Page 22 of 31 FirstFirst ... 12181920212223242526 ... LastLast
Results 211 to 220 of 304

Thread: Chơi chữ, nói lái và những vần thơ bất hủ trong văn chương Việt Nam.

  1. #211
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    Những Bài Thơ T́nh của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương




    Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương 1916-1976: Nhà Thơ Lớn của Dân tộc Việt Nam - Nguời Chiến Sĩ Liên Minh Phục Quốc Đệ Tam Cộng Hoà Việt Nam 1975-1976.


    I Trích lời nhận xét và bài viết của Linh Sơn ở Quốc Nội :


    "Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương đến với cuộc đời này như một trích tiên bị đày ải. Trong phong trào Thơ mới, tài năng của Vũ Hoàng Chương không hề thua kém những cái tên được tung hê đến đỉnh điểm như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…nhưng ông lại bị nh́n nhận một cách kỳ thị, thiếu ṣng phẳng. Tiếc một nỗi người ta đánh giá một thi sĩ, một hồn thơ lại không đứng trên tinh thần học thuật và nhân văn tiến bộ mà dựa vào quan điểm xă hội giáo điều, xơ cứng, phi văn học. Điều đó có khác ǵ những anh hàng cá hàng rau vừa đếm tiền vừa b́nh luận Đường thi. Người ta chê bai cái say hào sảng trong thơ ông để tung hê loại thơ ca ngợi phân bón với thuốc trừ sâu (thâm ư giễu nhại trong truyện ngắn Chú Hoạt tôi của Nguyễn Huy Thiệp). Người ta vả vào mặt một thi sĩ đang phiêu diêu trên bầu trời nhân văn tuyệt cùng tự do để lôi cổ ông vào tù quét rác. Không cần biện thuyết, chả phải thanh minh, Vũ Hoàng Chương lặng lẽ ra đi trong uất ức bỏ lại sau lưng một di sản tinh thần đáng ngưỡng mộ. Những bến bờ siêu thực không giới hạn chính là h́nh ảnh phóng chiếu của một tâm hồn truy cầu tự do tuyệt cùng, tuyệt đích làm say đắm ḷng người. Tự nó sẽ xây dựng cho ông một thánh đường thi ca diễm lệ mà hàng triệu con người thế hệ sau tự nguyện làm tín đồ. Những kẻ thóa mạ ông nếu c̣n ḷng tự trọng sẽ sám hối âm thầm trong nhiều trang di cảo…"

    II -Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương những bài Thơ t́nh tuyệt tác :

    Vũ Hoàng Chương

    Thơ ông đầy men rượu trong thi phẩm đầu tay: Thơ Say. Ḿnh không có kinh nghiệm say th́ cảm không hết được ư thơ của ông đâu. Dầu vậy, cái men say ấy vẫn cứ lan sang ḷng ḿnh như thường.



    Ông là một thi sĩ nghiện rượu. Người ta nói thế. Mà tôi cũng biết thế khi tôi đến nhà thi sĩ Mộng Tuyết (Thất Tiểu Muội), một người bạn thơ của ông. Có một thời gia đ́nh ông tá túc nơi nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Không nhớ khoảng thời gian nào, sau năm 1975; lúc đó ông ở tù ra, một thời gian ngắn rồi mất. Tôi không được gặp ông. Chỉ nghe nữ sĩ Mộng Tuyết nói, kể về ông, thương tiếc một con người tài hoa, không làm sao sống thích nghi với xă hội mới. Theo nữ sĩ Mộng Tuyết kể sơ, ông bị công an kêu lên kêu xuống tra vấn hạch hỏi liên tục; c̣n bị giam nhốt để "cải tạo" . Sau ông bệnh quá, công an phải tha về, sống những ngày cuối cùng với vợ con rồi mất tại Sài-g̣n.



    Người ta nhớ ông nhất ở hai câu:

    Em ơi lửa tắt b́nh khô rượu

    Đời vắng em rồi say với ai!

    Bốn chữ đầu của câu sau được ông lấy làm tựa đề cho bài thơ dài say tiễn cuộc t́nh chia xa.



    Đời vắng em rồi

    Sóng dậy đ́u hiu biển dấy sầu

    Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu

    Thôi rồi - tay nắm tay lần cuối

    Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.

    Trai lỡ phong vân gái lỡ t́nh

    Này đêm tri ngộ xót điêu linh

    Niềm quê sực thức ḷng quan ải

    Giây phút dừng chân cuộc viễn tŕnh

    Tóc xơa tơ vàng nệm gối nhung

    Đây chiều hương ngát lả hoa dung

    Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo

    Mơ kiếp nào xưa đă vợ chồng.

    Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay

    Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy

    Nắng mưa đă trải t́nh nhân thế

    Lưu lạc sầu chung một hướng say

    Gặp gỡ chừng như truyện Liêu Trai

    Ra đi chẳng hứa một ngày mai

    Em ơi lửa tắt b́nh khô rượu

    Đời vắng em rồi say với ai

    Phương Âu mờ mịt lối quê nàng

    Trăng nước âm thầm vạn dặm tang

    Ghé bến nào đây người hải ngoại

    Chiều sương mặt bể có mơ màng.

    Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không

    Mà đây ḷng trắng một mùa đông

    Tương tư nối đuốc thâu canh đợi

    Thoảng gió trà mi động mấy bông.



    Người t́nh đi xa. Tận trời Âu. Cách chia nhau mà chẳng hứa được điều ǵ chắc chắn. Ngồi đây chuốc rượu mà uống thâu canh. Nghĩ tưởng đoạn đường dài em đi. Phương ấy trời đă rơi tuyết chưa mà sao nơi đây, ḷng tê dại như phủ cả một màu tang. Màu trắng ở đây là màu trắng của tang, của niềm tê tái giá băng, của niềm cô đơn vô tận.



    Đời vắng em rồi, anh vẫn say. Có em th́ uống say với em cuộc t́nh nồng. Vắng em th́ say nỗi niềm cô độc. Say với những cốc rượu đắng, giết cả tâm hồn. Cố t́nh say như thế để mà quên, để nén niềm đau cứ chực dâng trào. Chỉ khi hết say rồi mới nằm khóc được t́nh mộng ban đầu.



    Một phút ngừng say

    Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu

    Phai say nằm khóc mộng ban đầu

    Bước chân song sóng ṿng tay mở

    Dạo ấy người ơi xa lắm đâu

    Chớm nụ tiếc cho t́nh quá ngát

    Mà thương trời bể quá cao sâu

    Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí

    Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu.



    Một thi sĩ chung t́nh đến thế! Suốt một đời chỉ sống với thơ, rượu, và t́nh yêu ban đầu. Cuộc t́nh ấy không bao giờ thành, dù ông đă chờ đợi, ước mơ... với bao nhiêu năm tháng mỏi ṃn trong men say và nghiện ngập.



    Đă có lúc ông t́m quên trong những quán rượu, uống say, nhảy múa với những vũ nữ, lảo đảo quay cuồng theo điệu nhạc... vừa cám cảnh thân phận nhạt nḥa hương phấn của người, vừa đau xót cuộc t́nh không phai mà không thành của ḿnh. Dù nhảy nhót, uống say thâu đêm suốt sáng, cả một "thành sầu" như tảng núi, vẫn kiên cố nằm ́ trong ḷng, chẳng làm sao phá vỡ đi được. Niềm đau, nỗi sầu vẫn c̣n đó. Ông nói với người vũ nữ, mà cũng là nói với ông: sầu này không thể nào phai đi được.



    Đây là bài luân vũ tuyệt nhất của một gă t́nh si thở tràn hơi rượu:



    Say Đi Em

    Khúc nhạc hồng êm ái

    Điệu kèn biếc quay cuồng

    Một trời phấn hương

    Đôi người gió sương

    Đầu xanh lận đận, cùng xót thương, càng nhớ thương

    Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, t́nh nay sao héo?

    Hồn ngă lâu rồi nhưng chân c̣n dẻo

    Ḷng trôi nghiêng mà bước vẫn du dương

    Ḷng thiêng tràn hết yêu đương

    Bước chân c̣n nhịp nghê thường lẳng lơ...

    Ánh đèn tha thướt

    Lưng mềm năo nuột dáng tơ

    Hàng chân lả lướt

    Đê mê hồn gửi cánh tay hờ

    Âm ba gờn gợn nhỏ

    Ánh sáng phai nhạt dần

    Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân

    Lui đôi vai, tiến đôi chân

    Riết đôi tay, ngả đôi chân

    Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió

    Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ

    Hăy thêm say c̣n đó rượu chờ ta

    Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa

    Tay mềm mại bước chân c̣n chưa chuếnh choáng

    Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời phóng đăng

    C̣n chưa say, hồn khát vẫn thèm men

    Say đi em, say đi em

    Say cho lơi lả ánh đèn

    Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt

    Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết

    Ta quá say rồi

    Sắc ngă màu trôi

    Gian pḥng không đứng vững

    Có ai gh́ hư ảnh sát kề môi?

    Chân ră rời

    Quay cuồng chi được nữa

    Gối mỏi gần rơi

    Trong men cháy giác quan vừa bén lửa

    Say không c̣n biết chi đời

    Nhưng em ơi

    Đất trời nghiêng ngửa

    Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ

    Đất trời nghiêng ngửa

    Thành sầu không sụp đổ, em ơi!



    Đời ông là cả một chuỗi đợi chờ. Đợi chờ cái điều không thể xảy ra, nhưng vẫn cứ đợi, vẫn cứ chờ. Đôi lúc nản ḷng, gần như không c̣n tin tưởng nơi người t́nh nữa, như trong bài "Cánh Buồm Trắng"; ở đó ta thấy sự mỏi ṃn, gần như cạn kiệt của ông, và lời thơ đă có giọng phiền trách:



    .......

    Em ơi ta trằn trọc

    Khắc khoải đă bao đêm

    Nhớ mong rồi ngờ vực

    Đến cả tấm t́nh em

    V́ những điều mơ ước

    Của tuổi trẻ yêu đời

    Thắm tươi như ánh nắng

    Đă phai rồi em ơi,

    Giấc uyên ương liền cánh

    Mộng trăm năm lứa đôi

    Êm đềm như tiếng hát

    Đă tan rồi em ơi

    Trong lo buồn chán ngán

    Trong hoàn cảnh éo le

    Tuy ta c̣n nhận rơ

    Ḷng em yêu xưa kia

    Nhưng mai ngày bóng tối

    Thẫm măi trên đường đi

    Biết đâu c̣n có nữa

    Ḷng em yêu xưa kia

    Ta đâu c̣n giữ được

    Ḷng em yêu như xưa

    Em ơi cánh buồm trắng

    Sắp biến trong đêm mờ.



    Ông ví cuộc t́nh mà ông chờ đợi như cánh buồm trắng ngoài dặm khơi. Mỗi ngày ông quan sát, chờ đợi cánh buồm ấy. Cánh buồm ấy không bao giờ quay về bến nhưng nó luôn thoáng hiện lúc gần lúc xa, nhấp nhô theo sóng nước; dầu đă có những lúc nó khuất dạng ngoài dặm xa, ông vẫn ôm hy vọng là nó không bao giờ mất, và đinh ninh một ngày nào đó nó sẽ quay lại. Chỉ khi nản ḷng lắm ông mới bộc lộ vẻ lo sợ về viễn ảnh là cánh buồm trắng sẽ thực sự "biến trong đêm mờ."



    Nhưng dầu thế nào th́ ông vẫn tiếp tục chờ đợi, chờ đợi. Bao năm pḥng lạnh chờ đợi người t́nh đầu. Không thấy ai ghé thăm, ngoại trừ ánh trăng. May mà hăy c̣n trăng, hăy c̣n thơ. Một đời t́nh, một đời thơ. Một cuộc t́nh thật sầu thảm mà cũng vừa bi tráng. Bi tráng nơi sức chịu đựng kiên tŕ của một người lặng lẽ chờ đợi, gào thét chờ đợi, say khướt chờ đợi... mà không thấy sự đáp trả nào trong suốt ba mươi năm:



    Chờ đợi hoài công

    Ta đợi em từ ba mươi năm

    Uống hoa phong nhụy hoài trăng rằm

    Heo may chớm đă lên mùa gió

    Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm

    Cúc tả tơi vàng mộng xác xơ

    Hiên sương ngơ lá vẫn trông chờ

    Đêm dài quạnh hé đôi song lớn

    Nguyệt đọng ṿng tay úa giấc mơ

    Ngai trống vàng son lợt sắc rồi

    Ḷng ta Hoàng hậu chẳng về ngôi

    Hồ ly không hiện người không đến

    Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi

    Hiu hắt t́nh trai một kiếp suông

    Mênh mông nệm gối rét căn buồng

    Lệ sa bạch lạp ngàn đêm trắng

    Thơ vút sầu say rượu nhập cuồng

    Đă mấy canh khuya nụ ngát nhài

    Kết chưa thành mộng ư Liêu Trai

    Lung linh nguyệt thấm vàng trang sách

    Đợi chẳng bừng sen nhịp gót ai

    Thôi thế hoài thơm tuổi dịu hiền

    Cánh khô mầm lụi trót hoa niên

    Chương đài, ca quán, ôi hồng liễu

    Nửa cuộc trần gian lợm yến diên

    Khắp đă nghe t́m mỏi núi sông

    Đâu vương vó ngựa, gió mui hồng?

    Gió sương giờ vẫn buồng đây lạnh?
    Em hỡi! Phương nào em có không?



    Phải ba mươi năm sau, ông mới biết là hoài công. Sự chờ đợi chẳng kết quả ǵ. Nhưng lời thơ, và t́nh yêu của ông th́ bất tử.



    Đó là một vài bài thời tiền chiến. Về sau, thơ ông không say men rượu nữa, mà say trong lẽ huyền vi, trong Thiền. Những bài thơ rất siêu thoát, xuất thần. Đây bài:



    Nguyện Cầu

    Ta c̣n để lại ǵ không?

    Ḱa non đá lở, này sông cát bồi.

    Lang thang từ độ luân hồi

    U minh nẻo trước xa xôi dặm về.



    Trông ra bến hoặc bờ mê

    Ngh́n thu nửa chớp, bốn bề một phương

    Ta van cát bụi bên đường

    Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.



    Để ta tṛn một kiếp say

    Cao xanh liều một cánh tay níu trời.

    Nói chi thua được với đời

    Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.



    Tâm hương đốt nén linh sầu

    Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!

    Đêm nào ta trở về ngôi

    Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.



    Một phen đă nín cung đàn

    Nghĩ chi c̣n mất hơi tàn thanh âm.



    Đôi khi thơ ông u uất nỗi sầu chung của đất nước và thời thế, muốn vươn đến những cơi cao rộng xa xăm khác. Mấy mươi năm, số phận nhỏ nhoi rồi bệnh tật của ông, không vươn khỏi những biến động của xă hội, cũng như gông cùm xiềng xích của chế độ cộng sản, nhưng thơ ông đă từ lâu, và măi măi, như cánh phượng hoàng (ư của Viên Linh), chạm đến cái chỗ chóp đỉnh cao vời của nền thi ca Việt-nam. Ở nơi chốn ấy, không ai trói buộc ông được. Một ḿnh tung cánh giữa trời cao rộng.



    Đây là một vài bài khác nữa của ông, trích từ Chiêu Niệm Văn Chương - Vũ Hoàng Chương của Viên Linh:



    Phương Xa

    Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng

    Xô về Đông hay giạt tới phương Đoài.

    Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng

    Ḷng cô đơn cay đắng họa dần vơi.



    Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa

    Bị quê hương ruồng bỏ giống ṇi khinh.

    Bể vô tận sá ǵ phương hướng nữa

    Thuyền ơi thuyền theo gió hăy lênh đênh.



    Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ

    Một đôi người u uất nỗi trơ vơ.

    Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị

    Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.



    Men đă ngấm, bọn ta chờ nắng tắt

    Treo buồm cao, cũng cao tiếng ḥ khoan

    Gió đă nổi, nhịp trăng chiều hiu hắt

    Thuyền ơi thuyền, theo gió hăy cho ngoan.





    Mười Hai Tháng Sáu

    Trăng của nhà ai trăng một phương

    Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường

    Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ

    Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương.



    Là thế là thôi là thế đó

    Mười năm thôi thế mộng tan tành

    Mười năm trăng cũ ai nguyện ước

    Tố của Hoàng ơi Tố của Anh.



    Tháng sáu mười hai - từ đấy nhé

    Chung đôi - từ đấy nhé ĺa đôi.

    Em xa lạ quá đâu c̣n phải

    Tố của Hoàng xưa Tố của tôi.



    Men khói đêm nay sầu dựng mộ

    Bia đề tháng sáu ghi mười hai.

    T́nh ta ta tiếc - cuồng - ta khóc

    Tố của Hoàng nay Tố của Ai.



    Tay gơ vào bia mười ngón rập

    Mười năm theo máu hận trào rơi.

    Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

    Khúc Cổ Bồn Ca gơ hát chơi.



    Kiều Thu hề Tố em ơi

    Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây

    Hàm Ca nhịp gơ khói bay

    Hồ Xừ Xang Xế... bàn tay điên cuồng.



    Kiều Thu hề trọn kiếp thương

    Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô.

    Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ

    Bàn tay nhịp gơ điên rồ khói lên.



    Kiều Thu hề Tố hỡi em

    Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng.

    Xế Hồ Xang... khói mờ rung

    Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn.



    Một trong vài bài thơ ông làm trong tù:



    Nét Đau Mặt Chữ

    Chẳng dùng chi được văn tài

    Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ

    Phút giây chết điếng hồn thơ

    Nét đau mặt chữ đến giờ c̣n đau.



    Chắc ǵ ba trăm năm sau

    Đă ai vào nổi cơn sầu nằm đây

    Nếu không cơm áo đọa đầy

    Nhủ thân nào thịt xương nầy bỗng dưng.



    Chết theo vào đến lưng chừng

    Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi

    Nửa chiều say ngất mê tơi

    Khúc đâu lơ láo một đời Thi Vương.. "


    Nén hương ḷng Kính Dâng Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương : Nhà Thơ lớn của Dân tộc Việt Nam- Người Chiến Sĩ Liên Minh Phục Quốc Đệ Tam Cộng Việt Nam 1975-1976 .

    Hy vọng một ngày không xa ước nguyện của Người Thi Sĩ -Chiến Sĩ thành Sự Thật trên Quê Mẹ yêu dấu .


    Nguyễn Hùng Kiệt
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-08-2012 at 12:12 AM.

  2. #212
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Quâ đúng như vậy

    Quote Originally Posted by ForexNews View Post
    Hoàng Hạc Lâu


    107495-medium_VHNT-VuHoangChuong
    Chân dung thi sĩ Vũ Hoàng Chương. (H́nh: Tài liệu)
    107495-medium_VHNT-VuHoangChuong-02
    Thủ bút bản dịch ‘Hoàng Hạc Lâu’ của Vũ Hoàng Chương. (H́nh: Tài liệu)

    Quỳnh Giao
    Sinh tiền, Vũ Hoàng Chương là thày dạy Việt văn của Cung Tiến. Ông sinh năm 1916, trước người nhạc sĩ tên tuổi này 22 năm. Nhưng với thói quen khoáng đạt của một nhà thơ, ông không hề câu nệ, vẫn coi Cung Tiến như người bạn vong niên hơn là một đứa học tṛ.

    Có lần ông nói đùa. Rằng Cung Tiến phổ thơ biết bao người mà chưa từng phổ thơ Vũ Hoàng Chương! Cung Tiến không quên điều ấy nhưng biến cố 1975 đă ụp trên cả nước và người nhạc sĩ th́ lưu vong ra ngoài, c̣n nhà thơ kẹt lại ở bên trong với những Mai Thảo, Phạm Đ́nh Chương, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Xuân Ninh, Phan Lạc Phúc, v.v....

    Trong nỗi bi phẫn về cảnh bạn bè tán lạc, Vũ Hoàng Chương đă cảm dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu, rồi nhờ bạn bè chuyển được ra ngoài, đến tay Cung Tiến khi ấy c̣n ở Canberra bên Úc... Thôi Hiệu là nhà thơ khét tiếng thời Thịnh Đường vào đầu thế kỷ thứ tám. Bài thơ của ông khiến một người như Lư Bạch c̣n nghẹn lời không dám viết về lầu Hoàng Hạc nữa và được Kim Thánh Thán ngợi ca là “bút pháp tuyệt kỳ, tác phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ Luật”.

    Đấy cũng là bài được người ḿnh dịch sang Việt ngữ nhiều nhất. Có người đếm ra hơn bốn trăm bản dịch khác nhau, từ Tản Đà, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Nguyễn Đức Hiển, v.v... Với Cung Tiến và nhiều bằng hữu th́ bài cảm dịch của Vũ Hoàng Chương là một sự tuyệt mỹ v́ tâm cảnh mọi người vào lúc đó.

    Từ bên ngoài, nhận được bản dịch, Cung Tiến nhớ thầy, nhớ bạn và nhớ lại cung cảnh xa xưa nên đă xuất thần phổ nhạc rất nhanh và t́m cách gửi về ngay năm sau. Nhưng không kịp nữa. Vũ Hoàng Chương bị cầm tù và bị kiệt sức mới được thả ra và tạ thế sau đó năm ngày nên không bao giờ được nghe ca khúc này. Bây giờ nhớ lại th́ xin ghi bài cảm dịch của ông để chúng ta khỏi quên và cùng thưởng thức:

    “Xưa hạc vàng bay vút bóng người
    Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
    Vàng tung cánh hạc đi đi măi
    Trắng một màu mây vạn vạn đời
    Cây bến Hán Dương c̣n nắng chiếu
    Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
    Gần xa chiều xuống nào quê quán
    Đừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi...”

    Khi c̣n sống, ông Nguyễn Đức Hiển tại Houston Texas cho rằng bản dịch Vũ Hoàng Chương “c̣n hay hơn nguyên bản, mà nguyên bản vốn đă hay tót vời”. Ông Hiển có thể nói không ngoa v́ bản thân đă dịch đi dịch lại mười mấy lần bài thơ của Thôi Hiệu! Ông c̣n dụng công so sánh hai câu thực của nguyên bản, gồm sáu thanh trắc liên tiếp:

    “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
    Bạch vân thiên tải không du du”

    Với câu “thực” do Vũ Hoàng Chương để lại mà ông cho là ảo diệu hơn:
    “Vàng tung cánh hạc đi đi măi
    Trắng một màu mây vạn vạn đời...”

    Khi đọc lại, làm sao ḿnh không ngậm ngùi với những chữ tuyệt diệu như “vút” bóng người, hay chút “thơm” rơi...? Và câu kết, “Đừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi!”, nghe thê thiết hơn vần lục bát của Tản Đà:
    “Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
    Trên sông khói sóng cho buồn ḷng ai!”

    Cung Tiến đưa Hoàng Hạc Lâu vào nhạc với phần ḥa âm soạn cho dương cầm và viết trên cung Ré giáng Trưởng, nhịp 4/4 chậm răi tha thiết - andantino - và ư nhị. Piano mở đầu bằng hai ô nhịp, hai mesures, viết lối Arpège chùm hai nốt, thánh thót, êm đềm. Rồi lời ca cất lên bồi hồi day dứt như một truyện kể, mà dùng phép tả cảnh để tả t́nh:
    “Xưa hạc vàng bay vút bóng người...
    Đây lầu Hoàng Hạc chút (ứ ư ) thơm rơi...”

    Đàn piano lại rải, nghe như tiếng chim hót, và cứ thế ca khúc dẫn người nghe vào một bức tranh cổ, với cánh hạc vàng ẩn hiện sau vầng mây bạc có nắng chiếu, có cây bến Hán Dương u buồn và cỏ bờ Anh Vũ vắng vẻ, chẳng c̣n ai chơi...
    Đoạn nhạc chuyển tiếp nỉ non đan lượn những ngậm ngùi rồi chợt mở ra tâm sự kẻ tư hương, nhớ quê, nhớ bạn...
    “Gần xa chiều xuống nào quê quán
    Đừng giục cơn sầu nữa (ư ứ), sóng (à à) ơi...”

    Rồi đàn lại buông arpège hai nốt nhẹ nhàng, lăng đăng ch́m khuất, mơ hồ như cánh hạc vàng tan trong khói sóng...
    Toàn bài, Cung Tiến dùng âm giai ngũ cung đầy chất Đông phương với nét nhạc thanh thản, nhuốm vẻ Lăo Trang và phảng phất giai điệu Claude Debussy trong bài “Clair de Lune”. Cung Tiến rất chuộng Debussy khi nhạc sĩ người Pháp này khám phá nhạc Á Đông vào đầu thế kỷ trước. Debussy cũng dùng hợp âm ngũ cung và cũng lấy “Arpège” rải tay trái và đưa ra một hợp âm lạ tai mà hài ḥa êm ái....

    Bài “Hoàng Hạc Lâu” là viên ngọc quư của thơ Đường. Bản dịch Vũ Hoàng Chương là bài chuyển ngữ mang tâm sự của một thi hào trong hoàn cảnh bi đát của đất nước. Ca khúc Cung Tiến là sự kết hợp lạ kỳ của t́nh cảm và nhạc thuật để nối liền ngần ấy nét đẹp của thơ, của nhạc. Điều hơi tiếc là ít người biết hoặc tŕnh bày ca khúc trác tuyệt này để đời sau c̣n nhớ Vũ Hoàng Chương và ḍng nhạc quư phái của miền Nam chúng ta khi ḿnh đă mất hết...
    Lần cuối mà miền Nam có buổi sinh hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương là vào Tháng Ba năm 1975, tại pḥng trà của Khánh Ly, do Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền tổ chức. Đă 35 năm tṛn rồi. Sau đó là cảnh chia ly tan tác. “Vàng tung cánh hạc”... như ánh chớp chợt lóe rồi vụt tắt.


    Nhận được bài viết của anh Quỳnh Trần, cựu GS Lư Hóa, bài thơ của Thôi Hiệu, cùng bài viết về Vũ Hoàng Cbương. Tôi xin đăng lại để các bạn cùng đọc. Một lúc nào đó, trong một trạng huồng nào đó tư nhiên mỉnh nghĩ lại bạn bè. Bài thơ thật cảm xúc.

    VHKT


    黃鶴樓 Hoàng Hạc Lầu:
    昔人已乘黃鶴去, Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ,
    此地空餘黃鶴樓。 Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
    黃鶴一去不復返, Hoàng hạc bất khứ bất phục phản,

    白雲千載空悠悠。 Bạch vân thiên tải không du du.
    晴川歷歷漢陽樹, T́nh xuyên lịch lịch Hán dương thụ,
    芳草萋萋鸚鵡洲。 Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
    日暮鄉關何處是, Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
    煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
    Tác giả: 崔顥 Thôi Hiệu (Hạo)



    Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
    Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu c̣n trơ.

    Hạc vàng đi mất từ xưa,
    Ngh́n năm, mây trắng bây giờ c̣n bay.
    Hán dương sông lạnh, cây bầy
    Băi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
    Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
    Trên sông khói sóng cho buồn ḷng ai !
    Tản Đà
    Khi Đoạn Trương Tân Thanh được cụ Nguyễn Du dịch sang tiếng Việt thành Truyện Kiều thì ĐTTT được lột xác và trở thành truyện hoàn toàn Việt Nam, KIều cuả cụ Nguyễn Du, và đồng thời trở thành cuả toàn dân Việt Nam từ thành thị tới thôn quê, từ cung vàng điện ngọc cho tới tiếng ru em cuả các bà chi hay bà me bên cạnh chiếc võng, chiếc nôi.
    Tương tự Khi bài Hoàng Hạc Lâu được các thi nhân chuyển ngữ. Độc giả đọc bản dịch cuả ai thì cảm nhận ngay thấy bóng dáng, tâm hồn tác giả ẩn hiện ngay trên từng dòng chữ. Hoàng Hạc Lâu cuả Vũ Hoàng Chương khác với Hoàng Hạc Lâu cuả Tản Đà, của Ngô Tất Tố v.v. "Văn là người" là chính vậy.

  3. #213
    Member
    Join Date
    02-05-2011
    Posts
    62

    ... đập cổ kính ra, t́m lấy bóng !... xếp tàn y lại để dành hơi !!

    .. bước sang đầu thế kỷ XX, nền văn học VN bắt đầu chuyển biến, cũng vẫn lục bát, cổ phong.. văn xuôi, văn tế.ca trù... nhưng thay v́ bút lông/nghiên mực nay thay bằng ng̣i viết bằng sắt (Mallars) và lọ mực tím bằng xứ cầm tay . Chữ nôm tượng h́nh nay thay bằng vần Quốc ngữ.. tâm t́nh của thi sĩ văn nhân cũng đă bỏ qua lối sáo ṃn vọng ngữ, không c̣n (phong/hoa/tuyết/nguyệt ) mà chuyển sang bằng những câu văn thanh thoát, thực tế hơn... trữ t́nh hơn, như các bài đă đăng ở trên.
    Cầm, kỳ, thi, hoạ... hay; đối cảnh, sinh t́nh..(có làm thơ th́ có đáp lại; xướng/hoạ).. có thơ th́ có người tŕnh bày; ca nhi.. ca nhi sẽ thay tác giả, hát lên, ngâm lên theo lối diễn ngâm mới " liên khu 5.".. những lời mà thi sĩ gởi gấm, đưa tiếng hát của nghệ sĩ "ca nhi " lên tầm cảm thông, giao động tâm tư người thưởng thức hơn lại cần có nhạc, v́ trong thơ có nhạc. Thức động tâm sự qua lời ca..tiếng đàn, xênh phách như luồng gió khơi lên.. bốc kẻ chuếnh choáng hơi men lên cao, cao vút.. c̣n ǵ sảng khoái cho bằng.
    Thay v́ nằm trong khuôn khổ " Ngũ cung ", nay bước sang " thi nhạc giao duyên".. thật truyền cảm.. thí dụ; bài thơ của Đinh Hùng nào ngâm thơ do Hồ Điệp, phổ nhạc bởi Phạm đ́nh Chương ,ca do Hoàng Oanh, bên cạnh tiếng sáo Nguyễn đ́nh Nghĩa.. và tiếng đàn tranh.. đàn bầu....(chương tŕnh Thi văn Tao đàn của Thục Vũ "..
    ....... chưa gặp em; anh đă nghĩ rằng ;
    ... có người thiếu nữ đẹp như tranh...

    Nền Thi văn của VN đă thay đổi, Tiểu thuyết cũng đă có mặt kể từ 1910.. rồi tiếp đến nhóm Tự lực văn đoàn.. Đoạn Tuyệt, Đời gió bụi.. Nửa chừng xuân.. và Hà nội băm sáu phố phường của Thạch Lam.. sự có mặt của nhiều tờ báo việt ngữ... Kịch nói với những vở kịch nổi tiếng của Gs Vũ khắc Khoan , với Sông Hồng kịch xă ở Hà nội thời kỳ 1950-54..
    Trí nhớ của nmq bị lu mờ, nên lúc nhớ lúc quên, gơ lên những ǵ chợt đến trong trí nhớ, xin quư Bạn đóng góp để topic này trở thành một tài liệu văn hoá, giúp cho thế hệ trẻ, nếu thích thú t́m về nguồn, có chút tài liệu tham khảo... xin phép ngưng... nmq

  4. #214

    Join Date
    07-11-2011
    Posts
    1,447

    Kim Vân Kiều/ Thanh Tâm Tài Nhân.

    Quote Originally Posted by Vân Nương View Post
    Khi Đoạn Trương Tân Thanh được cụ Nguyễn Du dịch sang tiếng Việt thành Truyện Kiều thì ĐTTT được lột xác và trở thành truyện hoàn toàn Việt Nam, KIều cuả cụ Nguyễn Du, và đồng thời trở thành cuả toàn dân Việt Nam từ thành thị tới thôn quê, từ cung vàng điện ngọc cho tới tiếng ru em cuả các bà chi hay bà me bên cạnh chiếc võng, chiếc nôi.
    Tương tự Khi bài Hoàng Hạc Lâu được các thi nhân chuyển ngữ. Độc giả đọc bản dịch cuả ai thì cảm nhận ngay thấy bóng dáng, tâm hồn tác giả ẩn hiện ngay trên từng dòng chữ. Hoàng Hạc Lâu cuả Vũ Hoàng Chương khác với Hoàng Hạc Lâu cuả Tản Đà, của Ngô Tất Tố v.v. "Văn là người" là chính vậy.
    Đồng ư với bác VN, văn chính là người, người sao văn vậy. Có một điều tôi xin mạn phép đính chính: Hoàng hạc Lâu, thơ cuả Thôi Hiệu được Vũ hoàng Chương, Tản Đà...dịch ra tiếng Việt th́ đúng. Nhưng Đoạn trường tân thanh cuả Nguyễn Du không phải dịch ra từ thơ Tàu. Nguyễn Du chỉ mượn cốt chuyện trong cuốn tiểu thuyết văn xuôi Kim vân Kiều cuả Thanh tâm tài Nhân mà làm ra áng thơ tuyệt mỹ. Đúng ra th́ gọi là phóng tác th́ đúng hơn, v́ Nguyễn Du đă thay đổi, thêm thắt, chọn lọc và dẫn nhập câu truyện một cách tài t́nh bác học.

  5. #215
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    Thơ Tú Xương

    Hồn thơ Tú Xương

    Thơ Tú Xương là một đặc sản của thời cuộc Việt Nam. Thời cuộc buổi Tây sang, đánh cướp được nước ta rồi, họ hạ trại tính chuyện ăn ở lâu dài và khai thác các nguồn lợi. Họ du nhập áp đặt lối sống của họ. Họ tạo ra một thứ người Việt tôi tớ. Làm tôi tớ mà lại dị hợm. Dị hợm v́ cơm thừa canh cặn, cũng dị hợm với lối sống học mót ngoại bang, từ nói năng x́ xồ nói ít tiếng Tây, đến ăn uống sáng rượu sâm banh tối sữa ḅ.



    Đấy là bọn quan lại tay sai , nhưng đông hơn, gặp chan chát ngoài đời và tạo nên nét đổi thay cả xă hội, lại là lớp công chức ăn lương Pháp, ấy là các thứ thông, kư, phán, tham… cho đến các thầy cẩm, thầy c̣. Lớp người này sống ở các thành thị, làm nên nét đặc trưng của phố phường thời ấy.



    Cái bối cảnh xă hội nhố nhăng tủi nhục ấy đă lọt vào tầm cảm hứng của Tú Xương, một người sinh và sống ở phố phường Nam Định. Xă hội Nam Định cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi hiện lên, cụ thể, chi tiết là hiện từ thơ Tú Xương. Và chỉ trong thơ Tú Xương nó mới phong phú, sinh động đủ cho hôm nay chúng ta đọc mà c̣n như được chung khóc cười với tác giả :


    Chúc Tết


    Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
    Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
    Phen này ông quyết đi buôn cối
    Thiên hạ bao nhiêu đứa giă trầu.

    Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
    Trăm, ngh́n, vạn mớ để vào đâu ?
    Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc
    Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.

    Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
    Đứa th́ mua tước; đứa mua quan.
    Phen này ông quyết đi buôn lọng,
    Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

    Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
    Sinh năm đẻ bảy được vuông tṛn.
    Phố phường chật hẹp, người đông đúc
    Bồng bế nhau lên nó ở non.

    Bắt chước ai ta chúc mấy lời
    Chúc cho khắp hết ở trong đời
    Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
    Sao được cho ra cái giống người.




    Đi Thi Tự Vịnh
    Tấp tểnh người đi tớ cũng đi,
    Cũng lều, cũng chơng, cũng vô thi .
    Tiễn chân, cô mất ba đồng lẻ;
    Sờ bụng, thầy không một chữ ǵ.
    Lộc nước cũng nhờ thêm giải nghạch ,
    Phúc nhà may được sạch tràng quy.
    Bốn kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa,
    Á, ớ, u, âu, ngọn bút ch́.

    Thi Hỏng

    Mai không tên tớ, tớ đi ngay,
    Giỗ Tết từ đây nhớ lấy ngày
    Học đă sôi cơm nhưng chửa chín
    Thi không ăn ớt thế mà cay .
    Sách -dèn phó mặc -dàn con trẻ,
    Thưng đấu nhờ tay một mẹ màỵ
    Cống hỉ, mét x́, đây thuộc cả,
    Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây .


    Khoa Thi

    Nhà nước ba năm mở một khoa,
    Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
    Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
    Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
    Xe kéo rợp trời: quan sứ đến;
    Váy lê phết đất, mụ đầm ra .
    Sao không nghĩ đến điều tu sỉ ?
    Ngảnh cổ mà xem lại nước nhà.



    Giời Nực Mặc Áo Bông

    Bức sốt nhưng ḿnh vẫn áo bông,
    Tưởng rằng ốm dậy, hóa ra không.
    Một tuồng rách rưới, con như bố,
    Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng.
    Đất biết bao giờ sang vận đỏ ?
    Trời làm cho bỏ lúc chơi ngông.
    Gần chùa, gần cảnh, ta tu quách;
    Cửa Phật quanh năm vẫn áo sồng.




    Khen Vợ

    Quanh năm buôn bán ở mom sông,
    Nuôi đủ đàn con với một chồng.
    Lặn lội thân c̣ khi quăng vắng,
    Eo sèo mặt nước buổi đ̣ đông.
    Một duyên hai nợ, thôi đành phận,
    Năm nắng mười mưa, dám quản công.
    Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
    Có chồng hờ hững cũng như không.





    Mất Ô


    Đêm qua anh đến chơi đây
    Giày dôn anh diện, ô tây anh cầm.
    Rạng ngày sang trống canh năm,
    Anh dậy em hăy c̣n nằm trơ trơ
    Hỏi ô, ô mất bao giờ,
    Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa ...
    Chỉ e rày gió mai mưa
    Lấy chi đi sớm về trưa với t́nh ?




    Cái Học Nhà Nho

    Cái học nhà nho đă hỏng rồi,
    Mười người đi học, chín người thôi .
    Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
    Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.
    Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
    Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi .
    Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ ?
    Tŕnh có quan tiên thứ chỉ tôi.



    Cái Chữ Nho

    Nào có ra ǵ cái chữ Nho,
    Ông nghè, ông cống cũng nằm co
    Sao bằng đi học làm thầy Phán ?
    Tối rượu sâm banh, sáng sữa ḅ .


    Có đất nào như đất ấy không?

    Nhà kia lỗi phép con khinh bố
    Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
    Keo cú người đâu như sắt
    Tham lam miệng thở những hơi đồng


    Bài thơ Đau mắt:


    Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
    Giương mắt trông chi buổi bạc t́nh
    Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
    Giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣

  6. #216
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    Hồn thơ Nguyễn Khuyến

    Hồn thơ Nguyễn Khuyến





    Chan Dung : Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến 1835-1909

    Chính là "Tiếng sáo vo ve" bên trời "nước vọng", là "bóng trăng trôi"dưới ḍng lũ vô t́nh cuộn xiết, hóa chiếc thuyền thơ cô độc len lỏi trên thi đàn Việt Nam thuở cơn lụt lội nhân t́nh thế thái ngập tràn xứ sở. Ngay trong hai câu thơ hay đến sững sờ tả cảnh đẹp hun hút, đẹp rờn rợn nổi gai ốc của nước lụt Hà Nam này, Nguyễn Khuyến cũng chỉ cốt mượn nước lụt mà gọi hồn nước về trong từ "nước vọng" để : "Sửa sang việc nước cho yên ổn"... Tâm thức "nước", "nước non", "đất nước"... có thể nói là tâm thức chủ đạo của Nguyễn Khuyến trong cả thơ nôm và thơ chữ Hán; tuy ở đây chúng tôi chỉ mới khảo sát qua thơ nôm của ông mà thôi. Trong bài thơ "Tự trào", Nguyễn Khuyến nói thẳng ra điều cốt lơi nhất, đau đớn nhất của ông là nỗi nhục, nỗi đau vong quốc, thông qua nghĩa đen của cuộc chơi cờ :"Cờ đương giở cuộc không c̣n nước". V́ "Không c̣n nước " nên vua cũng không c̣n thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ là quan phường chèo thôi :" Vua chèo c̣n chẳng ra ǵ / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề "( Lời vợ anh phường chèo). Một vị túc nho lấy trung quân ái quốc làm đầu, phải tự t́m nhọ nồi, muội đèn, tro trấu mà bôi trát lên mặt vua quan thành tṛ hề như thế, với Nguyễn Khuyến hẳn là nỗi đau lớn nhất trong đời? V́ "Không c̣n nước" nên sau hơn 12 năm làm quan tới chức Tổng đốc Sơn Tây, lúc vua Tự Đức mất và vua Hàm Nghi ra chiếu cần vương chống Pháp, nhà thơ mượn cớ mắt ḷa cáo quan về ẩn dật cùng cà thâm dưa khú. Ông buồn lặng hóa "mây côi", hóa "hạc độc", hóa thành " hoa năm ngoái", thành "ngỗng nước nào", thành con cuốc gọi hồn nước năm canh, thậm chí hoá thân vào mẹ Mốc, vào gái góa, vào anh giả mù, giả câm giả điếc, thậm chí giả điên kiểu Sở cuồng, làm thơ đả kích giặc và tay sai, như một cách yêu nước kháng Pháp của riêng ḿnh... Nguyễn Khuyến đau đớn nhận ra hoa nở ngoài giậu thu cũng không c̣n là hoa hôm nay của ḿnh nữa, ngỗng kêu trên bầu trời quê hương dĩ nhiên là ngỗng nước ḿnh, chứ sao lại là ngỗng nước nào:" Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái / Một tiếng trên không ngỗng nước nào" ?( Thu vịnh). Khi "Không c̣n nước" nữa th́ con ngỗng kia cũng thành vong quốc, vong thân, thành "ngỗng nước nào"thôi. Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của ḿnh xưa mà không dám nhận, mà phải đau đớn than là "ngỗng nước nào"? Rằng người không c̣n giữ được nước th́ bay về làm ǵ ngỗng ơi? Nhà thơ tủi hổ với cả ngỗng trên trời và hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đă mất th́ trời phỏng c̣n ư, mùa thu phỏng c̣n ư ? Hoa ấy, ngỗng ấy cũng là Nguyễn Khuyến; như "mây côi" và "hạc độc" kia c̣n bị vong thân, vong quốc huống nữa là trời đất, con người! Chúng tôi cho rằng, dù viết về phong cảnh mùa thu nông thôn , dù nới rộng đề tài ra từ bản thân ḿnh đến xă hội, từ chim hoa, xóm mạc đến nước non... hồn thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ t́nh, kín đáo mà động vang, cô đơn mà ḥa nhập, lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm. Bút pháp nghệ thuật bậc thầy dùng thuỷ nói hỏa, dùng tĩnh tả động, dùng dương tả âm, dùng vật tả tâm, dùng cảnh ngụ t́nh và ngược lại của Nguyễn Khuyến đă khiến không ít người khi tiếp cận thi ca ông, mới đụng vỏ ngoài đă tưởng thấu vào gan ruột. Ví như trường hợp ba bài thơ thu của thi hào là bài "Thu vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm" được coi là dấu hiệu thiên tài của nhà thơ nông thôn đệ nhất Việt Nam mà có người, ngay cả khi viết sách giáo khoa cũng chưa thẩm hết hồn thu Nguyễn Khuyến. Họ nh́n bằng mắt thường nên ngỡ mặt ao thu b́nh lặng kia là đáy nước, nên bảo nhà thơ viết về mùa thu với tâm trạng thư thái, an nhàn(!) Rằng nhà thơ uống rượu say nhè như anh Chí Phèo say rượu lè nhè vậy...Không, Nguyễn Khuyến chỉ hớp một tí rượu trong chén hạt mít lấy hứng, chứ không say lè nhè như ai hiểu. Dưới cảnh thu, ngồi nhấp chút rượu thu, câu cá thu, làm thơ thu, nhà thơ chỉ mượn bề mặt tĩnh lặng ao thu mà tả sự động vang sôi sục, quặn thắt, u uẩn, buồn thương nơi thẳm đáy ḷng ḿnh , đặng gọi hồn nước đă mất về thương hồn thu hiển hiện. Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đă chết, đă bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ c̣n thân xác thu trong veo, cô quạnh, vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đă hát rỗng cả ruột gan. Tả lửa song Nguyễn Khuyến vẽ khói, tả nước mà nói thu, tả nỗi thẹn ḿnh, tủi lây sang thu mà phải mượn tới ông Đào Tiềm đời Tấn. Cũng có thể gọi ba bài thơ thu của ông là tiếng chiêu hồn thu, chiêu hồn nước. Ngồi thưởng thu không chút thư nhàn, đau xót quá, cảm thương nước mất mà sao thu vẫn rưng rưng t́m về, nên nhà thơ không đừng ḷng được, đành rơm rớm khóc :" Mắt lăo không vầy cũng đỏ hoe"? Đừng đổ oan cho Nguyễn Khuyến "mắt đỏ hoe" v́ say rượu. Mùa thu trong ba bài thơ đẹp đến lạnh ngắt, đẹp đến tột cùng cô đơn, u tịch, phải chăng v́ mùa thu chưa chiêu được hồn "hoa năm ngoái", chưa gọi được vía " ngỗng nước nào"...? Cám cảnh thay nỗi " Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được" của nhà thơ, như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn ḿnh đang ở đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước lắm, thương ṇi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín t́nh yêu nước vào cảnh thu, ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng, ta nghe một tiếng "Cá đâu đớp động dưới chân bèo", như nhà thơ ngầm an ủi ḿnh rằng c̣n cá tức nhiên c̣n nước...V́ vậy, Nguyễn Khuyến rút ruột hóa thân vào hồn Thục Đế xưa, thành con cuốc gọi hồn nước nay đến chảy máu cả đêm hè :" Năm canh máu chảy đêm hè vắng / Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ / Có phải tiếc xuân mà đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " ( Cuốc kêu cảm hứng ). Thương thay cho "Ngỗng nước nào" vẫn không chịu bay đi, c̣n kêu xé trời cao trong thảng thốt nỗi niềm dù mùa thu đă chết. Con ngỗng vong thân, găy cánh, đáp xuống trang thơ mà hóa thành con cuốc Việt Nam chiêu hồn nước tới bây giờ. Bài thơ "Cuốc kêu cảm hứng" thật hay, thật đoạn trường, đọc xong muốn khóc. Chúng ta thương và kính trọng Nguyễn Khuyến vô cùng. Ông đă nén cả một nhân cánh lớn, một hồn thơ lớn, một tri thức lớn, một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.Tinh thần hoài cổ, tinh thần "Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " len lỏi vào mọi tâm sự, mọi vui buồn, thương giận, nhớ nhung của nhà thơ. Ngay cả khi vịnh ông phỗng đá với ngụ ư diễu ḿnh, nhà thơ vẫn xót xa hỏi :" Non nước đầy vơi có biết không ?"Chính v́ nỗi "non nước" khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại ḿnh mà nước mất nhà tan, nên mượn thơ mà cả thẹn :" Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già / Xuân về ngày loạn càng lơ láo ". Một người tài cao, học rộng, thương xót, nương nhẹ từng cọng cỏ nhành hoa, một nhân cách lớn, khiêm cung tự tại, lại phải đưa ḿnh ra mà diễu, mà tự cười cợt, bông phèng ḿnh th́ hẳn là phải đau đớn lắm, khổ tâm lắm :"Mở miệng nói ra gàn bát sách / Mềm môi chén măi tít cung thang / Nghĩ ḿnh lại gớm cho ḿnh nhỉ " hoặc :" Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu thơ ". Một người thính nhạy như Nguyễn Khuyến từng biết nghe bằng hồn, bằng vía, chán nỗi đời đục mà giữ ḿnh trong, đành ngụ ḿnh, nương ḿnh làm "Anh giả điếc ":" Trong thiên hạ có anh giả điếc / Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây" ...." Sáng một chốc lâu lâu rồi lại điếc". Phải giả mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn sống được trong xă hội nhố nhăng nửa thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính thân phận ḿnh:

    "Mua vui lắm lúc cười cười gượng
    Giả dại nhiều khi nói nói bông".
    Mượn sự điên dại của " Mẹ Mốc" tỏ bày tâm sự, Nguyễn Khuyến như tự xé quần áo tinh thần ḿnh để phơi bày "h́nh hài gấm vóc" ra mà che mắt thế gian, những mong yên ổn :
    "Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nḥa
    Làm thế để cho qua mắt tục
    ". Mẹ Mốc ấy là tâm hồn vằng vặc muôn sau của Nguyễn Khuyến, sống trong thế giới của những cầu Nôm", "Tiến sĩ giấy", "Hội Tây"...vẫn không chút bợn nhơ :

    " Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết
    Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ "...

    Nhà thơ vô cùng căm ghét bọn cướp nước và bán nước. Ông dùng tài thơ trào phúng vừa hóm, sâu, vừa cay độc đến tận cùng mà váy hóa lá cờ tam tài của giặc trong tiếng cười thâm thuư :" Ba vuông phất phới cờ bay dọc / Một bức tung hoành váy xắn ngang". Hóa ra cái váy con của thời :

    " Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó" đă được kéo lên thành cờ "ba vuông" phất phới, ngang dọc, làm b́nh phong che mặt tham quan ô lại đục nước béo c̣. Nguyễn Khuyến mang vũ khí trào lộng vạch mặt chúng bằng tiếng cười cay độc :

    " Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
    Đời trước làm quan cũng thế a ?"

    Phải sống trong thời " mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc " làm sao Nguyễn Khuyến không thẹn thùng, tủi hổ, xót xa cả hồn thơ, đành than trời :" Thử xem trời măi thế này ư ?". T́m mùa thu ẩn ḿnh không yên ổn, núp vào ḿnh cũng không xong, nhà thơ đôi khi phải trốn vào giấc mơ mà chơi tṛ đánh bùn sang ao bản thể, mà lẫn lộn bóng ḿnh với bóng người, lấy hư làm thực bằng một câu thơ tuyệt hay, rất hiện đại :

    " Bóng người ta nghĩ bóng ta
    Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người"
    ( Bóng đè cô đầu).

    Thơ nôm Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở thái, ở h́nh lẫn ở thể, ở hồn chữ dân gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví như :

    " Quyên đă gọi hè quang quác quác
    Gà từng gáy sáng tẻ tè te ...
    Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe "
    , " Bán buôn gió chị với trăng d́"...
    Nguyễn Khuyến quả là thánh chữ khi dùng động từ "thập tḥ " trong câu thơ thần t́nh sau :

    "Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm
    Xanh xanh như sắp thập tḥ hoa".

    Câu thơ "sắp thập tḥ hoa" này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn Khuyến. Từ đây, ta có thể thấy thi pháp " thập tḥ hoa" là thi pháp độc đáo kỳ khu của thơ ông : thập tḥ giữa t́nh và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu, cảm và thức, thập tḥ giữa thực và hư... kiểu "hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào"... Nguyễn Khuyến mượn cảnh đẹp nông thôn mà yêu nước Việt, một t́nh yêu buồn thương u uất được thể hiện bằng nghệ thuật trữ t́nh trào phúng của thơ bậc thầy. Ông chính là ngọn Đọi sơn của thi ca Việt Nam, nơi nhà thơ từng viết:

    " Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá
    Sư cụ nằm chung với khói mây".

    Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ thứ 90 của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà giật ḿnh trước tấm ḷng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đă có nhă ư mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh :"Ngọn gió không nhường tóc bạc a ?". Vâng, ngọn gió thời gian, ngọn gió của quy luật muôn đời không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn Khuyến đă đành, mà kể cả thời đại chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả, dù là tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi chăng nữa.,.

    Trích bài viết của LM trong nước .
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-08-2012 at 06:50 AM.

  7. #217
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022
    HỘI TÂY

    Ḱa hội thăng b́nh tiếng pháo reo
    Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo
    Bà quan tênh nghếch xem bơi trải
    Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
    Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
    Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
    Khen ai khéo vẽ tṛ vui thế,
    Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu



    Thu vịnh: B1
    Bài thơ vịnh mùa thu


    Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
    Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu
    Nước biếc trông như làn khói phủ
    Song thưa để lọt bóng trăng vào
    Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
    Một tiếng trên không ngỗng nước nào
    Nhân hứng cũng vừa toan cầm bút
    Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

    Thu điếu: B2

    Câu cá mùa thu

    Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
    Một chiếc thuyền con bé tẻo teo
    Sóng biếc leo làn hơi giợn tư
    Lá vàng trước gió sẽ bay vèo
    Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
    Ngơ trúc quanh co khách vắng teo
    Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
    Cá đâu đớp động dưới chân bèo

    Thu ẩm: B3

    Uống rượu mùa thu

    Năm gian nhà cỏ thấp le te
    Ngơ tối quanh co đóm lập ḷe
    Lưng dậu lửng lơ màu khói nhạt
    Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
    Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
    Mắt lăo không vầy cũng đỏ hoe
    Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
    Độ dăm ba chén đă say nhè



    Bài thơ Tự than thở một ḿnh của Nguyễn Khuyến đến nay ,ngẫm vẫn thấy nguyên giá trị.

    Ngẫm chuyện mười năm,ḷng tái tê.
    Sự đời thay đổi,nh́n mà ghê.
    Cá ăn thịt cá v́ tham lợi.
    Cùng một giống ṇi,tre cột tre.
    Cái khổ ngày nay do ai nhỉ?
    Người xưa ở ẩn bỏ về quê.
    Nhắn ai quen biết ngoài đô thị:
    Đời loạn mà sao chửa muốn về?"


    "Nhà thơ Nguyễn Khuyến -Tam Nguyên, một người 3 lần đỗ đầu, rất hiếm trong các bậc khoa bảng nước nhà, nhưng Ông được người đời nhớ nhiều hơn chính ở tài văn học. Văn học Nguyễn Khuyến không phải thứ phục vụ công nông binh hay CM, ông làm để tự sự nỗi đau cá nhân và quốc nhân, nhưng lại rất hóm.

    Hoàng Cao Khải mướn ông dạy chữ cho con, ông viết như nói:

    Quanh năm mổ bụng con lấy chữ
    Đến Tết bổ đầu bố lấy tiền.

    Mừng Cô Tư Hồng, me Tây buôn gạo bắc nam bị lộ, cô sáng kiến phát chấn đồng bào bị lụt Trung ḱ, được vua ban thưởng cả cô và cụ nhà, Nhà thơ Nguyễn Khuyến mừng:

    Một đạo sắc phong hàm cụ lớn
    Trăm năm danh giá của bà...to
    NK vừa giỏi cả Hán vừa giỏi cả Nôm:
    Tứ thời bát tiết canh chung thủy
    Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang

    Dân Hà Nam ai chẳng biết Đọi Sơn, nhưng nói đến Đọi Sơn mà không nói câu đối cực ḱ độc đáo của ông khi đến thăm chùa, sư móm, tiểu ngọng:
    Phất phất phóng phong phan, pháp phái phi phù phan phụng Phật
    Căn căn canh cổ kệ cao ca kỷ cứu cứu cùng kinh

    Nghĩa:

    Phất phơ cờ phướn bay trước gió, đạo pháp cùng cờ phướn bay để thờ Phật/ Tất cả đọc kinh cổ, đọc to để khảo cứu kinh đến cùng...
    Thực sự ông không có thi pháp ǵ cả, mà chỉ là Cái Tài thực sự mà thôi, cái Tài ấy không cần mang gió thổi ông lên những tưởng bay cùng ông trong vũ trụ.
    Khi tham gia Ban Giám Khảo thi vịnh Kiều, ông bảo:

    Thằng bán tơ kia giở dói ra
    Làm cho bận đến cụ Viên già. "
    ....
    Sài G̣n
    Ngọc Trâm
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-08-2012 at 07:13 AM.

  8. #218
    Member
    Join Date
    02-03-2011
    Posts
    1,064

    Cám ơn bạn Forexnews

    Quote Originally Posted by ForexNews View Post
    Đồng ư với bác VN, văn chính là người, người sao văn vậy. Có một điều tôi xin mạn phép đính chính: Hoàng hạc Lâu, thơ cuả Thôi Hiệu được Vũ hoàng Chương, Tản Đà...dịch ra tiếng Việt th́ đúng. Nhưng Đoạn trường tân thanh cuả Nguyễn Du không phải dịch ra từ thơ Tàu. Nguyễn Du chỉ mượn cốt chuyện trong cuốn tiểu thuyết văn xuôi Kim vân Kiều cuả Thanh tâm tài Nhân mà làm ra áng thơ tuyệt mỹ. Đúng ra th́ gọi là phóng tác th́ đúng hơn, v́ Nguyễn Du đă thay đổi, thêm thắt, chọn lọc và dẫn nhập câu truyện một cách tài t́nh bác học.
    Đồng ý.
    Phỏng dịch, nghiã là dịch lấy ý, lấy cốt truyện không thôi thì cũng được. Nhưng "phóng tác" e có đi quá chăng.

  9. #219
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    Thơ Nguyễn Bính









    Hôn Nhau Lần Cuối

    Cầm tay, anh khẽ nói:
    -- Khóc lóc mà làm chi ?
    Hôn nhau một lần cuối,
    Em về đi, anh đi...
    Rồi một hai ba năm
    Danh thành anh trở lại
    Với em, anh chăn tằm
    Với em, anh dệt vải

    Ta sẽ là vợ chồng
    Sẽ yêu nhau măi măi
    Sẽ se sợi chỉ hồng
    Sẽ hát câu ân ái

    Anh và em sẽ sống
    Trong một mái nhà tranh
    Lấy trúc thưa làm cổng
    Lấy tơ liễu làm mành

    Nghe lời anh em hỡi !
    Khóc lóc mà làm chi ?
    Hôn nhau một lần cuối,
    Em về đi, anh đi...




    Gịng Dư Lệ





    Tặng T.T.Kh.
    Cho tôi ép nốt gịng dư lệ
    Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.



    T.T.Kh.
    Gió đưa xác lá về đường,
    Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời.
    Sầu thương quyện lấy hồn tôi,
    Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm.
    Một ngàn năm, một vạn năm,
    Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ.
    Tặng người gọi một gịng thơ,
    Hay là gịng nước mắt thừa đêm qua.
    Đường về Thanh Hóa bao xa,
    Bao giờ ra nhớ rủ ta với, chàng !
    Bảo rằng quan chẳng cho sang,
    Ai đời quan cấm đ̣ ngang bao giờ !
    Vườn Thanh qua đấy năm xưa,
    Trọ nhờ đêm ấy giời mưa tối giời.
    Quanh ḷ sưởi ấm, bên tôi,
    Bên người lăo bộc đương ngồi quay tơ.
    Tuổi nàng năm ấy c̣n thơ,
    C̣n bao hứa hẹn đợi chờ một mai.
    (Rồi đây bao gió bụi đời,
    Tôi quên sao được con người vườn Thanh).
    Lạnh lùng canh lại sang canh,
    Ḷng tôi thao thức với t́nh bâng quơ.
    Bởi sinh làm kiếp giang hồ,
    Dám đâu toan tính se tơ giữa đàng.

    Thu sang, rồi lại thu sang,
    Cúc bao lần nở, lá vàng bao rơi ?
    Bao nhiêu vật đổi sao dời ?
    Đường bao dặm thẳm ? hỡi người bốn phương ?
    Trọ bao nhiêu quán bên đường,
    Nhưng không lần nữa qua vườn Thanh xưa.
    Cô nàng đêm ấy quay tơ.
    Tôi quên sao được hẳn chưa lấy chồng.
    Một hôm ḷng lại nhủ ḷng:
    Nơi đây giáp với cánh đồng vườn Thanh.
    Rồi tôi len lén một ḿnh,
    Ra đi với một tấm t́nh hay hay.
    Đường ṃn tràn ngập bông may,
    Gió heo báo trước một ngày thu sang.
    Dừng chân trước cửa nhà nàng,
    Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau.
    T́m nàng chẳng thấy nàng đâu,
    Lá rơi lả tả trên đầu như mưa...
    Chợt người lăo bộc năm xưa,
    Từ đâu mang mảnh guồng tơ lại nhà .

    Một hai xin phép ông già,
    Trọ nhờ đêm ấy nữa là hai đêm.
    Ông già nể khách người quen,
    Ngậm ngùi kể lại một thiên "hận t́nh".
    Rồi ông kết: (giọng bất b́nh)
    "Trời cay nghiệt thế cho đành ? Thưa ông.
    Cô tôi nhạt cả môi hồng,
    Cô tôi chết cả tấm ḷng ngây thơ.
    Đâu c̣n sống lại trong mơ,
    Đâu c̣n sống lại bên bờ sông yêu ?
    Buồn the sầu sớm thương chiều,
    Khóc thầm biết có bao nhiêu lệ rồi !
    Tơ duyên đến thế là thôi,
    Thế là uổng cả một đời tài hoa.
    Đêm đêm bên cạnh chồng già,
    Và bên cạnh bóng người xa hiện vệ"
    Rùng ḿnh, tôi vội gạt đi:
    "Già ơi ! Thảm lắm ! Kể chi dài gịng.
    Cháu từ mắc số long đong,
    Yêu thương ch́m tận đáy ḷng đă lâu.
    Đau thương qua mấy mươi cầu,
    Cạn gịng nước mắt, c̣n đâu khóc người."

    "Dối già một chút mà thôi,
    Nghe lời già kể, cháu mười đêm luôn
    Chợt thương, chợt khóc, chợt buồn,
    Cháu như một kẻ mất hồn, già ơi!"

    Chuyện xưa hồ lăng quên rồi,
    Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh.
    Bao nhiêu oan khổ v́ t́nh,
    Cớ sao giống hệt chuyện ḿnh gặp xưa ?
    Phải chăng. Ḿnh có nên ngờ,
    Rằng người năm cũ bây giờ là đây ?



    Người Hàng Xóm


    Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
    Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn.
    Hai người sống giữa cô đơn,
    Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
    Giá đừng có dậu mùng tơi,
    Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
    Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...
    Có con bướm trắng thường sang bên này.
    Bướm ơi ! Bướm hăy vào đây !
    Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
    Chả bao giờ thấy nàng cười,
    Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
    Mắt nàng đăm đắm trông lên...

    Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi !
    Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi,
    Tôi buồn tự hỏi: "Hay tôi yêu nàng ?"
    -- Không, từ ân ái lỡ làng,
    T́nh tôi than lạnh gio tàn làm sao ?
    Tơ hong nàng chả cất vào,
    Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.

    Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,
    Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong.
    Cái ǵ như thể nhớ mong ?
    Nhớ nàng ? Không ! Quyết là không nhớ nàng !
    Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng,
    Ḷng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.

    Tầm tầm giời cứ đổ mưa,
    Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.
    Cô đơn buồn lại thêm buồn,
    Tạnh mưa bươm bướm biết c̣n sang chơi ?

    Hôm nay mưa đă tạnh rồi !
    Tơ không hong nữa, bướm lười không sang.
    Bên hiên vẫn vắng bóng nàng,
    Rưng rưng... tôi gục xuống bàn rưng rưng...
    Nhớ con bướm trắng lạ lùng !
    Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng.

    Hỡi ơi ! Bướm trắng tơ vàng !
    Mau về mà chịu tang nàng đi thôi !
    Đêm qua nàng đă chết rồi,
    Nghẹn ngào tôi khóc... Quả tôi yêu nàng.

    Hồn trinh c̣n ở trần gian ?
    Nhập vào bướm trắng mà sang bên này !





    Cánh Buồm Nâu
    Hôm nay dưới bến xuôi đ̣
    Thương nhau qua cửa ṭ ṿ nh́n nhau
    Anh đi đấy, anh về đâu ?
    Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...





    Chân Quê
    Hôm qua em đi tỉnh về
    Đợi em ở măi con đê đầu làng
    Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
    Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi !
    Nào đâu cái yếm lụa sồi ?
    Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân ?
    Nào đâu cái áo tứ thân ?
    Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen ?

    Nói ra sợ mất ḷng em
    Van em, em hăy giữ nguyên quê mùa
    Như hôm em đi lễ chùa
    Cứ ăn mặc thế cho vừa ḷng anh

    Hoa chanh nở giữa vườn chanh
    Thày u ḿnh với chúng ḿnh chân quê
    Hôm qua em đi tỉnh về
    Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.

    1936



    Chờ Nhau


    Láng giềng đă đỏ đèn đâu
    Chờ em ăn dập miếng giầu em sang
    Đôi ta cùng ở một làng
    Cùng chung một ngơ vội vàng chi anh
    Em nghe họ nói mong manh
    H́nh như họ biết chúng ḿnh với nhau.
    Ai làm cả gió đắt cau,
    Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non.

    1937

    Cô Hái Mơ


    Thơ thẩn rừng chiều một khách thơ,
    Say nh́n xa rặng núi xanh lơ,
    Khí trời lặng lẽ và trong trẻo,
    Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
    Hỡi cô con gái hái mơ già !
    Cô chửa về ư ? Đường th́ xa
    Mà ánh trời hôm dần một tắt
    Hay cô ở lại về cùng ta ?

    Nhà ta ở dưới gốc cây dương
    Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
    Có suối nước trong tuôn róc rách.
    Có hoa bên suối ngát đưa hương.

    Cô hái mơ ơi !
    Chẳng trả lời nhau lấy một lời.
    Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng.
    Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi.




    Dối Ḷng
    Xé bao nhiêu lụa rồi,
    Em không cười một miệng.
    Đốt bao nhiêu lửa rồi,
    Em không lên một tiếng.
    Ḷng anh như lụa đây,
    T́nh anh như lửa đấy
    Bao Tự ngày xưa em !
    Nàng dễ chiều biết mấy !

    Trên đường môi nho nhỏ,
    Trên mầu môi hồng hồng,
    Cái ǵ anh đă thấy,
    H́nh như là mùa đông ?

    Hương lầu hoa ch́m ch́m...
    Cửa lầu hoa vẫn đóng,
    Có khác ǵ môi em !
    Cơ hồ anh tuyệt vọng.

    Có khác ǵ ḷng em,
    Cửa lầu hoa vẫn đóng.
    Nghe hồn anh ch́m ch́m...
    Nghe buồn anh rộng rộng.

    Một toán quân khát nước,
    Đương đi t́m rừng mơ,
    Sao em không bắt chước
    Nói dối như người xưa ?

    Anh dối ḷng anh măi.
    Rằng đây là rừng mơ.
    Anh dối ḷng anh măi
    Rằng em là Nàng Thơ.
    Anh dối ḷng anh măi:
    "Em sắp cười bây giờ"



    Đàn Tôi


    Đàn tôi đứt hết dây rồi
    Không người nối hộ, không người thay cho
    Ŕ rào những buổi gieo mưa
    Ḷng đơn ngỡ tiếng quay tơ đằm đằm
    Có cô lối xóm hàng năm
    Trồng dâu tốt lá, chăn tằm ươm tơ
    Năm nay biết đến bao giờ
    Dâu cô tới lứa, tằm cô chín vàng ?
    Tơ cô óng chuốt mịn màng
    Sang xin một ít cho đàn có dây.



    Giấc Mơ Anh Lái Đ̣

    Năm xưa chở chiếc thuyền này
    Cho cô sang băi tước đay chiều chiều
    Để tôi mơ măi, mơ nhiều:
    "Tước đay se vơng nhuộm điều ta đi
    Tưng bừng vua mở khoa thi,
    Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
    Vơng anh đi trước vơng nàng
    Cả hai chiếc vơng cùng sang một đ̣ ."
    Đồn rằng đám cưới cô to
    Nhà trai thuê chín chiếc đ̣ đón dâu
    Nhà gái ăn chín ngh́n cau
    Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín ngh́n...
    Lang thang tôi dạm bán thuyền
    Có người trả chín quan tiền, lại thôi !

    Buông sào cho nước sông trôi
    Băi đay thấp thoáng, tôi ngồi tôi mơ
    Có người con gái đang tơ
    Vẫy tay ư muốn sang nhờ băi đay
    Sao cô không gọi sáng ngày
    Giờ thuyền tôi đă chở đầy thuyền mơ
    Con sông nó có hai bờ
    Tôi chưa đỗ trạng, thôi cô lại nhà .



    Hai ḷng


    Ḷng em như quán bán hàng,
    Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi,
    Ḷng anh như mảng bè trôi,
    Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều.
    Ḷng anh như biển sóng cồn,
    Chứa muôn con nước ngàn con sông dài
    Ḷng em như cánh lá khoai,
    Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu.

    Ḷng anh như hoa hướng dương,
    Trăm ngh́n đổ lại một phương mặt trời
    Ḷng em như cái con thoi,
    Thay bao nhiêu suốt mà thoi vẫn lành.



    Hành Phương Nam


    Đôi ta lưu lạc phương Nam này
    Trải mấy mùa qua én nhạn bay
    Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
    Riêng ta với ngươi buồn vậy thay
    Ḷng đắng, sá ǵ muôn hớp rượu
    Mà không uống cạn mà không say
    Lời thề buổi ấy cầu Tư Mă
    Mà áo khinh cừu không ai may

    Ngươi giam chí lớn ṿng cơm áo
    Ta trói chân vào nợ nước mây
    Ai biết thương nhau từ buổi trước
    Bây giờ gặp nhau trong phút giây

    Nợ t́nh chưa trả tṛn một món
    Ṣng đời, thua đến trắng hai tay
    Quê nhà xa lắc, xa lơ đó
    Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

    Tâm giao mấy kẻ th́ phương Bắc
    Ly tán v́ cơn gió bụi này
    Người ơi buồn lắm mà không khóc
    Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
    Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
    Ngày mai ra sao rồi hăy hay
    Ngày mai có nghĩa ǵ đâu nhỉ !
    Cốt nhất cười vui trọn tối nay
    Răy ruồng châu ngọc, thù son phấn
    Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay

    Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt
    Giữa chợ ai người khóc nhận thây
    Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
    Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay ?
    Mơ ǵ ấp Tiết thiêu văn tự,
    Giầy cỏ, gươm cùn, ta đi đây

    Ta đi nhưng biết về đâu chứ ?
    Đă dấy phong yên lộng bốn trời,
    Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ,
    Uống say mà gọi thế nhân ơi !

    Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ,
    Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
    Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
    Hát rằng phương Nam ta với ngươi
    Ngươi ơi ! Ngươi ơi ! Hề ngươi ơi !
    Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh,
    Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi...

    Đa Kao, 1943


    Hoa Cỏ May
    Hồn anh như hoa cỏ may
    Một chiều cả gió, bám đầy áo em.




    Lỡ Bước Sang Ngang
    I
    "Em ơi em ở lại nhà
    Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
    Mẹ già một nắng hai sương
    Chị đi một bước trăm đường xót xa.
    Cậy em, em ở lại nhà
    Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
    Hôm nay xác pháo đầy đường
    Ngày mai khói pháo c̣n vương khắp làng
    Chuyến này chị bước sang ngang
    Là tan vỡ giấc mộng vàng từ nay.
    Rượu hồng em uống cho say,
    Vui cùng chị một vài giây cuối cùng.
    (Rồi đây sóng gió ngang sông,
    Đầy thuyền hận,, chị lo không tới bờ)
    Miếu thiêng vụng kén người thờ,
    Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em.
    Đêm nay là trắng ba đêm,
    Chị thương chị, kiếp con chim ĺa đàn.
    Một vai gánh vác giang san...
    Một vai nữa gánh muôn vàng nhớ thương.
    Mắt quầng, tóc rối tơ vương
    Em c̣n cho chị lược gương làm ǵ !
    Một lần này bước ra đi
    Là không hẹn một lần về nữa đâu,
    Cách mấy mươi con sông sâu,
    Và trăm ngh́n vạn nhịp cầu chênh vênh
    Cũng là thôi... cũng là đành...
    Sang ngang lỡ buớc riêng ḿnh chị sao ?
    Tuổi son nhạt thắm phai đào,
    Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu người !
    Em đừng khóc nữa, em ơi !
    Dẫu sao th́ sự đă rồi nghe em !
    Một đi bảy nổi ba ch́m,
    Trăm cay ngh́n đắng, con tim héo dần
    Dù em thương chị mười phần,
    Cũng không ngăn nỗi một lần chị đi."
    Chị tôi nước mắt đầm đ́a,
    Chào hai họ để đi về nhà ai...
    Mẹ trông theo, mẹ thở dài,
    Dây pháo đỏ bỗng vang trời nổ ran.
    Tôi ra đứng ở đầu làng
    Ngùi trông theo chị khuất ngàn dâu thưa.


    II
    Giời mưa ướt áo làm ǵ ?
    Năm mười bẩy tuổi chị đi lấy chồng.
    Người ta: pháo đỏ rượu hồng
    Mà trên hồn chị: một ṿng hoa tang.
    Lần đầu chị bước sang ngang,
    Tuổi son sông nước đ̣ giang chưa tường.
    Ở nhà em nhớ mẹ thương
    Ba gian trống, một mảnh vườn xác xơ.
    Mẹ ngồi bên cửi se tơ
    Thời thường nhắc: "Chị mầy giờ ra sao ?"
    "-- Chị bây giờ"... nói thế nào ?
    Bướm tiên khi đă lạc vào vườn hoang.
    Chị từ lỡ bước sang ngang
    Trời dông băo, giữa tràng giang, lật thuyền.
    Xuôi ḍng nước chảy liên miên,
    Đưa thân thế chị tới miền đau thương,
    Mười năm gối hận bên giường,
    Mười năm nước mắt bữa thường thay canh.
    Mười năm đưa đám một ḿnh,
    Đào sâu chôn chặt mối t́nh đầu tiên.
    Mười năm ḷng lạnh như tiền,
    Tim đi hết máu, cái duyên không vệ
    "Nhưng em ơi một đêm hè,
    Hoa soan nở, xác con ve hoàn hồn.
    Dừng chân bên bến sông buồn,
    Nhà nghệ sĩ tưởng đ̣ c̣n chuyến sang.
    Đoái thương, duyên chị lỡ làng.
    Đoái thương phận chị dở dang những ngày.
    Rồi... rồi... chị nói sao đây !
    Em ơi, nói nhỏ câu này với em...
    ...Thế rồi máu trở về tim
    Duyên làm lành chị duyên t́m về môi.
    Chị nay ḷng ấm lại rồi,
    Mối t́nh chết, đă có người hồi sinh.
    Chị từ dan díu với t́nh,
    Đời tươi như buổi b́nh minh nạm vàng."
    Tim ai khắc một chữ "nàng"
    Mà tim chị một chữ "chàng" khắc theo.
    Nhưng yêu chỉ để mà yêu,
    Chị c̣n dám ước một điều ǵ hơn.
    Một lần hai lỡ keo sơn,
    Mong ǵ gắn lại phím đàn ngang cung.

    Rồi đêm kia, lệ ṛng ṛng
    Tiễn đưa người ấy sang sông chị vệ

    Tháng ngày qua cửa buồn the,
    Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa.


    III
    Úp mặt vào hai bàn tay,
    Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm.
    "Đă đành máu trở về tim,
    Nhưng không ngăn nỗi cánh chim giang hồ .
    Người đi xây dựng cơ đồ .
    Chị vềtrồng cỏ nấm mồ thanh xuân.
    Người đi khoác áo phong trần,
    Chị về may áo liệm dần nhớ thương.
    Hồn trinh ôm chặt chân giường,
    Đă cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây.
    Năm xưa đêm ấy giường này,
    Nghiến răng... nhắm mắt... chau mày... cực chưa !
    Thế là tàn một giấc mơ,
    Thế là cả một bài thơ năo nùng !
    Tuổi son má đỏ môi hồng,
    Bước chân về đến nhà chồng là thôi !
    Đêm qua mưa gió đầy giời,
    Trong hồn chị, có một người đi qua...

    Em về thương lấy mẹ già,
    Đừng mong ngóng chị nữa mà uổng công.
    Chị giờ sống cũng như không
    Coi như chị đă sang sông đắm đ̣ ."




    Nhạc Xuân
    Hôm nay là xuân, mai c̣n xuân
    Xuân đă sang đ̣ nhớ cố nhân
    Người ở bên kia sông cách trở
    Có về Chiêm Quốc như Huyền Trân ?
    Hôm nay là xuân, mai c̣n xuân
    Phơi phới mưa sa nhớ cố nhân
    Phận gái ví theo lề ép uổng
    Đă về Chiêm Quốc như Huyền Trân ?

    Hôm nay là xuân, mai c̣n xuân
    Lăng lắc đường xa nhớ cố nhân
    Nay đă vội quên t́nh nghĩa cũ
    Mà về Chiêm Quốc như Huyền Trân ?

    Hôm nay là xuân, mai c̣n xuân
    Một cánh đào rơi nhớ cố nhân
    Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển
    Ai về Chiêm Quốc với Huyền Trân ?

    Hôm nay là xuân, mai c̣n xuân
    Rượu uống say rồi nhớ cố nhân
    Đă có yêu nhau là đến thế
    Đừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân ?

    Đừng về Chiêm Quốc nhé Huyền Trân
    Ta viết thơ này gửi cố nhân
    Năm mới tháng giêng mồng một tết
    C̣n nguyên vẹn cả một mùa xuân.

    Huyền Trân ơi !
    Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi.
    Giờ đây chín vạn bông trời nở
    Riêng có t́nh ta khép lại thôi !



    Những Bóng Người Trên Sân Ga
    Những cuộc chia ĺa khởi tự đây
    Cây đàn sum họp đứt từng dây
    Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
    Lần lượt theo nhau suốt tối ngày .
    Có lần tôi thấy hai cô gái
    Sát má vào nhau khóc sụt sùi
    Hai bóng chung lưng thành một bóng
    "Đường về nhà chị chắc xa xôi ?"

    Có lần tôi thấy một người yêu
    Tiễn một người yêu một buổi chiều
    Ở một ga nào xa vắng lắm
    Họ cầm tay họ bóng xiêu xiêu .

    Hai người bạn cũ tiễn chân nhau
    Kẻ ở sân toa kẻ dưới tàu
    Họ giục nhau về ba bốn bận
    Bóng nḥa trong bóng tối từ lâu.

    Có lần tôi thấy vợ chồng ai
    Thèn thẹn chia tay bóng chạy dài
    Chị mở khăn giầu anh thắt lại:
    "Ḿnh về nuôi lấy mẹ, ḿnh ơi !"

    Có lần tôi thấy một bà già
    Đưa tiễn con đi trấn ải xa
    Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng
    Lưng c̣ng đổ bóng xuống sân ga .

    Có lần tôi thấy một người đi
    Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi ǵ
    Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
    Một ḿnh làm cả cuộc phân ly.

    Những chiếc khăn màu thổn thức bay
    Những bàn tay vẫy những bàn tay
    Những đôi mắt ướt nh́n đôi mắt ,
    Buồn ở đâu hơn ở chốn này ?

    Hà Nội, 1937






    Qua Nhà
    Cái ngày cô chưa có chồng
    Đường gần tôi cứ đi ṿng cho xa
    Lối này lắm bưởi nhiều hoa...
    (Đi ṿng để được qua nhà đấy thôi)
    Một hôm thấy cô cười cười
    Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất ḷng
    Biết đâu, rồi chả nói cḥng:
    "Làng ḿnh khối đứa phải ḷng ḿnh đây !"
    Một năm đến lắm là ngày
    Mùa thu mùa cốm vào ngay mùa hồng
    Từ ngày cô đi lấy chồng
    Gớm sao có một quăng đồng mà xa
    Bờ rào cây bưởi không hoa
    Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo.

    Lợn không nuôi, đặc ao bèo
    Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
    Giếng thơi mưa ngập nước tràn
    Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều.

    1936


    Thời Trước
    Sáng giăng chia nửa vườn chè
    Một gian nhà nhỏ đi về có nhau
    V́ tằm tôi phải chạy dâu
    V́ chồng tôi phải qua cầu đắng cay
    Chồng tôi thi đỗ khoa này
    Bỏ công đèn sách từ ngày lấy tôi
    Kẻo không rồi chúng bạn cười
    Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa.
    Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa
    "Anh chưa thi đỗ th́ chưa động pḥng"
    Một quan là sáu trăm đồng
    Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi
    Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy
    Hai bên có lính hầu đi dẹp đường.
    Tôi ra đón tận gốc bàng
    Chồng tôi xuống ngựa, cả làng ra xem.
    Đêm nay mới thật là đêm
    Ai đem giăng giải lên trên vườn chè .

    1936
    Tương Tư
    Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
    Một người chín nhớ mười mong một người.
    Gió mưa là bệnh của giời,
    Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
    Hai thôn chung lại một làng,
    Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?
    Ngày qua ngày lại qua ngày,
    Lá xanh nhuộm đă thành cây lá vàng.
    Bảo rằng cách trở đ̣ giang
    Không sang là chẳng đường sang đă đành
    Nhưng đây cách một đầu đ́nh,
    Có xa xôi mấy mà t́nh xa xôi...
    Tương tư thức mấy đêm rồi,
    Biết cho ai biết, ai người biết cho !
    Bao giờ bến mới gặp đ̣ ?
    Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ?
    Nhà em có một giàn giầu
    Nhà anh có một hàng cau liên pḥng.
    Thôn Đoài th́ nhớ thôn Đông
    Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?




    Vâng
    Lạ quá ! Làm sao tôi cứ buồn ?
    Làm sao tôi cứ khổ luôn luôn ?
    Làm sao tôi cứ tương tư măi,
    Người đă cùng tôi phụ rất tṛn ?
    Th́ ra chỉ có thế mà thôi !
    Yêu đấy, không yêu đấy, để rồi
    Mắc hẳn đường tơ sang cửi khác,
    Dệt từng tấm mộng để dâng ai.

    Khuyên măi sơn cho chữ "Ái t́nh"
    Mộng ḷng trang điểm măi cho xinh.
    Có người, đêm ấy, khoe chồng mới:
    "Em chửa yêu ai, mới có ḿnh"

    Có người trong gió rét mùa đông
    Chăm chỉ đan cho trọn áo chồng
    C̣n bảo: "Đường len đan vụng quá !
    Lần đầu đan áo kiểu đàn ông."

    Vâng ! chính là cô chửa yêu ai,
    Lần đầu đan áo kiểu con trai.
    Tôi về thu cả ba đông lại,
    Đốt hết cho cô khỏi thẹn lời !


    Xóm Ngự Viên
    Xóm Ngự Viên ở cạnh đường Gia Hội (Huế), ngày xưa là khu vườn Thượng uyển

    Lâu nay có một người du khách
    Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
    Giậu đổ dây leo suồng să quá
    Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
    Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
    Xóm vắng rêu xanh những lối hè
    Khách du lần giở trang hoài cổ
    Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên.
    Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
    Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên ?
    Sớm Đào, trưa Lư, đêm Hồng Phấn
    Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
    Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
    Theo gót nhà vua nở gót sen
    Hương đưa bát ngát ngoài trăm dặm
    Cung nữ đa t́nh vua thiếu niên
    Một đôi công chúa đều hay chữ
    Hoàng hậu nhu ḿ không biết ghen.

    Đất rộng can chi mà đổi chác
    Thời b́nh đâu dụng chước ḥa Phiên
    Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
    Câu chuyện: "Hô lai bất thượng thuyền."

    Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
    Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên ?
    Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
    Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
    Mười năm vay mượn vào kinh sử
    Đă giả xong rồi nợ bút nghiên

    Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến
    Đi xem hoa nở mấy hôm liền
    Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó
    Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên
    Thắp hương tôn nữ xin trời phật
    "Phù hộ cho con được phỉ nguyền."

    Ḷng Trạng lâng lâng màu phú quí
    Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên
    Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy ?
    Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nh́n.

    Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
    Có người đêm ấy khóc giăng lên
    Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
    Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền ?

    Khách du buồn mối buồn sông núi
    Núi lở sông bồi cảnh biến thiên
    Ngự viên ngày trước không c̣n nữa
    Giờ chỉ c̣n tên xóm Ngự Viên

    Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng !
    Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
    Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
    Dân thường qua lại lối đi quen.

    Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
    Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
    Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
    Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
    Đổi thay t́nh nghĩa như cơm bữa
    Khúc "Hậu đ́nh hoa" hát tự nhiên.
    Nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng
    Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn...

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên.

    Xuân Về
    Đă thấy xuân về với gió đông.
    Với trên màu má gái chưa chồng
    Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
    Ngước mắt nh́n giời đôi mắt trong
    Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
    Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe
    Lá nơn nhành non ai tráng bạc
    Gió về từng trận gió bay đi

    Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
    Lúa th́ con gái mượt như nhung
    Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
    Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ ṿng

    Trên đường cát mịn một đôi cô
    Yếm đỏ khăn thâm trảy hội chùa
    Gậy trúc giắt bà già tóc bạc
    Lần lần tràng hạt niệm nam mô.

    1937


















    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-08-2012 at 11:40 AM.

  10. #220
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    Xin hơi lạc đề một chút nói về văn học Trung Hoa : Tiếu Ngạo Giang Hồ

    Trên Diễn đàn , ngoài bậc Tiền bối Nguyễn Mạnh Quốc , Anh Forex news chủ Topic , nhiều bậc cao thủ thượng thừa : Chị Vân Nương , Anh dqtran , Anh Hungquang25 ,Anh Can Tho , Anh Ba Búa , Anh Thuỷ Học Thanh ., Chị Tigon , Tiếng Xưa , Kim Loan ..

    Thấy Hùng Kiệt viết bài mà đề cập đến bản thân khá nhiều , thật ra là Hùng Kiệt có mục đích .......

    Nếu Hùng Kiệt có 2 Cọp cái yêu dấu, th́ Hùng Kiệt phải có bổn phận và trách nhiệm : 2 Cọp cái phải cùng chiến tuyến với chúng ta chứ !

    1. Cọp Cái Mỹ :

    Đầu tháng 8 vừa rồi Tổng thống Barack Obama bay đến một căn Quân sự lớn tại Tiểu bang Oklahoma, chuyến đi của Tổng thống khá bất ngờ ,nên Thị trưởng Oklahoma City ,và 2 Thượng Nghị Sĩ Tiểu bang cũng không có mặt , chỉ có 3 vị Tướng của Mỹ . .

    May mắn Vivian đang làm việc tại căn cứ Quân sự này , Vivian đă xin phép nói chuyện riêng với TT ,với tư cách là vợ của nguời Mỹ gốc Việt cũng là nhân viên chính phủ liên bang, trong ṿng 5 phút về t́nh trạng nhân quyền của chinh quyền cs Việt Nam : bắt bớ những người biểu t́nh , và nhạc sĩ Việt Khang, không xứng đáng là thành viên của Hiệp Hội ASEAN ....

    (*Chú thích :thành viên của Hiệp Hội ASEAN có nghĩa là Mỹ có bổn phận phải bảo vê khi Trung Cộng tấn công )


    Tổng thống Obama đă nói ....

    Trong một dịp khác Hùng Kiệt sẽ nói , hiện tại không có lợi ! Tai vách mạch rừng !


    *( Vivian là con của cựu Thiếu tá Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn bộ binh tham chiến tại Việt Nam 1968-1970 , Ông bị thương và giải ngũ 1971 cấp bậc Trung tá . )


    * Cọp cái Việt Nam .

    Các Anh Chị Em đă đọc "Tiếu ngạo giang hồ ": Nhậm Doanh Doanh là con của Giáo Chủ Ma Giáo Nhậm Ngă Hành , nhưng lại yêu nhân vật chính chàng Lăng Tử :Lệnh Hồ Xung, đă giúp chính phái như thế nào ! Quí vị không ghét mà c̣n có cảm t́nh với Nhậm Doanh Doanh phải không ?

    Hùng Kiệt may mắn sống tại Mỹ ,lại có 2 Cọp cái thông minh , tài giỏi yêu thương ,th́ phải có bổn phận và trách nhiệm yêu cầu 2 Cọp Cái yêu dấu xung trận giúp Cách mạng Việt Nam chứ ....



















    Hùng Kiệt sẽ trở lại nhà thơ Hàn Mặc Tử
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-08-2012 at 01:42 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Những Chữ Dùng Sai Trong Ngôn Ngữ CSVN
    By Phú Yên in forum Văn Hóa - Nghệ Thuật
    Replies: 5
    Last Post: 15-08-2012, 09:56 AM
  2. Replies: 5
    Last Post: 13-06-2012, 11:28 AM
  3. Phần 2: Những mảng tối trong 'Ngôi nhà Việt'
    By doisoente in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 01-03-2012, 05:29 AM
  4. Replies: 41
    Last Post: 11-08-2011, 08:48 PM
  5. Replies: 7
    Last Post: 18-03-2011, 07:49 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •