơ, "ư tưởng hoạt động là sử dụng hai người bị bắt cóc để thu thập t́nh báo ở nơi họ cư trú”. Hai điệp viên, mật danh Goldfish và Pergola, được đưa ra Bắc tháng 9-1967, sau đó không ai nhận được tin ǵ của họ.(2) Tuy nhiên, mục đích chính trong nội dung này của Urgency là biến người bị bắt giữ thành điệp viên giả với mục đích duy nhất là khai báo hết với cơ quan ninh miền Bắc khi bị xét hỏi.
    Mục tiêu ở đây không phải thu thập tin t́nh báo mà đánh lừa. Họ được huấn luyện tương tự như số được chọn cho đề án Borden. Trên thực tế, theo Bert Spivy, "tôi đến đảo Thiên Đường và có thể quan sát được hoạt động của ngư dân. Mục đích của tôi là học các kỹ thuật khác nhau v́ tôi thực hiện một nhiệm vụ tương tự đối với tù binh chiến tranh".(3) Những ǵ mà ông học được là Urgency đang điều hành một công việc hoàn toàn theo kịch bản, trong đó những người bị bắt đều có vai và được nhận những thông tin giả về các điệp viên và mạng lưới khác. Quá tŕnh huấn luyện tỷ mỉ đó kết thúc bằng buổi lễ đặc biệt trong đó các "điệp viên" được kết nạp vào hội anh em bí mật. Ngay sau đó điệp viên đó được đưa ra Bắc.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P12



    Cũng như Borden, Urgency mới bắt đầu triển khai th́ cuối 1968, Washington đ́nh chỉ mọi hoạt động bên kia giới tuyến của miền Bắc.
    Đề án Oodles
    Thành tố chủ yếu thứ ba của Forae là đề án Oodles. Đó là một hoạt động đánh lừa bằng điện đài phức tạp được cụ thể hoá trên cơ sở nỗ lực của Kingston. Theo hồ sơ của SOG, đề án Oodles được "thiết kế nhằm tạo ra h́nh ảnh về một mạng lưới điệp viên hiệu quả, rộng răi trong một số vùng ở miền Bắc. Với mục đích đó, mười bốn toán "ma" được dựng lên".(4) Chúng có mục đích tạo thành một mạng lưới phức tạp hơn song song với số mà người Bắc Việt Narn đă phát hiện và khống chế sử dụng chống lại SOG. Đây là một thủ đoạn tinh vi do Dave Thoemen, một nhân viên CIA vạch ra.
    Để làm cho đề án Oodles có vẻ đáng tin tưởng, các bức điện giả được gửi từ OP34 cho từng toán biệt kích ma. Những bức điện đó bao gồm hướng dẫn hoạt động, mục tiêu thu thập t́nh báo, tiếp tế, hoạt động của các toán khác và các toán bổ sung. Thêm vào đó, toán viên c̣n nhận được điện từ gia đ́nh, nhất là trong các ngày nghỉ quan trọng. Ví dụ, nhân dịp sinh nhật, một toán viên nhận được điện từ cha mẹ, vợ và con. Nhân dịp ngày cưới, có điện rất riêng tư của vợ, nhắc lại những kỷ niệm đẹp trong quá khứ.
    Các kiện hàng tiếp tế cũng được thả dù xuống khu vực mà toán biệt kích ma đang hoạt động. Tất nhiên những ǵ mà cơ quan an ninh miền Bắc t́m thấy chỉ là phần vỏ, không có hàng. Ấn tượng mà OP34 muốn tạo ra là các cơ quan an ninh miền Bắc đă đến quá chậm: toán biệt kích đă có mặt ở đó và lấy đi một kiện hàng. Theo hồ sơ của đề án, "để tăng thêm độ tin cậy, sự có mặt của con người được thể hiện bằng những chiếc dù buộc nước đá để khi đá tan dù vẫn c̣n treo trên cây".(5) Ở đây bức thông điệp cho công an hoặc ai đó t́m thấy dù là : bạn đến chậm quá, họ đă đi xa rồi.
    Một thủ đoạn khác, điệp viên giả được tung đi từ hai đề án Borden và Urgency đều tin là khi chạm đất họ sẽ được các thành viên của các toán biệt kích "ma" đón. Trong khi số điệp viên giả này thực sự tin là họ sẽ được gặp các toán có từ trước, mục tiêu của OP34 đơn giản chỉ là tạo ra thêm chứng cứ cho thấy các toán ma là có thật.
    Cuối cùng, các điện đài của các toán ngụy tạo được thả xuống miền Bắc. Điều này khép kín ṿng tṛn liên lạc. Các bức điện được gửi đi và được trả lời. Ngoài ra, các thiết bị sát thương được thả xuống miền Bắc để buộc lực lượng an ninh phải hành động. Ở đây mục tiêu là làm cho đối phương truy t́m thiết bị chứ không phải người sử dụng thiết bị đó.
    Cũng như Borden và Urgency, các hoạt động của đề án Oodles có liên quan đến đưa người qua biên giới miền Bắc như các chuyến tiếp tế giả và thả điện đài bị ngừng lại cuối năm 1968. Oodles được tiếp tục trong năm 1969 nhưng chỉ giới hạn trong việc gửi điện cho mười bốn toán “ma" mà thôi. Trung b́nh mỗi tuần có hai bức điện được gửi đi.
    ____________________ __________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Robert McKnight, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 116.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động không vận", tr. 84.
    3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bert Spivy, trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 167.
    4, 5. MACVSOG "Lịch sử chỉ huy 1969”, Phụ lục F, tr. IX-1-3.
    Các đề án hỗ trợ Forae khác
    Trong khi Borden, Urgency và Oodles là ba hoạt động chủ yếu của Chương tŕnh đánh lạc hướng của OP34, các chương tŕnh khác do SOG điều hành có vai tṛ hỗ trợ nhằm làm cho Hà Nội tin rằng họ đang có vấn đề an ninh nghiêm trọng. Một trong chương tŕnh đó là "Chương tŕnh biệt kích thám sát đường và mục tiêu ngắn hạn", viết tắt là Strata, có nhiệm vụ phụ là củng cố thêm Forae thông qua hoạt động của ḿnh.
    Tháng 5-1967, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương điện phê chuẩn đề án Strata. Hai toán Strata đầu tiên được xâm nhập vào miền Bắc cuối năm đó. Địa bàn hoạt động của hai toán này là phía nam vĩ tuyến 20, khoảng 150 dặm phía trên khu phi quân sự, nơi họ thu thập thông tin về mạng lưới đường giao thông nối với đường ṃn Hồ Chí Minh tại Lào. Trong khi các toán dài hạn được chuyển sang nhiệm vụ thu tin t́nh báo tương tự từ năm 1966, rất ít toán c̣n tồn tại và cũng không làm được ǵ nhiều. V́ vậy, "người ta cho rằng việc nhấn mạnh thời gian ngắn và cơ động của các toán Strata trong huấn luyện sẽ giúp họ tồn tại và đưa về thành công".(1)
    Các toán Strata bao gồm từ "5-15 toán viên là người địa phương được chuyên chở bằng máy bay trực thăng của không quân Mỹ hoặc không quân Nam Việt Nam... Mỗi một công vụ kéo dài khoảng 15-30 ngày”.(2) Trong năm 1968, tất cả 28 toán được tung ra Bắc. Thiếu tá Gaspard, người giám sát việc thi hành đề án này, kể lại rằng nhiệm vụ của các toán Strata là "quan sát đường và thám báo... trinh sát đường lớn, đường ṃn, hoặc các mục tiêu khác và t́m ra địa điểm tập kết rút về Nam. Đó là nhiệm vụ rất khó khăn v́ địa h́nh ở đó rất hiểm trở. Tôi không nghĩ là nó dễ dàng chút nào".(3)
    Gaspard là một sĩ quan giàu kinh nghiệm của Lực lượng đặc biệt, người đă từng chỉ huy các toán thám báo hoạt động ở bên kia giới tuyến ở Bắc Triều Tiên. Ông "chỉ huy một đơn vị phối thuộc có tên "Văn pḥng liên lạc chiến thuật" hay TLO, thường bao gồm một trung uư hoặc đại uư, ba hoặc bốn nhân viên điều hành và khoảng 30-40 thám báo người Triều Tiên. Khi tiểu đoàn bộ binh ra chiến trường, đội TLO cùng đi và tiến hành tuần tra, thực hiện các nhiệm vụ trinh sát... Tôi đă chỉ huy 97 phi vụ qua khu phi quân sự xâm nhập vào Bắc Triều Tiên và được đánh giá khá cao về các hoạt động này".(4) Sau đó, vào giữa những năm 1960, Gaspard trở lại Triều Tiên, lần này là để "triển khai chương tŕnh chống xâm nhập". Lúc này Bắc Triều Tiên đang tiến hành đưa một số lượng đáng kể lực lượng đặc biệt vào miền Nam. Trên cơ sở những kinh nghiệm này, Gaspard dường như rất thích hợp với vị trí lănh đạo Strata.
    Các toán Strata được giao thêm một số nhiệm vụ phụ như cài ḿn, bắt cóc tù binh, rải tài liệu tâm lư chiến. Nhưng hồ sơ của chương tŕnh cho thấy kết quả thực hiện các nhiệm vụ này của các toán Strata là rất hạn chế. Các toán viên cho biết rất ít khi họ tiếp cận gần đường để có thể nh́n thấy xe tải hoặc phát hiện ra mục tiêu không kích đáng giá. Các toán Strata cũng không bắt cóc được tù binh và chỉ gài được một số ḿn ít ỏi. Tuy nhiên, họ đă rải nhiều tài liệu tâm lư chiến trong các khu vực họ được xâm nhập. Những tài liệu này liên quan tới hoạt động chống đối giả tạo phong trào "Gươm thiêng ái quốc". Thông thường các tài liệu đó nói xấu cán bộ địa phương trong vùng. Ư là, theo Gaspard, "hoặc hạ bệ người cán bộ đó hoặc làm cho an ninh miền Bắc tin là phong trào chống đối là có thật và đang hoạt động tại khu vực đó".(5)
    Với t́nh h́nh như vậy, lợi ích của các toán Strata là ǵ? Gaspard có cách đánh giá rất riêng "cách đánh giá của tôi là nếu bạn chỉ huy chương tŕnh, và nhiệm vụ của bạn là tung họ đi th́ chúng tôi đă thực hiện được điều đó. Nếu họ làm được điều ǵ hơn thế, theo tôi, đó là việc phụ. Tôi biết cách nh́n này có vẻ ngược đời nhưng tôi phải đánh giá hoạt động đó".(6) Thế th́ hoạt động này có tác động thế nào đối với Hà Nội? Gaspard tin là nó cho Hà Nội biết "chúng ta muốn đến lúc nào th́ đến, muốn rải truyền đơn và cắm cờ lúc nào cũng được".(7)
    Trong khi các toán Strata không hoàn thành nhiệm vụ như dự kiến, sự thật là họ xâm nhập miền Bắc 24 lần trong năm 1968 rơ ràng làm tăng thêm hiệu quả của Chương tŕnh đánh lạc hướng, như ư kiến của Gaspard. Trong thực tế, đó là một chứng cứ thực sự về hoạt động gián điệp, biệt kích như Hà Nội thường vẫn gọi. Cũng như đối với các hoạt động khác của SOG có liên quan đến việc đưa người thâm nhập miền Bắc, chương tŕnh Strata bị kết thúc một cách đột ngột vào cuối năm 1968. Trong năm 1969, Strata tập trung vào Lào và Campuchia đồng thời quay trở lại nhiệm vụ thu thập t́nh báo.
    Forae không chỉ có như vậy. Bộ phận chiến tranh tâm lư của SOG đă triển khai ba đề án khác. Một là đề án Uranolite, "tung các thiết bị quấy phá và bóng gió ám chỉ có điệp viên vào miền Bắc để buộc lực lượng an ninh phải tập trung lực lượng truy t́m và t́m hiểu thiết bị, phát hiện điệp viên, và mở rộng phạm vi hoạt động". Những thiết bị này được chở bằng máy bay rồi thả xuống một số khu vực nhất định. Ví dụ như các hộp chứa phương tiện đặc trưng của hoạt động gián điệp (đèn pin tiết kiệm năng lượng, máy dự báo thời tiết hoặc thuốc nổ, máy thu thanh rẻ tiền, hoặc thiết bị chẳng có mục đích ǵ ngoài việc buộc họ mất thời gian nghiên cứu)". Đề án này "đă sẵn sàng khởi động khi Washington ra lệnh ngừng ném bom năm 1968 đồng thời chấm dứt mọi hoạt động như vậy chống lại miền Bắc".(8 )
    Tiếp theo là đề án Pollak, “vu cáo cho một số quan chức miền Bắc là gián điệp nhằm mục đích để an ninh miền Bắc tập trung lực lượng bắt giữ, xét hỏi, và điều tra những người và cơ quan hoàn toàn vô tội". Mục đích này được thực hiện thông qua thư trong đó sử dụng mực bí mật dễ bị phát hiện". Những lá thư này được gửi qua đầu mối hai mang ở miền Nam hoặc qua số điệp viên "giả" được tung ra Bắc. Thuật ngữ t́nh báo gọi đó là những lá thư "đen". Đề án này được triển khai năm 1968.
    Đề án Sanitaries "nhằm mở rộng hoạt động của "Gươm thiêng ái quốc" thông qua việc sử dụng các tờ rơi có phiếu thưởng… được thiết kế để làm cho cơ quan an ninh Hà Nội tin là hoạt động của Gươm thiêng ái quốc là rộng lớn, có sự ủng hộ rộng răi và để khuyến khích nhân dân giấu các tờ rơi đó để lĩnh thưởng”. Đề án này cũng bị dừng lại tháng 11 1968.(9)
    Phong trào Gươm thiêng ái quốc, thành lập năm 1965 , cũng góp phần vào Chương tŕnh đánh lạc hướng. Hai nội dung hoạt động chủ yếu của nó có liên quan và hỗ trợ trực tiếp cho tṛ chơi ba mang của OP34.
    Cuối cùng, OP39 gửi một số lượng lớn thư giả cho cán bộ và công dân miền Bắc. Một số thư nhằm tạo ra sự nghi ngờ hoạt động gián điệp đối với người nhận hoặc “biến" họ thành gián điệp. Một thủ thuật nhỏ nữa là gắn những thông tin trong thư với thông tin giả về gián điệp và biệt kích mà đề án Borden và Urgency tung ra.
    ____________________ _________________
    1, 2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động không vận", tr. 6.
    3. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng George Gaspard, trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những nhân viên phục vụ kế hoạch OP34 của MACVSOG" tr. 129.
    4, 5. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng George Gaspard, Sđd, tr. 125.
    6, 7. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng George Gaspard, Sđd tr-131,160.
    8, 9. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động tâm lư chiến", tr. 90.
    CHẤM DỨT HOẠT ĐỘNG
    Cuối cùng th́ OP34 cũng đi đúng hướng, và vào mùa thu 1968, Chương tŕnh đánh lạc hướng đang được triền khai. Sếp của OP34 và một số ít sĩ quan tỏ ra có đầu óc sáng tạo trong việc kiến tạo một hệ thống ba mang phức tạp. Đó là một nỗ lực thật sự nghiêm chỉnh nhằm vớt vát từ thất bại trước đó. OP34 đă trở lại tṛ chơi nhưng với vai tṛ người đi lừa chứ không phải bị lừa.
    Những dấu hiệu ban đầu cho thấy Chương tŕnh đánh lạc hướng đă làm cho Hà Nội chú ư. Báo chí và đài phát thanh trong năm 1968 hé lộ cho thấy nỗi lo ngại về gián điệp biệt kích, và lật đổ. Đó là sự thay đổi lớn so với năm trước đó. Các bài báo và b́nh luận trên đài phát thanh trở nên báo động nhiều hơn. Ngay cả trong giai đoạn h́nh thành, Chương tŕnh đánh lạc hướng rơ ràng đă tạo ra kết quả như mong muốn. Hà Nội cảm thấy độ nóng và ngày càng trở nên nhậy cảm đối với nguy cơ lật đổ.
    Đúng lúc đó một bức điện được gửi tới. Tháng 11-1968, SOG nhận được một thông báo khẩn của Washington. Bản thông báo yêu cầu chấm dứt tất cả hoạt động biên kia giới tuyến. Đối với Chương tŕnh đánh lạc hướng, điều này đồng nghĩa với việc đóng cửa toàn bộ chương tŕnh mới vừa được triển khai. Tại sao điều đó lại xảy ra? Đại tá Cavanaugh, chỉ huy trưởng của SOG tự hỏi. Ông nhớ lại: "Không lâu sau khi tôi có mặt tại đó, Washington cho gọi tôi và hỏi: Anh có toán nào đang hoạt động bên trên giới tuyến không? Tôi có ba toán, và họ nói "Anh phải đưa họ về ngay lập tức, chúng ta chuẩn bị ngừng ném bom và tuyên bố chúng ta không có hoạt động ǵ bên trên giới tuyến. Tôi nhớ kỹ bởi v́ mệnh lệnh này gây ra sự kinh hoàng do không thể có cách nào đưa họ về ngay được. V́ thế, đó là lần cuối cùng chúng tôi đưa người ra Bắc".1
    Chương tŕnh đánh lạc hướng đă trở thành nạn nhân của việc xem xét lại chính sách sau Tết Mậu Thân của tổng thống Johnson. Vào cuối tháng Giêng, Việt Cộng phát động cuộc tấn công trên toàn quốc làm Washington chết điếng. Ngoài việc tấn công 36 trong tổng số 44 tỉnh lỵ và 5 thành phố lớn nhất ở miền Nam, Việt Cộng c̣n tập kích vào toà Đại sứ Mỹ, dinh tổng thống và tổng hành dinh quân đội Việt Nam Cộng hoà ở Sài G̣n. Mặc dù sau đó Việt Cộng chịu tổn thất và mất quyền kiểm soát các khu vực đánh chiếm được, cuộc tổng tấn công là một cú sốc chiến lược đối với chính quyền Johnson. Nó xé tan những đánh giá lạc quan từ năm 1967 của Lầu Năm Góc là t́nh h́nh đang được cải thiện và dự báo chiến tranh sắp kết thúc. Tết Mậu Thân làm Johnson mất hết nhuệ khí.
    Ngày 31-3-1968, Johnson thông báo với toàn quốc rằng ông đă đơn phương ra lệnh ngừng ném bom miền Bắc, trừ vùng tiếp giáp với khu phi quân sự, nơi sự tập trung của quân đội miền Bắc đe doạ trực tiếp căn cứ của Mỹ và quân đội Sài G̣n, và rằng ông sẽ không ra tranh cử tổng thống. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân thay đổi sâu sắc chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Mục tiêu lúc này là thoát ra khỏi chứ không phải đánh thắng cuộc chiến tranh.
    Người ta hy vọng việc ngừng ném bom sẽ là một cử chỉ thiện chí phát đi tín hiệu cho thấy nguyện vọng muốn đàm phán nghiêm chỉnh của chính quyền, một sáng kiến hoà b́nh mới. Đó là sự thay đổi sâu sắc. Miền Bắc, sau khi tiến hành đánh giá cuộc tổng tấn công, tuyên bố sẵn sàng bắt đầu đàm phán.
    Sau một tháng tranh luận về địa điểm, cuối cùng Hà Nội và Washington đồng ư gặp ở Paris và cuộc đàm phán bắt đầu ngày 13-5-1968. Ngay sau khi có mặt, các nhà đàm phán miền Bắc đă nhanh chóng nêu điều kiện của đàm phán. Những điều kiện này gần như đồng nghĩa với việc đ̣i Washington đầu hàng. Đối với đoàn đàm phán của Mỹ do Averall Harriman dẫn đầu, đó là t́nh huống khó khăn và chán ngán. Hà Nội yêu cầu cuộc đàm phán chỉ có thể tiến triển với "sự chấm dứt vô điều kiện các cuộc không kích của Mỹ và các hành động chiến tranh khác" chống lại miền Bắc. Hay nói cách khác, kết thúc SOG. Hà Nội bác bỏ đề nghị có đi có lại của Mỹ v́ nó có thể phương hại đến khả năng hỗ trợ chiến tranh ở miền Nam. Họ sẽ không bỏ Việt Cộng và cũng không rút quân đội ra khỏi miền Nam. Hà Nội cũng từ chối không công nhận chính phủ Nam Việt Nam và Mỹ cũng làm như vậy đối với Việt Cộng.
    Vào tháng 7, Johnson thấy thế là quá đủ. Ông ra lệnh B52 tái ném bom phía bắc khu phi quân sự. Tuy nhiên, Hà Nội không chấp nhận nguyên tắc có đi có lại và Harriman không làm ǵ để lay chuyển được lập trường đó. Vào đầu mùa thu, Harriman thuyết phục được Johnson đồng ư chấm dứt ném bom lần nữa nếu muốn có được nhượng bộ của miền Bắc Việt Nam. Cuối cùng "Cá sấu đă có được một "hiểu biết". Khó có thể nói đó là nhượng bộ. Harriman không thể ép Việt Nam chấp nhận nguyên tắc có đi có lại và nói với đoàn đàm phán Bắc Việt Nam là Hoa Kỳ có thể chấp nhận ngừng ném bom mà không cần có đ̣i hỏi ǵ nhiều. Harriman nói Hà Nội cần chấm dứt pháo kích và bắn rốc két vào các thành phố lớn và giảm số bộ đội tăng cường cho miền Nam qua khu phi quân sự. Hà Nội từ chối không chịu có cam kết chính thức, nhưng Harriman tin rằng họ đă "nháy mắt và gật đầu” đồng ư với ông.
    Đó là tất cả những ǵ Harriman thu được. Thậm chí Hà Nội không phải thừa nhận họ có quân đội ở miền Nam chứ đừng nói đến việc rút quân. Đồng thời, miền Bắc không đưa ra một chỉ thị nào chấm dứt hoạt động của Việt Cộng. Đó là một thoả thuận theo kiểu Lào năm 1962 cũng do Harriman đàm phán. Ngày 31-11, Johnson tuyên bố, trên cơ sở "tiến bộ" ở Paris, mọi cuộc không kích ở miền Bắc sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, theo một tài liệu đă được giải mật, chính quyền c̣n đồng ư chấm dứt mọi hoạt động ngầm liên quan đến việc đưa người qua giới tuyến, bất kể qua đường không, đường bộ hay đường biển. Theo một báo cáo tuyệt mật năm 1970, trong giai đoạn đầu của cuộc đàm phán hoà b́nh tại Paris, đại diện Hà Nội nêu đề nghị “giá cho hoà b́nh", trong đó có "đ̣i hỏi thể hiện sự phản ứng của miền Bắc đối với hoạt động của chương tŕnh Footboy (mật danh của toàn bộ hoạt động ngầm chống Hà Nội)".2
    Nếu SOG không biết Chương tŕnh đánh lạc hướng có tác động như thế nào đối với Hà Nội th́ đây là một chứng cứ tích cực. SOG chỉ tự hỏi tại sao Johnson lại chấp nhận đ̣i hỏi chấm dứt chiến tranh bí mật của miền Bắc.
    Đối với nhân viên trong OP34, quyết định đó thật vô lư. Tại sao chúng ta phải nhượng bộ mọi thứ trước khi đàm phán? Tại sao phải chấm dứt hoạt động có thể là một con bài quư giá một khi cuộc đàm phán bắt đầu? Chỉ cần bác bỏ việc dính líu vào SOG và kệ họ. Đó là cách nh́n của nhân viên OP34.
    Theo nhân viên của SOG, không cần thiết phải làm cho hoạt động ngầm phù hợp với chính sách công khai. Nhưng các nhà vạch chính sách cấp cao lại theo đuổi những tính toán khác phát sinh sau cơn sốt tổng tấn công năm 1968. Thêm nữa, cuộc bầu cử tổng thống 1968 cũng tác động đến quyết định chấp nhận đ̣i hỏi của Hà Nội. Theo một nghiên cứu sâu sắc và đầy đủ về những sự kiện này, Harriman, Cyrus Vance, và Clark Clifford "tất cả đều sợ rằng nếu không làm một điều ǵ đó thật ấn tượng, chiến dịch tranh cử của Hubert Humphrey sẽ sụp đổ và Richard Nixon sẽ thắng cử. Họ đă thuyết phục được Johnson, người trước đó c̣n "e ngại bị kết tội dùng thủ đoạn chính trị rẻ tiền" nếu chấp nhận đề nghị "giá của hoà b́nh" của Hà Nội, nghe theo.
    Đối với OP34 và Chương tŕnh đánh lạc hướng, cuộc tấn công hoà b́nh của chính quyền Johnson có nghĩa chấm dứt hoạt động ở miền Bắc. Hoạt động ngầm bị băi bỏ. Tṛ chơi ba mang bị đ́nh lại.
    Cuối năm 1995, Hoa Kỳ biết là Hà Nội vẫn rút ra bài học từ “kinh nghiệm đấu tranh chống gián điệp biệt kích trong thời gian chiến tranh”. Về mặt chính thức, Bộ Nội vụ cho rằng "những bài học đấu tranh chống vụ xâm nhập đầu tiên đă dần được biến thành quy tŕnh nghiệp vụ chung dẫn đến chiến thắng liên tiếp trong đấu tranh chống xâm nhập".3
    ____________________ ____________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Stephen E. Cavanaugh, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những chỉ huy của SOG” tr. 89.
    2. Nghiên cứu tài liệu MACVSOG, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân (tháng 7-1970), phụ lục C, phần “Hoạt động tâm lư chiến", tr. 110.
    3. "Cựu nhân viên an ninh thảo luận chống gián điệp thời chiến tranh", FBIS-EAS-95-177 (13-9-1995) tr. 70.

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P13



    CHƯƠNG BỐN
    LÀM CHO HỌ PHÁT ĐIÊN BẰNG CHIẾN TRANH TÂM LƯ
    Vào cuối năm 1962, khi sắp kết thúc nhiệm kỳ tại Sài G̣n, Bill Colby kết luận là hoạt động chống miền Bắc của CIA đă đổ vỡ. Nhất là các toán biệt kích không hề mang lại kết quả.
    Colby trở về Washington lănh đạo Pḥng Viễn Đông trong Cục kế hoạch, cơ quan chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động bí mật của CIA. Một trong những hành động đầu tiên của ông là yêu cầu nhân viên đánh giá hoạt động ở miền Bắc của Trung tâm Sài G̣n. Bản báo cáo của họ khẳng định những ǵ Colby đă lường trước. Sau này Colby nhớ lại là "Viên phó của tôi nói với tôi như sau: "Đây hăy nh́n xem, nó (việc tung gián điệp ra miền Bắc) thật là vớ vẩn". Anh ta c̣n nhắc lại kinh nghiệm ở Triều Tiên, ở Liên Xô trong những năm cuối 1940, ở Trung Quốc đầu 1950 và không một hoạt động nào trong số đó thành công". Bản báo cáo nói một cách thẳng thắn là những "kiểu hoạt động biệt kích này ở miền Bắc sẽ không mang lại kết quả".1
    Điều đó đặt ra một câu hỏi hắc búa cho Colby. Rơ rành là hoạt động của CIA chống Hà Nội không đi tới đâu, nhưng, theo Colby, tổng thống Kenedy tiếp tục yêu cầu ông "gia tăng sự mất an ninh ở miền Bắc tương xứng với độ mất an ninh họ đang gây ra ở miền Nam".2 Liệu có điều ǵ nữa mà CIA có thể làm không? Theo Colby câu trả lời là chiến tranh tâm lư. Ông tin là chế độ cộng sản thường hoang tưởng, nếu bạn có thể tạo ra tâm lư đó, "th́ sẽ làm họ phát điên".3 Khi c̣n là trạm trưởng ở Sài G̣n, ông đă khởi xướng một chương tŕnh tâm lư chiến chống Hà Nội có quy mô nhỏ. Giờ đây, Colby muốn mở rộng nó. Có thể câu trả lời chưa hẳn đă đúng, nhưng đó là tất cả những ǵ ông nghĩ ra.
    Thật ra, những ǵ Colby đề nghị là lôgíc. Ông muốn khoét sâu vào nỗi ám ảnh của Hà Nội về gián điệp để khai thác sự lo sợ quá mức về lật đổ và bạo loạn. Trong thực tế, hoạt động chiến tranh tâm lư không có ǵ thần kỳ, trái hẳn với những người nhiệt t́nh ủng hộ h́nh dung. Đó là một công cụ trong quan hệ giữa các quốc gia và là một phần trong "túi thủ đoạn" của CIA trong chiến tranh lạnh.
    Trong khi chiến dịch tâm lư chiến bí mật không có ǵ thần kỳ, việc thực hiện nó lại rất phức tạp. Nó kéo theo việc sử dụng có kế hoạch việc tuyên truyền (như đài phát thanh, tờ bướm, các tài liệu ở dạng in ấn) và các kỹ thuật tâm lư khác (như tổ chức giả hiệu, tưởng tượng) để tác động ảnh hưởng đến quan điểm, t́nh cảm, thái độ, động cơ và hành vi của giới lănh đạo và dân chúng ở quốc gia thù địch. Chiến dịch chiến tranh tâm lư rất phức tạp và đ̣i hỏi nhiều công sức.
    Năm 1948, cựu nhân viên của OSS, Frank Wisner được giao phụ trách hoạt động ngầm. Cơ quan do ông lănh đạo có tên Văn pḥng phối hợp chính sách được đặt ở CIA nhưng hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng an ninh quốc gia. Ông biết hoạt động ngầm là một công việc rắc rối, dù là tập trung vào khía cạnh chính trị, tâm lư, bán quân sự hoặc kinh tế. Wisner cho rằng tất cả các hoạt động như vậy cần phải do một cơ quan có quyền lực rộng răi "có thể chơi bài quân sự và ngoại giao; có thể tổ chức hoạt động, kiểm soát báo chí, tác động dư luận".4 H́nh ảnh này cho thấy tính phức tạp trong tất cả hoạt động ngầm, đặc biệt là chiến tranh tâm lư.
    Để thành công, hoạt động chiến tranh tâm lư cần phải được quản lư như là một chiến dịch phức tạp gắn kết hàng loạt các biện pháp. Nhưng đó mới chỉ là những điều mà Colby có trong đầu về hoạt động chống miền Bắc khi ông chọn Weisshart làm phó trưởng trung tâm CIA ở Sài G̣n phụ trách bộ phận hoạt động chống miền Bắc năm 1963. Weisshart nhanh chóng nhận ra chiến dịch tâm lư chống Hà Nội có quy mô không lớn. Bản hướng dẫn của Colby nói rơ: một hoạt động có quy mô nhỏ là đủ.
    Weisshart đến Sài G̣n tháng 3- 1963 để triển khai chương tŕnh chiến tranh tâm lư. Ông nhớ lại rằng ḿnh gần như phải bắt đầu từ con số không: "không có hoạt động chiến tranh tâm lư đáng kể nào chống lại miền Bắc vào lúc bấy giờ".5 Weisshart đă tiến hành hoạt động tương tự ở Đông bắc Á và dựa chủ yếu vào những kinh nghiệm đó. Ông không có sự lựa chọn nào khác v́ ông biết rất ít về Việt Nam.
    Mục tiêu của chiến tranh tâm lư này là ǵ? Theo Weisshart, "chỉ có một mục tiêu duy nhất: đó là thử xem chúng ta có thể làm ǵ để buộc miền Bắc phải san sẻ bớt nguồn lực và làm cho họ lo lắng về những ǵ chúng ta đang làm ở sân sau của họ. Bạn không thể trông đợi nhiều hơn".6
    Tuy nhiên, Weisshart phải làm việc và bắt đầu triển khai chương tŕnh chiến tranh tâm lư. Nó bao gồm việc tăng cường chương tŕnh phát thanh từ các đài phát bí mật vào miền Bắc, tăng số truyền đơn và hàng tâm lư chiến qua đường không, đường biển, và tạo ra một tổ chức chống đối giả được gọi là Gươm thiêng ái quốc (SSPL). Trong quá tŕnh làm việc, Weisshart biết được việc Washington trở nên kém nhẫn nại với nỗ lực của CIA và đă quyết định chuyển giao hoạt động ngầm cho Lầu Năm Góc. Đă đến lúc hun nóng Hà Nội, và như ông nhớ lại, quan điểm của các nhà vạch chính sách là "quân đội có tiền, nhân lực và vật lực để làm điều đó".7
    Khi việc bàn giao được tiến hành năm 1963, Herb Weisshart không chỉ chuẩn bị cho OPLAN 34A mà c̣n biết là ḿnh và một số đồng nghiệp CIA khác được cử sang SOG làm việc dưới sự chỉ đạo của một đại tá có tên Clyde Russell. Với quy mô tham vọng của Kế hoạch 34A, Weisshart hy vọng ḿnh có cơ hội để mở rộng chương tŕnh chiến tranh tâm lư.
    ____________________ _________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với William Colby trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP34 của MACVSOG”, tr. 9.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với William Colby trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP34 của MACVSOG”, tr. 7, 13.
    4. Ranelagh. "Cơ quan t́nh báo", tr.216.
    5. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 10.
    6, 7. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart, Sđđ, tr.12, 15.
    KHỞI ĐẦU: CHƯƠNG TR̀NH CHIẾN TRANH TÂM LƯ CỦA SOG
    Đại tá Russell, chỉ huy đầu tiên của SOG, gặp bốn thách thức trong việc điều hành tổ chức non trẻ của bộ phận chiến tranh tâm lư: t́m được đúng người thành lập pḥng hoạt động của bộ phận chiến tranh tâm lư, vạch kế hoạch hoạt động, và tiến hành hoạt động. Hơn nữa, ông phải hoàn thành công việc trên gần như cùng một lúc. Đó là nhiệm vụ quá nặng nề.
    Vấn đề đầu tiên trong chương tŕnh nghị sự là nhân sự. Weisshart chuyển sang giữ chức phó chỉ huy SOG vào lúc Russell đến Sài G̣n tháng 1-1964. Ông là một nhân viên CIA cao cấp trong số ít các chuyên gia chiến tranh tâm lư của cơ quan này. Russell yêu cầu Weisshart chờ đón một nhóm lớn các chuyên gia tâm lư chiến của quân đội. Mọi thứ xem ra đầy hứa hẹn. Sếp của SOG nói như vậy v́ Trung tâm chiến tranh đặc biệt ở Fort Bragg có một bộ phận chuyên về hoạt động chiến tranh tâm lư và do vậy các sĩ quan được cử đến SOG sẽ nắm được công việc. Ít nhất họ đă được nghe giảng và huấn luyện các phương pháp tâm lư chiến tại Bragg. Ông hy vọng thậm chí một số đă thực sự trải qua công việc trên chiến trường. Khi đoàn sĩ quan đến, Russell nhận được thứ khác hẳn. Weisshart nhớ lại là họ phần lớn là các đại uư trẻ không có kinh nghiệm hoạt động chống lại địa bàn bị từ chối. Hy vọng của Russell thế là bị sụp đổ.
    Tuy nhiên, việc thiếu kinh nghiệm chỉ là một phần của vấn đề. Trong khi những sĩ quan trẻ đă trải qua khoá học về hoạt động tâm lư chiến tại Fort Bragg, Russell phát hiện ra nội dung khóa học hầu như không đụng chạm tới dạng hoạt động cụ thể mà Weisshart muốn triển khai và mở rộng chống lại Hà Nội. John Harrell, một trong số đại uư đó. Trước khi đến SOG, Harrell đă công tác ba năm rưỡi ở Trung tâm Chiến tranh đặc biệt tại Fort Bragg. Harrell theo học khoá huấn luyện sĩ quan hoạt động tâm lư chiến và các khoá học khác liên quan đến các khía cạnh khác nhau của tuyên truyền. Harell cũng đă được cử đến nhiều đơn vị chuyên về nhiệm vụ tâm lư chiến. Mặc dầu vậy Harrell không được chuẩn bị cho dạng hoạt động mà ông tham gia trong nhiệm kỳ ở SOG. Trên thực tế, Harrell "không biết rằng đó là nhiệm vụ tâm lư chiến cho đến khi đến Sài G̣n tháng 1-1964".1
    Đó lại là vấn đề nhân sự mà Russell đang gặp phải ở SOG. Sự chuyên môn hoá mà ông yêu cầu cho hoạt động chiến tranh tâm lư không tồn tại trong cộng đồng chiến tranh đặc biệt, trái ngược hẳn với những suy nghĩ của các nhà vạch chính sách ở Washington. Kiến thức vạch kế hoạch và thực hiện hoạt động tâm lư chiến chống lại địa bàn bị từ chối không thể t́m thấy trong quân đội Mỹ. Một đại uư trẻ khác cùng đến nhận công tác ở SOG năm 1964 là John Hardaway nhận xét: “với tất cả những ǵ tôi biết, quân đội không có kinh nghiệm thực tiễn để rút ra bài học. Tôi đă công tác tâm lư chiến trong tám năm đầu tiên ở lục quân. Thực ra, khi kết thúc tôi đă là một trong những cựu chiến binh. Chúng tôi chỉ không có chuyên gia về tâm lư chiến và chúng tôi không có nhiều kinh nghiệm. Những người giảng dạy chúng tôi ở Fort Bragg chỉ ở cấp đại uư và họ không phải là những người dày dạn trong hoạt động tâm lư".2
    Những sĩ quan trẻ này c̣n thiếu cả hiểu biết về miền Bắc. Chiến tranh tâm lư đ̣i hỏi sự hiểu biết kỹ lưỡng về mục tiêu trên mọi phương diện chính trị, xă hội, tổ chức,và lịch sử. Khi được hỏi liệu ông và đồng nghiệp có hiểu biết về điểm áp lực tâm lư ở miền Bắc hay không, Hardaway trả lời "tôi không nghĩ vậy”. Những ǵ mà SOG cần là những cá nhân có thể "nói được ngôn ngữ, được học về đối tượng tác động, về văn hoá, nhưng trên thực tế, họ khác hẳn".3
    Có lẽ điều tồi tệ hơn là những sĩ quan này chỉ đến công tác tại SOG trong thời gian ngắn và tạm thời v́ Russell gặp phải rắc rối trong việc xin phê duyệt những nhân viên cần thiết, mà thông thường thời hạn công tác là một năm. Ông đă căi vă với MACV và Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương về 40 biên chế đă bị cắt bớt trong tổng số 150 nhân viên mà ông yêu cầu. Washington muốn đẩy mạnh hoạt động bí mật, nhưng Russell lại được yêu cầu cắt giảm số người mà theo ông rất cần để tiến hành công việc.
    Cách khắc phục điểm yếu này là cho mượn nhân viên. Đó là giải pháp t́nh thế và các đại uư trẻ chưa hề có kinh nghiệm hoặc được huấn luyện về tâm lư chiến và không hiểu hoặc hiểu biết rất ít về mục tiêu được cử đến SOG công tác trong thời gian sáu tháng, khó mà đủ cho việc huấn luyện tại chỗ chứ chưa nói đến việc giúp Weisshart mở rộng hoạt động tâm lư chiến chống lại Hà Nội.
    Dẫu sao, Russell tính toán, những sĩ quan này sẽ học từ nhân viên CIA được cử đến bổ sung cho bộ phận tâm lư chiến. Có rất nhiều chỗ trống trong bộ phận này và ông hy vọng nhận được một số lượng lớn nhân viên CIA để lấp vào đó Tháng 12-1964, SOG đề nghị xin 31 nhân viên CIA. Nhưng cơ quan này không hề có ư định cử một số lượng lớn nhân viên như vậy. Theo hồ sơ, “quan niệm ở Sài G̣n là CIA sẽ rút khỏi chương tŕnh 34A trong ṿng sáu tháng". V́ vậy, CIA không chấp thuận đề nghị và chỉ cử 13 nhân viên.
    Vào năm 1966, số nhân viên này giảm xuống chỉ c̣n 9. Do vậy, vấn đề cử nhân viên CIA đến SOG trở thành nội dung của buổi làm việc giữa Colby và thiếu tướng William Peers, trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Sự hỗ trợ "thiếu tích cực" của CIA cho SOG, như Russell tŕnh bày sẽ ngáng trở SOG trong nhiều năm tới. Peers không thể lay chuyển CIA để cung cấp thêm người cho SOG. Colby thừa nhận là vào lúc đó "CIA không hỗ trợ SOG một cạch thích đáng".4 Theo Ted Shackley, trạm trưởng CIA vào cuối những năm 1960, tiêu điểm của CIA ở Việt Nam là ở miền Nam. Vào năm 1964, nhũng yêu cầu về nhân sự của CIA là rất lớn và được ưu tiên trước hết. V́ vậy Shackley thừa nhận, SOG không thể nhận đủ theo yêu cầu.5
    Ngoài ra, chất lượng một số ít nhân viên tâm lư của CIA được cử đến SOG không đồng đều. Chỉ có rất ít người biết tiếng Việt, văn hoá, và bối cảnh hiện tại. Thêm vào đó công việc ở bộ phận chiến tranh tâm lư thuộc Cục kế hoạch của CIA không được coi là "hứa hẹn”. Theo Phil Adam, một nhân viên CIA phục vụ tại SOG, "chiến tranh tâm lư được coi là bộ phận không quan trọng của CIA. Bộ phận quan trọng là t́nh báo, tức là t́nh báo tích cực (thu thập t́nh báo qua điệp viên), đó là số một và số hai là hoạt động bán quân sự. Đó là lĩnh vực được coi là quan trọng và tôi cho rằng, theo một cách nào đó, đây là một thất bại của hoạt động chiến tranh tâm lư".6
    Một số lượng lớn người Việt Nam làm việc cho bộ phận chiến tranh tâm lư của SOG (OP39) trong đó có nhiều người từ miền Bắc di cư năm 1954. Họ cung cấp sự hiểu biết về miền Bắc. Họ nắm được các khía cạnh chính trị, xă hội, văn hoá, cấu trúc, và lịch sử. Họ dịch các tài liệu tuyên truyền sang ngôn ngữ thích hợp, làm phát thanh viên và cung cấp nhân sự cho hoạt động của phong trào Gươm thiêng ái quốc.
    Cuối cùng, Russell cần một sĩ quan quân đội có kinh nghiệm để phụ trách bộ phận tâm lư chiến. Trung tá Martin Marden được cử đến. Tương tự như vị chỉ huy đầu tiên của OP34, Marden là một sĩ quan ưu tú. Nhưng ông có phải là một chuyên gia chiến tranh tâm lư không? Ông có kinh nghiệm hoạt động ở địa bàn bị từ chối không? Theo Weisshart, người đă làm việc với Borden, câu trả lời là "Không, không hơn bất kỳ ai mà tôi biết".7
    Chỉ có một trong năm sĩ quan quân đội giữ cương vị chỉ huy trưởng của OP34 là có kiến thức về chiến tranh tâm lư. Marden được thay thế bằng trung tá Robert Bartelt, một cựu nhân viên của lực lượng đặc biệt. Được coi là một chỉ huy năng động, Bartelt tham gia Nhóm đặc biệt số 77 năm 1955. Sự hiểu biết của ông về chiến tranh tâm lư chủ yếu là trong lĩnh vực hoạt động ngầm. Trung tá Albert Mathwin thay Bartelt tháng 8-1966. Ông không có kinh nghiệm hoạt động trong chiến tranh tâm lư nhưng đă phục vụ một nhiệm kỳ tại bộ phận chiến tranh tâm lư của Lầu Năm Góc. Tại sao ông lại trở thành chỉ huy trưởng OP39? Martin đă kể câu chuyện sau. Ông đă chuẩn bị nghỉ hưu. Tuy nhiên trước khi nghỉ, ông muốn sang Việt Nam công tác một nhiệm kỳ. Ông biết việc h́nh thành SOG, t́nh nguyện sang công tác và được chuẩn y. Khi chuẩn bị cho việc lănh đạo OP39, Mathwin được cử tham gia một khoá huấn luyện về chiến tranh tâm lư tại Fort Bragg.
    Sau đó là trung tá Thomas Bowen, học viên của Westpoint khoá 1948. Phần lớn sự nghiệp của ông là trong lực lượng bọc thép và bộ binh. Trước đó ông đă sang Việt Nam và được nhận huân chương "Bronze Star" - Sao đồng. Tháng 6-1968, trung tá Louis Bush thay thế Bowen. Tốt nghiệp Westpoint năm 1949, ông là người có nhiều kinh nghiệm nhất trong lĩnh vực tâm lư chiến trong số chỉ huy của OP39. Bush làm quen với vấn đề này tại Trường chiến tranh đặc biệt tại Fort Bragg và nhân viên điều hành của Nhóm hoạt động tâm lư chiến số bảy ở Okinawa. Ông chỉ giữ cương vị chỉ huy OP39 trong thời gian năm tháng và rời SOG tháng 11-1968.
    Đối với Russell, bức tranh về nhân sự thật là pha trộn. Các sĩ quan quân đội rất hăng hái nhưng lại thiếu kinh nghiệm. Và t́nh trạng này cơ bản vẫn giữ nguyên trong những năm tiếp theo. Các nhân viên CIA biết kỹ thuật và có kinh nghiệm thực tiễn nhưng nh́n chung là xa lạ với Việt Nam. Người Việt Nam có thể có sự hiểu biết về t́nh h́nh ở miền Bắc nhưng họ không phải là sự lựa chọn lư tưởng. Russell chỉ c̣n biết hy vọng họ sẽ làm việc ăn khớp với nhau.
    Sau đó, Russell và Weisshart thành lập Nhóm hoạt động tâm lư chiến, hay OP39. Khi OP39 phát triển trong những năm tiếp theo, bốn bộ phận dần h́nh thành: nghiên cứu và phân tích; tài liệu in ấn, giấy tờ và thư từ giả; đài phát thanh; và dự án đặc biệt. Các tổ công tác có tính khép kín cao. V́ vậy, các sĩ quan trong một tổ công tác thường không biết những ǵ xảy ra trong tổ khác. Các tổ công tác này nằm rải rác trong Sài G̣n. T́nh trạng này cộng với thực tế là sếp của OP39 là người ít kinh nghiệm đă tác động tiêu cực đến sự phối hợp giữa các bộ phận.
    ____________________ _______________
    1. Phỏng vấn lịch sử với trung tá John Harrell trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 39.
    2. Phỏng vấn lịch sử với trung tá John Hardaway trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG”, tr. 66-67.
    3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá John Hardaway trong “MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG”, tr.69.
    4. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Nghiên cứu tài liệu về MACVSOG. phụ lục B “Nhóm quan sát và nghiên cứu của Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: H́nh thành, tô chức và phát triển”, tr.269-271.
    5. Phỏng vấn Ted Shackley, 23-4-1998.
    6. Phỏng vấn lịch sử với Phil Adam, trong “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 106.
    7. Phỏng vấn lịch sử với Herbert Weisshart trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 9.

    Đầu tiên, tổ nghiên cứu và phân tích của OP39 do John Harrell lănh đạo và chủ yếu là nhân viên quân đội. Harrell không được đào tạo hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực ḿnh phụ trách. Ông "không biết ḿnh phải làm ǵ; tôi không biết loại tài liệu nào hoặc việc ǵ tôi phải tham gia ngoài số tài liệu mật. Tôi không biết số tài liệu đó liên quan đến lĩnh vực nào".1 Về bản chất, nhiệm vụ của tổ là thu thập, đối chiếu, và phân tích các thông tin từ các nguồn miền Bắc để có thể cho hiểu biết sâu hơn về yếu điểm tâm lư của Hà Nội. Harrell tự nhận là trước đó "không được t́m hiểu ǵ về miền Bắc và Việt Nam nói chung".2
    Một nhiệm vụ khác của tổ nghiên cứu và phân tích là sử dụng chính các nguồn tin đó để đánh giá tác động của chiến tranh tâm lư đối với miền Bắc. Tuy nhiên, nhiệm vụ này không bao giờ được thực hiện v́ tổ nghiên cứu và phân tích không nhận được người được huấn luyện về khía cạnh này.
    Bản thân tổ thư từ, giấy tớ giả và in ấn đă khép kín trong từng công việc. Phần in ấn chủ yếu sản xuất các tờ rơi. Trách nhiệm này được giao cho cho một đơn vị quân đội phối hợp với đối tác Việt Nam cùng sản xuất. Theo Hardaway, cách làm việc như sau: ông nhận được hướng dẫn về chủ đề cần phải tuyên truyền và sau đó "tự viết tờ rơi". Tiếp theo, ông "đưa nó đến cho đối tác để dịch ra tiếng Việt và xem lại để đảm bảo mọi chuyện đều ổn thoả. Đối tác là người Bắc di cư năm 1954, v́ vậy, trong hoạt động in ấn, chúng tôi quan hệ mật thiết với họ. Mọi thứ đều qua những người này".3 Nhưng v́ Hardaway không nói được tiếng Việt, ông không có cách nào để kiểm tra lại sản phẩm sau khi người Nam Việt Nam đă hoàn thành.
    Chủ đề chiến tranh tâm lư mà OP39 triển khai thường đan xen với tài liệu miền Bắc giả mạo. Việc làm giả do chuyên gia CIA thực hiện. CIA thu thập tài liệu mẫu bắt giữ hoặc thu được qua nhiều nguồn khác nhau. Các chuyên viên của CIA có thể làm giả tất cả những ǵ mà miền Bắc có. Những chuyên gia CIA này không thường trực tại SOG nhưng có được ư tưởng về tài liệu giả thông qua quan hệ liên lạc với nhân viên CIA trong Bộ phận tâm lư chiến. Khi tài liệu đă làm xong, chúng được đưa vào lănh thổ đối phương bằng nhiều cách, trong đó có hoạt động của SOG tại Lào. Các toán thám báo sẽ rải các tài liệu này ở nơi đối phương đóng quân hoặc các cơ sở của quân đội miền Bắc dọc theo con đường ṃn.

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P14


    Hoạt động thư từ giả cũng do các nhân viên CIA của SOG thực hiện. Những lá thư này, thường được gửi từ nước thứ ba, được phân làm hai loại. Loại thứ nhất mang nội dung tuyên truyền do người Việt Nam sống ở nước ngoài gửi tới nhân dân miền Bắc. Nội dung cơ bản là bôi nhọ giới lănh đạo Hà Nội. Loại thứ hai được gửi cho cán bộ miền Bắc. Mục tiêu ở đây là tạo ra sự nghi ngờ về ḷng trung thành của họ trong suy nghĩ của cơ quan an ninh, người giám sát và đọc tất cả thư từ nước ngoài gửi về nước.
    Tổ thứ ba của OP39 điều hành ba đài phát thanh bí mật phát đi tin tức, thường là giả tạo, vào miền Bắc. Thứ nhất là đài tiếng nói Gươm thiêng ái quốc, phát đi từ khu "giải phóng” giả tạo ở miền Bắc. Thứ hai là đài Cờ đỏ, lấy danh nghĩa tiếng nói của số cộng sản bất măn bí mật ở miền Bắc. Thứ ba là đài Hà Nội giả mạo phát kề và nhại theo chương tŕnh của đài phát thanh Hà Nội. Tất cả các đài này do các nhân viên CIA thuộc bộ phận tâm lư chiến chỉ đạo. Nhân viên của Cơ quan thông tin Hoa Kỳ cung cấp định hướng chính sách và chủ đề tuyên truyền. Ngoài ra, tổ này c̣n đặt sản xuất các đài bán dẫn có sóng cố định tại Nhật Bản. Những đài này chỉ thu được các đài tâm lư chiến của SOG. Trong khi nhân viên CIA chỉ đạo hoạt động của đài phát thanh, số người Việt Nam thuộc SOG là phát thanh viên trực tiếp và tạo ra bối cảnh văn hóa cho chương tŕnh.
    Tổ cuối cùng của Bộ phận chiến tranh tâm lư tham gia vào "các dự án đặc biệt" mà dự án lớn nhất là dựng lên phong trào chống đối giả có tên Gươm thiêng ái quốc - SSPL. Trong hoạt động phức tạp này, công dân miền Bắc bị bắt cóc và nhồi sọ tâm lư ở đảo Thiên Đường, một địa chỉ giả danh làm một làng ven biển miền Bắc đă được SSPL giải phóng. Sau đó họ được đưa trở lại miền Bắc để lan truyền tin về SSPL. Đảo Thiên Đường nằm ở Nam vĩ tuyến 17. Các yếu tố hoạt động khác bao gồm đài phát thanh SSPL, tờ rơi, hàng tâm lư chiến. Đó là những loại hàng khó kiếm ở miền Bắc: quần áo, chỉ khâu, dây câu, xà pḥng, v.v…
    Trong khi SSPL là dự án đặc biệt của SOG, c̣n có một số dự án nhỏ khác như gây nhiễu đường thông tin liên lạc, bẫy nổ, tiền giả. Các kỹ thuật cần thiết để sản xuất các sản phẩm này thường do Văn pḥng Viễn Đông của CIA ở Okinawa cung cấp.
    Trong khi áp dụng hàng loạt biện pháp chiến tranh tâm lư SOG chưa bao giờ có một kế hoạch chiến tranh tâm lư tổng thể. Khi được hỏi có biết kế hoạch nào như vậy không, Phil Adam, một sĩ quan CIA giàu kinh nghiệm đă từng chỉ đạo hoạt động đài phát thanh đen ở Đông Âu, trả lời: "không, tôi không nhớ một kế hoạch tổng thể nào. Tôi không nhớ bất kỳ ai có ư tưởng cụ thể về công việc cần phải làm và cách làm như thế nào".4 Câu trả lời của ông thống nhất vấn ư kiến của các nhân viên CIA và quân sự phục vụ trong OP39.
    Thay vào bản kế hoạch tổng thể, các hướng dẫn hoạt động chung được vạch ra thông qua quan hệ cộng tác giữa quân đội, Cơ quan thông tin và CIA. Những nhân viên này phải nghiên cứu kế hoạch 34A. Theo thiếu tá Richard Holzheimer, người tham gia OP39 năm 1965, "khi tôi đến đó... họ nói "đây là kế hoạch của chúng tôi, 34A, hăy đọc nó đi".5 Kế hoạch 34A giao cho OP39 một nhiệm vụ rộng răi với mục đích làm cho Hà Nội tin là họ nên chấm dứt việc chỉ đạo và ủng hộ cuộc chiến tranh ở miền Nam. Để đạt được mục đích này, Bộ phận tâm lư chiến sử dụng nhiều thủ đoạn tâm lư nhằm vào giới lănh đạo và dân chúng Việt Nam. Mật danh của các hoạt động này là Humidor.
    Hoạt động tâm lư chiến của OP39 nhằm làm cho Hà Nội tin là họ có vấn đề an ninh nội bộ. Họ nghĩ rằng nhân dân ngày càng bất b́nh với cuộc chiến tranh hao người tốn của, rằng nhân dân đang bí mật tổ chức các nhóm chống đối và rằng an ninh hậu phương trở nên lỏng lẻo. Ít nhất, OP39 hy vọng hoạt động chiến tranh tâm lư sẽ làm cho Hà Nội tiêu tốn nguồn lực để đối phó với mối đe doạ mà họ tưởng tượng ra.
    Tuy nhiên Washington có mục tiêu lớn hơn. Washington muốn miền Bắc nghi ngờ rằng Hoa Kỳ đứng đằng sau những vấn đề an ninh nội bộ này và rằng nếu muốn Hoa Kỳ chấm dứt, Hà Nội phải ngừng các hoạt động của Việt Cộng ở miền Nam. Tuy nhiên, OP39 có nhiệm vụ vạch ra ranh giới mỏng manh trong thông điệp gửi cho giới lănh đạo Hà Nội. Những hoạt động ngầm này chỉ nhằm trừng phạt cuộc chiến tranh của Hà Nội ở miền Nam; Washington không muốn Hà Nội nghĩ rằng Hoa Kỳ muốn xoá bỏ chế độ Hà Nội thông qua hoạt động lật đổ và chiến tranh không quy ước. Hay nói một cách khác, hoạt động của SOG không được giống như những ǵ Hà Nội đang tiến hành chống lại chính quyền miền Nam. Hoa Kỳ đang tiến hành cuộc chiến tranh hạn chế và hoạt động ngầm phải bị kiềm chế.
    Do đó, đối với nhân dân miền Bắc, mục tiêu của OP39 là tạo ra sự bất b́nh, mất ḷng tin, thậm chí hành động chống đối ở dạng thấp nào đó đối với cách tiến hành cuộc chiến tranh của Hà Nội và tác động của cuộc chiến tranh đó đối với đời sống hàng ngày của họ. Các nhà vạch chính sách hy vọng là sức ép của dân chúng sẽ làm cho Hà Nội giảm bớt mức độ trong chính sách của họ đối với chiến tranh ở miền Nam.
    Dân chúng ở miền Bắc có thể tạo ra sức ép ǵ khi họ bất măn và mất ḷng tin? Theo những người chỉ đạo chiến tranh tâm lư của SOG, đó là sức ép phi bạo lực của lực lượng chống đối bên trong miền Bắc. SOG bị cấm không được khuyến khích nhân dân miền Bắc tiến hành hoạt động vũ trang chống lại chế độ dưới bất kỳ h́nh thức nào. OP39 phải vạch ra một ranh giới mỏng manh trong hoạt động tác động lên hành vi của nhân dân miền Bắc.
    Không có mấy căn cứ cho thấy OP39 có bất kỳ kế hoạch tổng thể nào khi triển khai chương tŕnh tâm lư chiến trong giai đoạn 1964 - 1965, tương tự như việc chính quyền, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và Bộ chỉ huy viện trợ quân sự ở Việt Nam không có một kế hoạch tổng thể để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh. Các kỹ thuật tâm lư chiến chủ động hoặc bị động không được gắn kết thành một chiến dịch mạnh mẽ. Sự khép kín trong từng bộ phận đă tạo ra sự thiếu phối hợp giữa quân đội và CIA. Do vậy, có những câu hỏi nghiêm túc về mục đích chiến lược của hoạt động chiến tranh tâm lư. Với bản chất chế độ Hà Nội, liệu nó có tác dụng ǵ không?
    ____________________ _______________
    1, 2. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Harrell trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 41,44.
    3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá John Hardaway, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG". tr. 63.
    4. Phỏng vấn lịch sử với Phil Adam, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 102.
    5. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Richard Holzheimer, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với sĩ quan đă từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr 89.
    HOẠT ĐỘNG TÂM LƯ CHIẾN CHỐNG LẠI BẮC VIỆT NAM
    Vào năm 1965, SOG đă mở rộng đề án Humidor một cách đáng kể. Ở thời kỳ cao điểm, đề án bao gồm hàng loạt nội dung hoạt động. Vậy, hoạt động tâm lư chiến của SOG bao gồm những ǵ và được chỉ đạo ra sao?
    Gươm thiêng ái quốc
    Hoạt động phức tạp nhất của OP39 là tạo ra trong ư tưởng của người Bắc Việt Nam một tổ chức chống đối giả tạo. CIA đă sử dụng bài này trong nhiều chiến dịch ngầm khác. Trên thực tế, Herb Weisshart giải thích "ư tưởng này được dựa trên một chương tŕnh phát triển phong trào chống đối giả tương tự được thực hiện từ 1952 và kéo dài đến 1963 ở một nơi nào đó".1 Với các công tác đă qua và sự hiểu biết về Trung Quốc của Weisshart, "một nơi nào đó” ở đây có lẽ là Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
    Để tạo ra một tổ chức giả, theo thuật ngữ t́nh báo, phải tạo ra một lư do tồn tại, hay một câu chuyện đáng tin cậy cho tổ chức ấy. Weisshart nói như sau: "Ngay sau khi tôi đến Sài G̣n (năm 1963), tôi cố t́m ra một lư do và một h́nh tượng nào đó dễ nhận biết cho phong trào chống đối giả tạo ở miền Bắc. Các nhân viên của tôi có nhiều kinh nghiệm trong việc tạo truyền đơn, tờ rơi, chương tŕnh phát thanh và chống đối chiến giả. Chúng tôi thường tṛ chuyện với người Việt Nam và biết được câu chuyện chiếc gươm thần.2
    Thực ra, Weisshart cố t́m ra cách gắn phong trào chống đối giả này với một sự kiện quan trọng trong lịch sử và truyền thuyết Việt Nam vào thời điểm các thế lực Phong kiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam thế kỷ XV- Triều Minh, thành lập năm 1368, sau khi đánh thắng quân Mông Cổ đă điều động một đạo quân khổng lồ xâm lược Việt Nam năm 1406. Sau một năm giao tranh, Việt Nam bị nhà Minh đô hộ. Ách đô hộ của nhà Minh vô cùng khắc nghiệt, dẫn đến việc h́nh thành một phong trào khởi nghĩa Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này do Lê Lợi, một chủ đất ở vùng Thanh Hoá, lănh đạo.
    Cách Lê Lợi h́nh thành và tiến hành cuộc khởi nghĩa kéo dài trong 10 năm chống quân xâm lược là một câu chuyện dài và phức tạp. Cuộc chiến đó liên quan tới những sáng tạo về quân sự, chính trị và tâm lư. Ví dụ để tạo ra uy tín và giành sự ủng hộ của nông dân, Lê Lợi đă sử dụng hoạt động tâm lư mà người Trung Quốc đă từng áp dụng. "Sử dụng mực là mỡ động vật, Lê Lợi cho viết lên lá cây "Lê Lợi là vua"... khi kiến ăn hết mỡ, ḍng chữ này hiện lên trên lá. Việc này làm cho mọi người tin là ư trời và hàng ngh́n nông dân đi theo Lê Lợi".3 Lê Lợi sau đó bắt đầu tuyển mộ nông dân tiến hành khởi nghĩa giành độc lập. Tuy nhiên, do thế nhà Minh rất mạnh, Lê Lợi phải đi vào hoạt động bí mật.
    Lê Lợi nhận ra rằng sẽ là tự sát nếu giao chiến với quân Minh theo cách thông thường. Kẻ thù quá mạnh. V́ vậy, ông chủ trương sử dụng chiến thuật du kích. Từ căn cứ ở vùng núi Hà Tĩnh, Lê Lợi tổ chức tấn công bất ngờ các lực lượng quân Minh ở Việt Nam. Năm 1428, quân Trung Quốc rút chạy khỏi Việt Nam. Ông lên ngôi vua, lấy tên hiệu Lê Thái Tổ và thành lập triều Lê kéo dài hơn 3 thế kỷ.
    Trong lịch sử Việt Nam, Lê Lợi được coi là kiến trúc sư của đoàn kết dân tộc và là vị lănh đạo không bao giờ nhụt ư chí đánh đuổi quân Minh xâm lược. Song song với những sự thật lịch sử này, có truyền thuyết về lư do Lê Lợi đánh thắng quân Minh vốn hùng mạnh hơn nhiều. Và câu chuyện đó gắn liền với thanh gươm thần mà ông đă sử dụng trong chiến tranh giải phóng.
    Theo truyền thuyết, sau khi đánh bại quân Minh và lên ngôi vua, Lê Thái Tổ đóng đô tại Hà Nội. Một hôm, ông đi thuyền trên hồ Lục Thuỷ ở giữa kinh đô th́ một con rùa lớn hiện lên. Khi nhà vua rút gươm ra để tự vệ, con rùa nhanh chóng há miệng đớp lấy thanh gươm rồi lặn xuống hồ sâu và đi mất. Vua bực lắm sai người tát cạn hồ, nhưng không t́m thấy cả rùa lẫn gươm báu. Về sau người đời nói rằng cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi là "mệnh trời". Hay nói cách khác thần thánh đă cho ông mượn kiếm báu để đánh đuổi quân Minh và sau khi làm xong sứ mạng, ông phải trao trả kiếm. Kiếm được giữ an toàn trong hồ để sau này có thể sử dụng khi cần thiết. Để ghi nhận công lao của kiếm báu, nhà vua đổi tên hồ thành Hồ Hoàn Kiếm.
    Tất cả những điều trên là quá tốt, Weisshart nghĩ. Đây là h́nh tượng hoàn hảo cho linh hồn của một phong trào chống đối giả mà ông muốn đưa thành yếu tố trung tâm của chiến dịch tâm lư chiến của OP39. Weisshart quyết định đặt tên cho phong trào đó là "Gươm thiêng ái quốc" - SSPL - nhằm tạo ra sự liên tưởng tới cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của Lê Lợi đầu thế kỷ thứ XV.
    SSPL đại diện cho ai và tại sao họ phải tổ chức phong trào bí mật chống chính phủ Hà Nội? Cũng như Lê Lợi, lănh đạo của "Gươm thiêng ái quốc" là người theo chủ nghĩa dân tộc. Weisshart khoác cho họ lư lịch là cựu thành viên của Việt Minh, người đă đấu tranh chống thực dân Pháp. Theo câu chuyện được dựng lên, họ trở nên vỡ mộng với chính quyền Cộng sản ở miền Bắc sau chương tŕnh cải cách ruộng đất khởi đầu năm 1953. Vào mùa hè 1956, sự quá tả của cải cách ruộng đất đă tạo nên phản ứng ở một số nơi. Đó là những sự kiện có sẵn mà Weisshart chỉ việc gắn nó vào SSPL. Theo câu chuyện do Weisshart vẽ ra, SSPL được h́nh thành từ các cuộc bạo loạn đúng thời kỳ cải cách ruộng đất. Sự đàn áp của chính quyền đă tạo ra SSPL. Điều đó nghe có vẻ đáng tin cậy.4
    Chính phủ Hà Nội đă phản ứng nhanh chóng với sự mất trật tự trên và dẹp yên t́nh h́nh. Weisshart lấy đó là lư do buộc SSPL phải chuyển sang hoạt động bí mật như Lê Lợi đă từng làm. SSPL phải lánh vào vùng núi thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nơi Lê Lợi đă từng sử dụng làm căn cứ của cuộc khởi nghĩa. Những người lănh đạo giả hiệu của tổ chức “Gươm thiêng ái quốc" là người mang họ hoặc có tên là Lê. Ví dụ, người thành lập SSPL là Lê Quốc Hùng. "Tháng 12-1961, phong trào tổ chức đại hội lần thứ nhất và Lê Quốc Hùng được bầu làm chủ tịch".5
    Sau đó, những người tạo ra h́nh hài của OP39 phải đề ra mục đích của SSPL. SSPL đang đấu tranh v́ cái ǵ và hy vọng đạt được ǵ? Là một tổ chức của những người dân tộc chủ nghĩa, SSPL tuyên bố chống lại sự ảnh hưởng của nước ngoài ở Việt Nam, bất kể là sự giúp đỡ bạn bè, chiếm đóng trên thực tế hoặc cường quốc nước ngoài muốn thống trị Việt Nam dưới h́nh thức tinh vi nào đó. V́ vậy, trong tuyên truyền, SSPL tuyên bố tất cả quân đội, cố vấn và ảnh hưởng của nước ngoài phải bị loại bỏ khỏi cả Bắc và Nam Việt Nam. SSPL phê phán lănh đạo Đảng Cộng sản ngả theo Trung Quốc. Họ đang trở thành bù nh́n của cựu thù mà trong suốt chiều dài lịch sử đă t́m mọi cách biến Việt Nam thành chư hầu. Trung Quốc ngày nay cũng vậy, họ đang sử dụng chủ nghĩa quốc tế vô sản làm b́nh phong che đậy âm mưu thực sự buộc Việt Nam lệ thuộc vào trung Quốc. Cộng sản, nhà Minh, hoặc ai chăng nữa đều là người Trung Quốc và đều có chung ư đồ đó. Phải không cho họ đụng đến Việt Nam.6
    Trung Quốc đang sử dụng Việt Nam là lực lượng xung kích chống Mỹ. Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có bài học cay đắng ở Triều Tiên. Trung Quốc đă nếm trải khó khăn và thiệt hại trong cuộc chiến trực tiếp, mặt đối mặt với quân đội Mỹ. Do vậy tốt hơn cả là có ai đó chiến đấu và chết thay cho ḿnh. SSPL tuyên truyền rằng Trung Quốc quá sung sướng khi chiến đấu với Mỹ cho đến người Việt Nam cuối cùng. Hà Nội đă làm Việt Nam bị cuốn vào cuộc xung đột Trung - Mỹ. Đối với Trung Quốc, đó là hành động nhất cử lưỡng tiện. Mỹ th́ bị sa lầy vào cuộc chiến tranh kéo dài hao tốn tiền của. C̣n Việt Nam th́ bị suy yếu đến mức không c̣n con đường nào khác ngoài việc trở thành chư hầu của Trung Quốc. SSPL tuyên bố Hà Nội cần phải thay đổi chính sách.
    Trong tuyên truyền, SSPL khoe rằng các chi bộ bí mật đang phát triển nhanh chóng v́ thu hút được những người theo chủ nghĩa dân tộc. Năm 1965, SSPL tuyên bố có 10.000 thành viên, trong đó có "1.600 quân chính quy".7
    Sau đó, Weisshart quyết định đă đến lúc truyền đi thông điệp của SSPL. Weisshart cần một đài phát thanh và tháng 4-1965 đài tiếng nói của Gươm thiêng ái quốc ra đời tại “vùng núi tỉnh Hà Tĩnh", căn cứ của Lê Lợi. OP39 bắt đầu sản xuất truyền đơn, tờ rơi để tung vào miền Bắc qua đường không. Để rải số truyền đơn này, SOG thuê nhân viên của nước thứ ba thực hiện các chuyến bay xâm nhập miền Bắc. Phi công của Quốc dân đảng Trung Quốc, với danh nghĩa người làm thuê, lái những chiếc máy bay không số hiệu để thả truyền đơn. Trước khi thực hiện những phi vụ này, họ đă hợp tác với CIA ở châu Á từ đầu thập kỷ 50.
    Thông qua những phương tiện tuyên truyền trên, SSPL bắt đầu tuyên bố duy tŕ tổ chức bí mật ở miền Bắc không chỉ với nhiệm vụ phát triển tổ chức, rải truyền đơn mà c̣n giải phóng lănh thổ. SSPL nói rằng hoạt động giải phóng này diễn ra bên dưới vĩ tuyến 19, nơi SSPL duy tŕ "an toàn khu”.8
    Vào cuối năm 1964, hoạt động SSPL đă bắt đầu khởi động. Weisshart và OP39 đă tạo ra lư lịch của SSPL dựa trên truyền thuyết và sự thực lịch sử của Việt Nam. Họ đă chơi con bài Trung Quốc để làm giảm uy tín các nhà lănh đạo Đảng Cộng sản và làm suy yếu việc tiến hành chiến tranh. Đó là sự khởi đầu tốt đẹp. Bước tiếp theo là làm cho câu chuyện giả này đáng tin hơn. Để làm điều đó, SSPL cần một vùng giải phóng nơi OP39 có thể đưa công dân miền Bắc tới tuyên truyền. Tuy nhiên đó là công việc không mấy dễ dàng.
    ____________________ _____________
    1, 2. Phỏng vấn lịch sử Herbert Weisshart, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan phục vụ trong OP39 của MACVSOG" tr. 27.
    3. Oscar Chanis, "Lịch sử Việt Nam từ Hồng Bàng tới Tự Đức (Westpoit, Conn. Greenwood Press, 1995), tr. 27.
    4, 5. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", Phụ lục C, phần "Hoạt động tâm lư chiến", tr. 14-20.
    6, 7. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG" Phụ lục C, phần "Hoạt động tâm lư chiến", tr. 14, 15.
    8. MACVSOG, "Lịch sứ chỉ huy, 1971-1972", phụ lục B, tr. B-13-10 John Palaster đă sao y bản chính để chuyển cho tác giả sử dụng khi viết cuốn sách này.
    Đảo Thiên Đường
    Làm thế nào SOG có thể tạo ra một vùng giải phóng cho SSPL khi mà Washington cấm giải phóng bất kỳ một phần lănh thổ của miền Bắc và bác bỏ đề nghị được tạo dựng phong trào chống đối chống lại Hà Nội nêu trong kế hoạch 34A? OP39 phải nghĩ ra cách để lách qua những điều cấm đoán của Washington.
    Ở phía Nam vĩ tuyến 17, dọc theo bờ biển phía ngoài Đà Nẵng có một ḥn mang tên là "Cù Lao Chàm" - được biết đến dưới một cái tên khác: "Đảo Thiên Đường".
    Ḥn đảo này sẽ trở thành vùng giải phóng, nơi các công dân miền Bắc bị bắt cóc được đưa đến để "cải huấn". Dường như là ư tưởng ngớ ngẩn. Làm sao một ḥn đảo phía Nam vĩ tuyến 17 lại có thể trở thành vùng giải phóng bên trong miền Bắc? Làm thế nào OP39 có thể biến ư tưởng đó thành một công việc tỷ mỷ và có thể tin được?
    Trước hết, trên chính ḥn đảo, OP39 tạo ra những làng giống hệt như các làng xóm nằm dọc theo bờ biển miền Bắc. Về h́nh thức bề ngoài, chúng không khác ǵ nhau v́ SOG để ư đến từng chi tiết nhỏ. Khó khăn ở đây là đưa công dân miền Bắc đến và làm cho họ tin là đang sống ở miền Bắc. Để làm điều này, SOG tạo ra một nhóm hải quân nhỏ của SSPL. Bắt đầu từ tháng 5-1964, các tàu chiến không có số hiệu đi vào hải phận miền Bắc bắt cóc ngư dân rồi đưa về đảo Thiên Đường. Những nhân viên trên các con tàu này đều nói tiếng Việt với giọng đặc trưng của miền Trung và, trong nhiều trường hợp, là người vùng này di cư vào Nam năm 1954.1 Những chiếc tàu này mang cờ của SSPL và thuỷ thủ th́ xưng là thành viên của tổ chức.
    Hoạt động của tàu chiến là sự kết hợp giữa OP37 và OP39. Bộ phận cố vấn hải quân phối thuộc -NAD- mật danh của OP37 được đóng tại Đà Nẵng. Bộ phận này duy tŕ tàu và thuỷ thủ thực hiện các chuyến bắt cóc sử dụng nhân viên của SSPL thuộc OP39. Thiếu tá Roger McElroy là một trong số ít nhân viên Mỹ thực sự xâm nhập miền Bắc. Ông nhớ lại các con tàu "làm bằng gỗ nên có thể tránh được ra đa. Các con tàu tập trung ở Đà Nẵng... Đôi khi tôi cùng đi với một chiếc và phải ngụy trang... Tôi mặc bộ quần áo rằn ri (không số hiệu hoặc phù hiệu của nước nào cụ thể), phủ tấm lưới lên mặt và đeo găng tay". Khi xâm nhập biển miền Bắc, McElroy thường "ở bên dưới".2 Ông cùng đi là để liên lạc với các tàu hải quân ngoài khơi để "cho họ biết là chúng tôi đang ở vùng biển đó nếu không họ sẽ bắn ch́m chúng tôi mất. Tôi có mặt để liên lạc với người Mỹ. Tôi không tham gia vào hoạt động. Những việc đó do đối tác hoặc ai đó chỉ huy tàu thực hiện".3
    Một khi bị bắt cóc, ngư dân hoặc những công dân Bắc Việt Nam được thông báo họ đang ở trong tay tổ chức Gươm thiêng ái quốc, một tổ chức yêu nước bí mật và sẽ được đưa đến vùng giải phóng ở ven biển. Những người bị bắt cóc được thông báo là họ sẽ bị bịt mặt và đưa xuống khoang dưới v́ lư do an ninh. Họ cũng được cho biết là chuyến đi bị cố t́nh kéo dài để giữ bí mật địa điểm của các làng SSPL. Sau đó, chiếc tàu hướng về đảo Thiên Đường, chuyến đi thường kéo dài trong nhiều tiếng đồng hồ. Khi cập đảo, những người bị bắt được đưa lên boong, bỏ khăn bịt mặt và trước mắt họ là một làng giải phóng ở một nơi nào đó dọc bờ biển miền Bắc. Đây mới chỉ là màn dạo đầu, sau đó là quá tŕnh tuyên huấn.
    Mục đích của kịch bản tỷ mỷ này, theo Don Blackburn là "làm cho họ tin là đang ở một vùng giải phóng ven biển. Khi họ được trả về, họ sẽ lan truyền tin là có một phong trào chống đối và vùng giải phóng thực sự ở miền Bắc.4 Những người này ở trong làng khoảng 3 tuần. Trong thời gian này, họ chỉ gặp người Việt.Nam nói giọng Bắc. Họ cùng nhau ăn uống, nói chuyện về đời sống dưới chế độ Hà Nội và t́m hiểu về SSPL. Một số người c̣n được đưa vào núi tới những làng nhỏ "giống như các làng ở vùng núi miền Bắc. Mục đích dựng lên các địa điểm này là... tạo thêm độ tin cậy đối với lời tuyên truyền một mật khu của SSPL là ở vùng núi cao miền Bắc".5
    Jack Singlaub, người thay thế Blackburn, mô tả chương tŕnh ba tuần như sau: "Chúng tôi cho họ ăn uống tốt, làm cho họ lên cân, chữa bệnh cho họ, bất kể bệnh ǵ. Điều này chứng minh đời sống ở khu giải phóng tốt hơn đời sống ở làng quê của họ. Chúng tôi thu thập tin tức đồng thời cho họ biết thông tin về chính phủ Hà Nội, v.v... Chúng tôi cho họ thức ăn có lượng calo cao. Đồng thời chúng tôi dành nhiều thời gian nói về nhược điểm của chủ nghĩa cộng sản và họ cho chúng tôi biết về sự tham nhũng và thiếu thành thật của cán bộ miền Bắc. Trên cơ sở đó, chúng tôi làm chương tŕnh phát thanh về những trường hợp cụ thể để tạo ra sự lủng củng từ bên trong nội bộ của miền Bắc".6
    Vào những ngày cuối cùng trước khi rời đảo, họ được thông báo về các chi bộ SSPL đang hoạt động ở nơi họ cư trú và cách bí mật để liên hệ với các chi bộ này. Dĩ nhiên, điều này là để cho lực lượng an ninh miền Bắc t́m hiểu v́ chắc chắn họ sẽ thẩm vấn số người trở về. Cuối cùng, họ được tặng một món quà để mang về gồm xà pḥng, vải vóc và các thứ khác đang khan hiếm ở miền Bắc. Trong bộ quà tặng c̣n có đài bán dẫn đă cố định sóng của đài Gươm thiêng ái quốc mà họ nghe suốt ngày trong thời gian ở trên đảo Thiên Đường. Khi trở về, họ lại bị bịt mắt và đưa trả lại miền Bắc theo đúng như cách họ được đưa đến đảo.
    Năm 1966, năm hoạt động mạnh nhất, 353 người Bắc Việt Nam được đưa đến đảo Thiên Đường. Từ năm 1964 đến 1968 có tất cả 1.003 người được "cải huấn" trên đảo.7 OP39 kiến nghị nhiều biện pháp để mở rộng đề án và tạo nên độ tin cậy cao hơn nữa. Họ cho rằng chỉ có thể duy tŕ sự "giả hiệu” này trong một thời gian nhất định mà thôi. Nếu không bổ sung thêm điều ǵ đáng tin, Hà Nội sẽ phát hiện ra ngay sự giả tạo.
    OP39 đă nêu lên nhiều cách để làm cho hoạt động của SSPL giống như thật và được Washington phê chuẩn một số kiến nghị đơn giản nhất. Ví dụ: khi một người bị bắt trong các cuộc đụng độ giữa tàu của SSPL và của ngư dân, người đó bị xét xử bởi toà án của SSPL, bị kết tội chống lại tổ quốc và tuyên án tử h́nh nhưng sau đó được hưởng ân xá v́ SSPL là tổ chức v́ hoà b́nh. Sau đó người bị bắt phải trải qua một đợt học tập tập trung, và "trước khi trở về họ có bản thu hoạch, lên án hoạt động của chính ḿnh và tuyên thệ trước SSPL".8 Bản thu hoạch này sẽ được sử dụng trong chương tŕnh phát thanh tuyên truyền của SSPL. Ví dụ thứ hai liên quan tới "người tỏ ra chân thành trong việc giúp đỡ sự nghiệp của SSPL". Một số họ "được tuyển làm điệp viên"... và huấn luyện cách làm tờ rơi, truyền đơn ở dạng đơn giản và cách tuyên truyền cho SSPL. Ngoài ra, những người này c̣n được giao nhiệm vụ thu thập t́nh báo đơn giản". Số ít được đưa trở về để "tổ chức cho số bạn bè đào nhiệm chạy vào Nam". Cuối cùng, người muốn đào nhiệm sẽ được đưa vào nam tái định cư sau khi câu chuyện của họ được đưa lên "truyền h́nh và tờ Tin Sài G̣n hàng ngày".9
    Những hoạt động to tát hơn để làm cho dự án đảo Thiên Đường của SSPL có vẻ thực tế hơn lại bị bác bỏ. Ví dụ: một cách là động viên dân chúng miền Bắc - thông qua đài tiếng nói Gươm thiêng ái quốc, khởi sự hoạt động vũ trang thông qua việc "ám sát một số chọn lọc các cán bộ miền Bắc bị căm ghét".10 Một kiến nghị có liên quan khác là xúi giục những người được huấn cải tại đảo Thiên Đường trở về ám sát cán bộ. SSPL sẽ cung cấp cho họ những phương tiện cần thiết. Cả hai kiến nghị trên đều bị Washington bác bỏ. Sau đó, do sự hối thúc của lănh đạo SOG, đầu năm 1968, MACV đề nghị cho phép chuyển SSPL từ một tổ chức giả sang một tổ chức thật sự. Đề nghị này cũng không được chấp nhận- Bản thẩm định của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân về các đề nghị nói trên "nhắc đi nhắc lại là việc chuyển từ SSPL giả hiệu sang một mô h́nh SSPL thật sự sẽ không được các cấp ở Washington chấp thuận".11
    Các thành viên của OP39 không hề biết tại sao những đề nghị của ḿnh lại bị gạt bỏ. Các tài liệu đă được giải mật cho thấy Washington có bốn lo ngại. Thứ nhất, mở rộng hoạt động của đảo Thiên Đường sẽ trái với chính sách công khai của Hoa Kỳ vốn cam kết không gây bất ổn hoặc lật đổ chính phủ Hà Nội. Washington cho rằng hoạt động ngầm phải phản ánh chính sách công khai. Thứ hai, các nhà vạch chính sách lo rằng các hoạt động nêu trong đề nghị có thể vượt khỏi tầm kiểm soát, thực sự gây ra vấn đề nội bộ ở miền Bắc làm cho t́nh h́nh trở nên không thể kiểm soát được (cứ như là Washington có thể kiểm soát được những việc Hà Nội làm). Ba là, các nhà vạch chính sách sợ rằng gây t́nh h́nh bất ổn ở miền Bắc có thể làm cho Hà Nội đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam. Cuối cùng, nếu như Hà Nội đổ vỡ, Trung Hoa cộng sản có thể can thiệp như đă từng xảy ra trong chiến tranh Triều Tiên.
    ____________________ ____________________

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P15



    1. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy, 1971-1972", Sđd. tr.77.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG”, tr. 150, 153.
    4. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các chỉ huy của SOG", tr.12.
    5. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, Sđd tr. 72.
    6. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K.Sinhlaub, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các chỉ huy của SOG" tr. 52.
    7. Số lượng người cụ thể của từng năm như sau: 1965: 126; 1966: 353; 1967: 328; 1968: 185. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân "Nghiên cứu tài liệu MACVSOG" (tháng 7-1970), phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển" tr. 58.
    8. Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân "Nghiên cứu tài liệu MACVSOG", phụ lục C, Phần "Hoạt động tâm lư chiến", tr. 74.
    9. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân "Nghiên cứu tài liệu MACVSOG", phụ lục C, Phần "Hoạt động tâm lư chiến", tr. 74 -75. Một biện pháp nữa nhưng bị bác bỏ là đưa ngư dân miền Bắc vào vùng núi ở miền Bắc giáp với biên giới Lào. Hoạt động này sẽ tạo ra ấn tượng là các vùng bí mật của SSPL tồn tại ở cả những vùng xa bờ biển.
    10, 11. Như trên, tr.18, 20.
    Hoạt động phát thanh đen
    Ngoài Tiếng nói SSPL, OP39 c̣n điều hành các hoạt động phát thanh đen khác với nhiệm vụ riêng biệt. Một là, bắn tin cho nhân dân miền Bắc biết ngoài SSPL c̣n có các nguồn chống đối chính quyền Hà Nội khác đang tích cực hoạt động tại miền Bắc. Hai là, tạo ra một đài Hà Nội giả hiệu bằng biện pháp trùng sóng - tạo ra chương tŕnh phát thanh giả có tần số ngay cạnh đài chính thức.
    Lănh đạo của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ ở Việt Nam, Barry Zorthian nhận ra rằng sự phối hợp là tối quan trọng nên đă đề xuất và được chấp nhận thành lập một cơ quan hỗn hợp. Tháng 5-1965, Văn pḥng Truyền thông hỗn hợp Hoa Kỳ - JUSPAO - được thành lập theo một chỉ thị của Nhà Trắng để phối hợp mọi hoạt động tâm lư chiến của Mỹ ở Việt Nam, trong đó có hoạt động tâm lư chiến bí mật chống miền Bắc. Giám đốc của JUSPAO đề ra phương hướng cho một số cơ quan quân, dân sự tham gia vào hoạt động tuyên truyền "đen", "xám", "trắng” và giám sát việc thực hiện thông qua bộ phận kiểm soát chất lượng. Về mặt tổ chức, một trong năm pḥng của JUSPAO được giao chuyên trách về các vấn đề miền Bắc. Pḥng này điều hành việc tuyên truyền vào miền Bắc và dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào và Campuchia.
    Trong hoạt động chống miền Bắc, JUSPAO có nhiệm vụ chỉ đạo hoạt động của đài Tiếng nói tự do - VOF. VOF là một đài phát thanh "xám", nghĩa là "chuyển tải thông tin không cần che đậy kỹ lưỡng... Tuyên truyền xám chỉ giấu được nguồn tin đối với người ít quan tâm chứ không phải những người nghe tinh tế". Đài phát thanh bí mật là một trong những kênh thông thường cho tuyên truyền xám.1 VOF chủ yếu phát tin tức thời sự, chương tŕnh văn hóa và giải trí vào miền Bắc. Những chủ đề chính bao gồm: chống lại sự tuyên truyền của Hà Nội; cung cấp thông tin cho dân chúng miền Bắc về cuộc sống ở thế giới tự do; đưa tin tức chính xác về chiến tranh; và cung cấp cho dân chúng miền Bắc cơ sở để so sánh điều kiện sống của họ với miền Nam. Năm 1968, đài này phát tổng cộng 75 tiếng một ngày bằng năm thứ tiếng.2
    Một nhân viên cơ quan thông tin Hoa Kỳ chỉ đạo hoạt động của VOF. Nhân viên này c̣n được cử tới SOG và đưa ra định hướng chính sách cho các hoạt động phát thanh đen và tâm lư chiến khác của bộ phận chiến tranh tâm lư của SOG. Không có ǵ đáng ngạc nhiên khi các hướng dẫn của Washington thường mập mờ: Các đài phát thanh đen của SOG không được đưa nội dung kích động hoạt động lật đổ hoặc sử dụng vũ trang chống chính quyền Hà Nội. Những người điều hành hoạt động tâm lư chiến đă thực hiện hướng dẫn này đúng đến từng từ một.
    Các đài phát thanh đen của SOG bao gồm: Đài cờ đỏ, tiếng nói của một bộ phận ly khai giả hiệu của Đảng Cộng sản Việt Nam- Đài này chỉ trích Hà Nội về sự quá ngả sang Trung Quốc và cho rằng Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đă đẩy Việt Nam vào cuộc chiến tranh. Cờ đỏ có xu hướng thân Liên Xô hơn.3
    Đó chính là thủ đoạn mà CIA đă từng áp dụng ở nơi khác. Trên thực tế, Phil Adam, người được CIA cử đến SOG mùa hè năm 1966 để h́nh thành Đài phát thanh Cờ đỏ đă từng chỉ đạo hoạt động tương tự chống Anbani đầu thập kỷ 50. Hồi tưởng những ngày đó, Adam kể: "ở đài phát thanh của chúng tôi, tôi thuê năm hoặc sáu người Anbani có học thức. Chúng tôi giả làm những người bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản Anbani đang ẩn náu ở vùng núi. Mới nghe th́ có vẻ không đáng tin, nhưng ư đồ ở đây là nhằm vào những người cộng sản bất măn và thuyết phục họ rằng chính quyền không xây dựng một thứ chủ nghĩa cộng sản đích thực và đang gây tội ác đối với đảng viên. Hay nói cách khác, chúng tôi cố tạo ra sự bất măn trong Đảng Cộng sản Anbani".4
    Mặc dù chịu thất bại ở Anbani, các nhân viên CIA được cử đến SOG đều nghĩ rằng hoạt động phát thanh đen rất đáng được thử nghiệm một lần nữa. Khi Adam đến, đài phát thanh Cờ đỏ đang được xây dựng cách Sài G̣n khoảng năm dặm. "V́ vậy, trong năm tháng đầu tiên, tôi làm người giúp việc cho kỹ sư. Chúng tôi phải tự làm lấy bởi v́ chúng tôi chỉ có hai kỹ sư người Phillipines, nhưng họ gần như vô dụng. Cuối cùng th́ đài cũng được lắp đặt xong vào đầu năm 1967; sau đó công việc của tôi là thuê người vận hành. Tôi t́m được hai hạ sĩ quan Mỹ đă từng vận hành đài phát cỡ nhỏ ở Mỹ. Thế là chúng tôi cho đài phát hoạt động, có lẽ vào quăng giữa năm 1967, và câu chuyện ngụy trang vẫn là những người cộng sản bất đồng chính kiến cùng với một số nhà văn đă từng là đảng viên Cộng sản nhưng đảo ngũ”.5
    CIA cũng chỉ đạo một đài phát thanh riêng chống lại Việt Cộng ở miền Nam mang tên Ngôi sao đỏ. "Đài phát thanh lấy danh nghĩa của một nhóm cộng sản bất đồng chính kiến ở Nam Việt Nam cho rằng Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, hay Việt Cộng, là bù nh́n của Hà Nội. Luận điểm chính là Nam Việt Nam là của người miền Nam".6
    Hoạt động chèn sóng của SOG cũng là một thủ đoạn cũ của CIA. William Colby đă sử dụng biện pháp này đầu những năm 1960 ở miền Nam, tạo ra đài giải phóng giả "phát chương tŕnh trên tần số kề sát với đài phát thanh giải phóng thật, do vậy thính giả không để ư sẽ nghe nhầm đài".7 Đài phát thanh giả của Colby nghe hệt như đài thật, trừ một số phần giả nhất định với hy vọng gây ra ấn tượng xấu về Việt Cộng trong đầu óc của người nghe".8 ví dụ, đài đưa tin về một trận đánh theo cách tạo ra ấn tượng là Việt Cộng phung phí sinh mạng bộ đội.
    SOG tạo ra đài Hà Nội giả. Ư tưởng ở đây giống hệt như ư đồ của Colby trước đây. Weisshart nhớ lại rằng vấn đề "đài Hà Nội giả và các máy thu thanh bán dẫn cố định sóng được thảo luận và vạch kế hoạch tại thời điểm tôi vẫn c̣n ở SOG".9 Đài này bắt chước mọi chi tiết của đài Hà Nội, trừ việc thay thế một số phần quan trọng của chương tŕnh. Một cựu nhân viên của SOG đă nêu hai ví dụ về cách hoạt động của đài: "một bài phỏng vấn với bác sĩ Hà Nội khen ngợi sự cải tiến trong việc sản xuất chân tay giả và tự hào công bố số lượng chân tay giả sẽ được tăng lên gấp 3 lần vào cuối năm", bản tin khác mô tả một thắng lợi lớn của đơn vị quân đội theo cách mà mặc dù có nhiều huy chương và lời khen ngợi của Đảng, người nghe không thể không kết luận “thật là đẫm máu”.10 Có rất nhiều mẩu tin và chủ đề tương tự như vậy.
    Kỹ thuật đánh lừa điện tử cuối cùng trong hoạt động đài phát thanh đen của OP39 liên quan đến một thủ đoạn mà thuật ngữ t́nh báo gọi là đài "ma". Thủ đoạn này là "bí mật chặn đài phát thanh của đối phương và phát chương tŕnh của ḿnh thay vào tín hiệu của đài phát thật".11 Các Chương tŕnh phát thanh của miền Bắc và các kênh thông tin điện tử chính thức bị ngăn chặn và thay thế bằng các chương tŕnh khác. Ví dụ như gây nhiễu chương tŕnh thời sự của đài phát thanh Hà Nội và thay vào đó bằng các thông tin mâu thuẫn nhau. Tương tự, những chỉ thị giả cho các đơn vị bộ đội cũng được đưa vào các kênh liên lạc điện tử.
    Thách thức lớn nhất đối với hoạt động phát thanh đen của OP39 là phần lớn dân chúng miền Bắc không có đài thu thanh. V́ vậy, SOG phải cung cấp cho họ. Thông qua một hoạt động có mật danh Peanuts, SOG đặt hàng sản xuất đài bán dẫn từ Nhật Bản.
    Những chiếc đài này được cố định tần số và do vậy chỉ nghe được các đài phát thanh của SOG. Hàng ngàn chiếc máy thu thanh kiểu này được đưa vào miền Bắc dưới dạng các gói quà được thả từ máy bay xuống hoặc thả nổi từ biển vào. Chúng được coi là quà của SSPL. Một số khác "được các toán thám báo đưa vào vùng căn cứ của đối phương (ở Lào hoặc Campuchia). Những chiếc đài này được đựng trong hộp có ghi tên thật hoặc giả của bộ đội".12 Tại thời điểm năm 1968, chương tŕnh Peanuts đă tung đi trên 10.000 đài thu thanh.
    ____________________ ___________________
    1, 7, 11. Godson, " Thủ đoạn bẩn thỉu hay con át chủ bài" , tr.152.
    2. MACVSOG, " Lịch sử chỉ huy 1970”, Phụ lục B, tr.XI - 1-3. Năm 1968, các ngôn ngữ gồm: Tiếng Việt (7.300 giờ), Triều Châu (2.190 giờ), Quan Hoả (730 giờ), Pháp (182,5 giờ) và tiếng Anh (182,5 giờ).
    3. Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG, 1970”, Phụ lục B, Phần "Hoạt động chiến tranh tâm lư", tr 65.
    4. Phỏng vấn lịch sử với Phil Adams, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG”, tr. 93 - 94.
    5. Phỏng vấn lịch sử với Phil Adams, Sđd, tr.98 - 99.
    6. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", phụ lục C, Phần “Hoạt động tâm lư chiến", tr.66.
    8. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", phụ lục C, Phần "Hoạt động tâm lư chiến , tr.6.
    9. Phỏng vấn lịch sử với Hervert Weisshart, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 30.
    10. Plaster, "SOG: Cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Mỹ ở Việt Nam", chương 7.
    12. MACVSOG. "Lịch sử chỉ huy 1971 -1972", Phụ lục B, tr.B-3-14.

    Truyền đơn và gói quà
    OP39 sử dụng truyền đơn và gói quà để làm tăng độ tin cậy của phong trào Gươm thiêng ái quốc. Do có trong tay máy bay C130, SOG có thể dễ dàng tung hàng chục ngàn truyền đơn và đă làm đúng như vậy. Ngoài truyền đơn của SSPL, một số lượng lớn truyền đơn không ghi nguồn gốc hoặc ghi nguồn gốc giả được chở bằng đường hàng không thả vào miền Bắc. Ví dụ, nhóm cộng sản ly khai của Đảng Cộng sản Việt Nam điều hành đài phát thanh Cờ đỏ cũng tuyên truyền về ḿnh qua truyền đơn. Nội dung là sự sao chép những thông tin phát trên đài Tiếng nói tự do, đài SSPL và Cờ đỏ.
    Các loại truyền đơn khác nhau được Weisshart mô tả là "một số tuyên truyền trực tiếp... ủng hộ SSPL" và số khác th́ nhằm vào những thành phần cụ thể trong nhân dân miền Bắc.1 Một trong những thành phần này là cộng đồng công giáo. Theo Weisshart "chúng tôi cố gắng tiếp cận với người theo đạo Thiên chúa bằng truyền đơn và chương tŕnh phát thanh. Chúng tôi rải ở Vinh và những nơi khác ở miền Bắc... Có một số truyền đơn cụ thể nhằm vào họ, thu hút sự quan tâm, và tác động lên họ".2
    Truyền đơn c̣n được sử dụng kết hợp với hoạt động chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh của SOG ở Lào. Các toán thám báo của SOG trực tiếp hoặc sử dụng máy bay rải truyền đơn.
    Việc sản xuất truyền đơn được giao cho OP39 và do một sĩ quan trẻ chỉ huy. Theo John Hardaway, người phụ trách hoạt động truyền đơn năm 1964, nhân viên của cơ quan thông tin Hoa Kỳ được cử tới SOG sẽ đưa phương hướng chung và nội dung chủ đề của truyền đơn. Sau đó John Hardaway sẽ sản xuất truyền đơn và đưa cho đối tác Việt Nam đọc, tham gia ư kiến trước khi dịch sang tiếng Việt. Ông kể lại trong năm 1964, Washington rất chú ư đến hoạt động truyền đơn: "một đêm tôi phải ngồi chuẩn bị báo cáo lên cho McNamara về số lượng truyền đơn đă thả ở miền Bắc".3
    Tương tự như truyền đơn, gói quà được gửi từ nguồn không ghi địa chỉ hoặc địa chỉ giả. Trong trường hợp ghi địa chỉ giả, đó là từ SSPL. Theo Welsshart, gói quà bao gồm: "giấy viết, xà pḥng, bút ch́, nến, khăn tắm, vải vóc, sách vở... Đó là những món quà hữu ích nhằm tác động thuận lợi đến người nhận về một phong trào chống Hà Nội chưa rơ tên hoặc về SSPL. Món quà nhằm dẫn dụ họ thảo luận về SSPL với bạn bè thân thích". Túi quà không bao giờ có thực phẩm. Weisshart nhận xét "v́ Hà Nội có thể dùng chính thực phẩm đó chống lại chúng ta.4
    Cũng như truyền đơn, OP39 đă rải một số lượng lớn gói quà vào miền Bắc. Thành tích của OP39 được đánh giá bằng số lượng được chuyển đi hàng năm. Năm 1967, chỉ riêng qua đường hàng không, 22.000 gói quà được rải khắp miền Bắc vào ban đêm.5
    ____________________ _______________
    1, 4. Phỏng vấn lịch sử với Harbert Wersshart, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr.19.
    2. Phỏng vấn lịch sử với Harbert Wersshart, Sđd, tr.22, 23.
    3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá John Hardaway, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr. 65.
    5. Plaster. "SOG: Cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Mỹ tại Việt Nam", chương 7.
    Thư đen và giấy tờ giả
    Việc làm giả có vai tṛ trọng yếu trong công việc của SOG, bao gồm sản xuất và lưu hành thư từ, tài liệu giả có vẻ bề ngoài giống như thật. Đối tượng chủ yếu của hoạt động làm giả là quan chức của chính phủ. Tuy nhiên cũng có thể nhằm vào đông đảo quần chúng. "Người làm giả gán một nội dung không có thật cho người khác hoặc tự ḿnh tạo ra thông tin giả".1
    OP39 làm giả cả giấy tờ và tài liệu. CIA rất giàu kinh nghiệm trong loại hoạt động này, và không có ǵ ngạc nhiên là thư từ và tài liệu giả ở SOG được giám sát bởi một nhân viên CIA, người thường xuyên liên hệ với các chuyên gia làm giả của CIA.
    Hoạt động thư từ đen của SOG bao gồm nhiều biến thể khác nhau và có thể được chia làm hai dạng chính. Dạng thứ nhất liên quan tới thư "bút độc”. Trong chiến tranh Việt Nam, CIA xây dựng những cơ sở dữ liệu đặc biệt về Bắc Việt Nam, trong đó có thông tin về cán bộ trung cao cấp trong chính quyền, quân đội, và đảng. Thông tin này bao gồm địa chỉ cơ quan hoặc nhà riêng của họ. Và thế là số cán bộ này trở thành đối tượng lư tưởng của các thư "bút độc" gửi từ Paris, Hồng Kông, Tokyo hoặc Băngkốc.2
    Tương tự như các hoạt động khác của SOG, nội dung của những lá thư này là nhằm đánh vào ư thức cảnh giác của chính phủ Hà Nội. Ví dụ, trong một lá thư gửi cho một cán bộ miền Bắc từ một người Việt sống ở nước ngoài, tác giả làm như thể là đang trả lời một số băn khoăn của người nhận được giăi bày trong thư gửi ra nước ngoài trước đó, chỉ trích cách tiến hành chiến tranh của Đảng. Ở miền Bắc sự chỉ trích này là một hành vi phản bội và cơ quan an ninh, ít nhất, sẽ để mắt theo dơi cán bộ đó.
    Dưới đây là một ví dụ. Trong thư, tác giả, người viết lá thư từ Hà Lan, nhắc đến lá thư ḿnh nhận được từ cán bộ nọ. Tác giả viết thư để đáp lại những thông tin về sự đối xử hà khắc đối với tù binh chiến tranh Mỹ và cuộc tập kích Sơn Tây năm 1970 để giải cứu họ. Những lời lẽ trong thư nhằm tạo ra câu hỏi về sự trung thành của người cán bộ này.
    Anh T́nh thân mến,
    Hai tuần trước đây tôi nhận được thư của anh... t́nh h́nh miền Bắc của chúng ta đă trở nên căng thẳng, nhất là sau khi Mỹ hạ cánh xuống tỉnh Sơn Tây tháng 11 vừa qua đế giải phóng số tù binh phi công bị bắt giũ. Trước đây tôi không tin lời đồn đoán. Nhưng mối nghi ngờ của tôi đă được giải toả sau ghi nhận được thư của anh...
    Người Mỹ và bọn phản bội ở miền Nam rất quan tâm đến số phận binh sĩ của họ. V́ vậy, khi được nghe kể về sự đối xử tồi tệ đối với số phi công bị bắt giũ, họ không thể giữ im lặng. Họ phản ứng mạnh mẽ đối với các hành vi xấu xa và t́m mọi cách đề nghị chính phủ chúng ta trao đổi tù binh chiến tranh… Nhưng chính phủ chúng ta đă bác bỏ thẳng thừng đề nghị này...
    Không chỉ Hoa Kỳ mà nhiều nước khác trên thế giới cũng lên tiếng phê phán sự đối xử tồi tệ đối với binh sĩ Mỹ bị bắt và coi đó là hành vi phi nhân tính. Ngày 2-3-1971, Hội cựu chiến binh Hà Lan đề nghị tổ chức Hội nghị của tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế để yêu cầu chính phủ chúng ta chấm dút những hành động trên. Ngoài ra những người hàng xóm thường hỏi tôi: Tại sao chính phủ miền Bắc không tôn trọng Công ước Giơnevơ về tù binh chiến tranh mặc dù đă tham gia kư kết? Tôi không trả lời được câu hỏi đó một cách đúng đắn. Hăy cho chúng tôi biết quan điếm của anh trong thư tới đề chúng tôi có thể giải quyết được vấn đề khó khăn này.
    Thế thôi, v́ thư đă dài. cho phép tôi dừng ở đây, chúc anh và gia đ́nh mạnh khoẻ.
    Bạn của anh
    Trần Văn Toàn
    Một ví dụ c̣n tinh vi hơn là gắn người nhận vào hoạt động lật đổ để các chuyên gia phản gián miền Bắc khi đọc những bức thư được dựng lên này sẽ bị dẫn đến việc cố phát hiện sự liên hệ giữa người nhận và toán biệt kích của SOG, hoặc SSPL, hoặc hoạt động t́nh báo nước ngoài chống lại miền Bắc, ở trong nước hoặc ở nước ngoài.
    Dạng thứ hai của hoạt động thư từ đen là chuyển thông điệp tuyên truyền từ người Việt Nam sống ở nước ngoài tới người sống ở miền Bắc. Những lá thư này bao gồm "từ những thư t́nh cảm nhẹ nhàng từ các địa chỉ giả gửi cho công dân b́nh thường ở miền Bắc" cho đến "thư cứng rắn về vấn đề chính trị gửi tới cán bộ và trí thức miền Bắc".3
    Ngoài ra c̣n có thư giả danh số tù binh người Bắc đang bị giam giữ gửi cho gia đ́nh. Những lá thư này có thể chuyển tải một hoặc nhiều thông điệp. Ví dụ, tù binh có thể chỉ trích việc Hà Nội sẵn ḷng hi sinh bộ đội và ghi nhận rằng ḿnh được đối xử tốt trong trại. Lá thư tiếp theo có thể cho gia đ́nh biết về quyết định xin được chiêu hồi, một chương tŕnh ân xá dành cho binh sĩ đối phương của chính phủ Sài G̣n. Cuối cùng, anh ta cho biết ḿnh đă gia nhập quân đội miền Nam. Với việc gia nhập này, anh ta có thể giúp các đơn vị quân đội Nam Việt Nam và Mỹ bằng sự thông thuộc với phong trào, chiến thuật và các biện pháp hoạt động của miền Bắc. Dĩ nhiên, chẳng có ǵ là đúng sự thật và bản thân tù binh cũng không hề biết về những lá thư đó.
    Một dạng khác của chương tŕnh thư tù binh chiến tranh người miền Bắc là đề án mang mật danh "Soap-chips". Những lá thư này giả danh thư từ hậu phương gửi đến bộ đội miền Bắc đang chiến đấu ở miền Nam. Các toán thám báo của OP35 sẽ đặt những lá thư này vào xác của bộ đội đă hi sinh mà họ gặp khi hoạt động ở Lào và Campuchia. Thư mô tả t́nh h́nh ở hậu phương là rất tồi tệ. Ư tưởng ở đây là khi có người đến di chuyển thi thể, họ sẽ đọc thư. Thư c̣n có thể chơi con bài Trung Quốc, cáo buộc các sĩ quan Trung Quốc làm nhục phụ nữ Việt Nam mà chẳng có ai làm ǵ họ cả. SOG c̣n gửi những giấy báo tử giả cho gia đ́nh có bộ đội chiến đấu ở miền Nam.4
    Theo Bob Andrews, công tác tại bộ phận chiến tranh tâm lư của SOG năm 1968, có rất nhiều chương tŕnh thư đen khác nhau và có nhiều cách để đưa thư ra Hà Nội. Andrews mô tả sự việc sử dụng địa chỉ ở Băng Kốc như sau: "Lúc bấy giờ có rất nhiều kho chứa thư quốc tế trên khắp thế giới. Một trong số đó là ở Băng Kốc. Chúng tôi gửi hàng túi thư kiểu này tới Băng Kốc và Trung tâm CIA ở đây có một cơ sở người Thái ở ngành bưu chính và anh ta sẽ ném túi thư đó vào số thư từ đi Việt Nam".5 Ở thời kỳ cao điểm, hàng năm có 7.000 bức thư đen được chuyển qua Băng Kốc và các thành phố khác đến miền Bắc.6
    SOG dùng "tài liệu, vật liệu giả gửi miền Bắc để thể hiện sức mạnh của tổ chức, nhóm người, hoặc cá nhân có thực hoặc giả mạo"7. Thật khó có thể nêu ra được dẫn chứng v́ CIA vẫn chưa giải mật những tài liệu này với lư do sẽ làm lộ kỹ thuật và biện pháp nghiệp vụ. Với những ǵ được biết th́ CIA thu thập một số lượng lớn tài liệu thu giữ hoặc có được từ nguồn khác. CIA có kỹ thuật chuyên môn để làm giả các tài liệu đó đúng đến từng chi tiết nhỏ. Văn pḥng hậu cần tuyệt mật Viễn Đông của CIA đặt tại Okinawa chuyên sản xuất ra các sản phẩm giả phục vụ cho hoạt động của SOG. Những tài liệu giả này "được các toán hoạt động của SOG, tiểu đoàn không quân 101 (của Mỹ), lực lượng đặc nhiệm hải quân-SEAL, và các đơn vị quân đội Việt Nam cộng hoà đưa vào Lào, Campuchia và Nam Việt Nam"8.
    ____________________ ________________
    1. Godson, "Thủ đoạn bẩn thỉu hay con át chủ bài", tr. 155.
    2, 3, 4, 6, 7, 8. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1971 -1972", Phụ lục B, tr. B-13-7.
    5. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bob Andrews, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG " tr. 121.
    Các hoạt động tâm lư chiến đen khác
    SOG thực hiện hàng loạt hoạt động chiến tranh tâm lư có quy mô nhỏ hơn và mang tính chiến thuật. Nhiều hoạt động trong số này thuộc loại thủ đoạn "bẩn thỉu" và thường có sự giúp đỡ của Văn pḥng hậu cần Viễn Đông của CIA. Hai cơ quan này cho phép SOG có sự tiếp cận độc nhất vô nhị với hàng loạt thiết bị đặc chủng như vũ khí đă bị han gỉ của đối phương, các loại bẫy, thiết bị nghe trộm điện thoại đặc biệt và chất làm nhiễm bẩn gạo.
    Phần lớn nhất của các hoạt động này là cài bẫy vào vũ khí của đối phương. Ư tưởng này là của Singlaub, vị chỉ huy thứ ba của SOG năm 1967. Singlaub c̣n nhớ Eldest Son, mật danh của hoạt động này, là "nhạy cảm tôi phải xin sự phê chuẩn của Westmoreland và CIA v́ chúng tôi sử dụng thiết bị của họ. Trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt - SACSA- chuyển số vũ khí này qua người của CIA ở Sài G̣n và Okinawa".1 Các vũ khí bị sửa đổi bao gồm đạn AK47 và cối 82 do Cộng hoà nhân dân Trung Hoa sản xuất mà CIA có được qua một nước thứ ba. Các chuyên gia của CIA tháo rời đạn ra, gài bẫy vào trong, sau đó lắp lại như cũ, cho vào băng hoặc thùng đạn để không ai biết chúng đă bị sửa đổi. Những viên đạn này sẽ nổ tại chỗ khi được sử dụng và có thể gây ra chết người.
    Việc đưa vũ khí này tới tay của quân đội miền Bắc là trách nhiệm của các toán thám báo thuộc OP35. Họ mang số đạn AK47 đă bị cài bẫy vào Lào và Campuchia đặt bên cạnh thi thể của bộ đội miền Bắc hoặc rải xung quanh nếu các toán thám báo gặp đối phương. (Quân đội miền Bắc thường chịu khó thu nhặt vũ khí, đạn dược và các thiết bị quân sự khác để lại sau trận đánh). SOG c̣n tạo ra kho đạn giả của đối phương ở những nơi có hệ thống kho tồn tại.
    Việc nghe trộm đường dây liên lạc của bộ đội miền Bắc cho thấy số đạn bị cài bẫy này gây hoang mang trong bộ đội. Để khuếch trương tác động, SOG đưa lên đài phát thanh hoặc đưa tin trên báo chí của quân đội Mỹ nhắc nhở nhân viên Hoa Kỳ không được sử dụng vũ khí của đối phương. Ngoài việc đánh lừa, sự nhắc nhở này là cần thiết v́ có trường hợp nhân viên Mỹ bị thương vong v́ loại vũ khí này.
    Bob Adrews liên hệ tới một ví dụ liên quan tới một sĩ quan hải quân bị mù mắt v́ bắn súng AK47. "Vào khoảng mùa thu 1968, chúng tôi đang t́m cách để đối phương quan tâm hơn đến đề án Eldest Son và chuyển cho họ thông điệp là số đạn AK47 hỏng này là do người Trung Quốc gây ra. Chúng tôi muốn làm lớn chuyện này… chúng tôi biết về vụ một sĩ quan hải quân đă nhặt khẩu AK47 và cầm đúng băng đạn đă cài bẫy, khi bắn, do đạn nổ về hướng mặt nên anh ta bị mù. Tôi nảy ra ư tưởng là cần phải tuyên truyền mạnh trong quân đội Hoa Kỳ về việc MACV cấm tàng trữ và sử dụng vũ khí của đối phương. V́ vậy, chúng tôi đưa tin lên đài nói rằng: đây là câu chuyện đă xảy ra với một người của chúng ta v́ đă vi phạm quy định và nguyên nhân là do đạn hỏng".2
    Để kích động sự thù hằn đối với Trung Quốc, Andrews "đến Trung tâm khai thác vật liệu hỗn hợp" của MACV và thoả thuận với giám đốc trung tâm tạo ra một bản phân tích giả về khẩu súng mà người sĩ quan nọ đă sử dụng. Bản phân tích cho biết vũ khí đó không đạt tiêu chuẩn và có vẻ như bị cố ư làm như vậy, và toàn bộ lô AK47 có khả năng bị kém chất lượng. Tay giám đốc c̣n đóng dấu "mật" vào bản báo cáo và "vô t́nh" để quên tại một quán bar, ngay sau đó tài liệu bị biến mất".3 Tài liệu giả cũng được sử dụng để nói xấu người Trung Quốc và làm cho bộ đội Bắc Việt Nam ngại không muốn sử dụng vũ khí của họ. Thủ đoạn này được thực hiện dưới dạng một thông báo của Tổng hành dinh quân đội Bắc Việt Nam gửi các tư lệnh ở miền Nam xác nhận vấn đề và giải thích là các đồng chí Trung Quốc đang áp dụng mọi biện pháp để xử lư khó khăn trong chế tạo vũ khí và chấn chỉnh dư luận cho rằng Trung Quốc cố ư gài bẫy vũ khí, đạn dược. SOG có một số lượng lớn các bẫy nổ ngụy trang rải dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh để bộ đội Bắc Việt Nam thu nhặt. Phần lớn số bẫy này lại là loại vật dụng dùng trong quân đội đang khan hiếm, thường là pin và đài thu thanh.
    Các loại tài liệu giả khác cũng đánh vào sự nghi ngại truyền kiếp của Bắc Việt Nam đối với Trung Quốc. William Rydell, một nhân viên CIA chuyên về chiến tranh tâm lư và chỉ huy OP39 năm 1970, kể lại thủ đoạn sử dụng thiếp chúc tết để đạt mục đích trên. Hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư chúc tết cho bộ đội ở miền Nam. Hồ Chủ tịch đă mất năm 1969 và dĩ nhiên là không thể gửi thư chúc tết cho bộ đội được nữa. V́ vậy chúng tôi chọn ra một người.lănh đạo thân Trung Quốc nhất để làm giả thư chúc tết của người đó gửi bộ đội ở miền Nam (năm 1971).
    Rydell chọn Trường Chinh, một lănh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam - người trên thực tế cũng ngả mạnh theo Trung Quốc. Rydell giải thích "những người Việt Nam cùng làm việc với tôi cho đây là ư tưởng tuyệt vời (thiếp chúc tết) rất hiệu quả". Và Hà Nội đă "tổ chức họp báo tại Lào và ở Paris lên án hoạt động bí mật này".4 SOG phân phát hơn 22.000 thiếp ở Lào, Campuchia và miền Nam.5
    Cuối cùng, có một đề án nhỏ về làm tiền giả. Tuy nhiên Washington rất e ngại dự án này đi quá xa. Theo Bob Andrews, "tôi biết việc làm tiền giả được thảo luận, nhưng cấp trên bảo chúng tôi : "Không được làm như vậy. Đó là điều không thể được về mặt chính trị.6
    ____________________ ____________________ _
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K. Singlaub, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG”, tr.55.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bob Andrews, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG" tr 116.
    4. Phỏng vấn lịch sử William Rydell, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG" tr. 183.
    5. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1971-1972", tr. B-13-12.
    6. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bob Andrew, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG", tr.122.
    CHUƠNG TR̀NH TÂM LƯ CHIẾN:
    KHÔNG PHẢI HOẠT ĐỘNG ĐẦY SỨC MẠNH
    Chương tŕnh chiến tranh tâm lư chống Hà Nội kết hợp nhiều công cụ và thủ đoạn. Những kỹ thuật và chiến thuật này là một nỗ lực tinh vi, nhưng đó mới chỉ là một phần của câu chuyện. Vấn đề quan trọng là liệu nó có phục vụ mục tiêu chiến lược không.
    Sự không ổn định chiến lược
    Liệu các chiến thuật chiến tranh tâm lư có đủ mạnh để giúp thực hiện các mục tiêu chiến lược của SOG không? Họ muốn đánh lừa Hà Nội bằng cách nào và nhằm mục đích ǵ? Những cố gắng của chiến tranh tâm lư có mang tính thực tiễn không? Cũng có những câu hỏi được đặt ra về nhân dân miền Bắc. Những hoạt động tâm lư chiến chống lại họ có một mục tiêu chiến lược không? Nếu có, th́ mục tiêu đó có thể đạt được với những hạn chế áp đặt cho SOG không?
    Mục tiêu chiến lược của chương tŕnh chiến tranh tâm lư là làm cho giới lănh đạo Hà Nội tin rằng an ninh ở hậu phương đang trở nên xấu đi. Thách thức ở đây là làm cho Hà Nội tin rằng mọi hoạt động giả tạo là công việc của những phần tử chống đối thật sự trong ḷng miền Bắc. Liệu SOG có thể tiến hành chiến thuật tung hoả mù để đánh lừa miền Bắc trong bao lâu? Một khi Hà Nội nhận ra rằng mọi thứ chỉ là đồ giả th́ SOG sẽ làm ǵ?
    Trên thực tế, bản chất giả tạo hoàn toàn chính là nhược điểm lớn nhất của chương tŕnh tâm lư chiến do SOG thực hiện. Các chỉ huy cao cấp của SOG và cấp trên nhận ra điều này vào năm 1966. Khi hồi tưởng về chương tŕnh, Don Blackbum nhận xét: (hoạt động này) chỉ gây chút ít phiền toái cho người Bắc Việt Nam, c̣n ngoài ra "chẳng đạt được cái ǵ cả" Blackburn so sánh với hoạt động của đối phương và cho rằng điều khác biệt chủ yếu là "triển khai việc tuyên truyền bằng cách kèm theo nhiều hoạt động khác nữa".1 Hà Nội không chỉ đạo phong trào giả ở miền Nam mà đó là một bộ máy tổ chức phát triển đầy đủ. Chiến tranh tâm lư là một yếu tố không tách rời của chiến lược chung của Hà Nội.
    Blackburn đă nêu đúng vấn đề mà các chuyên gia xem xét chương tŕnh chiến tranh tâm lư đă nhận ra. Cần phải làm thêm điều ǵ đó nữa nếu muốn giới lănh đạo Hà Nội tin rằng họ đang gặp phải sự chống đối nghiêm trọng. Bắt đầu từ 1967, sau khi đánh giá lại chương tŕnh tâm lư chiến. SACSA và SOG đă đệ tŕnh nhiều đề xuất tập trung vào yếu tố cốt lơi của OP39: phong trào Gươm thiêng ái quốc. Để gia cố h́nh ảnh của SSPL, cần có thêm các hoạt động bên trong và bên ngoài miền Bắc.
    Những đề nghị này bao gồm: thành lập đại diện của SSPL ở miền Nam; đưa những lời kêu gọi đề nghị Hà Nội chấm dứt chiến tranh mang lại hoà b́nh của SSPL ra diễn đàn quốc tế; khuyến khích số ngư dân bị giữ tại đảo Thiên Đường ở lại và đưa họ về miền Nam phục vụ mục đích tuyên truyền; và cho SSPL có động thái mở cơ quan đại diện ở Liên hợp quốc.2 Bằng việc đưa SSPL ra sân khấu quốc tế thông qua tổ chức b́nh phong, SOG có thể làm tăng độ lo lắng của Hà Nội về một phong trào chống đối có tổ chức. Nhưng không một sáng kiến nào được Washington chấp nhận.
    Đối với các hoạt động bên trong miền Bắc, các kiến nghị bao gồm "bổ sung thêm nhiều chi tiết vào hoạt đông của SSPL. Ví dụ như tăng cường các bức điện đài gửi cho các đơn vị ma của SSPL; mở rộng chương tŕnh phát thanh của Tiếng nói Gươm thiêng ái quốc; thông báo về các hoạt động như các cuộc gặp của trung ương, chương tŕnh công tác mới và số lượng người gia nhập SSPL ngày càng tăng". Nhiều nội dung trên đây đă được thực hiện.3

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P16



    Những kiến nghị thay đổi nêu trên có tác dụng làm tăng độ tin cậy của SSPL nhưng, nếu như được cho phép thực hiện, liệu chúng có tác động đến việc tiến hành chiến tranh ở miền Nam của Hà Nội không? V́ đó chính là mục tiêu cuối cùng của Kế hoạch 34A mà chiến tranh tâm lư là một bộ phận cấu thành. Mặc dù cuộc chiến tranh bí mật do SOG tiến hành có gây khó chịu cho Hà Nội, v́ Hà Nội coi việc chấm dứt hoạt động này là một trong những điều kiện cho đàm phán hoà b́nh, hoạt động của SOG không hề làm thay đổi sự hỗ trợ của miền Bắc đối với miền Nam.
    Cần phải bổ sung cái ǵ đó, và những ǵ tiếp theo cũng không có ǵ huyền bí. Cả ba chỉ huy đầu tiên của SOG, Russell, Blackburn và Singlaub, đều có chung kiến nghị: SOG phải thúc đẩy việc xây dựng một tổ chức chống đối thực sự trong ḷng miền Bắc. Phong trào chống đối giả tạo và hoạt động của các điệp viên ma có thể làm Hà Nội lo ngại, nhưng chỉ được đến thế mà thôi. Đó là kết luận của Báo cáo đánh giá được hoàn thành tháng 2-1968 do nhóm đánh giá của MACV, đứng đầu là chuẩn tướng A.R.Brownfield, người từng giữ chức phó SACSA, thực hiện. Ông phê phán chương tŕnh chiến tranh tâm lư là "không rơ ràng và quá rộng”. Nhiệm vụ của hoạt động này cần được thay đổi nếu như muốn phục vụ các mục tiêu của Kế hoạch 34A.4 Vấn đề là ở chỗ các nhà vạch chính sách ở Washington không cho phép SOG thành lập một tổ chức chống đối thực sự cũng như khuyến khích nhân dân miền Bắc đứng dậy hoạt động.
    ____________________ ____________________ ___
    1. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Donald Blackburn, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan chỉ huy của SOG", tr. 21, 22.
    2, 3. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân "Nghiên cứu tài liệu của SOG", tháng 7-1970, phần "Hoạt động chiến tranh tâm lư”, tr- 112-136.
    4. "Đánh giá về SOG", Báo cáo của nhóm đánh giá, tháng 2-1968, tr. 8-9.

    Dư âm Hungary
    Khi Colby tái tập trung nỗ lực chống Hà Nội của CIA vào chiến tranh tâm lư, các quan chức CIA tại Sài G̣n rơi vào t́nh huống phải vạch ra một ranh giới mỏng manh như đă từng làm ở Đông Âu tiếp theo sau cuộc nổi dậy ở Hungary năm 1956. Washington coi mục đích của chiến tranh tâm lư là cung cấp thông tin chứ không phải khuyến khích nổi dậy. Cuộc phiêu lưu tâm lư chiến của SOG chống miền Bắc cũng không được giải thoát khỏi hạn chế này. Nhớ lại những ngày c̣n lănh đạo OP39 năm 1966, Al Mathwin nhận xét: "Mục tiêu không phải là xúi giục dân chúng dùng bạo lực. Chúng tôi không được giao làm việc đó", ông giải thích "bởi v́ chúng tôi không hỗ trợ những người nổi loạn".1
    Tác động của "bài học Hungary" đối với việc h́nh thành hoạt động tâm lư chiến của SOG là rất sâu sắc. Không nghi ngờ ǵ nữa, kết quả của cuộc cách mạng Hungary đă làm chấn động các cơ quan an ninh quốc gia của Mỹ nói chung và CIA nói riêng. Năm 1956, Hoa Kỳ có cơ hội hỗ trợ một nỗ lực lật đổ chính phủ cộng sản. Bộ trưởng Ngoại giao John Forster Dulles vận động cho chiến lược "lăn trở lại"- Roll back - hay lật đổ chế độ Cộng sản với hàm ư Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ các hoạt động đó. Thực ra, "Roll back" và nhu cầu giải phóng Đông Âu là chủ đề đă được Dwight Eisenhower tŕnh bày chi tiết trong chương tŕnh tranh cử tổng thống 1952. Tuy nhiên, khi người Hungary bạo loạn, tổng thống Eisenhower và chính quyền của ông nhắm mắt làm ngơ không có sự giúp đỡ nào giành cho dân Hungary, mặc dầu chương tŕnh phát thanh của đài châu Âu tự do, RFE, do CIA chỉ đạo đă tiến sát đến việc khuyến khích nổi dậy. Khi cuộc nổi dậy mạnh lên, thậm chí RFE đă phát lại chương tŕnh phát thanh của đài địa phương kêu gọi giúp đỡ và lời đồn đoán rằng Mỹ chuẩn bị can thiệp. Những chương tŕnh phát thanh này là để duy tŕ hy vọng của những người xuống đường ở Hungary rằng nước Mỹ sẽ cứu họ. Nhưng chính quyền Elsenhower không hành động.2
    CIA rút ra những bài học quan trọng từ Hungary. Bill Rydell, người chỉ đạo hoạt động tâm lư chiến và gián điệp chống lại địa bàn bị từ chối từ những năm 1950, giải thích như sau: "Bạn chẳng cần có hiểu biết ǵ lắm cũng có thể h́nh dung ra là sau năm 1956 chúng ta sẽ không thể tiến hành công việc theo kiểu đó nữa v́ có thể gây ra chiến tranh nguyên tử", Rydell nhắc lại: "Trước năm 1956, chính sách của chúng ta là giải phóng". Tuy nhiên sau Hungary, việc "kích động dân chúng ở các địa bàn bị từ chối nổi dậy bị cấm... chúng ta sẽ không đi vào giúp đỡ hoặc khuyến khích hoạt động này... Tôi biết rằng sau năm 1956, chúng ta rất thận trọng về các hoạt động tương tự... Chúng ta sẽ không tiến hành hoạt động xúi giục nổi dậy".3 Tại CIA. Rydell cho biết "bạn có thể nh́n thấy sự thay đổi về nhiệm vụ hoạt động ở địa bàn bị từ chối, trước 1956 họ thúc đẩy một việc mà sau 1956 lại rút lui khỏi việc đó".4
    "Bài học Hungary” trở thành nỗi ám ảnh của CIA. Do đó mọi ư tưởng dự định xúi giục nổi dậy đều bị cấm từ khi c̣n manh nha. Trong khi vào thời điểm 1961, Kenedy mong muốn thực hiện tại miền Bắc những ǵ họ đang tiến hành ở miền Nam th́ vào lúc MACVSOG thành lập năm 1964, mục tiêu chính sách đó nhanh chóng bị mờ nhạt. Trong lĩnh vực chiến tranh đặc biệt, Hoa Kỳ sẽ ủng hộ và trợ giúp chính phủ bị đe doạ bởi bạo loạn cách mạng nhưng không cổ vũ những cố gắng chống quốc gia cộng sản bằng vũ trang.
    Tác động chiến lược của bài học Hungary đối với OP39 là rơ ràng. Hậu quả là hoạt động tâm lư chiến của OP39 chống nhân dân miền Bắc thiếu mục đích chiến lược. Trên thực tế, ranh giới mà SOG cố vạch ra giữa những ǵ SOG muốn dân chúng miền Bắc làm và không làm có lẽ chỉ tồn tại trong đầu các nhân viên của SOG. Điều chắc chắn là, những hoạt động này mang rất ít ư nghĩa chiến lược. Hậu quả không tránh khỏi là toàn bộ nỗ lực tâm lư chiến chống miền Bắc bị làm cho rối beng.
    Nhiều người từng điều hành hoạt động tâm lư chiến cũng san sẻ quan điểm trên. Có lẽ Bob Adrews là người đă khái quát tốt nhất những ảnh hưởng của quy định cấm đoán đối với hoạt động và mục tiêu chiến tranh tâm lư như sau:"Chúng tôi phải lên tận SACSA để xin ư kiến về mọi vấn đề lớn, tại đây họ phải xin ư kiến của Lầu Năm Góc và chỉ có Chúa mới biết là cán bộ ở cấp thực hiện cần phải làm ǵ. Sau một thời gian, t́nh trạng đó buộc anh phải tự xác định "hăy làm việc ǵ nhỏ thôi, đừng làm lớn v́ nếu muốn làm điều ǵ to tát, bạn sẽ chẳng bao giờ được làm". Do đó, chỉ nên làm những việc "dưới xà”- dưới mức phải báo cáo cho SACSA, có nghĩa là bạn phải làm những việc vụn vặt tầm thường". Andrews cho rằng "mối đe doạ mà người miền Bắc không thể dung thứ là mất sự kiểm soát... Rất nhiều thứ chúng tôi làm lẽ ra có hiệu quả nếu như được tiến hành thích đáng".5 Ư kiến này có thể đúng hoặc sai, nhưng những hạn chế áp đặt cho OP39 không cho phép kiểm định giả thuyết đó.
    Với việc h́nh thành Chương tŕnh đánh lạc hướng (Forae) cuối 1967, OP39 có cơ hội điều chỉnh t́nh trạng thiếu mục tiêu chiến lược khi được giao nhiệm vụ hỗ trợ OP34 tiến hành tṛ chơi ba mang với Hà Nội. Sự giúp đỡ này có nhiều dạng. Thứ nhất, Gươm thiêng ái quốc được điều chỉnh hoạt động và sáp nhập vào Forea, kéo theo sự thay đổi nội dung cải huấn ở đảo Thiên Đường. Hai hoạt động này trực tiếp gắn với và hỗ trợ Chương tŕnh đánh lạc hướng. Thứ hai, OP39 triển khai một số dạng thư giả đặc biệt để hỗ trợ Forae. Đó là việc lồng vào trong thư giả những thông tin về điệp viên là cán bộ miền Bắc đă được đề án Borden và Urgency dựng lên.
    Những bước trên chỉ là sự khởi đầu. Cần phải làm nhiều hơn để hoà nhập chiến tranh tâm lư vào Forae. Rất nhiều dự định khác đang được "h́nh thành" khi SOG nhận được chỉ thị từ Washington tháng 11-1969 ra lệnh chấm dứt mọi hoạt động bên kia giới tuyến của miền Bắc. Đối với chương tŕnh đánh lạc hướng, điều đó tương đương với việc đóng cửa gần như hoàn toàn chương tŕnh ngay khi mới bắt tay thực hiện. V́ vậy, OP39 mất cơ hội h́nh thành mục tiêu chiến lược cho chương tŕnh tâm lư chiến.
    Các thiếu sót khác của chương tŕnh tâm lư chiến
    Trong khi việc thiếu mục đích chiến lược là nhược điểm chủ yếu của chương tŕnh tâm lư chiến do SOG tiến hành và là nguyên nhân làm cho hoạt động đó không có khả năng tác động đến Hà Nội như mong muốn, c̣n có một số thiếu sót khác nữa. Có thể nêu ra ba thiếu sót nổi lên và góp phần đáng kể vào những thành quả rất hạn hẹp của SOG. Một là, sự khép kín trong từng bộ phận của các thành tố tổ chức của SOG dẫn đến việc thiếu phối kết hợp với nhau. Theo Phil Adams, người được CIA cử đến SOG năm 1966, "Tôi không nhớ là có bất kỳ kế hoạch tổng thể nào. Tôi không nhớ ai có ư tưởng cụ thể về nhiệm vụ chính xác của chúng tôi và chúng tôi phải thực hiện nhiệm vụ đó như thế nào. Mọi thứ đều mơ hồ".6 Không một sĩ quan quân đội hoặc một nhân viên CIA nào nhớ lại rằng ḿnh nh́n thấy hoặc tham gia soạn thảo kế hoạch hành động tổng thể cho chiến tranh tâm lư. Đó là cái giá của việc khép kín trong từng bộ phận một cách quá mức.
    Hai là, vấn đề nhân sự, căn bệnh măn tính trong suốt thời gian tồn tại của SOG, cũng ảnh hưởng đến bộ phận tâm lư chiến. Chuyên gia trong hoạt động chiến tranh tâm lư đen thật thiếu thốn, như Russell phát hiện ra năm 1964, khi ông bắt đầu xây dựng SOG. Vấn đề nhân sự cũng không được cải thiện tốt hơn trong những năm tiếp theo. Theo Phil Adams, bộ phận tâm lư chiến chịu đựng t́nh trạng thiếu chuyên môn trong nhiệm kỳ của ông. Adams kể: "Đối với nhân viên quân đội tôi không nhớ có ai đă từng trải qua hoạt động tâm lư chiến hoặc được đào tạo về chuyên môn này".7 Adams nói thêm “tôi không tin là có nhân viên Mỹ được đào tạo về văn hoá Việt Nam. Tất cả số nhân viên quân đội là sĩ quan bộ binh hoặc pháo binh”. Thế c̣n số nhân viên của CIA ở SOG th́ sao "Người của CIA cũng chẳng hơn ǵ mấy", Adams nhận xét.8 T́nh trạng này vẫn tiếp diễn ngay khi Adams rời SOG cuối 1967.
    Cuối cùng là vấn đề đánh giá tác động của chiến tranh tâm lư đối với các mục tiêu Bắc Việt Nam. Một chi nhánh của OP39 có tên “nghiên cứu và phân tích” có chức năng thu thập, so sánh đối chiếu, và phân tích các thông tin từ các nguồn về miền Bắc nhằm hai mục đích: Chỉ ra những điểm yếu về tâm lư miền Bắc để xác định đối tượng và sử dụng chính những nguồn đó để đánh giá tác động của chương tŕnh tâm lư chiến.
    Mục tiêu thứ hai này không được chi nhánh nghiên cứu và phân tích theo đuổi. John Harrell, người chỉ huy đầu tiên của chi nhánh, nhận định là không có “hành động nào để phát triển một cơ chế đánh giá. Tôi không có đủ điều kiện làm việc đó”.9 Richard Holzheimer, người thay thế Harrell năm 1965, cũng kể lại câu chuyện tương tự. Holzheimer không "nhớ là được giao nhiệm vụ hoặc một điều ǵ đó tương tự… Không, chúng tôi không làm việc đó". Khi được hỏi hàng năm có đánh giá về hoạt động tâm lư chiến không, Holzheimer trả lời “tôi không nhớ có việc như vậy”.10 Theo Derek Theissen, người làm tại chi nhánh vào cuối năm 1960, OP39 cho đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tâm lư chiến. Tuy nhiên, "hiệu quả được đánh giá chủ yếu bằng số lượng hiện vật được chuyển đi chứ không phải theo phản ứng của Hà Nội. Trong năm 1969 -1970, chúng ta mắc phải hội chứng "đếm hạt đậu” - thiên về số lượng- trái ngược hẳn với sự phân tích chi tiết về tác động”.11
    Thật khó có thể tin là SOG không tiến hành đánh giá một cách có hệ thống tác động và hiệu quả của chiến dịch chiến tranh tâm lư. Khi được hỏi tại sao lại như vậy, Bill Rydell, nhân viên CIA, sếp của OP39 năm 1970 - 1971, trả lời: "trong một xă hội mở làm điều đó đă rất khó. C̣n trong một nhà nước sau bức tường sắt th́ điều đó là điều không thể. Đối phương ít khi, nếu không muốn nói là không bao giờ, cho bạn biết các dấu hiệu về tác động của hoạt động tâm lư chiến. Bạn đọc nát báo chí để t́m ra từng dấu hiệu nhỏ nhất, đọc thư từ hay bất kể thứ ǵ có thể cho bạn một chỉ dẫn. Bạn không thể tiến hành một cách có hệ thống theo kiểu thăm ḍ ư kiến, đó chính là vấn đề. Và cũng không có sự chống đối công khai nào... không! Bởi v́ đó là dấu hiệu tốt nhất".12 Đó là câu trả lời có sẵn về khó khăn trong việc đánh giá hoạt động chiến tranh tâm lư chống lại các địa bàn bị từ chối. Tuy nhiên, Hà Nội không phải yên lặng về các hoạt động tâm lư chiến của SOG, mà ngược lại.
    ____________________ ___________________
    1. Ghi chép của tác giả trong cuộc phỏng vấn với trung tá Al Mathwin tại Lầu Năm Góc (tháng 7-1996), mọi người từng phục vụ trong OP39 khi phỏng vấn đều có chung ư kiến như vậy. Họ có nhiệm vụ gây bất măn trong nhân dân miền Bắc nhưng không được khuyến khích họ có hành vi bạo lực.
    2. Ranelagh. “Cơ quan CIA", tr.302-309.
    3. Phỏng vấn lịch sử với William Rydell, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG” tr.188-189, 194.
    4. Phỏng vấn lịch sử với William Rydell, Sđd, tr.194
    5. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bob Andrews, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG" tr. 118.
    6, 7. Phỏng vấn lịch sử với Phil Adams, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MAEVSOG" tr.97, 96.
    8. Phỏng vấn lịch sử với Phil Adams. Sđd, tr. 97.
    9. Phỏng vấn lịch sử với trung tá John Harrell, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG” tr-52.
    10. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Richard Holzheimer, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG”, tr. 90.
    11. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Derek Theissen, trong “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG” tr. 177.
    12. Phỏng vấn lịch sử William Rydell, trong “MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG" tr.196.
    CÓ LẼ COLBY ĐĂ ĐÚNG
    Tương tự như hoạt động biệt kích, chương tŕnh chiến tranh tâm lư nhận được sự chú ư của Hà Nội. Bản báo cáo phản gián của OP34 đầu 1968 hé cho thấy miền Bắc tuyên bố bắt giữ được số biệt kích nhiều hơn số SOG xâm nhập. Sự ước tính quá mức này và những báo động về an ninh nội bộ về các toán biệt kích ma và hoạt động liên quan tới gián điệp không chỉ xuất hiện trên báo chí, đài phát thanh mà c̣n trong các tài liệu nội bộ. Tương tự, dấu hiệu đó c̣n thể hiện dưới dạng áp dụng biện pháp tổ chức, bảo vệ và truy t́m gián điệp, biệt kích cả thật lẫn giả của đối phương. Hoạt động phản gián và cảnh sát như bắt, điều tra, xâm nhập, khiêu khích, cài bẫy... đều gia tăng. Cuối cùng, những h́nh phạt mới và nghiêm khắc hơn, kể cả tử h́nh, được ban hành và áp dụng đối với tội hoạt động phản cách mạng và gián điệp.
    Việc đánh giá quá mức và báo động có tính quy luật trên c̣n được phản ảnh trong cách Hà Nội đối phó với chương tŕnh chiến tranh tâm lư. Điều này bắt đầu từ năm 1965 và là vấn đề được nhắc nhở nhiều trong các bài báo và chương tŕnh phát thanh của miền Bắc. Ví dụ, tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản, cảnh báo rằng "để làm nhụt ư chí chiến đấu của miền Bắc , Hoa Kỳ coi "chiến tranh tâm lư, chiến tranh chính trị, hoặc dạng chiến tranh thứ tư (sau chiến tranh quân sự, kinh tế, ngoại giao) là chính sách quốc gia”.1 Nhân Dân và các cơ quan chính thức của miền Bắc thường xuyên lặp đi lặp lại lời cảnh báo trên và tuyên truyền trong nhân dân "đế quốc Mỹ đang dốc sức thực hiện chiến tranh gián điệp và chiến tranh tâm lư nhằm phá hoại hậu phương của ta".2 Hay nói cách khác, đó là dạng lật đổ tương tự như Hà Nội đang tiến hành ở miền Nam.
    Khi hồi tưởng lại, Hà Nội chỉ đúng có một nửa. Chắc chắn, chiến tranh tâm lư cũng như các hoạt động ngầm của SOG là nhằm vào hậu phương, một trung tâm trọng lực của Hà Nội. Hà Nội thể hiện sự lo ngại sâu sắc về an ninh ở hậu phương v́ an ninh nội bộ là tối quan trọng cho phép Hà Nội đối đầu với siêu cường ở miền Nam. Tuy nhiên, những ǵ mà Hà Nội không biết là có những giới hạn trong hoạt động tâm lư chiến của SOG, nhất là khi đến lúc cần khuyến khích bạo lực và nổi dậy. Có lẽ, miền Bắc giả định rằng việc thúc đẩy tŕnh trạng mất trật tự và nổi loạn là mục tiêu rơ ràng của hoạt động đó. Nếu không, làm việc đó làm ǵ?
    Các chương tŕnh phát thanh và ấn phẩm báo chí của Hà Nội đưa tin khá cụ thể về các loại kỹ thuật, chiến thuật do OP39 sử dụng. Lư do thật rơ ràng. Hà Nội cho rằng điều cơ bản là phải vạch trần và tố cáo hoạt động này để nhân dân khỏi tin chúng là sự thật. Nếu không, nhân dân có thể có thái độ cảm thông với SSPL, thậm chí muốn tham gia tổ chức được dựng lên này. Mọi việc sẽ vượt khỏi tầm kiểm soát.
    Thời gian qua đi, những công bố công khai càng trở nên chính xác hơn. Ví dụ, tạp chí lư luận hàng tháng của Đảng, tạp chí Học tập, số tháng 6-1967 đăng bài lột mặt nạ của tổ chức Gươm thiêng ái quốc. Bài báo cho rằng thông qua đài phát thanh của SSPL và các hoạt động khác, Mỹ muốn làm cho nhân dân miền Bắc tin là “phong trào này, vốn chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng, đă thành công trong việc tổ chức căn cứ chống chính quyền nhân dân tại một số tỉnh và thành phố ở miền Bắc".3 Hà Nội cũng đưa tin về số ngư dân đă qua cải huấn. Mỹ đang "bắt cóc ngư dân và người đi biển để thẩm vấn, dụ dỗ hoặc cưỡng ép họ tham gia vào tổ chức Gươm thiêng ái quốc, chúng đă lựa chọn một số, giao nhiệm vụ trở về miền Bắc bí mật phát triển điệp viên cho chúng".4 Toàn bộ ư tưởng về phong trào chống đối trong nội bộ là không thể chấp nhận được đối với các nhà lănh đạo Hà Nội và phải bị vạch trần. Hà Nội đă giành thời gian và sức lực để làm điều đó.
    Ngoài SSPL và chương tŕnh cải huấn, Hà Nội c̣n đưa ra công khai hoạt động tâm lư chiến của SOG, bao gồm các đài phát thanh đen, trong đó có đài Cờ đỏ. Hà Nội cho rằng đài Cờ đỏ nhằm "làm cho thính giả tin rằng đó là cách mạng, rằng họ đương đầu với đế quốc Mỹ...". Tuy nhiên, Hà Nội tố cáo "đây chỉ là luận điệu lẩn tránh che đậy âm mưu đen tối, đó là nhằm gây mất đoàn kết trong nội bộ đảng, chia rẽ đất nước ta với các nước xă hội chủ nghĩa. Chúng xuyên tạc phong trào yêu nước ở miền Bắc, bịa ra thiệt hại của lực lượng giải phóng miền Nam...".5 Nhiều bài báo tương tự đă lên án hoạt động thư đen, quà tặng và truyền đơn của OP39, tất cả đều được mô tả rất chi tiết để phơi bày nguồn gốc và mục đích thật sự.
    Tuy nhiên vạch trần hoạt động không thôi th́ chưa đủ. Hà Nội c̣n chú ư hướng dẫn cho cán bộ và nhân dân biện pháp vô hiệu hoá chiến tranh tâm lư và các hoạt động bí mật khác do SOG thực hiện. Có nhiều h́nh thức làm việc này, bao gồm các "câu chuyện cảnh giác" trong đó cán bộ hoặc nhân dân địa phương bắt giữ được gián điệp hoặc lột mặt nạ hoạt động của SOG. Các phương tiện truyền thông của Hà Nội chuyển tải nhiều ví dụ về hành động đó. Ví dụ, một bài báo trên tờ Quân đội nhân dân, tờ nhật báo của quân đội miền Bắc đưa tin về việc "chiến sĩ an ninh biên giới ở Quảng B́nh đă xoá bỏ toàn bộ toán biệt kích trên núi Don Pu”.6 Tương tự như vậy, tờ nhật báo Nhân Dân, tờ báo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đăng câu chuyện cơ quan an ninh địa phương đă thuyết phục được một "ngư dân từ tỉnh Hà Tĩnh ra đầu thú với chính quyền địa phương, khai nhận là gián điệp cho Mỹ". Anh ta bị một tàu địch bắt và dụ dỗ làm tay sai cho chúng".7
    Đảng Cộng sản Việt Nam c̣n đề ra "đường lối và biện pháp" để hướng dẫn cán bộ địa phương cách tốt nhất để vô hiệu hoá các hoạt động trên. Theo một bài báo tháng 6- 1967, "để đối phó có hiệu quả chiến tranh tâm lư của địch, chúng ta phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng về t́nh h́nh và nhiệm vụ... bằng nhiều biện pháp khác nhau”.8 Điều này được biến thành các hoạt động giáo dục và huấn luyện rộng răi ở cấp cơ sở.
    Việc đánh giá mức độ báo chí, đài phát thanh của Hà Nội đưa tin, bài tương tự như nêu trên cho thấy có sự lo ngại đang tăng lên trong giai đoạn 1965 -1967. Hơn nữa, với cách tiếp cận vấn đề của Hà Nội trong đó nhấn mạnh việc hướng dẫn và các biện pháp thiết thực để đối phó với hoạt động ngầm, dường như có thể kết luận một cách thoả đáng là hoạt động tâm lư chiến của SOG đang có hiệu quả. Nhưng, ở đây để hoạt động đánh lừa có kết quả phải cần có hai người: người lừa và bị lừa. Chứng cứ cho thấy chương tŕnh tâm lư chiến của SOG đă thu hút sự chú ư của lănh đạo Hà Nội.
    Năm 1968, sự quan tâm lo ngại của Hà Nội về những hoạt động này lan truyền nhanh chóng. Hà Nội cho rằng Mỹ đang tăng cường hoạt động chiến tranh tâm lư và gián điệp chống lại miền Bắc để “kích động các phần tử phản cách mạng ở miền Bắc nổi loạn chống chính quyền. Chúng âm mưu gây rối vùng hậu phương của ta”.9 Dẫn chứng về nhận thức cho là Mỹ đang gia tăng hoạt động ngầm chống lại miền Bắc có thể t́m được trong tài liệu của các cơ quan ở Hà Nội. Đây không phải chỉ thuần tuư là sự lo ngại của Hà Nội đối với vấn đề an ninh mà phản ánh thực tế. Những ǵ làm cho Hà Nội có phản ứng trên, một phần là "Chương tŕnh đánh lạc hướng" của SOG, trong đó hoạt động chiến tranh târn lư của OP39 là bộ phận cấu thành.
    Tuy nhiên, sự phản ứng của Hà Nội không dừng ở chỗ tăng cường đưa ra công khai hoặc bổ sung hướng dẫn biện pháp để vô hiệu hoá một cách hữu hiệu những hoạt động của SOG. Hà Nội ban hành h́nh phạt mới nặng hơn đối với bất kỳ ai có dính líu đến hoạt động phản cách mạng. Tất cả có 15 tội danh được quy định và mỗi tội danh có khung h́nh phạt tù lâu năm, chung thân hoặc tử h́nh.10 Chi tiết của các h́nh phạt mới này được đưa tin rộng răi ở miền Bắc. Những điều đó cho thấy Hà Nội thực sự chú ư đến hoạt động của Chương tŕnh đánh lạc hướng và muốn chuyển tải bức thông điệp đó đến nhân dân. Báo Nhân Dân đưa tin: Các h́nh phạt nghiêm khắc là "cần thiết" để "làm cơ sở cho công tác đấu tranh chống hoạt động của gián điệp và bọn phản cách mạng khác".11
    Những điều tŕnh bày trên đây cho thấy ǵ về chương tŕnh tâm lư chiến của SOG? Câu trả lời ngắn gọn là khi được gắn kết với chương tŕnh đánh lạc hướng, nó cho thấy có vẻ như William Colby đă đúng. Colby đă nói như sau: Chiến tranh tâm lư có thể "có tác động bởi v́ người cộng sản rất nhạy cảm đối với sự nguy hiểm của chống đối nên nếu tạo cho họ có suy nghĩ là có nhóm chống đối trong hàng ngũ, điều đó sẽ làm họ phát điên". V́ vậy, vượt lên những hạn chế, việc thiếu mục tiêu chiến lược và những vấn đề khác tác động tiêu cực đến OP39, trong những năm 1965-1967, hoạt động của OP39 rơ ràng có hiệu quả mà Colby mong muốn. Thành quả này không được SOG nhận ra v́ không có cơ chế đánh giá một cách có hệ thống tác động của chiến dịch chiến tranh tâm lư. Điều đó vượt quá khả năng của SOG.
    Trong năm 1968, phản ứng của Hà Nội đối với hoạt động của OP39 ở miền Bắc trở nên rơ ràng hơn đối với SOG mặc dù tác động đó vẫn chưa được định lượng một cách có hệ thống. Cần nhắc lại rằng hoạt động đánh lừa nhằm làm cho Hà Nội tin là họ chỉ phát hiện ra một phần nhỏ của tảng băng ch́m và rằng tổ chức chống đối đă "ăn rất sâu” và chính Hà Nội cũng thừa nhận như vậy. Hà Nội càng trở nên nhạy cảm hơn với nguy cơ lật đổ.
    Nhưng tháng 11-1968, có chỉ thị chấm dứt chương tŕnh v́ chính quyền Johnson quyết định chấp nhận yêu cầu của Hà Nội để bắt đầu đàm phán hoà b́nh. Đối với OP39, điều đó có nghĩa chấm dứt hoạt động ở đảo Thiên Đường và các hoạt động khác. Tất cả hoạt động tâm lư chiến tích cực cũng như phần lớn chương tŕnh đánh lạc hướng đều phải ngừng lại. Một ngày đầu tháng 11-1968, thiếu tá Bob Andrews và các nhân viên quân, dân sự của OP39 nhận được chỉ thị ngừng hoạt động. Andrews nhớ lại, "Chúng tôi ngừng mọi hoạt đồng ra Bắc. Ngừng ngay lập tức. Tất cả những ǵ có thể dùng để chứng minh cho sự dính líu của Mỹ đều bị quăng qua cửa sổ. Có lệnh chấm dứt công việc từ cấp trên, và tất cả chỉ có vậy. Chúng tôi tiếp tục tập hợp nhau để duy tŕ một số hoạt động nhưng không, không được Đó là mệnh lệnh".12
    Những ǵ c̣n lại của OP39 chỉ là một số hoạt động kém hiệu quả và thụ động. Với việc chấm dứt chương tŕnh đánh lạc hướng, OP39, cũng giống như OP34, bị !oại khỏi cuộc chiến.
    ____________________ ___________________
    1. "Đập tan chiến tranh tâm lư của đế quốc Mỹ", Nhân Dân ngày 7-9-1965.
    2. "Chúng ta hăy đập tan chiến tranh tâm lư và chiến tranh gián điệp của đế quốc Mỹ”, Lao Động, ngày 14-9-1965.
    3. "Quyết tâm đánh thắng chiến tranh tâm lư của để quốc Mỹ", Tạp chí Học tập. tháng 6-1967.
    4. "Đánh bại âm mưu t́nh báo của Mỹ”, Tuyên huấn, tháng 4-1968.
    5. “Quyết tâm đánh thắng chiến tranh tâm lư của đế quốc Mỹ (đă dẫn).
    6. "Toán biệt kích bị tiêu diệt tại núi Don Pu”, Quân đội nhân dân, tháng 9-1968.
    7. "Gián điệp của địch ra đầu thú chính quyền miền Bắc", Nhân Dân, 24-8-1968.
    8. "Giáo dục quần chúng đánh bại chiến tranh tâm lư của địch", Tuyên huấn, tháng 6-1968.
    9. "Nắm vững và thực thi Sắc lệnh trừng trị tội phản cách mạng”, Nhân Dân, 26-3-1968.
    10. "Sắc lệnh về tội phản cách mạng", Học tập, tháng 4-1968.
    11. "Tăng cường pháp luật xă hội chủ nghĩa chống phản cách mạng". Nhân dân, 24-3-1968.
    12. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Bob Andrew, trong "MACVSOG: Phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP39 của MACVSOG" tr. 118.

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P17



    CHƯƠNG NĂM TỪ MẶT BIỂN




    Đối với đô đốc Harry Felt, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Thái B́nh Dương, ư tưởng là CIA có thể chỉ đạo hoạt động ngầm trên biển tấn công các mục tiêu ven bờ Bắc Việt Nam thật là khôi hài. Harry Felt tự hỏi liệu CIA biết cái ǵ về hoạt động trên biển, thậm chí kể cả các điệp vụ bí mật có sử dụng tàu nhỏ. Những tháng đầu năm 1961, CIA bắt đầu tiến hành các hoạt động như vậy chống lại miền Bắc. Sau khi xem xét lại kết quả hoạt động đó vào mùa thu năm 1962, đô đốc Felt nhận thấy kết quả thu được không có ǵ đáng kể. Ông cho rằng CIA đang bị lạc hướng và các báo cáo về điệp vụ làm ông phát bực ḿnh. Felt chỉ trích thẳng thừng: chương tŕnh của CIA lẽ ra phải được đẩy mạnh từ trước đó rất lâu.1
    Vị đô đốc có lư lẽ của ḿnh. Không có chứng cứ ǵ cho thấy hoạt động trên biển có tác động nhiều đến Hà Nội. Những chiếc thuyền nhỏ được sử dụng thậm chí c̣n khó đến được đó (miền Bắc) và một khi đă đến được hải phận th́ không đủ vũ khí để gây thiệt hại lớn. Nhưng lúc bấy giờ, Colby, kiến trúc sư của chương tŕnh CIA, cũng chẳng hy vọng thu được ǵ nhiều từ hoạt động này. Ông chỉ tuân theo chỉ thị từ Washington.
    Mặc dù chỉ trích gay gắt công việc của CIA, Felt khảng định là miền Bắc dễ bị tổn thương đối với hoạt động trên biển. Hà Nội có lực lượng pḥng thủ bờ biển không đáng kể, và lực lượng hải quân cũng vậy. Điều này làm cho các nhà máy điện, cầu, đường xe lửa và các mục tiêu khác ven bờ rất dễ bị tấn công. Những mục tiêu đó là sự lựa chọn đễ dàng cho hoạt động từ biển được tổ chức có kế hoạch và thực hiện một cách hiệu quả.2 Ông lập luận, tấn công chúng đến một mức nào đó Hà Nội sẽ bị oằn xương và chấm dứt xúi giục bạo loạn ở miền Nam. Tháng 7-1962, đô đốc George Anderson chỉ huy trưởng hoạt động hội quân tham gia ư kiến. ông cũng đề nghị có một "chiến dịch quấy nhiễu” trên biển chống miền Bắc để thuyết phục họ ngừng hậu thuẫn Việt Cộng (2).
    XUẤT XỨ CỦA HOẠT ĐỘNG HẢI QUÂN NGẦM
    Các nhà lănh đạo cao cấp của hải quân cảm thấy CIA chẳng có lư do ǵ để dính vào hoạt động loại này hoặc ít nhất nó phải chịu sự giám sát của hải quân. Thực ra, suy nghĩ cho rằng CIA có thể làm được cái ǵ đó to tát ngoài việc xâm nhập vài điệp viên qua đường biển vào miền Bắc đối với giới lănh đạo hải quân là viển vông. Tuy nhiên, trung tâm CIA ở Sài G̣n lại được giao nhiệm vụ nhiều hơn thế trên biển.
    Kiến trúc sư của hoạt động trên biển là Tucker Gougelmann, cựu lính thuỷ đánh bộ, Gouglemann có thành tích chiến đấu đáng kính trọng ở Thái B́nh Dương, nơi ông đă nhiều lần bị thương. Là nhân viên CIA, Gouglemann đă chỉ huy hoạt động chống lại địa bàn bị từ chối ở Đông Âu trong những năm 1950 và Triều Tiên. Năm 1960, CIA cử ông đến Sài G̣n.
    Gouglemann thành lập cơ sở tại Đà Nẵng năm 1961 và bắt đầu đưa thuyền ra Bắc. Hoạt động trên biển là một phần trong chương tŕnh chống Hà Nội của CIA. Các nội dung khác bao gồm: cài cắm điệp viên và chiến tranh tâm lư. Vào mùa hè năm 1961, CIA bổ sung thêm hoạt động qua giới tuyến ở Lào và Campuchia để do thám đường ṃn Hồ Chí Minh, nhưng chỉ mới tiến hành được vài điệp vụ. Sử dụng người Việt Nam, không có trực thăng hỗ trợ để xâm nhập, những toán này không thể vào sâu trong Lào.
    Hoạt động trên biển do Gouglemann khởi xướng có quy mô nhỏ tương tự. "Mục tiêu cơ bản" là “thu thập t́nh báo và thám sát vùng ven biển miền Bắc". Gouglemann xâm nhập điệp viên đầu tiên vào Bắc Việt Nam - điệp viên đơn tuyến mật danh Ares - tháng 2 năm 1961. Sau đó là các điệp viên khác. Theo tài liệu đă giải mật của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, những hoạt động ban đầu “về cơ bản là thụ động và cố tránh đụng độ nếu có thể”.3 Năm 1962, Gouglemann được chỉ đạo bắt đầu "các cuộc tập kích phá hoại ngắn hạn ven bờ” để đáp lại việc gia tăng thù địch Nam-Bắc và chuẩn bị cho việc thành lập phong trào chống đối ở miền Bắc".4 Tổng thống Kenedy đang hối thúc CIA gia tăng cường độ hoạt động ngầm ở đó.
    Nguồn lực mà Gouglemann có trong tay chủ yếu là các thuyền có gắn động cơ của Nam Việt Nam, lư do chính để đô đốc Felt kết luận kết quả hoạt động của CIA không có ǵ đáng kể. Các thuyền gắn máy không hề được thiết kế cho hoạt động phá hoại hoặc gây rối, trong đó tốc độ và khả năng lẩn trốn là hai yếu tố sống c̣n.
    Khi Washington quyết định đẩy mạnh hoạt động trên biển lên mức quấy rối và phá hoại, hải quân được giao nhiệm vụ hỗ trợ và cung cấp thiết bị để cải thiện năng lực của CIA trong việc thực thi các điệp vụ. Tháng 8-1962, tư lệnh MACV, tướng Harkin "đề nghị sử dụng tàu ngư lôi của Hoa Kỳ, với sự hỗ trợ của đơn vị hậu cần hải quân ở Đà Nẵng, thực hiện nhiệm vụ trên biển miền Bắc". Cuối tháng 9, chính quyền Kenedy chấp thuận đề nghị này.5
    Hải quân lục lọi trong kho của ḿnh để t́m ra loại tàu phù hợp. Tháng 10, Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng Roswell Gilpatric chỉ đạo đô đốc Anderson giao cho CIA tái sử dụng hai tàu phóng lôi thân nhôm được đóng năm 1950 hiện đang bỏ không: chiếc PT-810 và PT-811 được trang bị súng 20mm và 40mm. Hai chiếc tàu được đặt lại tên là Tàu tuần tiễu nhanh (PTF1 và PTF2). Những lần đi biển thử nghiệm của 2 tàu này đều có nhiều trục trặc. Viên đại uư hải quân, người báo cáo Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara về những vấn đề kỹ thuật xảy ra trên biển của hai tàu này, nhận xét là cả hai chưa vượt qua giai đoạn thử nghiệm. Và chính v́ vậy trước đó cả hai bị bỏ , không sử dụng.6
    Bất chấp những trục trặc, McNamara rất phấn kích về việc hai tàu được đưa ra sử dụng, tin tưởng đó là "một bước đi đúng hướng".7 Tuy nhiên cần làm nhiều hơn nếu muốn Hà Nội cảm nhận được bức thông điệp về cái giá phải trả cho việc tiến hành nổi dậy ở miền Nam. Để đạt được mục đích đó, ông yêu cầu "ưu tiên chú ư vào việc mua tàu do nước ngoài chế tạo" và chỉ đạo thứ trưởng phụ trách hải quân "có ngay hành động để mua hai tàu lớn Nasty của hải quân Nauy".8 nổi tiếng về tốc độ và khả năng lẩn tránh. Việc mua tàu hoàn thành năm 1963, đó là hai tàu thân gỗ cứng được đặt tên hiệu PTF3 và PTF4.
    Mặc dù hai tàu Nasty sẽ được sử dụng trong các hoạt động ngầm tuyệt mật, hải quân quyết định thông báo công khai việc mua sắm chúng. Đô dốc Aderson đă đưa một chiếc đến Washington "để thao diễn khả năng hỗ trợ đổ bộ và hoạt động ven biển" do các "toán không-đất-biển (SEAL) của Hải quân sử dụng trong hoạt động bán quân sự và không quy ước".9 Ngày 15-5 theo lời mời của thứ trưởng hải quân John Connally, giới báo chí ở Washington tập hợp dọc sông Potomac để xem buổi tŕnh diễn này, một việc làm khác thường để chuẩn bị cho hoạt động ngầm hết sức nhạy cảm.
    Sau khi dừng tại San Diego, hai chiếc Nasty được chở đến Hawaii và sẵn sàng cho nhiệm vụ ở Đông Nam Á. Trong thời gian ở đây, "Chỉ huy trưởng hoạt động hải quân cho phép văn pḥng thông tin đưa tin ảnh" về hai con tàu mới được bổ sung cho hạm đội Thái B́nh Dương. Tuy nhiên, bắt đầu có lo ngại về việc đưa ra công khai những chiếc tàu được mua về phục vụ hoạt động bí mật. Hải quân đă dựng lên một câu chuyện ngụy trang, theo đó nhiệm vụ của Nasty là chống lại tàu phóng lôi của Liên Xô - Swatow. Rơ ràng đó là lư do rất dở v́ tại Đông Nam Á, nơi Nasty nhận nhiệm vụ, chỉ có Bắc Việt Nam có Swatow. Cuối cùng, Anderson ra chỉ thị "hạn chế tối thiểu” việc đưa tin về Nasty.10 Bây giờ nh́n lại, việc tuyên truyền đó thật tệ hại; nó thể hiện khiếm khuyết nghiêm trọng trong hiểu biết của hải quân về hoạt động ngầm. Đó là sự khởi đầu mang điềm xấu của hải quân Mỹ trong lĩnh vực hoạt động ngầm.
    CIA nhận các tàu Nasty vào cuối năm 1963. Để điều khiển con tàu xâm nhập hải phận miền Bắc, CIA thuê thuỷ thủ Đức và Nauy. Hải quân cử một nhóm SEAL đến giúp CIA huấn luyện biệt kích tiến hành phá hoại. Ngoài ra hải quân c̣n cung cấp hậu cần để bảo dưỡng con tàu.
    Khi những công việc trên đang diễn ra, Kenedy chỉ thị thực hiện kế hoạch "Switchback", theo đó các hoạt động ngầm chống miền Bắc được chuyển từ CIA sang Lầu Năm Góc , trong đó có hoạt động ngầm trên biển của Gouglemann. Trong những ngày đầu của SOG, McNamara tin là hoạt động trên biển sẽ rất hiệu quả. Bạn không cần phải chờ đợi cho đến khi điệp viên xây dựng xong mạng lưới hoặc chiến tranh tâm lư bắt đầu có ảnh hưởng đến tư tưởng của đối phương. Hoạt động trên biển có tác động ngay lập tức McNamara lập luận như vậy.
    Việc chuyển giao mất nhiều thời gian hơn dự kiến. Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Maxwell Taylor trù trừ măi và năm tháng sau mới giao trách nhiệm cho Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương lập kế hoạch triển khai vào tháng 5-1963. Đô đốc Felt giao cho ban tham mưu soạn thảo Kế hoạch hành động 34A (OPLAN34). Bản dự thảo này được chuyển cho Taylor ngày 17-6-1963, nhưng măi đến ngày 9-9 ông mới phê duyệt và c̣n giữ lại thêm hai tháng nữa mới tŕnh lên Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara. Kế hoạch 34A được đưa vào chương tŕnh nghị sự của “cuộc họp đặc biệt về Việt nam" do McNamara triệu tập ngày 20-11-1963 tại Honolulu.
    Tại Hội nghị, McNamara phê phán mạnh mẽ CIA về hoạt động ngầm chống miền Bắc và cho rằng đă đến lúc phải thay đổi. Bây giờ đến lượt quân đội. Ông tin tưởng rằng quân đội sẽ mang lại kết quả tốt hơn. Đô đốc Felt đă từng tuyên bố như vậy một năm trước đó. Điều cần thiết là một nỗ lực rộng lớn hơn. McNamara coi hoạt động trên biển là một cách xâm nhập, gây thiệt hại và làm cho Hà Nội nhận ra là Hoa Kỳ bắt tay vào việc thực sự. Do vậy, lănh đạo Hà Nội sẽ nhận được bức thông điệp mà Hoa Kỳ muốn nhắn gửi.
    Trong hồi kư về Việt Nam, McNamara nhắc lại những sự kiện dẫn đến quyết định phê chuẩn kế hoạch 34A của chính quyền Johnson sau cuộc họp tại Honolulu. Hai tuần sau cuộc họp, McNamara gặp tổng thống để trao đổi về chính sách Việt Nam. Theo McNamara , tổng thống "cho là Hoa Kỳ không làm tất cả những ǵ cần phải làm". Trong cuộc gặp, "ông hỏi cụ thể là liệu kế hoạch hoạt động ngầm có thể mở rộng được không". Theo McNamara nhớ lại, "tổng thống Johnson muốn tăng cường hoạt động ngầm"11 và McNamara nhất trí. Trong số những điệp vụ ngầm được phê duyệt cho thực hiện, người ta cho rằng điệp vụ trên biển sẽ tạo ra tác động ngay tức khắc lớn nhất đối với giới lănh đạo Hà Nội đồng thời có ít rủi ro nhất đối với Washington.
    Để đạt được mục tiêu của Kế hoạch 34A- thuyết phục Hà Nội rằng việc chấm dứt chính sách xâm lược ở miền Nam là phục vụ lợi ích của chính họ-cần phải có thời gian. Nhưng các nhà vạch chính sách đang nóng vội. Bằng việc gia tăng quấy phá và huỷ hoại cơ sở vật chất, họ kỳ vọng hoạt động bán quân sự ngầm sẽ ngay lập tức làm suy yếu ư chí của Hà Nội. Do đó, khả năng tạo ra tác động nhanh là căn cứ chủ yếu để chọn ra 30 mục tiêu cho giai đoạn một. Hoạt động ngầm trên biển tập trung vào số mục tiêu này với hy vọng sẽ mang lại tác động ngay lập tức như Washington mong muốn với Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông, ít nhất đó là theo suy nghĩ của Hoa Kỳ.
    Bộ phận hàng hải của kế hoạch 34A được quan tâm đặc biệt. Ngày 20-12, McNamara đến Sài G̣n thị sát tiến bộ công việc. Ông muốn đẩy nhanh tốc độ chuẩn bị. Mọi việc diễn ra không nhanh chóng như yêu cầu. Hà Nội phải sớm nhận được thông điệp và hoạt động ngầm trên biển là người chuyển bức thông điệp đó. Theo một lời kể, trong chuyến thăm, McNamara "thể hiện rất quan tâm đến việc triển khai một số hoạt động".12 Đứng đầu danh sách là hoạt động trên biển. Đó là tính cách đặc trưng của McNamara, luôn luôn vội vă. Mọi việc phải được thực hiện nhanh chóng và phải có ngay kết quả.
    Khi biết rằng chỉ có vài tàu Nasty và Swift được dành cho những điệp vụ trên biển, McNamara chỉ thị cho hải quân mua thêm tàu Nasty.13 Với tầm hoạt động 860 dặm và tốc độ 38 hải lư giờ, những chiếc Nasty được coi là sẽ "cải thiện lớn năng lực tiến hành hoạt động ngầm trên biển”. Sau những chuyện công khai mà hải quân đă tạo ra khi mua tàu, người ta quyết định đưa ra lư do ngụy trang để giải thích sự có mặt của chúng tại miền Nam. Loại con tàu này "được chuyển giao cho Cộng hoà Nam Việt Nam tiến hành hoạt động đơn phương bảo vệ vùng ven biển chống lại sự xâm nhập của các lực lượng thù địch từ Bắc Việt Nam".14
    Nói tóm lại, các nhà hoạch định chính sách cao cấp ở Washington coi bộ phận hoạt động trên biển của SOG là công cụ tốt nhất để ngay lập tức buộc Hà Nội phải chú ư và nhụt ư chí. Đầu năm 1964, bộ phận cố vấn hải quân phối thuộc-NAD, mật danh của OP37, được thành lập ở Đà Nẵng. Lễ thành lập vừa diễn ra cũng là lúc Washington đ̣i hỏi kết quả.
    ____________________ ____________________
    1, 5, 12, 13. Marolda và Fitzgerald, "Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", tr. 203.
    2. Marolda và Fitzgerald, Sđd, tr. 201, 202.
    3, 4. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG” tháng 7-1970, phụ lục C, phần "hoạt động trên biển", tr. 1.
    6. Phỏng vấn đại uư hải quân nghỉ hưu William Murray, ngày 5-10-1997.
    7, 8, 9. Marolda và Fitzgerald, "Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", tr. 203, 206.
    10. Marolda và Fitzgerald, Sđd, tr. 206.
    11. McNamara, "Hồi tưởng: Bi kịch và bài học của Việt Nam", tr. 103.
    14. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG" , tháng 7-1970, phụ lục C, phần "hoạt động trên biển". tr. 1.

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P18


    BỘ PHẬN CỐ VẤN HẢI QUÂN PHỐI THUỘC-NAD
    Những người được giao trách nhiệm thành lập NAD ngay lập tức đối mặt với khó khăn mà các bộ phận nghiệp vụ khác của SOG gặp phải: t́m ra và lựa chọn nhân sự phù hợp; đề ra biện pháp hoạt động và nguyên tắc khi can dự; lập ra mô h́nh tổ chức của OP37; thiết lập quan hệ phối hợp với đối tác Nam Việt Nam; và h́nh thành quy tŕnh chỉ huy, giám sát. Các công việc trên càng khó thực hiện hơn khi phải chịu sức ép của các nhà vạch chính sách ở Washington. Những người đang ngóng đợi kết quả.
    Lựa chọn nhân sự
    NAD chính thức hoạt động tháng 9-1964. Đóng tại Đà Nẵng, NAD chịu trách nhiệm về hàng loạt hoạt động ngầm trên biển. Một năm sau, một bộ phận điều phối nhỏ-bộ phận hoạt động hàng hải (OP31) được h́nh thành tại trụ sở SOG ở Sài G̣n. OP31 có chức năng tham mưu, c̣n NAD tổ chức thực hiện.
    Vấn đề cấp bách mà lănh đạo SOG phải xử lư là t́m ra nhân viên có kinh nghiệm trong hải quân và thuỷ quân lục chiến để biên chế cho OP37. Việc này rất khó bởi v́ các quân chủng, đặc biệt là hải quân, coi hoạt động ngầm là ít quan trọng và nằm ngoài nhiệm vụ của ḿnh. Do vậy, khi SOG tiếp xúc với hải quân đề nghị tuyển người cho OP37, người ta có thể đoán biết trước kết quả.
    Khó khăn trong việc lựa chọn chỉ huy đầu tiên của NAD minh chứng cho vấn đề này. Người đó phải từng giữ cương vị chỉ huy trong hải quân. Nếu chỉ có vậy th́ rất dễ dàng v́ hải quân rất sẵn sĩ quan chỉ huy. Tuy nhiên, vào năm 1964, không một ai trong số đó từng trải qua hoạt động chiến tranh không quy ước. Kết quả là trong 4 chỉ huy đầu tiên của NAD, chỉ có một người có kinh nghiệm gần tương tự. Trong hải quân, các chức vụ cao được dành cho người chỉ huy tàu chiến lớn trên đại dương chứ không dành cho hoạt động ngầm. V́ vậy, khi đến phụ trách NAD lúc c̣n sơ khai, Jack Owens phải chỉ huy một đơn vị mà ḿnh không hiểu biết ǵ cả. Ông vừa kết thúc nhiệm vụ tại một tàu khu trục và cả cuộc đời ông gắn liền với hải quân.
    Owens công tác một năm và được thay thế bằng Bob Fay. Quá tŕnh công tác của Fay gần gụi hơn với nhiệm vụ của NAD, Fay là "một người nhái có kinh nghiệm, gia nhập hải quân từ chiến tranh thế giới thứ hai”. Ông khởi đầu sự nghiệp là người nhái năm 1951 và sau đó công tác tại nhiều đơn vị đặc biệt, trong đó có "Đội phá huỷ dưới nước" -UDT-số 2.1 Kinh nhiệm phá huỷ dưới nước của Fay là một căn cứ quan trọng để chọn ông. Nhưng không may, ông là sĩ quan chiến tranh đặc biệt đầu tiên của hải quân bị giết ở Việt Nam. Ngày 28-10-1965 sáu tháng sau khi nhận chức chỉ huy của NAD, chiếc xe Jeep của Fay bị trúng đạn cối của Việt Cộng.2
    Fay được thay thế bằng người phó, William Hawkins. Theo một nhân viên của NAD lúc bấy giờ, Hawkins là "người dự bị và tôi không hiểu tại sao người ta lại chọn ông ấy v́ Hawkins là một sĩ quan hải quân đúng nghĩa: giầy đen và làm việc trên tầu nổi, không có bất kỳ kinh nghiệm nào, và trên thực tế, gần như đứng bên ngoài các hoạt động của NAD".3 Sau đó là Willard Olson, người cũng như Hawkins không được chuẩn bị cho chiến tranh đặc biệt. Phó của Olson là Robert Terry th́ giống Fay, có kinh nghiệm phá huỷ dưới nước. Sau khi nhiệm kỳ của Olson kết thúc, Terry được tạm thời bổ nhiệm là chỉ huy trưởng. Terry sau đó được thay bằng Norman Olson.
    Norman Olson là vị chỉ huy mà OP37 cần, nhưng lúc đó NAD đă hoạt động được 3 năm. Olson có kinh nghiệm chỉ đạo và thực hiện hoạt động phá huỷ dưới nước và từng là cán bộ tham mưu của một nhóm hỗ trợ hoạt động hải quân liên quan đến chiến tranh đặc biệt. Khi c̣n công tác ở nhóm này, Olson đă có quan hệ với NAD. ông nhớ lại rằng "lúc bấy giờ chúng tôi rất thất vọng về những ǵ đang diễn ra ở Đà Nẵng. Singlaub, chỉ huy của SOG muốn có ai đó để chấn chỉnh mọi thứ và tôi được đề cử".4
    Olson gắn thái độ không hài ḷng của Singlaub với việc thiếu kỷ luật trong nhân viên của NAD, rất nhiều người trong số đó không tuân thủ kỷ luật quân đội. Singlaub muốn chấm dứt t́nh trạng này và Olson đă làm đúng như vậy. Là một sĩ quan chuyên nghiệp, Olson hiểu rơ nhu cầu kỷ luật quân đội trong một tổ chức như NAD. Olson là người cứng rắn, đúng dạng chỉ huy mà OP37 cần đến.
    Cứ ngỡ rằng một khi đă t́m được đúng mẫu chỉ huy cho NAD, hệ thống nhân sự hải quân sẽ đề cử người thay thế Olson theo đúng mẫu như vậy. Nhưng ngược lại, người thay thế là Andrew Merget không hề có kiến thức về hoạt động đặc biệt. Merget ghi nhận "kinh nghiệm nghề nghiệp của tôi hoàn toàn ở hạm đội trên mặt biển, nhất là hoạt động của tàu khu trục. V́ thế tôi không liên quan ǵ đến hoạt động ngầm".5 Tiếp sau Merget là Charles Edson cũng từ hoạt động chính thống của hải quân.
    Các viên phó của NAD thường là sĩ quan lính thuỷ đánh bộ có cấp hàm thiếu tá hoặc trung tá. Không một người nào được cử giữ chức vụ này từng trải qua hoạt động bán vũ trang bí mật. Đó không phải là công việc của lính thuỷ đánh bộ. Tuy nhiên đại đa số đă trải qua công tác có tính chất tương tự. Trung tá Mick Trainor là một ví dụ. Những năm sau này ông lên được cấp trung tướng và sau khi nghỉ hưu, trở thành phóng viên quân sự của tờ Thời báo New York và thành viên Ban giám hiệu Trường chính phủ Kenedy thuộc đại học Harvard. Trainor cho biết đă từng "chỉ huy Đại đội thám báo cuối những năm 1950 và đầu 1960 tham gia chuyến tham quan trao đối với biệt kích Anh. Tôi đoán là hai yếu tố trên giúp tôi đủ tiêu chuẩn cho hoạt động đặc biệt... nhưng tôi chưa từng làm công việc ngầm".6
    Những người tiếp theo Trainor, như trung tá Wesley Rice năm 1966, cũng có quá tŕnh công tác tương tự. Rice "từng tham gia thám báo, đi tham quan trao đổi kinh nghiệm với lực lượng biệt kích của hải quân Anh. Tôi vừa rời cương vị chỉ huy đại đội thám báo. Tôi biết nhảy dù, sử dụng bộ đồ người nhái, biết kỹ thuật sơn cước t́m đường. Tôi đă từng trải qua các công việc đó. Có vẻ như chúng có những yếu tố tương tự như thám báo và kinh nghiệm hoạt động đặc biệt. Lúc bấy giờ chúng tôi không gọi nó là những hoạt động đặc biệt".7
    Với thực tế là các chỉ huy trưởng của NAD nh́n chung đều là sĩ quan hải quân chính thống, điều thiết yếu là người phó chỉ huy nghiệp vụ phải có kinh nghiệm thám báo và hoạt động biệt kích trong lực lượng thuỷ quân lục chiến. Những hoạt động này gần tương tự như hoạt động chống phá các mục tiêu ven biển ở miền Bắc. Trainor và Rice huấn luyện, cố vấn và hỗ trợ biệt kích Nam Việt Nam tiến hành các phi vụ đó. Để tiến hành huấn luyện, NAD có một đơn vị SEAL phối thuộc và nhân viên thám báo của lực lượng lính thuỷ đánh bộ. Nếu được giao đúng người Trainor và Rice sẽ giúp họ chuẩn bị sẵn sàng cho các điệp vụ biệt kích.
    OP37 c̣n tiếp nhận nhân viên hải quân để huấn luyện thuỷ thủ Nam Việt Nam và bảo dưỡng tàu. Các thuỷ thủ của PTF hướng dẫn đối tác "về chiến thuật, vũ khí, xác định phương hướng và các chức năng hoạt động của các tàu PTF".8 Một nhóm hải quân hướng dẫn công việc sửa chữa và bảo tŕ ba tàu Swift và bảy tàu Nasty.
    Nói tóm lại, chất lượng nhân sự của bộ phận cố vấn hải quân phối thuộc không đều. Tuy nhiên, một vấn đề nhân sự lớn hơn xuất hiện vào năm 1964 và tác động tiêu cực đến NAD trong suốt quá tŕnh tồn tại: việc thiếu động cơ và kỷ luật của người Việt Nam được chọn thực hiện hoạt động ngầm trên biển chống lại miền Bắc. Như chúng ta sẽ thấy, điều này có tác động xấu đến hiệu quả hoạt động của NAD.
    ____________________ __________________
    1, 2. T. L. Bosiljavac, “SEAL: Hoạt động của SEAL-UTD ở Việt Nam" (Buolder, Colo. Paladin Press, 1990) tr.40.
    3, 6. Phỏng vấn lịch sử với trung tướng Mick Trainor, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan từng phục vụ tại OP37", tr.39.
    4. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan từng phục vụ tại OP37", tr.127.
    5. Phỏng vấn lịch sử với Andrews Marget trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan từng phục vụ tại OP37”, tr. 200.
    7. Phỏng vấn lịch sử với tướng Weley Rice, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan từng phục vụ tại OP37", tr. 39.
    8. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG" tháng 7-1970, phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển" tr. 24, 13.
    Nhiệm vụ của hoạt động ngầm trên biển và quy định về can dự
    NAD được trao một danh mục đầy tham vọng những hoạt động chống phá các mục tiêu ven biển ở miền Bắc. Khu vực hoạt động của NAD là từ “vĩ tuyến 17 đến 21 và trong phạm vi 30 dặm tính từ bờ biển ra ngoài khơi".1 Vùng này ở phía nam các cơ sở cảng chính ở Hải Pḥng.2 Với những tàu hiện có, đó thường là chuyến đi vất vả.
    Sáu nhiệm vụ cụ thể được giao là "phục kích và quấy rối", bao gồm "phục kích, bắt giữ, thẩm vấn và phá huỷ các tầu hậu cần và thuyền có vũ trang của miền Bắc”; và "rải các tài liệu tâm lư chiến như tờ rơi tuyên truyền, máy thu thanh và gói quà".3
    Tuy nhiên, những quy định về can dự ngay từ đầu đă ḱm hăm việc thực hiện nhiệm vụ nêu trên. Yếu tố ngăn cản chính là việc cấm không cho nhân viên Mỹ tham gia hoạt động ngầm trên biển chống lại miền Bắc. Trong khi nhân viên thám báo của thuỷ quân lục chiến và SEAL của hải quân huấn luyện các đơn vị biệt kích người Nam Việt Nam hoạt động tập kích ven bờ, họ không được lănh đạo những người này trong hoạt động thực tế. Tương tự, nhân viên hải quân chịu trách nhiệm hướng dẫn thuỷ thủ vận hành tàu cũng không được cùng đi với họ. Điều này tác động nghiêm trọng đến hiệu quả của toàn bộ hoạt động, nhất là sau khi miền Bắc áp dụng các biện pháp đối phó với OP37. Thường là người Nam Việt Nam không ngang tầm với nhiệm vụ. Cần phải lănh đạo họ bằng ví dụ cụ thể, nhưng quy định về can dự không cho phép làm như vậy. Trong nhiều yếu tố dẫn đến thành công ít ỏi của OP39, yếu tố có ư nghĩa nhất là sự vắng mặt của nhân viên Mỹ trong điệp vụ cụ thể.
    Quy .định về can dự c̣n áp đặt hạn chế địa lư đối với địa bàn hoạt động của OP37. Theo hồ sơ, "do thiếu tàu hoạt động trên biển và khả năng hạn chế của PTF, ranh giới hoạt động thông thường ở miền Bắc là bên dưới vĩ tuyến 19o30’. Các điệp vụ phía trên vùng này chỉ được xem xét một cách ngoại lệ trên cơ sở tính hấp dẫn của mục tiêu”.4 Vượt qua ranh giới là một hành tŕnh dài và gian khổ, nhưng đó là nơi có nhiều mục tiêu quan trọng.
    Có sự giới hạn tương tự với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Các tàu của OP37 không được tiến gần quá "40 dặm để giảm nhẹ khả năng đụng độ với các tàu hoặc máy bay tuần tra của Trung Quốc".5 Cũng như các mặt hoạt động khác của chiến tranh Việt Nam, hoạt động trên biển của SOG bị ảnh hưởng bởi dư âm chiến tranh Triều Tiên. Nỗi sợ hăi Trung Quốc luôn luôn ám ảnh suy nghĩ của các nhà vạch chính sách. Việc hạn chế địa lư không những cản trở những ǵ mà OP37 có thể thực hiện mà c̣n làm cho các hoạt động đó dễ bị đoán trước và phát hiện.
    Cuối cùng, trong phần lớn hoạt động, lực lượng trên biển rất đơn độc. Chỉ những "điệp vụ có tính nguy hiểm cao nhất định bên trên vĩ tuyến 19o30' ... (mới có) sự hỗ trợ của không quân Hoa Kỳ". Tuy nhiên, nếu PTF bị lực lượng miền Bắc mạnh hơn tấn công, họ được phép liên hệ với tàu chiến hoặc máy bay Mỹ xin yểm trợ.6
    Cấu trúc của OP37 và quan hệ phối hợp
    Vào năm 1964, mô h́nh tổ chức của bộ phận cố vấn hải quân phối thuộc-NAD - có bảy pḥng, trong đó những thành tố chủ chốt là các pḥng chịu trách nhiệm hướng dẫn thuỷ thủ và huấn luyện biệt kích người Nam Việt Nam. Một bộ phận quan trọng nữa là Đội hỗ trợ cơ động-MST- có nhiệm vụ bảo dưỡng và sửa chữa tàu.7
    Đầu tiên hoạt động trên biển của SOG được dự kiến đặt dưới sự chỉ huy hỗn hợp trong đó nhân viên Mỹ và Nam Việt Nam cùng làm việc. Tuy nhiên sau đó hai ban chỉ huy riêng với nhiệm vụ khác nhau được h́nh thành. NAD vạch kế hoạch điệp vụ, huấn luyện thuỷ thủ và biệt kích và cung cấp nguồn lực. Đối tác Nam Việt Nam, cơ quan an ninh bờ biển (CSS) thuộc Tổng nha kỹ thuật chiến lược - bao gồm bộ chỉ huy, các bộ phận hỗ trợ, 55 toán biệt kích biển, 10 tàu tuần tra và các bộ phận bảo dưỡng- phối họp với OP37. Vai tṛ chủ yếu của CSS là tuyển lựa thuỷ thủ và các toán biệt kích.
    Thậm chí, sau khi hai ban chỉ huy được thành lập, người ta vẫn dự kiến hai bên tiếp tục cùng vạch kế hoạch: "chỉ huy trưởng, CSS... với sự cố vấn của sĩ quan phụ trách của NAD vạch kế hoạch và phối hợp thực hiện các điệp vụ và nhiệm vụ đặc biệt".8 Trong thực tế, điều này không được thực hiện cho đến khi Olson trở thành chỉ huy của NAD năm 1967. Trong 3 năm đầu tiên, CSS bị gạt ra khỏi quá tŕnh đó. Theo Jim Munson, phó chỉ huy phụ trách hoạt động của NAD, việc vạch kế hoạch điệp vụ của OP37 trong năm 1964 được tiến hành như sau: "tôi lập danh sách mục tiêu và giải tŕnh với Jack Owens, chỉ huy trưởng của NAD về mối liên hệ giữa mục tiêu trong danh sách với nhiệm vụ chung, sau đó bản danh sách được gửi tới Sài G̣n, rồi từ Sài G̣n sang Washington và tại đó nó có thể được duyệt hoặc bác bỏ. Phần lớn mục tiêu được duyệt. Đôi khi chúng tôi được giao thực hiện nhiệm vụ cụ thể ngoài kế hoạch".9
    Năm 1965, Trick Trainor thay Jim Munson. Khi được hỏi ông có cho CSS tham gia hoặc biết về thời gian thực hiện điệp vụ không, Trainor nói thẳng thừng. "tôi không làm như vậy". Tại sao? Trainor trả lời ngay: "tôi không tin ai khác ngoài người Mỹ và khi người Việt Nam chuẩn bị thực hiện công vụ, họ phải sống riêng biệt dưới sự giám sát của người Mỹ".10
    Sự thiếu tin cậy với đối tác Nam Việt Nam mang tính phổ biến trong tất cả các bộ phận của SOG chứ không riêng ǵ với OP37. Lư do được đưa ra luôn là vấn đề an ninh- Rằng CSS bị cơ quan t́nh báo đối phương xâm nhập.
    Không phải mọi sếp của NAD đồng t́nh với cách làm riêng rẽ trên, nhưng phần lớn làm như vậy. Norm Olson là một ngoại lệ. Mặc dù nhận thức được sự nguy hiểm, Olson điều chỉnh lại mối quan hệ. Olson nhận thấy rằng NAD nên hoạt động chung với CSS và cho biết trong thời gian ông chỉ huy "chúng tôi làm cho họ tham gia tích cực. Tôi quan hệ trực tiếp với đối tác tại CSS; tôi nói: xem này chúng ta có tổ chức song song, những ǵ anh và tôi cần làm là quản lư... v́ thế tôi cố làm cho mọi quyết định đều được công khai. Dĩ nhiên, có một số điều nhất định bạn không muốn san sẻ và họ cũng vậy. Nhưng chúng tôi có quan hệ chặt chẽ và chúng tôi cố gắng đảm bảo đối tác cũng là người tham gia từ cấp trên xuống đến cấp thực hiện".11 Đó là ư tưởng tốt nhưng liều lĩnh. Mặc dù Olson điều chỉnh lại quan hệ, vấn đề thiếu tin cậy vẫn c̣n đó.
    NAD c̣n có một số bận tâm khác ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ hợp tác giữa họ và CSS. Ví dụ: nhân viên của OP37 thường xuyên phê phán chất lượng thuỷ thủ cũng như số biệt kích người Việt được CSS tuyển lựa. Theo một báo cáo: "Trong giai đoạn triển khai và mở rộng chương tŕnh hoạt động ngầm trên biển, lănh đạo NAD thường xuyên nhắc đến vấn đề kỷ luật của người Việt" là không đáp ứng được theo tiêu chuẩn của Mỹ và cũng không được CSS khắc phục. Tỷ lệ trốn trại ở mức cao; có thái độ dửng dưng đối với việc mất mát hoặc hư hỏng tài sản. Việc đạt được mục tiêu quân sự chỉ là thứ yếu so với tiền thu nhập.12
    Đối với nhân viên NAD, điểm cuối cùng này là trợ lực chủ yếu giúp việc tiến hành hoạt động trên biển chống miền Bắc có hiệu quả. Rất nhiều thuỷ thủ và biệt kích tham gia hoạt động chỉ v́ tiền. Tiền lương ở đây được coi là cao so với tiêu chuẩn quân đội Nam Việt Nam. Tuy nhiên, các chỉ huy của OP37 chỉ coi đó là "một thứ kích thích không mong muốn" chứ không thể thay thế cho "động cơ yêu nước". Điều này gây tác hại cho thành công của nhiệm vụ, nhưng tiếc thay, như nêu trong báo cáo, SOG đă "không xây dựng được sự thay thế khả thi".13 Việc thiếu động cơ, trách nhiệm và kỷ luật liên tục gây tác hại cho hoạt động ngầm trên biển.
    Chỉ huy và kiểm soát.
    Việc phê duyệt điệp vụ của OP37 được Washington quản lư sát sao. Các quan chức cao cấp của chính quyền Johnson tin rằng trong tất cả các hoạt động ngầm trong Kế hoạch 34A, hoạt động trên biển có thể mang lại tác động ngay lớn nhất lên các nhà lănh đạo miền Bắc và có ít rủi ro nhất đối với Hoa Kỳ. Đặc biệt trong năm 1964, tương tự như các hoạt động khác của SOG, Nhà Trắng muốn giám sát chặt chẽ hoạt động trên biển v́ sự nhạy cảm chính trị gắn liền với các hoạt động đó. Ngày 8- 12-1964, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đề ra quy tŕnh phê duyệt các hoạt động trên biển như sơ đồ ở trang bên. Những quy định phiền hà này sau đó được áp dụng đối với các hoạt động khác của SOG.
    Khi đề nghị của SOG được gửi cho SACSA, nó được thể hiện dưới mẫu phù hợp để tiện xem xét và được một sĩ quan hành động trực tiếp chuyển lên tướng Earl Wheeler, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân từ 1964-1970, để xin ư kiến. Wheeler có thể phê duyệt hoặc bác bỏ, hoặc tuỳ theo loại hoạt động, chuyển cho các tham mưu trưởng xem xét. Sau đó bản đề nghị được chuyển bằng tay lên Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara hoặc thứ trưởng Cyrus Vance.
    Sau khi được Lầu Năm Góc chấp thuận, bản đề nghị lại được chuyển trực tiếp sang Bộ Ngoại giao. Tại đó, ngoại trưởng Dan Rusk hoặc thứ trưởng phụ trách các vấn đề chính trị cho ư kiến trực tiếp. Điểm tiếp theo là Cố vấn an ninh quốc gia Mcgeorge Bundy. Ngay cả khi Bundy đồng ư quá tŕnh phê duyệt có thể chưa kết thúc. Một số vấn đề c̣n được Bundy tŕnh lên Tổng thống Johnson. Trong những trường hợp này, sự đồng ư của Johnson mới kết thúc tiến tŕnh phê duyệt.
    Đó là quá tŕnh rất tốn công và năm 1965, tướng Wheeler t́m cách thu gọn lại. Cần phải thay đổi thế nào đó để việc thực hiện từng điệp vụ hoạt động trên biển đă được phê duyệt không phải xin ư kiến của toàn bộ hệ thống chỉ huy nữa. Thay vào đó, Wheeler muốn SOG có thể "đệ tŕnh cả gói 5 điệp vụ trong chương tŕnh 30 ngày để xin phê chuẩn của Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và cấp cao hơn”. Sự "phê chuẩn cả gói đồng thời là sự cho phép thực hiện các điệp vự”.14
    Năm 1967, thủ tục xin phép thực hiện điệp vụ được đơn giản hoá thêm một bước và bộ tư lệnh Thái B́nh Dương “được uỷ quyền phê duyệt cho thực hiện mọi điệp vụ mà trước đó nội dung đă được phê chuẩn ở cấp Washington". Mặc dù vậy, 12 giờ trước khi thực hiện một điệp vụ cụ thể, OP37 phải gửi điện báo cáo dự định thực hiện để "cho cơ quan cấp trên có cơ hội xem xét cuối cùng".15 Như vậy, việc rút gọn thủ tục mới chỉ là ngoài ŕa. Cho đến khi có chỉ thị chấm dứt hoạt động tháng 11-1968, hoạt động trên biển vẫn được giám sát chặt chẽ theo tŕnh tự trên. Điều này càng đúng hơn sau khi các nhà hoạch định chính sách mất dần sự quan tâm đối với việc sử dụng hoạt động ngầm trên biển chống miền Bắc.
    ____________________ __________________
    1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG" tháng 7-1970, phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển" tr. 24, 13.
    2, 3. Marolda và Fitzgerald, "Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", tr. 439, 21.
    4, 5. Marolda và Fitzgerald, Sđd, tr. 16.
    6, 7. Marolda và Fitzgerald, Sđd, tr. 17, 22.
    8. Marolda và Fitzgerald, Sđd, tr. 25.
    9. Phỏng vấn lịch sử với trung tá James Munson, trong "MACVSOG- phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan từng phục vụ tại OP37” tr.89.
    10. Phỏng vấn lịch sử với trung tướng Mick Trainor, trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan từng phục vụ tại OP37", tr. 48.
    11. Phỏng vấn lịch sử với đại uư Olson , trong "MACVSOG: phỏng vấn lịch sử với những sĩ quan từng phục vụ tại OP37” tr. 139.
    12. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, tháng 7-1970, phụ lục C phần "Hoạt động trên biển”, tr.48.
    13. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr.27.
    14, 15. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr.8, 10.

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P19




    HOẠT ĐỘNG VÀ TÁC ĐỘNG: 1964 - 1968

    Năm 1964, Washington tin rằng hoạt động ngầm trên biển sẽ có tác động ngay đối với giới lănh đạo Hà Nội và phát đi tín hiệu cho Hà Nội biết họ sẽ phải chịu thiệt hại thực sự nếu tiếp tục phát động cuộc chiến tranh ở miền Nam. Một khi Hà Nội hiểu được bức thông điệp, vấn đề c̣n lại chỉ là gia tăng sức ép đến độ lợi ích của việc hậu thuẫn Việt Cộng không c̣n tương xứng với phí tổn nữa. Đó là sự áp dụng phương pháp phân tích hiệu quả - chi phí vào tư duy chiến lược, một phương pháp tiếp cận trong các vấn đề quốc pḥng đang thịnh hành trong các nhà chiến lược dân sự chiếm số đông tại các cơ quan an ninh quốc gia của chính quyền Kenedy và Johnson. Đó là cách đánh giá hoàn toàn dựa trên kinh tế học về cách thức tác động lên hành vi của Hà Nội.
    Khởi đầu: 1964
    Chính quyền Johnson đang nóng ḷng trông đợi kết quả từ hoạt động ngầm trên biển. Ngày 1-2-1964, chính quyền phát động giai đoạn một. Chỉ hai tháng sau, vào tháng Tư, chính quyền đă tỏ thái độ thất vọng về "việc thiếu thành công của chương tŕnh hoạt động trên biển trong thời gian qua".1
    Washington không hài ḷng: không có dấu hiệu ǵ cho thấy miền Bắc đang bị đau đớn. Các quan chức cấp cao của Mỹ ở Sài G̣n cũng nhận thấy như vậy. Đại sứ Henry Cabot Lodge tuyên bố kế hoạch 34A "chắc chắn không có tác động đến Hà Nội". Đô đốc Ulyses S. Grant Sharp, tân Tư lệnh Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương nhất trí với Lodge.2 Những hoạt động phá hoại, phục kích, ngăn chặn và quấy rối đầu tiên do OP37 thực hiện có rất ít kết quả.
    Có nhiều lư do dẫn đến việc khởi đầu chậm chạp. Trước hết, năng lực trên biển mà CIA chuyển giao cho NAD rất hạn chế. Ngoài ra, mặc dù đă cam kết, các thiết bị quân sự và tàu bổ sung chưa có được ngay. Số nhân viên người Việt cần thiết cho số tàu được bổ sung và các toán biệt kích chưa được CSS chuyển giao. V́ vậy, SOG phải dựa vào số người làm thuê. Thêm nữa, rối loạn chính trị trong chính phủ Nam Việt Nam làm ngưng trệ các hoạt động quân sự, trong đó có việc gia tăng hoạt động ngầm chống lại miền Bắc. Cuối cùng, NAD không đủ tin tức t́nh báo về các mục tiêu ở miền Bắc. Ở đây có sự mất cân đối: các nguồn lực hiện có không đủ để hỗ trợ các mục tiêu chính sách.
    Sự hiếm hoi thành công như nêu trên lẽ ra phải được lường trước. Nhưng Washington tiếp tục chỉ thị cho SOG đẩy mạnh các phi vụ phá hoại các cơ sở ven biển của miền Bắc. Washington muốn các hoạt động phải có sức phá hoại lớn hơn về quy mô và cường độ và nhằm vào các mục tiêu có ư nghĩa trọng yếu hơn giai đoạn một.3 Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara tin rằng: "Có lợi thế thu được từ việc quấy phá miền Bắc... Do đó, bất chấp kết quả nghèo nàn, hoạt động trên biển của 34A cần được tiếp tục".4
    Trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12-1964, NAD thực hiện 32 điệp vụ - Các mục tiêu bao gồm trụ sở an ninh, cầu, doanh trại trên đảo, và trạm ra đa của miền Bắc. Đúng theo mong muốn của Washington, những điệp vụ này có "tính chất phá hoại" trong đó "có 12 vụ oanh kích", phá huỷ ba thuyền của đối phương. Nhiều vụ tập kích ven bờ được thực hiện nhằm vào "mục tiêu có tính thiết yếu cao hơn". Nhưng kết quả vẫn đáng thất vọng, khá nhất th́ cũng chỉ có tác động bên ngoài.
    Đó là quan điểm của trung tá Jim Munson, phó chỉ huy phụ trách hoạt động của NAD năm 1964. Munson chịu trách nhiệm vạch kế hoạch hoạt động trên biển và biết năng lực thực hiện của người Nam Việt Nam. Mặc dù đă thực hiện 32 điệp vụ, nhưng kết quả là không đáng kể, Munson giải thích "tôi thấy rằng phần lớn điệp vụ đó không được thực hiện đến cùng, họ bỏ dở giữa chừng rồi quay trở về. Những điệp vụ không bị bỏ dở th́ có hiệu quả phá hoại nhưng cũng chỉ gây cảm giác khó chịu như kim châm mà thôi".5
    Thành công chẳng đáng kể ǵ. Ví dụ, ngày 12-6, một khu kho bị phá huỷ, vào cuối tháng một chiếc cầu nhỏ bị nổ tung. Trong tháng 7, một trạm bơm ở đập nước bị đánh phá. Vào cuối tháng, 3 chiếc tàu đánh cá bị bắn ch́m. Liệu những vụ này có tác động ǵ đến ư chí của miền Bắc quyết tâm theo đuổi cuộc chiến ở miền Nam không? Munson không nghĩ như vậy: "Nó không đủ để làm cho người miền Bắc hiểu rằng họ không thể đưa bộ đội theo đường ṃn Hồ Chí Minh vào Nam mà không bị trừng phạt".6
    Ngoài "hoạt động phá hoại", NAD bắt đầu hỗ trợ chương tŕnh chiến tranh tâm lư của SOG thông qua việc "thả truyền đơn và rải gói quà… và qua cải huấn tù binh miền Bắc, sau đó trả họ về miền Bắc".7 Munson cho hay ông không biết hoạt động tâm lư chiến này thu được kết quả ǵ NAD chỉ là người chuyển các tài liệu tâm lư chiến. Hoạt động này thuộc về bộ phận khác, nên SOG và họ có trách nhiệm đánh giá thành công hay thất bại.
    Việc hoạt động trên biển được triển khai chậm chạp trong năm 1964 không ngăn được Washington đ̣i hỏi gia tăng hoạt động. Và yêu cầu này c̣n được nhắc lại sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ tháng 8-1964. Sự kiện này xoay quanh câu chuyện mà ảnh hưởng của nó đối với sự dính líu của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam vốn là đối tượng của nhiều cuộc điều tra. Không nghi ngờ ǵ nữa, hoạt động của SOG đă dẫn đến việc người Bắc Việt Nam tấn công tàu Madox ngày 4-8-1964.
    Tàu Madox là một phần của chiến dịch Desoto có mục đích sử dụng các biện pháp điện tử để đánh giá năng lực tuần tra ven biển, pḥng không, ra đa của miền Bắc. Trước đó, các tàu tuần tra thuộc Desoto thu thập các thông tin tương tự từ Trung Quốc từ tháng 3-1962. Tháng 1-1964, tướng Westmoneland chỉ thị "các chuyến tàu dự kiến vào tháng Hai được giao nhiệm vụ cung cấp thông tin t́nh báo cho chương tŕnh 34A".8 V́ vậy, các tàu chiến được giao kế hoạch tiến vào Vịnh Bắc Bộ trước ngày 1-8-1964 với nhiệm vụ chủ yếu là xác định hoạt động tuần tra ven biển của miền Bắc".9
    Vào cuối tháng 7-1964, Washington vẫn đang loay hoay với sự kém hiệu quả của hoạt động 34A. McNamara "phiền ḷng thấy rằng các vụ tấn công không được tăng lên tương xứng với sự cải thiện về năng lực". Một phần nguyên nhân là do sự cải thiện các biện pháp pḥng vệ và cảnh giới ven biển của miền Bắc. Ông yêu cầu xem xét phải chăng “pháo kích hoặc tấn công rốc két có thể là hoạt động lợi thế hơn".10 Vào mùa hè, rơ ràng là các vụ tập kích ven bờ của biệt kích"vừa không hiệu quả vừa nguy hiểm".11
    Ngày 30-7, bốn tàu PTF của 34A hướng về phía Bắc để pháo kích các mục tiêu ven biển. Theo lời kể của một nhân viên, "bốn chiếc tàu đến vị trí phía tây nam Ḥn Mê ở toạ độ 19o vĩ bắc và 106o16' kinh đông. Tại đây các tàu tách rời nhau. PTF3 và PTF6 hướng tới Ḥn Mê c̣n PTF5 và PTF2 hướng tới Ḥn Niêu”.12 Cả hai toán nă pháo vào mục tiêu trận địa pháo, vị trí quân sự, và trạm liên lạc trước khi quay trở về Nam bỏ lại các tàu Swatows của miền Bắc đuổi phía sau.
    Những cuộc tấn công này dường như có vai tṛ quan trọng trong quyết định tấn công tàu Madox của Hà Nội. Cũng có khả năng các tàu tuần tra Desoto dẫn đến quyết định đó. Vụ tấn công đă dẫn đến Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, mở màn cho sự leo thang can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, vụ tấn công không thực sự dẫn đến quyết định leo thang. Trước đó, chính quyền Johnson đă xác định đó là điều cần thiết. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ chỉ là cái cớ để tổng thống có thể làm một việc đă được quyết định. Tương tự, vụ tấn công tàu Madox của Hà Nội nên hiểu trong bối cảnh miền Bắc đă quyết định đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam tháng 12-1963. Lá bài đă được Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông chọn lựa.
    ____________________ ___________________
    1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr. 45.
    2, 4. Marolda và Fitzgerald "Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", tr. 341, 342.
    3. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu về MACVSOG", phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển", tr. 36.
    5, 6, 7. Phỏng vấn lịch sử với trung tá James Munson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACV SOG”, tr. 28.
    8, 9. Marolda và Fitzgerald "Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", tr.395, 398.
    10, 12. Marolda và Fitzgerald "Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", tr.407, 409.
    11. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACV - SOG , (7-1970) Phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển” tr. 37.
    Xây dựng và leo thang: 1965
    Tháng 12-1964, SOG được chỉ thị tăng cường hoạt động ngầm trên biển.1 Trong năm 1965, "có 170 điệp vụ xuất phát từ Đà Nẵng, với khoảng 358 ngày hoạt động".2 Đó là sự gia tăng đáng kể so với năm 1964. Các tàu của SOG bắn ch́m hoặc bị thương các tàu, thuyền của đối phương. Về hoạt động pháo kích của tàu Nasty và Swift, có 49 vụ được thực hiện nhằm vào các dạng mục tiêu tương tự như năm 1964. Có 16 vụ tập kích ven biển được thực hiện, và hoạt động trên biển đă "phá huỷ hơn 50 thuyền, làm bị thương 19 tàu đối phương, trong đó có 3 tàu tuần tra".3
    NAD tiếp tục hỗ trợ chương tŕnh chiến tranh tâm lư của SOG bằng việc bắt cóc ngư dân miền Bắc đưa đến đảo Thiên Đường - một phần trong hoạt động Gươm thiêng ái quốc. Trong năm 1965, 126 công dân miền Bắc được đưa đến đảo này. NAD c̣n thúc đẩy nhiệm vụ tâm lư chiến của SOG bằng biện pháp khác như phân phối gói quà, đài thu thanh cố định sóng, và truyền đơn. Trong năm 1965, "1.000 đài thu thanh, 28.742 gói quà được chuyển đi, và 1.124.600 truyền đơn được rải bằng đạn cối 81".4
    Các hoạt động này có hiệu quả như thế nào? Theo một đánh giá năm 1965, "ngoài việc quấy phá sự đi lại của tàu bè miền Bắc và gây tác động tâm lư như mong muốn đối với dân chúng sống dọc bờ biển, các hoạt động đă buộc chính phủ miền Bắc bổ sung thêm nguồn lực để bảo vệ bờ biển".5 MACV cho rằng chương tŕnh hoạt động trên biển là "có hiệu quả nhất trong mọi chương tŕnh của 34A... và xét về thành công th́ cũng lớn nhất". Hoạt động này cũng được đánh giá là thành công về phương diện thu thập tin tức t́nh báo. Các hoạt động trên biển là "nguồn thông tin chủ yếu về hoạt động bên trong Việt Nam Dân chủ Cộng hoà". Cuối cùng, MACV nh́n thấy một tác động quan trọng kéo dài, đó là "gây ra t́nh trạng báo động kéo dài của lực lượng bảo vệ bảo vệ bờ biển miền Bắc và tạo ra mối lo lắng thường trực là các vụ tấn công có thể diễn ra ở bất kỳ nơi nào dọc theo bờ biển bên trên vĩ tuyến 20".6 Tuy nhiên việc tăng cường bảo vệ bờ biển của miền Bắc đă tác động đến các vụ tập kích ven bờ của OP37. Đến cuối năm 1965, rất khó thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động đó và tỉ lệ thành công tụt xuống.
    Mick Trainor, phó chỉ huy trưởng phụ trách hoạt động của NAD, cũng cho rằng hoạt động trên biển của SOG gây khó chịu cho miền Bắc, nhất là việc chặn đánh thuyền và tàu tuần tra của đối phương. "Chúng phải có hiệu quả, v́ vào năm 1966, họ dùng những thuyền có chứa thuốc nổ lao vào tàu của SOG. Nếu họ làm như vậy, rơ ràng họ rất bực tức về các hoạt động này". Có một lần, miền Bắc thậm chí c̣n tấn công tàu của SOG bằng máy bay. Đó cũng là một dấu hiệu về tác động của NAD đối với Hà Nội trong năm 1966 mà Trainor cho rằng v́ bị thiệt hại nên Hà Nội phải đưa các tàu tuần tra Swatow lên vùng biển an toàn ở phía Bắc. "Chúng tôi tốt hơn Swatow", Trainor nhận xét như vậy.7
    Trainor ít lạc quan hơn về hoạt động pháo kích và nghi ngờ về tṛ lừa Gươm thiêng ái quốc. "Những người (ngư dân) được cho biết là họ được đưa lên bờ, đi đến vùng núi... tới căn cứ của SSPL... Nào, tôi là người ven biển và số ngư dân đó không tin vào điều đó. Bạn có thể ngửi thấy biển, bạn biết đấy, nếu bạn ở gần biển và số người đó là ngư dân. Họ làm ǵ? Họ cứ nghe theo nhưng không tin ... Tôi cho rằng việc này xói ṃn một cách cơ bản tṛ chơi đó".8 Trainor khẳng định, vào cuối 1965, việc tập kích lên bờ mang lại thành công rất nhỏ nhoi. Về việc bắt giữ cán bộ miền Bắc, ông không nhớ có trường hợp nào các toán biệt kích bắt được "ai đó có ư nghĩa".9
    Nói tóm lại, 1965 được coi là năm tốt lành với hoạt động trên biển của SOG. MACV tin là chúng đă tạo ra sự tác động đối với Hà Nội. Với những ǵ đă làm, điều này là đúng sự thật. Nhưng trong khi hoạt động trên biển đă buộc Hà Nội phải chia sẻ nguồn lực để củng cố an ninh ven biển, chiến tranh ở miền Nam không giảm cường độ.
    ____________________ _________________
    1. Marolda và Fitzgerald "Hải quân Hoa Kỳ và cuộc xung đột Việt Nam", tr.38.
    2, 3, 4. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", (7-1970) Phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển”, tr.38, 39.
    5, 6. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", (7-1970) Phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển", tr.39, 42.
    7, 8, 9. Phỏng vấn lịch sử với trung tướng Mick Trainor, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG”, tr.51-52, 57, 54. 56, 44.
    Hà Nội phản công: 1966.
    Trong năm 1966, NAD thực hiện "126 điệp vụ chính và 56 điệp vụ phụ", gần tương đương như 1965.1 Nhưng phạm vi hoạt động thu hẹp đáng kể. “Hoạt động có hiệu quả nhất được tiến hành trên biển theo Kế hoạch 34A là điệp vụ ngăn chặn trên biển của PTF - hoạt động chủ yếu chống tàu thuyền miền Bắc ở vùng biển ven bờ. Các điệp vụ này bắt giữ 353 người, tất cả đều được đưa đến đảo Thiên Đường trong đó 352 người được đưa trở về. Thêm vào đó "2.000.000 truyền đơn được rải bằng súng cối, 60.000 gói quà được phân phát" và "2.600 đài thu thanh được đưa ra miền Bắc". Cuối cùng "86 tàu thuyền bị phá huỷ và 16... bị hư hại".2
    Các hoạt động trực tiếp đánh vào mục tiêu, pháo kích và tập kích, đều có kết quả nhỏ bé trong năm 1966, một phần v́ Hà Nội tiếp tục tăng cường pḥng thủ ven biển. Do vậy, khi các tàu của OP37 cố tiến hành pháo kích, chúng thường gặp phải sự phản kích bằng pháo đặt trên bờ và tàu nổi. Trong khi việc pḥng thủ bờ biển được cải thiện gây khó khăn cho điệp vụ pháo kích, hoạt động tập kích của thám báo - biệt kích c̣n khó khăn hơn. Con số tự nó nói lên tất cả "trong 34 vụ tập kích thực hiện trong năm 1966, chỉ có 4 vụ được coi là thành công".3
    Do những diễn biến này, OP37 giảm quy mô hoạt động trên biển. Điều này tạo ra khó khăn trong việc duy tŕ các toán biệt kích người Việt. Việc cắt giảm hoạt động "chống các mục tiêu ven biển miền Bắc tạo nên môi trường huấn luyện không phù hợp với nhân viên các toán hành động".4 Một nhân viên biệt kích không cần phải thực hiện thành công một vụ tập kích mà vẫn nhận được tiền thưởng. Thậm chí, anh ta c̣n không cần phải đặt chân lên lănh thổ miền Bắc. Tiền thưởng được phát khi họ rời Đà Nẵng hướng về phía Bắc trong điệp vụ tập kích, khi con tàu dừng nửa chừng với toàn bộ toán biệt kích trên boong, tiền thưởng đă hết.
    SOG đề nghị và được chấp thuận cho triển khai các toán thám báo thực hiện hoạt động ở miền Nam, chống "các cơ sở của- hoặc nghi ngờ của Việt Cộng cũng như các mục tiêu quân sự của quân đội miền Bắc và Việt Cộng dọc theo bờ biển của vùng 1 chiến thuật. Các toán này có cố vấn Mỹ đi kèm".5 Việc này cải thiện tỷ lệ thành công của các toán biệt kích v́ nhân viên thám báo của thuỷ quân lục chiến hoặc SEAL có thể lănh đạo và hỗ trợ cho họ. Tuy nhiên hoạt động này không mấy liên quan đến mục tiêu của Kế hoạch 34A.
    Yếu tố thứ hai đóng góp vào hồ sơ ảm đạm của OP37 trong năm 1966 là sự miễn cưỡng của thuyền viên và biệt kích không muốn đụng độ với đối phương. Trainor nhớ lại: "Nếu tôi sẽ xuống âm phủ th́ tại sao phải lên bờ?... Tôi hiểu tại sao không đưa nhân viên Mỹ ra miền Bắc, nhưng với những toán này, họ sẽ không làm ǵ cả trừ khi có mặt người Mỹ hoặc có sự lănh đạo cứng rắn trong toán - và đây không phải là một phần của văn hoá của họ. V́ thế, nếu không có người Mỹ, khả năng lên bờ là cả một vấn đề... các toán sẽ không lên. Họ rất giỏi biện hộ khi không làm được việc ǵ đó".6
    Trainor đă chỉ ra gót chân Asin của hoạt động trên biển. Không có sự lănh đạo và yểm trợ chiến đấu của Mỹ, các toán Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tập kích và pháo kích gần bờ một cách miễn cưỡng. Tháng 8-1966, trung tá Pat Carothers thay Trainor. Carothers hiểu biết sâu sắc về hoạt động biệt kích và thám báo. Trước khi sang Việt Nam, Carathors cho biết ḿnh "đă có 5 năm kinh nghiệm hoạt động thám báo. Tôi công tác ở lực lượng thám báo số 1, giữ cương vị trung đội trưởng - sau đó là sĩ quan hành động... tôi là sĩ quan chỉ huy lực lượng thám báo số hai trong hai năm rưỡi... tôi được cử đến trung đoàn dù số 1 của quân lê dương Pháp ở Corsica. Đó chính là trung đoàn bị De Ganlle giải thể hai tháng sau v́ nổi loạn ở Algeria. Tôi cũng công tác một thời gian tại lực lượng biệt kích đổ bộ của hải quân Pháp ở Toulous".7
    Với quá khứ như vậy, tân phó chỉ huy trưởng không cần nhiều thời gian để hiểu được tại sao kết quả của các hoạt động chống mục tiêu ven biển miền Bắc lại ít ỏi như vậy. Carothers cho rằng "tôi không đổ lỗi cho các toán hành động... trước khi đến bờ biển, họ biết là điệp vụ sẽ không thành công và quay trở lại căn cứ. Thuỷ thủ và thuyền trưởng mới là người ra quyết định”.8 Góp phần vào sự trầm lắng này là việc trong năm 1966, năm chiếc PTF bị đối phương phá huỷ, làm cho thuyền trưởng và thuỷ thủ càng ngại ngần về các phi vụ này.
    Tháng 3-1966, Bob Terry đến nhận chức sếp trưởng OP37. Phần lớn kinh nghiệm của ông là hoạt động phá huỷ dưới nước và các đơn vị SEAL. Ông cho biết "đă tham gia vào một số nhiệm vụ tương tự như hoạt động trên biển của SOG" nhưng dưới dạng không bí mật. Sự khác biệt duy nhất giữa công khai và bí mật là ở tính chất có thể phủ nhận được của hoạt động.9 Terry đánh giá thấp hoạt động của các toán biệt kích người Việt. "Chúng tôi đă thử nhiều cách nhưng không thành công. Hoạt động của các toán khả quan nhất cũng chỉ là quấy nhiễu. Các hoạt động tập kích lên bờ, đụng độ trực tiếp với lực lượng đối phương hoặc bắt cóc cũng không có nhiều thành công".10 Tại sao? Terry giải thích: V́ miền Bắc “có cơ quan an ninh liên thông rất hữu hiệu; một khuôn mặt lạ sẽ không tồn tại được lâu”. Các toán biệt kích người Việt biết việc này, do vậy "không hào hứng đi ra ngoài đó".11
    Bất kể lư do là tại thuỷ thủ đoàn hay các toán biệt kích hoặc kết hợp cả hai, kết quả là như nhau: hoạt động chống phá các mục tiêu ven biển ở miền Bắc thu rất ít thành công trong năm 1966.
    ____________________ _________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với trung tướng Mick Trainor, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG”, tr.51-52, 57, 54. 56, 44.
    2. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1966", Phụ lục M, tr.32.
    3, 4. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", (7-1970) Phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển", tr.46, 44.
    5. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd. tr. 44.
    6. Phỏng vấn lịch sử với trung tướng Mick Trainor, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr.47.
    7, 8. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Pat Carothers, trong "MACVSOC: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACV SOG", tr. 104, 98.
    9. Phỏng vấn lịch sử Bob Terry, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr. 104.
    10, 11. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Pat Carothers, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr.106-107.
    Thu hẹp hơn nữa nhiệm vụ hoạt động trên biển: 1967 -1968
    Hoạt động trên biển trong năm 1967 tiếp tục bị thu hẹp, hầu như chỉ c̣n tập trung vào "ngăn chặn tàu thuyền, nhất là thuyền đánh cá và bắt giam một lượng lớn ngư dân để khai thác tin t́nh báo và chiến tranh tâm lư".1 Tổng số "174 điệp vụ được tiến hành, trong đó 125 được hoàn thành, 19 bị bỏ dở do thời tiết và 7 do thương vong hoặc hỏng phương tiện".2 Trong những vụ chặn bắt này, 328 người Bắc Việt Nam bị bắt giữ và chuyển đến đảo Thiên Đường. NAD vẫn tiếp tục rải tài liệu tâm lư chiến.
    Mục tiêu chủ yếu trong năm 1967 của hoạt động trên biển là hỗ trợ chương tŕnh chiến tranh tâm lư của SOG. Mục tiêu ban đầu: phá huỷ và quấy rối các cơ sở quan trọng dọc theo bờ biển miền Bắc để bắn tín hiệu cho Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông biết rằng việc thúc đẩy chiến tranh ở miền Nam sẽ phải trả giá cao - được coi là phi thực tế. Vào năm 1967, mục tiêu trên không khác ǵ một giấc mơ viển vông.
    Ngoài việc hỗ trợ chiến tranh tâm lư, hoạt động ngăn chặn đă "phá huỷ 102 tàu thuyền đối phương", phần lớn trong số đó chỉ là tàu đánh cá. Tuy nhiên, quy định về can dự không có sự phân biệt đối với các tàu thuyền của miền Bắc. Bất kỳ tàu thuyền nào, kích thước ra sao, đều là mục tiêu bắn ch́m của các tàu Nasty hoặc Swift. Điểu này thật phản tác dụng, khi mà số ngư dân trên tàu thuyền đó lại bị bắt giữ và cải huấn. Cơ hội tuyên truyền thành công số ngư dân này bị giảm sút nhanh chóng khi mà nguồn sống của họ - con thuyền đánh cá - bị bắn ch́m.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 31
    Last Post: 14-10-2012, 06:13 AM
  2. Replies: 2
    Last Post: 18-05-2012, 08:17 PM
  3. Replies: 10
    Last Post: 01-10-2011, 09:55 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 14-02-2011, 10:26 PM
  5. Replies: 6
    Last Post: 12-09-2010, 02:55 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •