Page 28 of 471 FirstFirst ... 182425262728293031323878128 ... LastLast
Results 271 to 280 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #271
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Quote Originally Posted by thuyhocthanh View Post
    Trong một ngày họp tổ phụ nữ hai mẹ con chị T... cùng đi họp , ở trên bục cán bộ cái thao thao bất tuyệt lên án chế độ cũ cùng bọn Mỹ , sau một hồi lên án cán bộ ra một câu hỏi :
    Chị em có biết Mỹ , Nguỵ là một bọn ác ôn chúng coi chị em ta giống như một con CUA , thằng Mỹ nó bẻ hết CÀNG , rồi thằng Nguỵ nó bẻ hết các NGOE ( chân ) th́ hảy hỏi các chị c̣n cái ǵ ???
    Người con chị T... không hiểu ǵ nên quay qua Mẹ hỏi :
    - thế th́ ḿnh c̣n cái ǵ hả Mẹ ???
    Người Mẹ giận quá trả lời người con :
    - Th́ c̣n CÁI MẢ MẸ nó chứ c̣n cái ǵ
    Theo như câu chuyện này th́ anh cả cho một câu trả lời chính đáng , cám ơn anh trước
    Câu trả lời là : Vẫn c̣n đầy đủ

    Quư vị quên là càng và ngoe của cua , nếu bị mất đi , th́ nó tự mọc ra cái khác .

    C̣n nghĩa bóng th́ Tigon chả dám nói .

    tigon

  2. #272
    Member
    Join Date
    07-11-2010
    Location
    Calgary Alberta Cânda
    Posts
    250

    Ai trả lời đúng

    Đọc 2 câu trả lời của chị Tigon và anh cả rất hay , nhưng ḿnh thấy câu trả lời của người mẹ cho cô gái là đúng hơn cả v́ sau khi Mỹ , Nguỵ bẻ hết ngoe và càng th́ bọn VC chúng nó sơi hết thịt con cua nó đâu c̣n cái ǵ th́ chỉ c̣n mả mẹ chúng nó là đúng rồi . nh́n kỹ cuộc sống lầm than của người dân miền Nam sau này nhất là những anh chị thương phế , bệnh binh VNCH giờ sống cũng như chết
    Mong anh chị trong diễn đàn t́m những chuyện vui kể nhau nghe để xoá tan muộn phiền của những posts phe bên cán ngố

    Trong một buổi kiểm thảo sau giờ lao động thuỷ lợi gồm những anh chị em của con dân miền nam cán ngố hỏi :
    - Anh chị cho biết bên nữ có bao nhiêu , bên nam có bao nhiêu KHUYẾT và ƯU điểm ? bên nào hơn bên nào ?
    . Một trai trẻ vội đứng lên trả lời :
    - Thưa cán bộ bên nữ có 2 ƯU và 1 KHUYẾT , c̣n bên nam không có KHUYẾT mà chỉ có 1 ƯU cho nên 2 bên bằng nhau
    . cán ngố ???????????????????? ?????

  3. #273
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Mấy câu ca dao về con cua

    Quote Originally Posted by thuyhocthanh View Post
    Đọc 2 câu trả lời của chị Tigon và anh cả rất hay , nhưng ḿnh thấy câu trả lời của người mẹ cho cô gái là đúng hơn cả v́ sau khi Mỹ , Nguỵ bẻ hết ngoe và càng th́ bọn VC chúng nó sơi hết thịt con cua nó đâu c̣n cái ǵ th́ chỉ c̣n mả mẹ chúng nó là đúng rồi . nh́n kỹ cuộc sống lầm than của người dân miền Nam sau này nhất là những anh chị thương phế , bệnh binh VNCH giờ sống cũng như chết
    Mong anh chị trong diễn đàn t́m những chuyện vui kể nhau nghe để xoá tan muộn phiền của những posts phe bên cán ngố

    . cán ngố ???????????????????? ?????
    Đây này ca dao về con cua :

    "Con cua tám cẳng hai càng
    Một MU hai mắt rõ ràng con cua"
    Bạn Thuy Hoc Thanh chịu chưa?.
    Hì hì

  4. #274
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Tùy bút : Nước mắt Trưng Vương

    Tôi mới nhận được bài này trên groups, nên xin post lên để ví vị hậu duệ của Hai Bà thưởng thức :

    Tùy bút: NƯỚC MẮT TRƯNG VƯƠNG

    Mỗi năm đến dịp lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng vào ngày mồng 6 tháng 2 ÂL, tôi lại nhận được thư mời của Hội Ái Hữu Cựu Nữ Sinh Trưng Vương, về dự lễ được tổ chức tại trường.
    Trường tôi nằm cuối đường Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy cây cao bóng mát. Bước chân về chốn cũ, ḷng tôi bồi hồi rộn ră, cả niềm vui lẫn nỗi buồn, và tiếc nuối thời ấu thơ! Nơi đây đă từng ghi dấu chân tôi và bạn hữu bao tháng năm dưới mái trường thân yêu, cùng thày cô rèn luyện trí, đức. Ngôi trường đối với tôi sao mà thân thương đến thế, nơi đă dạy cho chúng tôi nên người, nhưng nhất là đă hun đức cho chúng tôi tinh thần yêu quê hương tổ quốc!
    Nhớ măi ngày xưa ấy, mỗi lần Lễ Hai Bà Trưng là trường tôi lại rộn ràng chuẩn bị tổ chức lễ hội, chọn các kiều nữ trong trường để đóng vai Hai Bà Trưng và các nữ tướng, để ngồi xe hoa diễn hành khắp đường phố Sài G̣n, ḥn ngọc Viễn Đông, trước mắt bao người dân hân hoan đón chào. Không hiểu v́ sao, nhưng từ lâu người dân thủ đô đă dành cho trường chúng tôi một cảm t́nh đặc biệt. Đó cũng là niềm vinh hạnh cho chúng tôi, một trường nữ trung học được mang tên hai vị Nữ Anh Hùng của dân tộc. Hai vị nữ anh thư của đất Mê Linh xưa, Trưng Trắc và Trưng Nhị, là con của Lạc tướng thuộc ḍng dơi vua Hùng. Sinh ra trong thời loạn, nước nhà bị quân Đông Hán xâm lăng, thân phụ mất sớm, hai chị em được thân mẫu là bà Man Thiên, đă thay chồng nuôi dạy hai con nên người, lại c̣n rèn luyện cho con tài cung kiếm, và nhất là ḷng yêu nước cao vời. Khi tướng quân Thi Sách là chồng của bà Trưng Trắc bị giết bởi Tô Định, một tên quan Tàu hung bạo, hai chị em với chí khí hào hùng của kẻ nam nhi, đă v́ nước mất, nhà tan mà quyết trả thù nhà, đền nợ nước, với lời thề c̣n lưu lại: “Một, xin rửa sạch nước thù. Hai, xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba, kẻo oan ức ḷng chồng. Bốn, xin vẻn vẹn sở công lênh này!” (trích“Thiên Nam Ngữ Lục”).
    Tang chồng vừa thọ, lại thêm nợ nước trên vai, hai vị anh thư đă chiêu mộ quân sĩ, cùng với hơn 70 tướng lĩnh, trong đó có các nữ tướng như Thánh Thiên ở Bắc Giang, Lê Chân ở Hải Pḥng, Thục Nương ở Thái B́nh, Nàng Nội ở Phú Thọ, Lê Thị Hoa ở Thanh Hóa…, oai hùng cỡi voi xông trận, giẹp tan giặc và giải phóng giang sơn khỏi ách thống trị của quân xâm lăng phương Bắc. Sau khi tan giặc và thu hồi được 65 thành tŕ, Hai Bà lên ngôi vua lấy hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh, trị v́ dân trong 3 năm (năm 40-43 sau Công Nguyên), khiến kẻ thù phải kiêng nể gái nước Nam! Tinh thần ấy đă gieo vào ḷng những nữ sinh Trưng Vương chúng tôi niềm tự hào dân tộc, xây dựng trong chúng tôi một t́nh yêu quê hương tổ quốc nồng nàn, và khiến mỗi người chúng tôi luôn có gắng sống sao cho xứng danh con cháu của Hai Bà.
    Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là ngọn cờ chống xâm lăng đầu tiên, viết lên trang sử hào hùng của dân tộc Việt, và khiến cho danh Trưng Vương được liệt vào hàng ngũ những nữ tướng anh hùng của thế giới!
    V́ được thừa hưởng hào khí ấy, mà trước năm 1975 dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa, thời mà miền Nam phải đối phó với Cộng Sản xâm lăng miền Bắc, dù không được chung vai sát cánh cùng nam nhi ngoài chiến trường, nhưng nhiều nữ sinh TV đă gia nhập phong trào Phụ Nữ Bán Quân Sự, hoặc hăng hái tham gia những chương tŕnh ủy lạo chiến sĩ tiền đồn, động viên tinh thần các anh hăng say chiến đấu bảo vệ nền tự do độc lập cho quê hương. Cũng c̣n phải nói đến không ít các nữ sinh TV là vợ, con của chiến sĩ, hay vinh dự trở thành cá quả phụ tử sĩ, để một ḿnh nuôi dạy con cái nên người, thay cho chồng đă hy sinh đền nợ nước!
    Tôi miên man hồi tưởng về dĩ văng mà hầu như quên hiện tại. Bỗng có ai đặt tay trên vai ḿnh kèm với giọng nói êm dịu: “ Chúc mừng bạn trở về họp mặt Trưng Vương!”. Người bạn học không…nhớ mặt nhớ tên, đă thân mật kéo tôi vào hội trường, v́ đă đến giờ khai mạc lễ. Những tiếng cười nói rộn ràng, những cử chỉ tay bắt mặt mừng, và những cái ôm thân thiết. Tôi quan sát khắp hội trường, nh́n lên hàng ghế đầu, các thày cô của tôi c̣n lại nay đă già, v́ học sinh chúng tôi đă vào cái tuổi ngoài năm mươi đến “thất thập cổ lai hy”, huống chi là thày cô! Tôi đang bồi hố suy nghĩ th́ một giọng nói Bắc kỳ ngọt ngào của chị xướng ngôn là cựu nữ sinh TV vang lên từ micro, mời mọi người hướng về sân khấu để chào hiệu kỳ Trưng Vương. Bài “Trưng Nữ Vương” được chọn là hiệu ca, hùng tráng vang lên:
    “Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà, mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca. Thu về giang san cho lừng uy gái Nam, bầu trời Á sáng ngời ánh quang! Nợ nước phó tay người nhi nữ, t́nh riêng cứu nguy cho toàn dân. Một ḷng trung trinh son sắt bền, Hát Giang sóng rền!...”.
    Một ḍng máu nóng ran chảy trong khắp cơ thể tôi. Mọi người chúng tôi cùng đứng trang nghiêm hướng về ảnh của hai vị Nữ Anh Hùng được trưng bày trên sân khấu, cùng hát lên một cách thành tâm và trang nghiêm. Nhiều ḍng nước mắt tuôn trên những đôi má đă qua thời xuân trẻ của cả thày và tṛ! Tôi biết có người khóc v́ nhớ thời xa xưa dưới mái trường thân yêu, riêng tôi vừa xúc động khi nhớ về quá khứ, nhưng c̣n khóc v́ hiện tại! Gương hy sinh cứu quốc của Trưng Vương khiến tôi liên tưởng đế hiện t́nh đất nước và người dân Việt. Khi xưa đất nước bị quân Tàu xâm lược, Tô Định hà khắc với dân lành, th́ nay người dân tôi cũng đang chịu cảnh mất cửa nhà, đồng ruộng; nhiều gia đ́nh phải tan nát, và đang rên siết dưới ách thống trị của bọn người Cộng Sản mất lương tri, tham lam tàn bạo! Không những thế, họ c̣n manh tâm dâng tổ quốc cho lũ sài lang! Nhưng ngày xưa th́ đă có hai vị nữ anh hùng quyết “đem phấn son tô điểm sơn hà”, c̣n ngày nay ai sẽ cứu nguy cho tổ quốc, đồng bào tôi?
    “Trưng Nữ Vương, dày đức cao ân! Xin ứng linh, ban phước cho giang sơn ḥa b́nh.Trưng Nữ Vương! Nước Nam c̣n đó, giống Lạc Hồng quyết kiên ḷng bồi đền non sông! Hồn quốc gia mờ phai má đào, Nhà Việt lặng buồn rầu rĩ sầu đau! Xui ḷng nhi nữ mưu phục thù: Mê Linh rợp trời cờ Việt sắc phô. Mang phấn son tô màu sơn hà, ḷng v́ nước v́ nhà. Cho Việt Nam muôn đời hùng cường, nhờ ân đức Trưng Vương!”.
    Bài hiệu ca “Trưng Nữ Vương” vừa kết thúc, tôi bỗng ngồi sụp xuống ghế và khóc! Ngày xưa tôi nghe bài hát này với cảm nhận hân hoan nao nức bao nhiêu, th́ ngày nay tôi lại cảm thấy xuyến xao và tủi buồn bấy nhiêu. Đất nước tôi ngày nay cũng đang bị đe dọa bởi kẻ thù xâm lăng phương Bắc: cả một dải giang sơn hoa gấm mà tiền nhân đă dày công vung đắp, và đem máu xương để giữ ǵn, nay đă lọt vào tay quân thù! Những điạ danh ghi dấu các chiến công hiển hách oai hùng của tiền nhân như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, nay đă nằm bên kia ranh giới của Tàu, do những kẻ v́ tham lam đă manh tâm dâng bán cho ngoại bang! Nhiều người Việt ngày nay muốn đi thăm lại quê hương h́nh chữ S, lần theo sử sách để t́m: “Nam Quan cho đến cà Mâu, một nhà Việt Nam non nước tươi một màu…”, th́ hỡi ôi! Ải Nam Quan nay c̣n đâu nữa? Xưa Nguyễn Trăi theo cha là Phi Khanh bị quân Tàu bắt đi, đến ải Nam Quan là biên giới, th́ Phi Khanh quay lại từ biệt con và dặn ḍ: “Con hăy quay về lo mưu việc cứu nước và báo thù cho cha!”. Nguyễn Trăi vâng lời gạt nước mắt từ biệt cha già, rồi quay về, theo Lê Lợi diệt giặc cho đến khi thành công, b́nh định được giang sơn, ông đă làm bài B́nh Ngô Đại Cáo lưu danh đến muôn đời, th́ nay địa danh đó đă nằm sâu trong đất địch! Những quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa đầy tài nguyên thiên nhiên như hải sản và dầu mỏ của ta, nay quân xâm lăng phương Bắc cũng đă lấn chiếm. Chúng bắt tàu bè, ngư dân của ta, hành hạ người và cướp lấy của, nhưng kẻ cầm quyền th́ vẫn làm ngơ, lại c̣n khúm núm cúi đầu trước quân giặc! Những công tŕnh xây dựng đất nước như đường xá, cầu cống…tiền tỷ của dân nước, được dâng vào tay những nhà thầu Trung quốc vô đạo đức , vô trách nhiệm và c̣n manh tâm phá hoại cả tài nguyên lẫn môi trường của ta, khiến “tiền mất tật mang”, con cháu sau này không c̣n ǵ để sống, ngoài những món nợ ngập đầu và mảnh dư đồ tan nát! Chưa kể họ đă tạo cơ hội cho hàng chục vạn công nhân Tàu tràn vào đất nước! Giải giang sơn hoa gấm của ḍng giống Tiên Rồng, nay đă tan hoang xơ xác do lũ người vong bản “cơng rắn cắn gà nhà”, đem một thứ chủ thuyết CS ngoại lai hoang tưởng về ngự trị và phá nát giang sơn, phá tan những giá trị nhân bản, đạo đức truyền thống của cha ông, khiến người dân Việt đang lâm vào cảnh khốn cùng chưa từng có trong lịch sử!
    Lễ hội mừng 1000 năm Thăng Long càng lộ rơ sự thấp kém, ươn hèn của nhà cầm quyền CS lệ thuộc vào Tàu, v́ “chất Tàu” nhiều hơn “chất Việt”, và mang tính phá hoại hơn là xây dựng, ly tán hơn là đoàn kết dân tộc! Trong khi đất nước quá nghèo nàn, đa số dân chúng c̣n lầm than đói khổ, nhiều nơi học sinh phải đu dây qua sông, suối để đến trường chứ không có cầu để đi, th́ nhà cầm quyền dám tự tung tự tác dùng tới 94 ngàn tỷ đồng, tương đương 1/10 ngân sách quốc gia để chi cho lễ hội, với những sự việc vừa kỳ quái, vừa ngu si, và mang tính phỉ báng lịch sử, khiến nhiều báo chí, nhiều thành phần dân chúng phải lên tiếng phản bác: tượng vua Lư Công Uẩn th́ tạc giống Tần Thủy Hoàng, bộ phim “Đường về Thăng Long” tốn trên một trăm tỷ đồng, th́ từ cảnh quan, trang phục cho đến diễn viên, quần chúng, rất đông là người Tàu, cảnh Tàu! Những trận đánh lịch sử chống quân Tàu xâm lược như trận Chi Lăng, Bạch Đằng, có trong lịch sử và trong kịch bản, th́ bị đạo diễn Tàu cho cắt bỏ, khiến bộ phim lịch sử dời đô bị coi như một bộ phim Tàu, và không dám chiếu dịp lễ v́ sợ sự “tức nước vỡ bờ” của dân chúng! Chưa kể biết bao sự phí phạm nhưng kệch cỡm, càng góp phần đào sâu hố chia rẽ giữa kẻ cầm quyền với người dân, nhất là đồng một lúc xuất hiện trên báo chí, truyền h́nh hai h́nh ảnh chống chọi nhau: một lễ hội được dư luận báo chí cho là phung phí tiền tỷ, hào nhoáng nhưng thiếu tính văn hóa, trong khi miền Trung bị lũ lụt chưa từng có, nhiều ngàn ngôi nhà ngập ch́m trong nước, hàng triệu dân đói rét trong mưa, thiếu từng sợi ḿ, giọt nước để uống, nhiều ngôi làng bị xóa sổ, dân chúng kéo nhau ẩn ḿnh trong những hang núi đá như thời tiền sử, trong khi chính quyền và nhiều người dân Hà Nội vô cảm, ngày đêm hoan lạc với những đèn hoa rực rỡ, bằng tiền đóng thuế của dân!
    Nước sắp mất, nhà sắp tan, nhưng nào ai sẽ ra tay cứu quốc? Đâu những vị anh hùng hào kiệt? Đâu những đấng anh thư mang ḍng máu oai hùng bất khuất của Trưng Triệu ngày xưa? Nào ai dám ra tay trừ gian giệt bạo để cứu lấy non sông, cứu nguy cho dân tộc? Không! Dân Việt giờ đây vẫn không thiếu anh hùng hào kiệt, giàu ḷng quảng đại với quê hương, muốn kê vai gánh vác sơn hà. Chỉ khốn nỗi, thay v́ được xông pha nơi chiến trường xả thân v́ nước, hay ít nhất được lên tiếng bảo vệ Tổ Quốc, th́ họ đang bị những người anh em cùng con Hồng cháu Lạc, nhưng đă mất nhân tâm, mất linh hồn, ra tay sát hại, cầm tù! Kẻ “nội xâm” đă “khóa chân ngựa, cắt yên cương”, khiến cho những người yêu nước không được đem tài năng và dũng khí cứu quê hương! Ôi! Cái nhục nào bằng, cái khổ nào bằng anh em giết hại anh em,con cháu trong nhà phản tổ tiên gịng giống?! Đau ḷng lắm tiền nhân hỡi! Nước mắt Trưng Vương chắc là đang tuôn đổ cho quê hương tổ quốc, xót thương cho những cháu con ḍng dơi Trưng Triệu như Công Nhân,Thanh Thủy, Như Quỳnh, Thanh Nghiên…, bên cạnh những kẻ nam nhi mang khí phách hào hùng của Quang Trung, Lê Lợi, như LM Nguyễn Văn Lư, Điếu Cày, Công Định,Tiến Trung, Duy Thức,Thăng Long, Hà Vũ v.v…, và c̣n biết bao người con yêu của mẹ Việt Nam trên khắp thế giới cũng như trong nước, đang âm thầm hy sinh mưu cầu độc lập, tự do, công lư cho toàn dân.
    Thượng Đế hỡi! Hồn thiêng sông núi hỡi! Xin hăy cưú dân lành, và trả lại cho chúng con cuộc sống an b́nh, non sông hoa gấm như ngày nào, để Dân Việt c̣n viết tiếp thiên Anh Hùng Ca: Việt Nam, Việt Nam muôn đời hùng cường!
    Tôi làm được ǵ? Bạn Làm được ǵ? Xin mỗi người hăy tạm quên bớt cuộc sống riêng, hăy hy sinh một phần hạnh phúc riêng để nghĩ đến đất nước, dân tộc. Dứt khoát phải bảo vệ non sông hoa gấm này không để rơi vào tay quân thù bạo tàn, bằng không, chúng ta sẽ có lỗi lớn với tổ tiên và với những thế hệ mai sau, nếu như thế hệ chúng ta làm mất nước! C̣n đất nước mới c̣n dân tộc Việt, chúng ta không thể măi măi là kẻ sống nô lệ ngoại bang, hay sống lưu vong, sống nhờ vào một dân tộc khác, một đất nước khác suốt đời này qua đời nọ. Nếu chúng ta không chiến đấu chống quân thù để bảo vệ đất nước bây giờ, th́ con cháu chúng ta sau này cũng sẽ phải chiến đấu dành lại quê hương tổ quốc, lúc đó sẽ muôn vàn khổ đau và khó khăn hơn bây giờ. Đừng để các thế hệ cháu con sau này đọc tên nước Việt Nam, mà không c̣n biết t́m Việt Nam ở nơi đâu!
    Mải miên man với những ư nghĩ riêng, tôi đă quên theo dơi những tiết mục tŕnh diễn rất hùng tráng và dễ thương của ngày lễ hội Trưng Vương lần này! Cho đến khi một nhóm bạn cùng lớp “phát hiện” ra tôi ở một góc dưới cuối hội trường, họ ùa tới kéo tôi ra sân trường hàn huyên tâm sự, về chuyện riêng của mỗi người,và chuyện chung của đất nước, cho măi đến qua trưa.
    Chia tay nhau chúng tôi ra về, ḷng trĩu nặng một mối ưu tư chung, nhưng cũng an ủi nhau hăy nuôi hy vọng sẽ có một ngày mai quê hương bừng sáng, ngày đó chúng tôi sẽ gặp lại nhau để điểm danh xem ai c̣n ai mất, và chắc chắn là chúng tôi sẽ quy tụ thày tṛ cùng tổ chức một Lễ Hội Trưng Vương thật hoành tráng, để tạ ơn Trời, cảm ơn Tổ Tiên và anh linh của hai vị Trưng Vương đă phù hộ cho đất nước, đồng thời thắp lên một nén hương ḷng để tưởng niệm những người con của tổ quốc đă vị quốc vong thân, hay những đồng bào đă chết oan trong thời tao loạn này với đủ mọi h́nh thức. Lúc đó, nếu c̣n được một chút ǵ để cống hiến cho quê hương tổ quốc, chắc chắn chúng tôi sẽ hết ḷng không quản ngại.
    Saigon 13/10/2010
    TRƯNG VƯƠNG SG

  5. #275
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Sơn Chung Tiên Sinh


    Phan Lạc Tiếp

    Sơn Chung tiên sinh, tên là Tân, đệm chữ Nhật, họ Đỗ, nguyên quán làng Hữu Bằng, tục gọi là làng Nủa Chợ, thuộc quận Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây, tức Hà Tây bây giờ. Là trưởng nam trong một gia đ́nh đông anh em, trên có nhiều chị, dưới có nhiều em gái và một cậu em trai út. Song thân là người lành hiền chân chỉ làm ăn. Ngoài nghề dệt vải, nhuộm nâu, nhà c̣n cày cấy dăm ba mẫu ruộng, nên quanh năm buông cái cày, cái bừa lại bắt tay vào với xa ống, với khung cửi. Do đó gia đ́nh họ Đỗ được coi là nhà có bát ăn, bát để. Dinh cơ ở giữa làng, nhà ngói, sân gạch xây kiểu chữ môn. Dinh cơ ấy cụ Bánh, thân sinh ra ông Tân đă dày công trông nom, săn sóc khi xây cất. Từ cổng ngoài bước vào, đường lát gạch chỉ xếp nghiêng, xi măng trộn nhiều hơn cát, nên mạch gạch liền nhau như đúc. Thợ cấy quảy lúa về, có nhảy cũng chả vỡ được. Mạch gạch như thế, một hạt thóc rụng ra, ta quét dễ như bỡn... Nơi bậc gạch từ trên nhà ngang bước xuống sân gạch, để cho khỏi lún v́ ai cũng bước vào, cụ cẩn một viên đá xanh cố ư để cao hơn mặt gạch thường nửa phân. Cụ bảo, nó có lún chút ít cũng là vừa. Mà lún được nó c̣n là khướt. V́ cả vùng đất gắn viên đá ấy cụ đổ toàn đá tai mèo, có đến cả thước chứ ít ǵ. Đường đi đă thế nói ǵ đến căn nhà trên. Ngắm kỹ từ cái kèo, cái cột, thậm chí đến những cánh cửa lùa, tất tật là gỗ lơi, không có gỗ rác, đều tăm tắp, bào nhẵn thín. Dưới mỗi chân cột lại kê một miếng đá tṛn chạy chỉ hai lớp. Rồi căn nhà ngang, nơi cả nhà xúm lại làm ăn, có chỗ kê hai khung cửi máy. Cuối nhà là cái cối giă gạo. Miệng cối gắn nổi hai tấc, bao quanh bằng vành xi măng xanh nguyên chất mua từ ngoài tỉnh. Xi măng ấy miết thật nhuyễn, chính tay cụ làm, nhẵn như gương, sờ vào mát cả tay. Cụ bảo “hạt tấm bắn ra lấy chổi rơm ta lại quét vào...” Căn nhà ngang bên kia là bếp và chuồng lợn. Chuồng lợn ngay cổng vào để khi lấy phân đi không gây bẩn cả sân. Sát bếp, ngay mặt ngoài là cái bể nước mui luyện, h́nh cong như mái thuyền. Cái bể ấy kể như nằm giữa nhà. Nước từ mái nhà trên, nhà ngang chảy vào. Bên ngoài th́ lấy nước ở đầu bể. C̣n trong bếp muốn lấy nước nấu ăn, kể cả khi mưa gió, ngày rét, tháng đông cũng chả lo ǵ, bể xây lặn một phần ba vào nhà bếp. Ngày thường phần bể này được đậy kín để tránh tro bụi bếp bay vào mất vệ sinh. Bể sâu dưới mặt sân có đến cả thước nên nước quanh năm vừa nấu ăn, vừa tắm táp, thừa dùng, mát ngọt và cứ trong như nước suối. Ba căn nhà ấy ba bề, ôm lấy cái sân lát gạch Bát Tràng đỏ thậm. Cụ bảo: “Gạch đem về tôi chọn từng viên. Non mặt, dễ vỡ là không được với tôi đâu, tôi trả lại..” nên nền sân gạch của cụ mầu gạch đều, tím sẫm như mai cua đồng. Cái sân gạch ấy rộng lắm, xe đạp lái quanh sân như không. Dinh cơ ấy lối đi chính mở ra đường Ngă Ba, giữa làng, tiện đi lại. Nhưng pḥng khi có công kia việc nọ, cụ c̣n mở một cửa hông đi ra ngơ nhà cụ Tú, nhà quan Hàn, cạnh nhà thờ ngành họ Phan. Những hôm trời nồng, cụ cho mở cái cổng ngách này, trời ơi, gió từ Ao Hậu, từ Quán Chợ thổi vào, mát cứ lồng lộng c̣n hơn có người đứng quạt. Cụ bảo:“Lúc mở cái cửa này tôi chỉ nghĩ tới khi có động. Động cổng trước, tôi có cổng sau, chứ đâu có biết ông Giời lại chiều ḿnh như thế.”
    Cụ xây xong dinh cơ ấy tốn kém tới bạc ngh́n, đồng tiền thời những năm bốn mươi. Người làng bàn tán, đồn đại “không ngờ cụ Bánh lại giầu thế.” Dinh cơ của cụ tất nhiên không lớn như dinh cơ nhà quan Nghè họ Nguyễn, cũng chẳng sang trọng như dinh cơ của anh em quan Hàn họ Phan, nhưng họ nói “Dinh cơ của cụ Bánh như con dao pha. Khi cần khao vọng, mời hàng phe, hàng giáp, trong ngoài dễ có thể trải chiếu đến năm mươi mâm. Ngày thường làm ruộng, sân ấy có thể phơi trên hai trăm hộc thóc...Chứ c̣n những dinh cơ kia, trông th́ oai vệ thế, hằng năm, năm ba tháng một lần các ông ấy về quê chơi, giỗ Tết mới giở giói ra, c̣n th́ bốn mùa đóng cửa bỏ đó cho bụi bám, nhện giăng, ích ǵ. Làm nhà như nhà cụ Bánh mới là khéo.” Lời phẩm b́nh ấy đến tai cụ Bánh, cụ chỉ mỉm cười. Có ai hỏi gặng th́ cụ nói: “Mỗi người mỗi cảnh. Cảnh chúng tôi quanh năm hết buông tay cày, lại đến cái khung cửi. B́ thế coi sao tiện. Các vị ấy biết, các vị ấy cười chết.” Nói là nói thế, chứ trong ḷng cụ, cụ biết có thừa tiền cũng chả làm nhà to thế. Cụ rất vừa ḷng về dinh cơ của cụ.
    Sau một năm, khi mọi việc đă đâu vào đó, cây hồng cụ trồng trước sân đă bắt đầu ra hoa. Cây na bên bể nước, ngọn cũng đă ngang miệng giếng. Mấy cây cau cụ đặt mấy năm trước từ người chuyên gây giống ở ngoài Thày, đánh về trồng đă bén rễ, ra những tàu lá mới. Cụ cho tết sẵn những ṿi cau, buộc vào thân cây, nước mưa từ những tàu cau sẽ chảy thẳng vào các chum nước. Nước ấy sẽ thơm mùi hoa cau, êm mát, thanh tịnh, dùng để cúng. Cụ bảo “cơ mầu này th́ chỉ vài năm nữa là hàng cau có quả, bà ấy tha hồ ăn trầu.” Tàn cau sẽ tỏa ra như mấy cái lọng dựng ở trước nhà. Vừa mát, vừa đẹp. Chứ như mấy cái tàn, cái tán nhà quan th́ mỗi năm mỗi cũ.... Nghĩ thế cụ Bánh rất vui, và cụ nói với cụ bà, với các con, cụ muốn “Tết này tôi sáu mươi, tôi muốn sửa cái lễ ra lăo cho tươm tất, gọi là có chén rượu mời họ hàng, làng xă...” Nhưng ông Giời oái oăm, hàng cau trước sân chưa có quả th́ cụ Bánh đau nặng, nằm liệt. Cứ tưởng cụ đau vài ngày, ăn bát cháo hoa nóng với hành, mồ hôi toát ra là khỏi, nhưng không. Kể bệnh với ông lang Tàu ngoài Ngă Ba, uống hết ba thang, không bớt. Phải triệu ông lang ngoài Phùng vào. Ông lang Phùng ngồi bắt mạch cụ rất lâu. Mọi người nín thở theo dơi hành động của ông lang. Hồi lâu, hết cổ tay bên trái, lại bắt mạch ở cổ tay bên phải, sờ trán, vạch mắt ra xem, ông lang Phùng đứng lên, vẻ mặt lạnh ngắt không nói ǵ. Ông lấy trong bọc ra thỏi quế, bảo “mài ra cho cụ uống, may ra th́ dương khí ấm lên được...” Ông lang Phùng sửa soạn ra về, c̣n đứng ở hiên, ông Tân tới vái chào và gặng hỏi, ông lang im lặng hồi lâu rồi khẽ đáp: “Bệnh th́ chữa được, nhưng mệnh th́ do Giời...”
    Biết bệnh ḿnh khó bề qua khỏi, cụ gọi ông Tân vào nói: “Thầy bỏ học và tu chí làm ăn, chẳng quản khó nhọc. So với đời cũng là mát mặt. Cơ ngơi này để lại cho anh, anh cố tu chí mà làm ăn. Mấy người con gái đă có chồng con, thôi th́ chả nói làm ǵ. C̣n thằng em út đấy, thôi th́ quyền huynh thế phụ, anh cố lo cho nó.” Nói tới đó cụ lặng im. Cả nhà đă thút thít có tiếng khóc. Cụ mở mắt, nói tiếp: “Không phải tôi ghen ghét ǵ ai. Nhưng như anh thấy đấy, bao nhiêu người đi học họa hoằn lắm mới có một người đỗ được cái tú tài. C̣n đa số chỉ vin vào lời kinh, lời sách sống nghèo túng, lây lất, chỉ tội cho vợ con...Tôi không muốn anh là một trong các người ấy...” Cụ nhắm mắt, lạnh dần, rồi đi. Đám tang cụ linh đ́nh, nhà táng giấy, phường bát âm...đủ cả. Mộ cụ táng ngay trong thuở ruộng nhà, không phải xin đất, phiền lụy đến ai.
    Ông Tân nghe lời cụ dặn, chuyên chú làm ăn. Mấy mẫu ruộng trên đồng, nhờ có hệ thống sông đào dẫn thủy nhập điền nên cấy được hai mùa. Nhưng ông để cho mấy người bà con cấy rẽ, thôi th́ lọt sàng xuống nia, chả đi đâu mà thiệt. Gia đ́nh ông chú tâm vào việc dệt vải, nhuộm nâu, nhờ được lănh bông sợi từ nhà máy Nam Định, căn cứ trên số khung cửi máy đang hoạt động. Mảnh vườn và mảnh ao nhà ông nằm bên đường cái chính, một bên là ao Hậu, một bên là ao Môn Sinh, nước cứ trong leo lẻo. Quanh vườn không có bóng cây nên mới sáng sớm, nắng lên, mảnh vườn đă chan ḥa nắng. Với sự chăm chỉ của hai anh em, anh nhuộm, em chạy phơi, một ngày có đến trên mười nước, gấp rưỡi những nhà khác. C̣n mảnh ao nhà, ông tát cạn, vét bùn đắp lên quanh bờ. Tháo nước vào, ông mua mấy trăm cá mè, cá trôi thả xuống. Mỗi sáng đàn cá nổi lên đớp bọt, mỗi ngày như mỗi nhỉnh ra thấy rơ. Giữa ao ông cho cắm mấy bè rau rút. Vừa tạo bóng mát cho cá ẩn thân, vừa có rau ăn. Ngọn rau rút thả ở ao này, cọng cứ nơn như ngón tay các cô gái. Rau ấy tuốt bỏ lớp áo mềm như bông, luộc chấm muối vừng thôi, cứ gịn sần sật và thơm mát cả miệng.
    Tuy làm ăn chăm chỉ thế nhưng ông Tân vẫn không quên đọc sách. Mấy bộ Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Chinh Đông Chinh Tây, Hán Sở Tranh Hùng..., ông vừa đọc bằng Hán văn, vừa coi bằng Quốc Ngữ. Một hôm, nhân đọc tập Hương Ước của làng, ông thấy nhắc đến việc xă viên các phe phải bảo quản cẩn trọng văn bia của làng được để ở vườn sau, bên hữu hậu cung, không để cho trẻ con chơi đùa phá phách, làm hư hại di sản lịch sử của làng. Một buổi trưa nắng, gió im như đứng, ông bèn nhảy qua tường hoa vào nhà bia. Dưới bóng cây lan tỏa mát hương thơm, ông lau hai mặt bia thật trang trọng, nâng niu. Văn bia viết về các danh nhân thành đạt của làng và ông truy nguyên ra ḍng họ Đỗ nhà ông mấy trăm năm trước cũng có người khoa bảng, làm hào trưởng làng này. Ḷng ông như mở hội. Từ đó ông ngấm ngầm nuôi chí dấn thân. Ông muốn là ông nọ bà kia như người ta. Ông không muốn suốt đời, dù có đồng tiền vẫn là bố cu, mẹ đĩ.
    Nhưng cùng lúc ấy, thời thế đổi thay. Việt Minh lên, cuộc sống mới phát triển, ông hăng hái tham gia. Nhân nhà có bát ăn bát để, ông được mời giữ chân Thủ Quỹ trong Ủy Ban Hành Kháng Liên Xă Quang Trung. Xă này to lớn, gồm cả mấy làng họp lại, bằng một tổng những thời kỳ trước. Bây giờ ông theo mốt mới, mặc quần soóc tím, sách cặp da đi họp. Người trong làng gọi ông là Ông Quỹ. Với ông, như thế cũng là bắt đầu có danh phận với đời. Nhưng thời cuộc không dừng ở đó. Cuộc chiến chống Pháp bùng nổ. Mặt trận lan đến khắp vùng Bất Bạt, Sơn Tây. Làng Nủa không tránh khỏi. Tây từ Ḥa B́nh, từ trong núi tiến ra, rồi đóng đồn ngay Cống Đặng, trấn ngay ngă tư đường đi Sơn Tây - Phủ Quốc. Năm ấy là năm 1949, các làng lần lượt phải “ tề.” Một hôm, Tây về làng bắt phu, kiếm gỗ và lấy cả hoành phi, câu đối lót đường cho xe các quan chạy. Người con trai cụ tú họ Phan, biết nói tiếng Pháp, được người làng yêu cầu “ nói cho họ biết, cần gỗ th́ lấy cánh cửa cũng được. Sao lại phải lấy câu đối, hoành phi..” Tây nghe ra và tỏ vẻ thông cảm. Ông Tân đứng cạnh người con cụ Tú họ Phan, chứng kiến cuộc nói chuyện này. Đêm đến, Tây trở về đồn. Việt Minh c̣n ẩn khuất trong làng, tới lễ phép mời người con trai cụ Tú và ông Tân đi họp. Cả hai được du kích dẫn ra cánh đồng chân núi Sài Sơn. Họ giữ chặt tay chân người con trai cụ Tú, nói mấy lời kết án, rồi sai hai người lấy dây thừng kéo mạnh, siết cổ tới chết. Ông Tân đứng đó chứng kiến, sợ đến lạnh toát cả chân tay, sẵn sàng chờ đến lượt ḿnh. Nhưng không. Họ kéo xác người con cụ Tú đi, và nói với ông Tân: “Chúng tôi tha chết cho anh...” Như người vừa tỉnh cơn mê, trời tối đen, ông Tân đứng lặng một hồi để thần trí trở lại. Trước mặt là núi Sài Sơn đen thẫm, phía sau một vùng sáng mờ mênh mông, ông đoán đó là đồng Bùi nước trắng. Ông cắm đầu chạy một quăng và ngă chúi xuống ven con sông đào. Ông biết hiện ông ở đâu. Trời đă hửng sáng. Cứ theo bờ con sông đào mà đi. Con sông đào dẫn tới đập cầu Phùng, nơi phát xuất nguồn nước dẫn thủy nhập điền chảy về những cánh đồng các làng Canh Nậu, Dị Nậu, Bến Thôn và cánh đồng trên của làng, nơi gia đ́nh ông có mấy mẫu ruộng cấy hai mùa. Cầu Phùng, đập Phùng và bây giờ có Đồn Phùng, nơi Pháp đóng quân. Ông cắm đầu chạy miết. Trước mắt ông chỉ là h́nh ảnh người con trai cụ Tú mờ nhạt trong bóng đêm, kêu ú ớ, ngă xuống và bị lệt xệt lôi đi. Vừa mệt vừa kinh hăi, ông ngă xuống và thiếp đi. Mở mắt ra, quanh ông là mấy người dân đi chợ sớm, họ lấy nước tiểu xoa vào mặt ông, lay gọi ông thức dậy. Ông được đưa đến đồn Phùng. Ở đây, qua người thông dịch, ông kể lại nỗi kinh khiếp đêm qua. Người sĩ quan Pháp dùng máy liên lạc x́ sồ, ông không hiểu, nhưng ông nghe nhắc đến Nóc-Bai, Huu Bang, th́ ông biết có lẽ họ đang nói chuyện liên hệ đến Ngọc Bài, đến làng Hữu Bằng. Người sĩ quan Pháp, sau cuộc điện đàm có thái độ cởi mở hơn đối với ông. Họ hỏi ông muốn ǵ. Ông chỉ nói muốn ra Hà Nội. Ra Hà Nội làm ǵ, sinh sống ra sao, ông không cần biết. Ông chỉ muốn bỏ hết mà đi thật xa khỏi quê hương ông. Rơ ràng đó là nơi không c̣n đất sống cho ông, cho những người như ông. Ông đă cộng tác với họ, với Việt Minh, nhưng chính những người ban ngày là bạn ông, ban đêm, với những suy nghĩ khác, với những liên hệ khác, chính họ, họ đă đến nhà ông, rất thân t́nh... “th́ trên cho chúng tôi tới mời anh đi họp.” Họ đă nói như thế, nhưng vừa rời khỏi nhà, vừa khuất tầm mắt của vợ con ông, của mẹ ông, hai người du kích đă nắm chặt hai cánh tay ông. Phía sau, người bí thư xă chĩa ṇng súng lục lạnh ngắt vào lưng ông, với giọng nói nhỏ gọn như phát ra từ hai kẽ răng “Đừng có dại dột mà vùng chạy...”
    Ra tới Hà Nội, sau ít ngày bị giam giữ, ông khai báo là có quen người này, người khác mà ông nghe phong thanh đă về thành. Sở Liêm Phóng phóng thích ông và coi ông như một người Quốc Gia yêu nước, có thành tích chống Cộng. Chẳng bao lâu giữa quê ông và Hà Nội đă đi lại b́nh thường. Quê hương ông đă có nhiều người đi lại, buôn bán. Ông được vợ con nhắn về, nhưng ông nhất định không về. Ở Hà Nội, ông lần ṃ tới những nơi cửa đ́nh, cửa phủ, với vốn chữ Hán học được khi c̣n nhỏ, ông kiếm ăn bằng nghề viết sớ, đoán thẻ, xin sâm. Lạy Thánh mớ bái, những ngày lang thang như thế, ông sống cũng tạm ổn, không phải phiền lụy, vay mượn ai. Cũng trong dịp này, chữ nghĩa như có chân, khiến ông làm quen được với một số người gọi là trí thức, một vài nhà thơ. Nhưng tiếng súng mỗi đêm đă vọng về Hà Nội. Rồi cả nước rộn lên v́ mặt trận Điện Biên. Rồi chia đôi đất nước. Người Hà Nội rộn ră vào Nam. Bà vợ ông bao lâu ở tịt trong làng, một hôm, ông từ đền Ngọc Sơn về, th́ thấy bà ấy đứng ở trước nhà trọ. Hai người bỡ ngỡ nh́n nhau. Bà nói:
    - Thầy nó có về không. Người ta bảo về được đấy, về đi.
    Ông lặng yên. Một hồi lâu ông mới nói:
    - Tin họ không được đâu. Tôi không về được.
    - Thế Thầy nó đi Nam à?
    - Nào biết trong Nam ra sao. Mà ḷng tôi lúc nào tôi cũng chỉ biết tới căn nhà ḿnh. Tôi nhớ mảnh ao cá, bè rau rút, tôi nhớ mẹ nó và lũ con ở nhà... Nhưng nhất định là tôi không về được đâu. Thôi th́ cứ coi tôi như không c̣n nữa... Thôi mẹ nó về, trăm sự tôi trông cả vào mẹ nó. Nhớ săn sóc Mẹ và các con hộ tôi. Và cố gây dựng cho chú Út nó...
    Trong gần một triệu người từ Bắc vào Nam, có lẽ ông là người không muốn đi chút nào, nhưng cũng lại là người nhất quyết phải ra đi. Ở trong Nam, không vợ con, ông cũng chẳng màng làm ăn ǵ cả. Bao nhiêu năm như thế, với chiếc xe đạp cũ, ông đạp khắp Sài G̣n, thăm khắp lượt bà con xa gần, người làng và cả những người hàng tổng, hàng huyện. Anh em thấy ông túng thiếu, tự động giúp đỡ, ông vui vẻ nhận, nhưng tuyệt nhiên không ngỏ lời vay mượn, xin xỏ ai. Sau này, những bà con từ Bắc vào đă ổn định cuộc sống, nhiều người làm ăn giàu có, nhưng vẫn theo lệ cũ, ông đều một năm đôi lần đạp xe tới thăm, bất luận giàu nghèo. Do đo muốn biết người làng, bà con ra sao, cứ hỏi ông là rơ cả. Ông này mới làm nhà. Bà kia mới khai trương tiệm vải. Con nhà ông nọ vừa đỗ cử nhân... Ai ông cũng biết.
    Rồi một biến cố xẩy ra.
    Trong kỳ phát Giải Thưởng Văn Chương Tổng Thống, giải dịch thuật, có tên ông: Sơn Chung Đỗ nhật Tân, trúng giải ba. Mấy chục ngàn tiền thưởng, đúng là tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống. “Th́ cũng là cái lộc. Trang trải những món nợ từ bấy lâu nay.” Nhưng trong ngôn ngữ của ông có phần thay đổi. “Ấy cụ Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền nhờ xem hộ mấy cuốn sơ khảo .... Hôm nọ cụ Vương Hồng Sển mời tới Viện Bảo Tàng nhờ đọc hộ mấy cái văn bia...” V́ thế trong những giao tiếp giữa bà con, có ai gọi ông là Ông Quỹ, th́ tuy không nói ra, nhưng ông có vẻ không bằng ḷng. Biết thế nhưng không ai biết phải gọi ông với danh xưng ǵ cho phải. Nhà văn ? Không ổn. Ông chưa có tác phẩm trước tác nào. Thi sĩ? Cũng không ổn. Gọi là nhà biên khảo hay dịch giả có lẽ gần gũi với công việc của ông hơn. V́ tác phẩm mà ông trúng giải, nghe đâu là một cuốn truyện cổ từ chữ Hán, được ông chuyển ra Quốc Ngữ. Cuốn truyện ấy sau đó cũng ch́m vào quên lăng v́ nghe ông than phiền “Bản dịch ra đấy, Phủ chẳng có ngân quỹ để in...”
    Cứ như thế, ṛng ră bao nhiêu năm ông không có ǵ thay đổi. Ăn mặc xuềnh xoàng. Mặc ai xe cộ nghênh ngang, ông vẫn chiếc xe đạp cũ đi khắp đó đây. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 75, người ta đổ xô t́m đường ra đi, ông ở lại. “Già rồi, đi đâu nữa. Mà ḿnh đâu có làm ǵ. Như các chú c̣n ra làm quan, có chức có phận, có ở lại với họ cũng chả được đâu. Đi đi.” Ông nóí thế.
    Sau những ngày sôi nổi ban đầu, ông liên lạc về quê cũ. Ông hỏi về những người năm xưa đă coi ông như kẻ thù, được người nhà cho biết:“Họ chết cả rồi.” Ông quyết định bỏ miền Nam trở về Bắc. Trên xe hỏa xuyên Việt đầy ứ người và chật ních những hàng hóa “chiến lợi phẩm” như quạt máy, radio, quần áo, đồ chơi... Mọi người cười nói hể hả và không giấu được vẻ ngỡ ngàng trước sự giàu có, phong phú của miền Nam. Có người trên cùng toa xe đă hỏi ông “thế hàng của bác đâu?”, không biết trả lời sao, ông chỉ ậm ừ nói “tôi già rồi, buôn bán ǵ...” Đây cũng là cơ hội đầu tiên ông được nh́n thấy suốt chiều dài của đất nước với các vết tích của chiến tranh c̣n để lại. Những hố bom, những đổ nát trùng trùng không dứt...Ông tiếc, ông không có khả năng của một nhà văn, nhà báo để ghi lại, viết lại.
    Gần 25 năm kể từ cái đêm kinh hoàng ở chân núi Sài Sơn, hôm nay ông mới bước chân về làng cũ. Ông lấy xe từ Cầu Giấy, Hà Nội đi Sơn (Sơn Tây). Xe đến Phùng th́ ông xuống. Ḷng ông nhẹ tênh mà ngao ngán, bồi hồi. Con đê Hiệp trước mặt. Từ đó ông đă nh́n thấy nóc tháp chuông nhà thờ của họ đạo làng Vĩnh Lộc nổi cao giữa những hàng tre. Cuối hàng tre ấy là hàng tre làng ông. Gió đồng lồng lộng thổi. Hai bờ con sông đào hiện ra thẳng tắp. Ông lại thấy hiện ra h́nh ảnh người con trai cụ Tú họ Phan mềm rũ được lôi đi trong bóng đêm mù mịt.
    Đoạn đường từ chân con đê Hiệp đến Cầu Rô dọc theo sông đào đă gợi trong ḷng ông bao nhiêu xao xuyến. Những dải đường ṃn dưới chân ông như th́ thầm chào hỏi. Ông bỗng nhớ tới mẹ. Bà cụ đă mất. Ông nh́n sang bên trái, cánh đồng trên, nơi ấy có mấy mẫu ruộng nhà ông, nhất đẳng điền, cấy hai mùa. Nơi thân phụ ông đă nằm lại trên thửa ruộng nhà. Ông định tạt vào thăm mộ, nhưng trời đă chiều, ông khấn nhỏ trong ḷng và nhớ lại những lời cụ dặn: “Bao nhiêu người đi học, mấy ai đă đỗ được cái tú tài, c̣n th́ cứ vin vào lời dạy của sách mà sống nghèo túng...” Ông bỗng thấy lời nhắn của thân phụ ông như một lời tiên tri, ḷng ông tràn dâng một nỗi bồi hồi, mồ hôi toát ra, chân tay run rẩy. Ông cắm cúi đi. Cả đoạn đời cũ bao nhiêu năm bỗng rộn ră hiện về. Gió đồng vẫn miên man thổi. Ông thấy mhững năm tháng ở trong Nam như chẳng dính ǵ đến ông, nhẹ tênh, mờ nhạt như một giấc mơ.
    Ông bước vào cổng làng, gặp nhiều người mà chẳng thấy ai quen. Đến ngơ nhà ông, ông đứng laị. Vừa lúc ấy, vợ ông từ trong sân đi ra. Hai người sững sờ nh́n nhau, một lúc lâu ông mớí lên tiếng: “Mẹ nó không nhận ra tôi ư...” Từ phút ấy là những tiếng kêu, những ḍng lệ tủi mừng: “Thế anh cả đây ư? Bác đây ư? Ông của cháu đây ư....?” Quanh ông là con, là cháu, là chị, là em, bà con, làng xóm. Ông nh́n lên bàn thờ, mấy cái chân đèn gỗ long lở, bụi bậm. Ông đứng im rồi với mấy cây hương, đốt lên cầm giữa hai tay mà vái. Nước mắt ông chan ḥa...
    Nhưng mới hôm trước hôm sau, Uỷ Ban Xă mời ông ra trụ sở làm việc. Họ ăn nói rất ôn ḥa “... Bác ở xa mới về, chưa quen nếp sống mới, bác cần được nghỉ ngơi, học tập một thời gian...” Thế là ông phải đi tù. Hôm đến trại, sau phần thủ tục, ông ngồi dưới gốc cây, có một ông già đến, đứng trước ông khá lâu. Biết thế, nhưng ông chẳng nh́n. Rồi người đứng cất tiếng hỏi: “Cụ là cụ Tân...”, lúc ấy ông mới ngước lên: “Ô…ng?” Ông chưa hỏi hết câu người trước mặt đă thảng thốt kêu lên: “Thầ..y. Thầy đây hả thầy...Con đây thầy ơi!” Người con ôm chầm lấy bố, mếu máo, nước mắt như mưa, nhưng ông Tân th́ rửng rưng, lạnh ngắt. Nỗi mừng vui đoàn tụ bất ngờ, đột ngột quá khiến tâm trí ông như chưa sẵn sàng, chưa có một dự tưởng nào về nỗi éo le này. Hay nỗi bàng hoàng kinh khiếp của buổi trở về đă làm tâm hồn ông lạnh giá. Như một phản xạ tự nhiên, ông ṿng tay quàng vào tấm thân gầy yếu, rách rưới, con ông. Trong một khắc trôi qua, ông bỗng trào nước mắt, và mếu máo thốt lên:
    - Con. Con đây ư ...
    Ngướ con oà khóc và nói :
    - Con đă tưởng ở trong Nam th́ Thầy đă thoát. Sao Thầy lại c̣n về để bố con ḿnh gặp nhau ở đây...
    Vừa lúc đó có tiếng tên quản giáo quát lên:
    - Hai anh kia, linh tinh...
    Một cơn gió rừng bỗng ào ào thổi tới, cuốn theo từng mảng lá khô, mịt mù che lấp tầm mắt. Gió chuyển trên những đỉnh cây, hàng cây nghiêng ngả, cúi đầu. Âm vang của gió rít từng cơn cuồng nộ lan tỏa khắp bầu trời nặng trĩu, âm u. Và mưa xuống ào ào như thác đổ...
    Chỉ một lát mưa tạnh, ngựi con đă chạy đi đâu không biết. Ông nghĩ thầm: “Chẳng lẽ là nó...”
    Trên đây là những việc thật, người thật. V́ Sơn Chung là anh tôi, con trai trưởng của già tôi. Mẹ tôi là em ruột của mẹ ông. Sơn Chung Đỗ Nhật Tân gọi mẹ tôi là d́. Người thanh niên xấu số bị thắt cổ chết tên là Phan Lạc Trạch, là con của bác Tú tôi, là anh họ tôi, là chú ruột của Phan Lạc Tuyên... Những nỗi tang thương, những oan khiên, chia lià của thời cuộc trải dài trên nửa thế kỷ, phủ lên bao nhiêu gia đ́nh, qua mấy thế hệ, xét cho cùng, thật vô cùng ghê gớm và cũng thật là vô ích. Hoàn toàn vô ích. Biết ra th́ đă quá muộn màng.
    Năm 1994, sau 40 năm xa cách, từ Mỹ tôi trở về thăm lại quê nhà. Trong những người đến thăm chúng tôi, có Sơn Chung Tiên Sinh. Ông bị tù mấy năm rồi được thả về, v́ già yếu. Ông bắt tay tôi vừa phải, không vồn vă như những người khác. Ông trao cho chúng tôi đôi câu đối cũ, do tay ông viết lại và bảo: “Chú đem về bên Mỹ mà treo hai bên bàn thờ. Lời của tổ tiên họ nhà từ mấy trăm năm để lại. Và tôi tặng chú cuốn sách nhỏ này để biết thêm về làng ta ...” Khi ông ra về, tôi nh́n theo. Tóc ông thưa, phờ phạc và bạc trắng. Giữa hàng tường hoa rêu mốc, đổ nát, ông bước đi chân không, nhẹ nhàng, không ngoảnh lại. T́nh cờ tôi thấy vai áo ông, đũng quần ông chằng chịt những miếng vá. Tôi muốn khóc v́ thương ông. Tôi đứng lặng một hồi rồi nh́n xuống cuốn sách. B́a mầu tím phết cậy, đóng bằng ba mũi chỉ khâu, như những cuốn sách chữ Nho, cuốn Tam Tự Kinh mà mấy mươi năm trước tôi đă ê a học trong nhà thầy đồ. Nhưng đây là cuốn Hữu Bằng Xă Chí. Cuốn sách viết về làng tôi từ thuở xa xưa tới những năm cận đại. Lối văn như nói, lối nói của làng quê, làng Nủa. Cuốn sách tuy mỏng, chỉ có 61 trang đánh máy trên giấy mỏng, nhưng đề cập tới mọi sinh hoạt của làng, nói đến những thành công mọi mặt, từ các danh nhân thành đạt qua khoa cử, đến những đóng góp cụ thể của những ai mang lại sự hưng thịnh cho làng. Ông tỏ ra rất chừng mực, công bằng nói đến tất cả những ḍng họ, dù to, dù nhỏ đă góp mặt tạo nên làng Hữu Bằng. Tất nhiên ông đă ca ngợi các nét hay, đẹp của làng, nhưng ông cũng thẳng thắn nêu ra các thói hư tật xấu mà người làng v́ cớ này, cớ khác đă mắc phải. Riêng về những giai thoại, những thơ văn tiêu biểu bằng Hán Văn, cũng như bằng chữ nôm, chữ Quốc Ngữ, được ông sưu tầm rất công phu, với lời dẫn giải, ghi chú rất rành mạch. Về Mỹ, cuốn sách mỏng này khiến tôi bồi hồi và sửng sốt, v́ càng đọc càng thấy cha ông chúng tôi qua biết bao sóng gió, khó khăn đă dày công vun đắp, giữ ǵn làng xóm ra sao. Càng biết như thế càng thấy ông, Sơn Chung Tiên Sinh, là một người thật hiếm. Tấm ḷng ông dành cho quê hương thật đầy đặn. Đúng là ông sinh chẳng phùng thời. Ông sinh năm 1920, tôi nghĩ giá ông sinh sớm hơn độ 30 năm, cuối thế kỷ 19, dù Nho học đă bắt đầu tàn, ông c̣n có thể đi thi, nếu không là ông cử, ông tú, chắc chắn ông đă thi thố được mộng ước của ḿnh, của một kẻ sĩ. Nhưng nghĩ cho cùng, ông như cái bóng của dĩ văng c̣n sót lại, lạc loài giữa xă hội chúng ta. Ông sống thanh bần, liêm khiết, trong sáng như hương đồng gió nội, cần mẫn như người nông dân sớm hôm tay lấm chân bùn. Thấy việc phải th́ làm, cần mẫn làm, ai biết th́ quư, không ai biết cũng chẳng quan tâm. Ông mất tại quê nhà, năm 2000, lúc người con trai ông đă được tha tù. Trước phút lâm chung, người con trai trưởng của ông đứng cạnh, nắm chặt bàn tay ông. Ông nằm trên cái phản mà trên năm mươi năm trước cụ thân sinh của ông đă nằm. Ánh mắt mờ nhoà khép lại. Ở đuôi mắt ông, hai giọt nước mắt long lanh rơi, chảy sang hai bên thái dương. Ông trút hơi thở cuối cùng. Bàn tay ông lạnh giá trong bàn tay sần sùi khô cứng của con ông. Cả nhà oà lên tiếng khóc. Ông hưởng thọ 81 tuổi, tuổi ta.
    Một cuộc đời nho sĩ vừa đóng lại. Tôi lại nghĩ đến bút hiệu của ông. Sơn Chung. Sơn là núi. Chung đây là cùng, là tận. Sơn Chung, góc núi. Người ví ḿnh như kẻ sống trong tận cùng góc núi, tự xa lánh cuộc đời, hay ví ḿnh như một thứ trích tiên. Tôi không biết thực ư của ông khi lấy bút hiệu ra sao, v́ trong giao tiếp hàng ngày ông không nói. Trên những trang sách ông viết, ông chỉ nói về làng xóm, về những người khác, tuyệt nhiên không có một ḍng nào viết về ông. Nhưng anh em tôi, những kẻ hậu sinh, trong mấy chục năm qua, v́ thời cuộc đẩy đưa được làm việc này việc khác, có cơ hội gặp gỡ, học hỏi từ nhiều người, khi nghĩ về ông, Sơn Chung Đỗ Nhật Tân, chúng tôi vẫn thấy ông là một người hiếm quư. Ông đúng là một kẻ sĩ đầy nghĩa khí và khiêm cung. Ông như từ một cơi nào xa cũ, lạc loài sống giữa thời đại chúng ta. Bao quanh ông h́nh như có một bầu không khí khác, một cảnh chí khác đầy ắp vàng son đang tàn lụi, lẫn những nuối tiếc, buồn phiền. Ông biết thế, biết rất rơ, nhưng ông chẳng muốn thoát ra mà c̣n vô cùng trân quư, nâng niu những h́nh bóng ấy. Do đó, dù không nói hết được những điều ông đă làm, đă kư thác, tôi viết những ḍng này thay cho nén hương vái trước linh cữu ông, v́ chúng tôi ở xa không thể về viếng thăm và nh́n ông lần cuối. Mộ ông táng ở cánh đồng làng, “gối đầu” vào Sài Sơn, núi Thày, trước mặt, dưới thấp là cánh đồng Bùi trùng trùng gió thổi, và bạc trắng nước khi mùa mưa tới.

    Sau bao tháng ngày tha hương, dâu bể, ông đă về, ông đă tới quê nhà. Một quê nhà không c̣n những phiền muộn, tàn độc, hận thù. Một quê nhà miên viễn của b́nh yên. Và tôi tin rằng ông đă gặp được “những người muôn năm cũ” nơi quê hương b́nh yên đó.

    Phan lạc Tiếp
    �� 29 tháng 12 năm 2001
    Last edited by CảThộn; 06-04-2011 at 01:28 AM.

  6. #276
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Tôi Lấy Vợ

    Thái Quốc Mưu
    2010/04/03
    Hồi học lớp đệ tứ (lớp 9 bây giờ), tôi có đọc đâu đó truyện ngắn tựa là "Lấy vợ miền quê", của tác giả nào tôi quên. Tôi rất khoái truyện ngắn nầy và định bụng lớn lên ḿnh cũng “lấy vợ miền quê” như tác giả kia. Nói th́ hơi xấu hổ, vừa đậu Tú Tài phần hai, lúc đó tôi mới 18 tuổi tây, tức 19 tuổi ta, mà tôi đă..."muốn vợ"! Con trai mà “muốn" chuyện ǵ th́ thường ṿi vĩnh với mẹ, như chiếc xe đạp, đồng hồ, quần áo mới, kể cả chiếc solex cáu cạnh tôi đang chạy, mà chỉ hàng “thiếu gia”... ở tỉnh như tôi mới có.
    Những thứ đó tôi đều manh dạn nói với mẹ, và lần nào cũng vậy, mẹ tôi không cần suy nghĩ mà “ô kê” liền. C̣n cái vụ "muốn vợ" nầy, tôi có miệng mà chẳng thốt nên lời! Tôi định bụng lúc nào mẹ vui và khi chỉ có hai mẹ con ở nhà th́ tôi "tâm sự" liền. Mẹ lúc nào lại không vui! Vả lại tôi là con một trong gia d́nh, chỉ cần ba tôi đi uống cà phê hay đi đâu đó th́ có biết bao nhiêu dịp… may!
    Thế mà khi thấy mẹ ngồi, tôi vừa xề lại th́ bao dũng khí đă tiêu tan! Bao lần như vậy, dường như bà để ư, giọng ngọt ngào cố hữu:
    - Ǵ đó con trai cưng? Muốn ǵ nữa phải không?
    Lúc đó tôi chỉ cần một “gờ-ram” dũng khí, thêm một tiếng "vợ" sau tiếng "muốn" của me tôi th́ đ̣n cân cục diện đâu lại vào đấy rồi.
    Đàng nầy tôi lại nhút nhát, rụt rè! – Điều nầy, vốn không phải là bản tính của tôi:
    - Dạ... có "muốn" ǵ đâu mẹ!
    Trả lời xong tôi thấy ấm ức, giận ḿnh sao quá yếu gan! Th́ may thay, vợ chồng anh hai Trân tới chơi. Anh với tôi là chú bác ruột tôi. Hai Trân là con trai trưởng của bác hai, c̣n cha tôi đến thứ chín, nên ảnh nhỏ hơn cha tôi chẳng bao nhiêu. Anh rất vui tính, cởi mở, lẹ làng, sốt sắng. Cái ǵ cũng chịu hoạch toẹt, không chịu úp úp mở mở, nên có khi hơi lố lố. Vậy mà tôi lại quư mến anh ở điểm nầy nhất, mới lạ!
    Chưa chào hỏi mẹ tôi, anh nh́n tôi bôm bốp:
    - Đậu (Tú Tài ) rồi hả mậy? Là người lớn rồi, cưới vợ được rồi đó nghen!
    Thuở đó đậu Tú Tài cũng oai lắm, kiếm việc làm dễ như chơi. Trong thân tộc có người đậu tú tài là niềm hănh diện chung. Nghe anh nói, tôi khoái chí tử, nhưng cũng làm bộ:
    - Mới bây lớn mà có vợ ǵ anh ơi!
    - Sao lại “bây lớn"? Hồi tao cỡ mầy là con cu biết gáy rồi. Mầy hỏi chú chín....
    Chị hai thúc mạnh vào hông chồng:
    - Nói bậy không hà! Thím chín ḱa!.. Chú nó c̣n nhỏ...
    - Nhỏ nhỏ cái ǵ? Cỡ tuổi nó tôi có con rồi!
    Tôi mỉm cười, thấy thích anh lạ! Anh hai quay sang mẹ tôi:
    - Thím chín! Em lớn rồi nghen thím. “Nam đại bất hôn như liệt mă vô cương”đó thím. Em nó đẹp trai, học giỏi, nhà giàu, mà thím không chịu cưới vợ cho nó là có ngày có người bồng cháu nội về cho thím nuôi đó!
    Chị hai nạt:
    - Nói bậy không hà! Cái tật không bỏ!
    Anh hai nói chuyện thường chêm vào mấy câu chữ nho, những lần đó tôi cũng bực ḿnh, v́ có câu tôi cũng không hiểu nghĩa rơ ràng.
    Câu anh vừa nói tôi hiểu, xem ra nó cũng hay đó chứ! C̣n chị hai, là người phụ nữ nết na, đẹp lại hiền, hay ḱm chế chồng những khi anh quá trớn. Đặc biệt lần nầy tôi lại thấy chị hơi… quá trớn!
    Mẹ mỉm cười:
    - Biết nó chịu không mà cưới?
    Tim tôi đập th́nh thịch. Không ngờ diễn tiến lại thuận lợi như vậy. Mẹ nói thế tức là nếu tôi "chịu" th́ mẹ cưới chứ ǵ? Ôi con đường... cưới vợ sao mà hanh thông như vậy!
    Anh hai quyết liệt:
    - Sao lại hổng chịu thím? Hỏng lẽ nó muốn vợ nó lại la làng lên sao? Hồi trước con muốn vợ, con cũng đâu dám nói cho má con mà phải nhờ chú chín mở hơi giùm. Thím quên rồi sao?
    Quay qua tôi, anh dịu giọng:
    - Nè cưng, anh hai hỏi thiệt nghen, cưng có muốn cưới vợ không?
    Phải nói là nhờ anh hai mà ḷng tôi tràn dũng khí. Tôi quyết không bỏ lỡ cơ hội. Chỉ cần tôi nói một tiếng "muốn" là bài toán có đáp số ngay, và bao nhiêu đè nén trong ḷng bấy lâu chắc chắn giờ đây tan biến! Nhưng như vậy xem phàm phu quá! Tôi cười cười, đợi cho mọi người chờ một lát, thần khẩu xui tôi phát ra một câu quá tuyệt vời:
    - Th́ hồi trước anh hai sao th́ giờ em vậy thôi!
    Mọi nghười cười rần và mang ư nghĩa khác nhau. Tôi cười cho... đở mắc cở. Chị hai cười x̣a góp phần vui; anh hai cười ngất, cười sặc sụa của người thích chí; c̣n mẹ th́ cười hiền ḥa, sung sướng, lấy tay áo chậm hai khóe mắt rưng rưng. Tôi thấy thương mẹ vô cùng, sà vào ḷng mẹ. Dù là một cậu tú, nhưng với mẹ, tôi vẫn thường thích mẹ vuốt ve như thuở lên ba. Mẹ ṿ tóc tôi, nói với anh chị hai:
    - Bây thấy hôn? Nó làm c̣n như nhỏ lắm vậy!
    Mẹ hỏi tôi:
    - Bộ con có để ư bạn gái nào ở trường hả?
    Tôi lắc đầu. Mẹ bảo:
    - Vậy th́ mẹ biết ai mà cưới cho con?
    Anh hai nhanh nhẩu:
    - Th́ làm mai! Hồi trước chú chín cũng vậy, con cũng vậy. Có ai thương yêu ai trước đâu? (liếc sang chị hai) Chừng về ở chung cũng khoái thấy mồ...
    Anh phủi bàn tay chị hai định nhéo vào hông anh:
    - Vậy chớ hỏng phải sao?
    Rồi quay sang tôi, anh lại ngọt ngào và xôm tụ:
    - Nè, bây giờ em chưa quen ai phải không? E hèm! Hồi trước anh cũng vậy thôi. Có sao? Nhưng em phải cho thím chín và anh chị hai đây biết mẫu người em ưng thế nào th́ ở đây mới kiếm cho em được chứ! Thí dụ, hồi trước anh ra tiêu chuẩn là phải vừa đẹp, vừa hiền, vừa có chút học vấn. Em thấy hôn, chị hai đúng bon tiêu chuẩn đó, Anh thấy là khoái liền. Hề hề…!
    Tôi thấy mặt chị hai đỏ lên v́ sung sướng:
    - Nói không biết mắc cở....
    Sẵn đà, tôi tiếp:
    - Mà phải ở miệt vườn nữa em mới chịu.
    Anh hai có vẻ cụt hứng, c̣n mẹ th́ có vẻ vui:
    - Phải đó à bây, con gái ở vườn nó nết na, thùy mị, giỏi giang.
    Anh hai cười. lại xông xáo:
    - Trúng tủ bả rồi! Mà cũng dễ thôi! Thím bán tạp hóa lớn, mối mang miệt vườn biết bao nhiêu, nhờ họ mối lái giùm.
    Chị hai:
    - Sao hăng hái dữ! Mai mốt anh hai chịu lạy đó nghen!
    - Tất nhiên! tất nhiên!
    Thói thường người ta tin tưởng vào những ǵ ḿnh hy vọng, và sợ mất những ǵ ḿnh có. Mẹ đă xong rồi, c̣n ba th́ sao? Ba thường hay ch́u ư mẹ dù đôi khi ư mẹ có đôi chút ông chẳng hài ḷng, nhưng đó là những việc nhỏ đời thường, c̣n đây là "hôn nhân đại sự", liệu ba có c̣n ch́u mẹ hay không?
    Ngày hôm sau, tôi thấy ba có vẻ khác khác - vậy là mẹ nói với ba rồi! Ba ít nói, có chiều nghĩ ngợi. Khi giáp mặt tôi, ba mỉm cười khó hiểu. Phúc hay là họa đây!
    Rồi ngày tôi chờ đợi cũng đến. “Phái đoàn” gồm ba mẹ, anh chị hai và tất nhiên có vai chánh là tôi. Thật khó tả được bao cảm xúc bồn chồn lo lắng, hồi hộp, đủ thứ lộn xộn trong ḷng tôi. Mẹ tôi cứ dặn ḍ đủ mọi việc, hết chuyện nọ tới chuyện kia, đến nỗi khó mà nhớ hết; c̣n anh hai th́ cứ lải nhải bên tai "b́nh tỉnh, b́nh tỉnh, đừng có run".
    Nhà ông nhạc tôi (tạm gọi vậy) ở xă Ngũ Hiệp, cách thành phố Mỹ tho 30 cây số về hướng tây. Chợ Ngũ Hiệp nằm bên kia sông, muốn qua phải nhờ một phà nhỏ. Từ chợ, theo lời bà mai, chúng tôi phải đi bộ thêm gần ngàn mét nữa. Nghe vậy anh hai nói với tôi:
    - Như vậy là "vườn trong vườn" rồi phải không cưng? Tiêu chuẩn một đạt hai trăm phần trăm rồi hén!
    Chị hai cau mặt:
    - Cái ông nầy lúc nào cũng đùa được.
    Thật vậy, đây là vùng trù phú đất đai, cây lành trái ngọt. không biết cơ man nào là cây trái quả mọng trĩu cành! Cam, bưởi, sa bô, dừa, vú sữa, nhăn, chôm chôm... nhất là sầu riêng cây nào cây nấy chân tay đeo đầy nghẹt quả, theo gió thơm lừng. Bà mai chỉ tay về căn nhà ngói kiểu xưa (kiểu "chữ đinh") nói:
    - Nhà đó đó.
    Tất cả dừng lại “hội ư”. Mẹ khẩn trương thấy rơ, lại dặn ḍ:
    - Nhớ những ǵ mẹ dặn nghen con!”
    - Dạ!
    Anh hai cũng th́ thào:
    - Nhà cất kiểu nầy mà gặp ông già củ tỏi th́ mệt lắm à nghen!
    Chị hai nạt nhỏ:
    - Ông lo cái miệng ông đó. Vô đó nói bậy đi!
    Bà mai vô trước, mẹ sửa lại áo quần tôi chưa xong th́ có người ra mời vào. Giờ phút nầy tôi càng thấy t́nh mẫu tử bao la như thế nào. Mẹ hồi hộp như sắp bước vào nơi hang hùm nọc rắn không bằng, lại điệp khúc "Nhớ nghe con!" lại phát ra!
    Vừa vào cỗng, tôi bị hốt hồn v́ hơn hai chục cặp mắt, đủ hạng tuổi, nhiều nhất là trẻ em chăm chú vào tôi, một bà trạc tuổi mẹ có lẽ thông cảm được điều ấy, bèn rầy đám nhỏ:
    - Nè, mấy đứa làm ǵ tụ tập lại đây dữ vậy? Có đi hết không?
    Đám trẻ tản đi vài bước rồi bẽn lẽn đứng nh́n.
    Pḥng khách được bài trí hai bàn. Bàn giữa gồm ba mẹ tôi, bà mai, ông bà nhạc và hai vị cao niên. Bàn bên có anh chị hai tôi và bốn người bên gái cùng trang lứa.
    Phần tôi nghe lời mẹ là không được ngồi, mà đứng sau ghế cha mẹ, hai tay xếp lại để dưới bụng (nếu đă mời trà xong), tư thế y như lính hầu ở phủ huyện, hay các thái giám ở cung đ́nh hầu hạ đức vua!
    Theo cách nói chuyện… lại có dịp đứng trước nhạc phụ mẫu; tôi biết ông bà là người cởi mở, dễ tính. Câu chuyện của hai "sui" càng lâu càng khởi sắc tốt đẹp. Dần dà khách khí không c̣n, mà như đă quen nhau từ trước vậy.
    Bỗng Ông nhạc gọi:
    - Con hai đâu, châm trà mới đi con!
    Một tiếng "dạ" thảnh thót không kém Điêu Thuyền thời Tam Quốc từ nhà dưới vọng lên làm tim tôi rộn ràng. “Phái đoàn” nhà trai ai cũng hồi hộp chờ đợi. Bởi ai cũng biết bảo “châm trà” chẳng qua là lời nói khéo cho con ḿnh ra chào để nhà trai “coi mắt” đó thôi!
    Mẹ quay lại nh́n tôi mỉm cười, thầm bảo ”hăy xem kỹ v́ thời gian không lâu”. Tôi chưa kip mỉm cười với mẹ th́ rèm hoa lay động, một kiều nữ vận bộ bà ba, không phấn không son mà má phấn môi hồng.Tóc dài phủ long gọn gàng bởi chiếc kẹp vàng có đính bông hồng chói lọi. Thoạt trông, tôi giật nẩy người, đến nỗi bố vợ nh́n thấy. Đợi giai nhân chăm trà xong, ông vội bảo:
    - À quên nữa, cháu qua bên ngồi uống nước, hay cứ ra ngoài dạo cho thoải mái.
    Mẹ lại quay ra tôi, nhướng mày, thầm bảo “hăy đi đi con”, v́ thực ra, ông nhạc cũng ngầm ư cho tôi và vợ tôi gặp nhau để “t́m hiểu”, dù thời lượng ít oi, nhưng nếu tri túc ắt tiện túc mà thôi! Mọi sự đều được người lớn sắp xếp có bài có bản và, có màn có lớp hẳn hoi!
    Không khí bên ngoài thực thoăi mái. Nhiều loại cây trái lớn nhỏ thi nhau che rợp ánh mặt trời làm mát rượi cả một không gian rộng. Vài tia sáng yếu ớt cố gắng chen vào đất tạo thành những đóm trắng lưa thưa đây đó tựa răi hoa. Mùi sầu riêng thơm lừng. Hàng sa-pô thẳng tắp trái nặng sai oằn. Mấy nhánh ổi cho trái bóng láng no tṛn, rục mềm rơi rụng tứ tung, tỏa hương thơm bát ngát. Chim hót líu lo, bướm vờn thẳng cánh. Đàn ong tranh nhau hút mật của trăm ngàn hoa đủ sắc đủ màu. Rơ ràng là vùng đất lành thừa mứa cây lành trái ngọt.
    Bên sau một giọng êm đềm:
    - Biết người ta ưng hay không mà dám đi hỏi vậy?
    Tôi quay lại, th́ ra là vợ tôi, (tạm gọi vậy), mà cũng là Vi, người đă làm tôi kinh ngạc đến đánh thót cả người khi năy!
    Vi là bạn học cùng lớp với tôi hồi năm đệ tứ. Hồi đó lớp đệ tứ được xem là cái “móc” của sự chia tay. Bởi con trai, nếu thi rớt th́ cha mẹ thường cho nghỉ để học nghề, c̣n thi đậu (cấp bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp) th́ cũng mỗi người một hướng đi: Vào sư phạm hoặc ngành nghề nào đó, hoặc học tiếp ba năm nữa để lấy Tú Tài rồi lên đai học. Con gái th́ ít người được học đến chốn đến nơi. Rớt hay đậu cũng thường bị cha mẹ cho nghỉ mà lo phụ việc nhà, viện lẽ con gái “học cao” khó có chồng! Vi cũng nằm trong số phận nầy. Bởi vậy cuối năm đệ tứ, chúng tôi thường trao nhau lưu bút, mọi người đều nắn nót tuồng chữ cho trang ḿnh thường tặng cả ảnh, dán vào giữa trang viết, dưới đề:
    "Thương nhau mới tặng ảnh nầy,
    Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau'
    Dù cho ảnh có phai màu,
    Cũng đừng xé bỏ mà đau ḷng người!”
    Không biết bốn câu thơ ấy là của tác giả nào, sáng tác tự bao giờ, mà đến nay, thỉnh thoảng tôi lại thấy sau bức ảnh ”tặng nhau” của các em cũng có đề như vậy.
    Hơi lạc đề, nhưng nói thêm cho vui: Hồi đó tôi cũng có quyển lưu bút, tất nhiên khi ai nhận th́ cũng nắn nót từng chữ và giữ sạch sẽ như nói ở trên. Khi tôi đưa cho thằng Nhứt, ngày sau nó trả (thường th́ vậy), nó viết vào trang đôi mấy chữ tổ bố: “Lưu niệm làm cái xê b́nh phương ǵ?" (2), rồi láu cá kư tên giáp cả hai trang giấy!
    Tôi xem giận run. Cự nó. Nó cười: “Để sau nầy mầy nhớ tao”.
    Tôi nghe cũng x́u ḷng. Quả thật, đến giờ, nó là người tôi nhớ nhất. Và đến ngày cuối, chúng tôi tổ chức tiệc liên hoan cuối khóa tại lớp. Văn nghệ xung quanh các bài hát về “mùa chia tay”, “tạm biệt”, “nỗi buồn hoa phượng”... Tôi có sở trường ngâm thơ, ngâm hai bài thơ Đường luật, bài đầu của thầy H.C, giáo sư sử địa (3), bài nầy tôi chỉ nhớ hai câu cuối:
    “...
    Rồi đây nếu chẳng sau mùa phượng,
    Tất cũng mai kia ở chợ đời!”
    Và bài họa của tôi:
    "Việc cũ, ngàn sau vẫn đổi dời.
    Chút t́nh tâm huyết nói sao vơi?
    Luyến lưu kẻ ở đôi ḍng lệ,
    Tiếc nhớ người đi một góc trời
    Chín tháng vui buồn trong một lớp,
    Vài giây ly biệt rẽ ngàn khơi,
    Đường mây một kẻ hanh thông bước,
    Một kẻ lang thang giữa chợ đời!
    (Thơ Kha Tiệm Ly)
    Đám con gái mắt đỏ hoe, có đứa khóc thành tiếng. Chúng tôi lai tặng quà lưu niệm cho các bạn “nghỉ luôn”. Tôi tặng Vi cái kẹp tóc bằng vàng 14 (tôi là... “thiếu gia” mà! Vàng hồi đó rẻ lắm, đàn bà con gái chẳng thấy ai đeo, có đeo th́ cũng sơ sài, đeo nhiều mắc cở, bị coi là “quê”; không thấy ai đeo cục cục như giờ. Vi tặng lai cho tôi cây bút Pilot nắp vàng, loại cao cấp nhất thời ấy.
    - Sao không trả lời?
    Vi nghiêm trang như thuở nào, tôi hơi chột dạ:
    - Thật ḷng tôi không ngờ ḿnh đi hỏi cưới Vi. Đă bao năm rồi, vả lại lúc đó ḿnh c̣n nhỏ cả mà!
    - Bộ mấy năm qua không nhớ chút ǵ về Vi sao?
    - Vẫn nhớ về người bạn nhỏ hiền lành, nhiều nước mắt.
    Vi vừa đưa tay rút cây viết trên túi áo tôi, vừa nói:
    - Xin lỗi nghe, cho Vi mượn.
    Rồi xoay cán viết, nh́n những ḍng chữ khắc trên ấy, Vi có vẻ xúc động:
    - Vẫn c̣n giữ của Vi à?
    Tôi không đáp, nh́n hai rèm mi chơm chớp, tôi thấy Vi đẹp năo nùng. Tôi nắm lấy tay Vi:
    - Không ngờ lại gặp lại Vi. Chẳng phải không có duyên số hay sao? Vi đồng ư nhé!
    Vi tủm tỉm cười:
    - Nếu em không ưng th́ sao?
    - Th́ anh về, nhưng xin gởi trái tim anh lại.
    Lại cười:
    - Rơ là thi sĩ! Em đă đồng ư từ khi bà mai nói chuyện với ba mẹ, đâu phải đến bây giờ.
    - Không biết mặt làm sao ưng?
    Vi kéo mái tóc về phía trước ngực:
    - Khờ quá đi! Mọi người ở đây ai không biết con trai một của tiệm tạp hóa Vạn Phát, chứ em th́ rành lắm. Vị “công tử” ấy c̣n tặng cho em chiếc kẹp xinh đẹp nầy nữa phải không?
    Trên đường về, mẹ luôn miệng với ba:
    - Con nhỏ xem nết na và lịch sự (4) ghê ông há?".
    Lại lo ngại:
    - Hổng biết nó có ưng thằng con trai cưng tôi không nữa?”
    Năy giờ tôi lặng thinh, nhớ lại những lời nói của Vi mà thấy ḷng hân hoan lạ. Nhưng thấy mẹ cứ lo lắng măi, tôi mói nói:
    - Chắc ăn rồi mẹ ơi! Mẹ đừng lo!
    Mẹ nghi ngờ. Anh hai nói:
    - Hồi năy ngoài vườn tụi nó nói chuyện, chỉ cần khi về, đá lông nheo một cái là kể như xong. Thím lo ǵ!
    Ba châm vào:
    - Hồi trước bả cũng vậy, sao bả mau quên quá!
    Không biết mẹ đánh hay phủi bụi cho ba::
    - Cha già mất nết!
    oOo
    Thế là chậm lắm khoảng một tuần, mươi ngày tôi đều đến tham nhạc gia, nhạc mẫu. Ba mẹ vợ tôi đều nhân hậu, nghiêm khắc với con cái nhưng xem chừng ”dễ” với thằng rể tương lai.
    Trước khi đi, ba tôi dặn. Con đến đó thấy cái ǵ làm được th́ làm, chứ đừng lấy mắt ngó là không được! Ngày xưa trước khi cưới, phải làm rể ba năm: Chẻ củi, vác lúa, cày bừa, làm đủ thứ nặng nhọc, chứ chẳng phải chơi đâu!
    Nhưng tôi biết cái ǵ mà làm, mà phụ? Lần đầu đến, tôi thấy ba vợ tôi đang chài cá, thấy tôi sựng rựng, ông hiểu ư, nói:
    - Con đứng chơi, ba văi vài chài nữa ba vô.
    Thế coi sao được! Đợi mỗi khi ba kéo chài lên, tôi phụ gỡ cá, mà có được đâu! Tôi đụng tới con nào th́ con ấy giăy rồn rột, rách cả tay, có khi phóng lại xuống mương; trong lúc ông bỏ vào giỏ lia lịa như bỏ đá vào vậy!
    Một lần th́ thấy ông đang chiết nhánh cây, cái nầy tôi càng mù tịt, nhưng cũng có việc làm là... đưa dây cho ba tôi cột “bầu”; cái công việc không cần người phụ tá!
    Ba vợ tôi rất điệu đời, ông thường bảo vợ tôi dắt tôi ra vườn xem có “cái ǵ nó thích th́ hái nó ăn”. Tôi biết ba tạo điều kiện cho chúng tôi chuyện tṛ. Ông dư hiểu, bởi nói tiếng là thăm cha mẹ vợ, nhưng chủ yếu của chàng rể tương lai nào cũng là thăm... vợ cho đở nhớ mà thôi. Nếu không, tại sao mỗi lần đến thăm mà cha mẹ vợ đi vắng th́ chàng rể lại hớn hở trong ḷng!?
    Vườn nhà vợ tôi đủ loại cây nên có trái quanh năm, chúng chen chút nhau nên chỉ cách hơn mười thước là không thấy dáng người. Tôi có cảm tưởng như hoàng tử gặp công chúa trong rừng vậy! Đến hàng dừa tơ, quày ôn trĩu trái màu vang rực, sai oằn đụng tới mép mương, Vi đưa tôi dao, bảo:
    - Chặt dừa uống nhé!
    - Trái nào đây?
    - Th́ tùy chọn
    Khổ sở lắm tôi mới đem được hai trái dừa rời quày được. Dùng dao chặt phần đầu có cuống. Dao bén ngót mà tôi phạt năm bảy nhát liền mà vỏ dừa chỉ dập dập, trầy trầy, tung mấy miếng văm! Vi cười khoe hai hàm rang đều như hạt bắp:
    - Để nô t́ giúp cho, thưa công tử!
    Giành lấy dao, Vi chỉ phập ba nhát nhẹ nhàng mà vỏ dừa tách ra từng mảng lớn, nhát thứ tư, nhẹ hơn, chạm vào gáo, Vi thuần thục lách nhẹ lưỡi dao, để lộ phần “cái” trắng bóc mịn màng, bao quanh phần nước sóng sánh trong veo! Một tay đưa dừa cho tôi, tay kia chỉ chỉ vào trái dừa bảo:
    - Chặt dừa phải chặt đầu lớn nầy nầy, Lưỡi dao phải để hơi xiêng. Ai đời ở trên bổ xuống... 90 độ. Làm sao đứt được?
    Lợi dụng tôi nắm lấy cổ tay tṛn trịa mịn màng của Vi, ghé mũi xuống hít một hơi dài. Vi vẫn để yên nhưng bặm môi:
    - Có thấy con dao ở đây không th́ bảo?
    Rồi cùng cười, tôi hít mũi chọc:
    - C̣n ngọt hơn cả nước dừa!
    Đến địa phận chuyên canh sầu riêng. Ôi! hàng hàng thẳng tắp. Không biết cơ man nào là trái đậu trên cành! Tọng teng nhỏ to đủ cở, lủng la, lủng lẳng tầng thấp tầng cao, xem vô cùng ngoạn mục. Tôi hỏi:
    - Nghe nói sầu riêng chỉ rụng về đêm, phải không?
    - Sao lạ vậy?
    - Th́ ... trời khiến để đừng bể đầu người!
    Vi cười ngoặt ngoẽo:
    - Sao trái dừa vẫn rụng ban ngày? Bộ trái dừa không làm bể được đầu người? Chủ vườn ṇi vậy để cho mấy thằng ăn trộm không dám lẻn vào đó thôi!
    Rồi chỉ vào phía trước, bảo:
    - Có hai trái rụng ḱa! Anh lại lượm đi! Coi chừng nó "bịch" một cái là hết có vợ đo.o..ó!
    Tôi nh́n lên, thấy hàng trăm trái ḷng tḥng, gai tua tủa, giống như những quả chùy của các vơ tướng ngày xưa. Nói dại, nếu nó mà"phịch" xuống một cái như lời Vi nói th́ dù không bể đầu, th́ mặt mũi chắc cũng khó coi! Dợm chạy đi, bỗng luồng gió quái ác từ đâu lùa tới, bèn chột dạ, tôi dừng lại. Vi cười ngất:
    - Coi vậy mà cũng sợ mất vợ hén!
    Tôi chữa thẹn:
    - Vậy chớ vợ như Tây Thi th́ chết sao dành!
    Má Vi càng đỏ thêm, nắm tay lại giá giá vào tôi:
    - Cái tật nịnh.......
    Tôi vừa dặt hai trái sầu riêng xuống th́ Vi bảo:
    - Tách ra đi!
    Nói đoạn lại bờ rào t́m hái những nhánh bông. tôi lui cui lấy dao chặt ph́nh phịch vào đầu lớn trái sầu riêng, dao cũng để xiêng một góc mà xem ra vỏ sầu riêng c̣n dai hơn cả vỏ dừa. Thật t́nh, sầu riêng tôi ăn có hàng trăm nhưng mỗi lần đều được mẹ bóc sẵn bỏ vào tủ lạnh, nên có biết ǵ đâu!
    Tôi lật qua, lật lại, chợt nhớ tới cái vỏ sầu riêng mẹ bóc xong đâu có trầy trụa, hay mất một góc đàng đầu trái, mà xem ra nó c̣n nguyên vẹn giống như một chiếc xuồng! Tôi sửa lại rồi dùng dao bổ theo chiều dọc, cũng chẳng ăn thua! Mệt, tôi định gọi cầu cứu, th́ Vi đă đứng sát bên tôi bụm miệng cười tự lúc nào...
    Rơ ràng là Vi biết tôi không làm được mà cố chọc chơi! Bèn ngồi xuống, lấy dao, vừa làm vừa dạy đời:
    - Hồi năy em bảo công tử “tách” ra chứ có bảo “chặt” đâu mà làm như bửa củi vậy? Đây nè, chỗ nầy lúc nào cũng có một khe hở. Chỉ cần để mũi dao vào đây rồi dùng đ̣n bẩy Ạc-Shi-Met là xong. Làm rể kiểu nầy mất vợ như chơi.
    Tôi bá lấy cổ Vi:
    - Giỏi quá, để anh thưởng cho một cái.
    Vi nhắm mắt, lắc đầu quầy quậy:
    - H..ô..ông..!
    Đợi khi tôi “chụt” xong, Vi mới mở mắt ra, chỉ tay vào vỏ sầu riêng, nói:
    - Cái vỏ sầu riêng nầy mà vô mặt th́ c̣n hơn té thùng đinh nữa đó!
    Lần nào cũng có chuyện tương tự như vậy, thử hỏi sao tôi không khoái về thăm... ông bà nhạc?
    Gần tới ngày cưới, tội nghiệp Vi gầy thấy rơ. Sau nầy tôi mới biết, là con gái trưởng trong gia đ́nh, Vi lo lắng sắp xếp mọi thứ, lại nghĩ tới ngày theo chồng, xa mẹ bỏ em nên đủ thứ t́nh cảm ray rức trong ḷng. Vậy mà tṛ chuyện với tôi một hồi, mặt hoa lại rạng rỡ, nói nhỏ cho tôi vừa nghe, như một chuyện ǵ quan trong lắm:
    - Làm rể mà lỏng nhỏng không động móng tay, cứ đeo sát con gái người ta hoài không sợ bà con họ nói sao?
    Ba vợ tôi thường bảo tôi: “Con ở chợ không quen việc ở vườn. Con cứ về thăm, khỏi làm ǵ hết, đừng ngại, cứ coi như ở nhà con”.
    Tôi đem lời nầy nói cho vợ nghe, rồi châm thêm:
    - Vậy chứ anh có việc ǵ để làm?
    - Em chỉ cho. Gần tới ngày cưới rồi, phải có củi để nấu chứ! Hay là anh chịu khó ra chẻ một mớ....
    - Ở đâu?
    Vi chỉ tay về một hàng củi được chất ngay ngắn từng ô một, dài chừng... vài chục mét, khúc nào khúc nấy cở bắp đùi... voi. Tôi chột dạ:
    - Chẻ hết sao?
    Vi làm mặt nghiêm:
    - Ừa!... th́ tới đâu hay tới đó! Ngày c̣n dài mà!....
    Tôi xách búa đi mà tác phong rời ră như Hạng Vơ tại bến Ô Giang! Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp, muốn cưới được vợ th́ phải bửa củi, cày bừa… Th́ ra lời ba tôi nói chẳng sai, bằng chứng là tôi cũng không ngoại lệ!
    Tôi cởi áo sơ mi máng trên cành bưởi, c̣n lại chiếc áo thun ba lổ trắng tinh, vốn là mô đen của con nhà giàu mới có áo lót bên trong. Dù là “công tử”, nhưng tôi thường tập tạ nên bắp thịt coi cũng ngon lành. Tôi đếm thầm: Một, hai, “phập!”; một, hai “phập!” Có cái “phập” làm củi vỡ ra, có cái “phập” th́ búa lại dính khắn vào củi, gỡ ra cũng tróc vải trầy vi! Khi độ mệt đă choáng váng mặt mày, nhưng c̣n đủ để nhận được tiếng ông nhạc ở sau lưng:
    - Bây làm cái ǵ vậy?
    Tôi quay lại chào ông bà vừa đi xóm về, rồi trả lời với giọng điệu của người vừa lập nên công trạng:
    - Dạ, vợ con biểu chẻ củi để khi đám cưới có mà xài!
    - Thôi, thôi! Bây “bị” nó rồi! Đi vô! Đi vô uống nước con!
    - Dạ, để con chẻ thêm một mớ nữa, ba!
    - Củi nầy ba để bán cho ḷ bánh ḿ, đâu cần chẻ! C̣n củi dùng cho đám cưới th́ để trong nhà kho kia, có xài mười đám cũng không hết!
    Bà nhạc lắc đầu:
    - Cái con nhỏ nầy…
    Vào nhà bà nhạc rầy Vi:
    - Chồng của mầy nó không quen làm việc nặng. Xúi dại rũi nó trợt chân trợt cẳng th́ sao?
    Bà nhạc dùng tiếng “chồng mầy” tôi thấy ấm áp lạ lùng! C̣n vợ tôi th́ chúm chím cười, c̣n liếc qua tôi với ánh mắt c̣n bén hơn... lưỡi búa, lại chu đôi môi đỏ ao chế nhạo.
    Thế là bao mệt mỏi trong tôi biến mất tiêu!
    Phải nói trong đời thường, về sự thông minh, lúc nào vợ cũng hơn tôi một phép. Khi về làm dâu vợ tôi đă chứng minh đầy đủ điều đó. Ngoài sự hiếu thảo với cha mẹ chồng, vợ tôi c̣n nhiều đức tính như nhân hậu, cần kiệm...
    Thuở đó, ở thành phố “nhà giàu” mới có tủ lạnh (ti vi chưa có), c̣n dưới quê th́ tuyệt đối không, bởi có điện đâu mà xài! Nên những ngày đầu, tủ lạnh đối với vợ tôi là một phát minh khoa học lớn lao, nó đủ công năng, nên có cái ǵ cũng “thồn” vô trong đó. Có lần mẹ tôi mở tủ lạnh, rồi nói với vợ tôi:
    - Tô mắm nêm nầy, con đừng có để vào đây, nếu không tất cả cái ǵ trong nầy đều có mùi mắm nêm hết.
    Chỉ chờ có dịp nầy, tôi cười hí hí:
    - Trái cây mà có mùi mắm nêm ăn càng ngon chứ sao mẹ?
    Mẹ cười, c̣n vợ tôi cứ đem cái sở trường là bắn nửa mắt vào tôi.
    Tôi khoái chí, nói theo kiểu đá banh th́ “gỡ” được một, nhưng dường như chỉ có một mà thôi!
    Khi con chúng tôi đă lớn, tuổi có thể về quê thăm ngoại một ḿnh, thế mà một tối cả nhà xem ti vi, không phải nhằm đoạn hài mà vợ tôi cười ngất. Con hỏi, “sao tự nhiên mẹ cười?” Một lát vợ tôi mới trả lời được:
    - Mẹ thấy bộ tướng ông thái giám đứng khúm núm kia giống"mấy thằng cha“ lần đầu coi mắt vợ quá!” Hi! Hi!
    Biết bị xỏ ngọt nhưng tôi biết ǵ hơn ngoài làm...thinh! May sao đến chương tŕnh quảng cáo, quảng cáo tủ lạnh, tôi nói tỉnh bơ:
    - Tủ lanh đời mới coi bộ tốt à nghen! Nó tự khử mùi, dù “mấy con mẹ” ở vườn có để mắm nêm vô đó cũng không sợ hôi. Ha! Ha!...
    Tức th́ vành tai tôi bị kéo ra cả thước, tiếp theo là một giọng tru tréo, muốn nổi da gà:
    - Trời..u.u..i! Chuyện cũ nhắc hoài! Nhắc hoài!
    Vậy đó, “chuyện xưa” th́ vợ tội nhắc được, c̣n “chuyện cũ” tôi nhắc th́ như bị muốn nhai xương!
    Có vợ miệt vườn, miệt quê là vậy đó!

  7. #277
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Hồi Kư Ba Mươi Tháng Tư


    Sau khi chiếm miền Nam (30-04-1975 ), Cộng sản lừa gạt Quân, Cán, Chính của chế độ cũ c̣n kẹt lại , kêu gọi khăn gói đi học tập cải tạo theo diện 10 ngày hay một tháng rồi về . Cả miền Nam mắc bẫy của chúng. Cùng với bao nhiêu người đồng cảnh ngộ, tôi đi tŕnh diện học tập trong diện 1 tháng và được đưa về Suối Máu Biên Hoà . Thế rồi một tháng qua, một năm qua ...trong lao động nhọc nhằn, trong những đêm ngày khai báo liên miên, ngày về không phải là một tháng mà là vô định... Mùa Thu năm 76, tôi bị đưa ra Bắc. Lần nầy tôi được trở về với biển, với người t́nh muôn thuở của tôi. Chúng tôi được trói tay từng hai người một và nhốt trong một hầm tàu. Tàu ra khơi ... Bắc tiến .. .Tôi. bị đày ải từ Hà Nam Ninh đến Cao Bằng, Lạng Sơn, trong rừng thiên nước độc với những ngày cháy nắng, những đêm lạnh xé da trong manh áo tù không đủ ấm. Và thời gian trong tù cứ vậy mà trôi qua... Ai cũng nôn nóng lo âu chờ mong ngày được thả, qua bao đau khổ v́ đói v́ lạnh, v́ phải lao động trong các hầm mỏ than dọc biên giới Việt Trung . Sợ nhất là mỗi đêm khuya phải thức dậy làm tờ tự khai, tự thú điên cả cái đầu. Đời sống vỡ mộng, người tù mỏi ṃn lo âu cho thân phận ḿnh, cho gia đ́nh, cho cha mẹ, anh chị em, vợ con và những người thân.
    Càng về sau người tù càng hiểu ra đừng có mong ngày về. Bọn nó nói “phải luôn luôn yên tâm cải tạo, học tập chính trị tốt, lao động chân tay giỏi, bao giờ nhân dân thấy các anh đă trở thành con người mới của chế độ Xă hội Chủ nghĩa th́ các anh được nhân dân khoan hồng cho về " . Ngày về không biết được, nghĩa là ở tù không có án tù. Phần tôi, sau 6 năm di chuyển từ trại nầy qua trại khác, ngày về mịt mờ xa thẳm, mỗi ngày phải đốn tre, chặt gỗ xây thêm nhà ở, làm chuồng nuôi vài ba con heo nhỏ xíu, gieo hột rau muống , phá rừng làm rẫy để trồng khoai ḿ, cải thiện đời sống cho có một chút ít dinh dưỡng trong những tấm thân gầy c̣m. Các hầm cầu được giữ phân lại để làm phân xanh tưới rau .
    Tù không có kêu án, tôi cảm thấy có cái ǵ khác lạ, tôi hoàn toàn không suy đoán được tương lai. Một lần, trong khi đào giếng để lấy nước, tôi chỉ bên kia hàng rào kẽm gai đầy ḿn và nói với người bạn tù: “Cứ xem ngọn đồi kia là nơi chôn chúng ta khi kiệt sức ĺa đời, bây giờ phải lê lết cho qua ngày tháng, phải t́m những niềm vui nho nhỏ mà ta có thể có được để vui sống, dù sống không niềm tin, không hy vọng , tội ǵ mà buồn v́ buồn cũng vô ích, không giải quyết được ǵ!” Nghe tôi nói thế, người bạn tù bật khóc, tôi an ủi và trấn an tinh thần người bạn tù của tôi và từ đó hai đứa trở thành bạn thân. Về sau nhiều người rất ngạc nhiên thấy chúng tôi vẫn tỉnh bơ, vui vẻ cười đùa như không phải ở tù, xem đây như nơi tạm trú, nơi dừng bước giang hồ, nơi tạm nghỉ sau một khoảng đời .
    Mặc cho ngày tháng đi qua, chúng tôi gầy g̣ v́ thiếu ăn, v́ lao động cực khổ, sức khoẻ càng ngày càng vơi, chúng tôi vẫn xem những bửa ăn kham khổ là những bửa yến tiệc cao lương mỹ vị, những ngày làm việc nhọc nhằn là những buổi tập thể dục cho thân h́nh được khoẻ mạnh. Trong lúc lao động trong rừng sâu, bắt được con nhái bé nhỏ, dấu đem về trại, tối đến nướng lên thơm ngậy, xé làm hai, tổ chức một bửa tiệc thưởng trăng, hai đứa bí mật dự dạ hội trong đêm, bên một gốc cây già, gió mát dịu, ánh trăng huyền ảo mông lung len lỏi qua hàng thông rừng như an ủi vỗ về, nghe thoang thoảng đâu đây tiếng cười của con thơ, ánh mắt của vợ hie^`n ... Sau đó tôi có thêm vài bạn khác xin gia nhập hội bạn tù, chúng tôi tổ chức được những buổi văn nghệ bỏ túi cấp tốc, bốn năm tù nhân hẹn nhau tại đám cỏ, sau toilettes... mở đại nhạc hội, hát nhạc vàng cho nhau nghe. Tôi nhớ đến bài hát mà thầy Hoàng bích Sơn đă dạy cho chúng tôi trong những giờ học nhạc dưới mái trường Phan châu Trinh: “Đường về quê tôi, con đường xa xôi, qua mấy con đ̣, quanh mấy ngọn đồi cao”... , tôi hát cho các đệ tử của tôi nghe, ḷng dạt dào mơ về quê xưa, nơi có con đ̣, có hàng dừa xanh, có t́nh tôi vừa mới lớn . Rôi cùng kể chuyện tiếu lâm về bác Hồ ”, hát nho nhỏ " Hôm qua em mơ gặp bác Hồ, râu bác dài, bác đạp xích lô “, kể chuyện Quỳnh Giao, chuyện Thần Diêu Dại Hiệp. Nhiều lúc cao hứng ngâm thơ và ca vọng cổ. Cứ như thế mọi nhọc nhằn lo âu biến mất, dù thời gian văn nghệ mỗi đêm chỉ được khoảng 25 phút, thời gian ấn định để được phép đi tiêu. Chúng tôi đă cố t́m được HẠNH PHÚC ở trong tù, Hạnh phúc đó thật đơn giản, thật dễ thương để quên đi cái đau khổ luôn luôn chực chờ . Có những khi đi khiêng đất, hai đứa hai đầu, gánh nặng quầng cả hai vai nhưng vẫn đánh cờ tướng không bàn, pháo 2 b́nh 5, mă 7 tấn 6, xa 1 tấn 1 v . v.... Chơi măi thành quen, tất cả đều trở thành cao thủ .
    Vào một đêm đang bị nhồi sọ trong những bài học chính trị : lao động là vinh quang, đế quốc Mỹ là kẻ thù số một, đảng Cộng sản là cái nôi của nhân loại, là đỉnh cao trí tuệ của loài người , chúng tôi ngồi giả bộ chăm chú nghe nhưng thật ra chúng tôi đang đánh cờ. Chợt một anh bạn tù buột miệng la :” Chiếu “, anh Quản Giáo đang hùng hồn giảng bài súng AK bắn nhào B52 của đế quốc Mỹ, khựng lại hỏi “Cái ǵ thế ? " Chúng tôi đáp: “Quản Giáo giảng bài hay quá! “ -Tại sao gọi là CHIẾU ? Chúng tôi giải thich:”' Chiếu là tiếng khen tặng của người miền Nam , cũng như các từ hồ hởi, phấn khởi của người miền Bắc. Anh Quản Giáo hồ hởi, phấn khởi cười xoà trong cái hănh diện là ḿnh giảng hay !!! Chúng tôi c̣n tổ chức những cuộc đấu kiến, đấu dế, bắt những con đấu thua bỏ vào hộp diêm cho chúng cải tạo .Chúng tôi t́m đủ mọi cách, cố tạo ra những tṛ giải trí nho nhỏ để quên ngày tháng tù đày ..Thỉnh thoảng một vài người trốn tù trong đêm, gặp phải ḿn nổ tan xác hay bị bắt lại để được nhốt riêng nơi hầm tối hay bị xử bắn về tội phản cách mạng. Và dĩ nhiên không thiếu những người tù chết v́ bệnh, không có thuốc chửa, xác được bó tṛn trong chiếc chiếu khiêng ra ra chôn tận b́a rừng. Những thảm cảnh ghê rợn đó không làm cho chúng tôi sờn ḷng, đời người ai cũng một lần chết, cái chết đến với chúng tôi một cách dửng dưng. Chúng tôi cố gắng sống trong cái hạnh phúc nhỏ nhoi đă t́m được. Và chúng tôi cám ơn " ơn trên " đă cho chúng tôi nhiều nghị lực sống qua những năm tháng tù đày


    TÔN THẤT PHÚ SĨ

  8. #278
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    Hãy nhớ hình ảnh này

    Mỗi năm, cứ độ Tháng Tư về....
    Những tang tóc, điêu linh dạo nào lại lũ lượt theo nhau về trong ký ức triệu triệu người Việt đã ly hương từ ấy...
    Xin đừng bi lụy cho quá khứ, mà hãy nhớ những hình ảnh hào hùng cuả những người chiến si cho Tự Do.


  9. #279
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590
    QUOTE=CảThộn;32882]
    Phan Lạc Tiếp

    Sơn Chung Tiên Sinh[/QUOTE]

    Cám ơn bác Cả về bài viết cuả nhà văn Phan Lạc Tiếp.
    Dòng họ Phan này cũng nhiều "cây bút" hay lắm.
    Chuyện đọc buồn quá, nhưng đó cũng chỉ la một sự thật cuả hàng triệu sự thật về bộ mặt xảo trá, tàn nhẫn cuả cs.
    Một chi tiết làm TX nhớ lại là chính ông nội cuả TX cũng từng đứng ra xin lính pháp đừng phá làng, đốt nhà dân khi làng bị "tề" - tại sao gọi là "tề"? -, thấy ông nói đươc tiếng Pháp, bọn lính thôi không ra tay.
    Ngay sau đó, cụ lên Hà Nội thăm con trai và ở luôn cho đến khi mất, vì dưới làng bọn Việt minh đã treo giá mạng cụ!
    Nếu mà cụ không vì cơ may lánh nạn trên Hà Nội kịp lúc, chắc là cũng sẽ có cái chết thảm thương như ngừơi anh em họ cuả tác giả.
    Mà họ có làm gì là "phản bội quê hương" đâu?

  10. #280
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Thơ TƯỞNG NHỚ Tháng Tư

    Bài thơ này đã post nhầm vào mục "Nghe chuyện Hà Nội"
    Nay xin chuyển về đây cho hợp với đề tài.
    xin cám ơn quí vị.
    Cả Thộn.

    TƯỞNG NHỚ

    (Tháng Tư đau thương, xin thắp nén hương ḷng, kính dâng những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà đă anh dũng hy sinh cho chính nghĩa, cho Tổ Quốc Việt Nam)

    Ḷng tôi, một nén hương, thành kính
    Xin thắp và xin tưởng nhớ Người
    Hỡi những Anh Hùng dân tộc Việt
    Máu xương Anh hiến dựng xây đời

    V́ yêu dân, nước nên Anh nhận
    Trách nhiệm người trai buổi nhiễu nhương
    Tôi cảm ơn Anh, tôi ngưỡng phục
    Tấm ḷng son sắt với quê hương!

    Anh đem dũng cảm, đem kinh lược
    Chiến đấu, Anh ngăn bước giặc thù
    Nguy hiểm không sờn, không nhụt chí
    Cho dầu gục ngă giữa âm u ...

    Dakto, An Lộc hay Rừng Sát
    Quảng Trị, Pleime hoặc Hạ Lào
    Anh đă hào hùng trong chiến thắng
    Hào hùng trong cả bước gian lao!

    Hoàng Sa, Bến Hải xuôi Đồng Tháp
    Có dấu chân Anh khắp bốn vùng
    Xương máu Anh trong từng mạch đất
    Trong từng nhịp thở của non sông!

    Hồn Anh hoà với hồn sông núi
    Dẫu chẳng bia xanh, chẳng sử vàng
    Nhưng đă muôn đớ dân tộc Việt
    Nhớ ơn bồi đắp, giữ giang san!

    Trong từng giọt nước, từng thân cỏ
    Phảng phất như Anh đă mỉm cười
    Có tháng Tư nào loang máu đỏ
    Quê buồn như mắt lệ Anh rơi !!!

    Tháng Tư, ôi tháng Tư oan nghiệt
    Ai xé mà tan những mảnh đời
    Những gói poncho không đất phủ
    Những đau buồn muôn kiếp khôn nguôi

    Tháng Tư, ôi tháng Tư đau xót
    Có những người trai chết vội vàng
    Và có những người không sống nhục
    Chọn cho ḿnh cái chết vinh quang!

    Anh hy sinh thế v́ dân, nước
    Tôi biết ơn và thương tiếc anh
    Anh, đă Anh Hùng dân tộc Việt
    Cho dù hoang mộ có VÔ DANH !

    Ngô Minh Hằng
    Last edited by CảThộn; 08-04-2011 at 10:00 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 18 users browsing this thread. (0 members and 18 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •