Page 29 of 99 FirstFirst ... 192526272829303132333979 ... LastLast
Results 281 to 290 of 989

Thread: GIẤC MƠ ĐÔNG DƯƠNG ĐỐI PHÓ GIẤC MƠ TRUNG QUỐC

  1. #281
    Ullswater
    Khách
    Ullswater xin được cống hiến một bài viết, một góc nh́n khác về lịch sử ăn cướp của Tổ Tiên ḿnh: 700 năm cuộc t́nh Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa (1306-2006) của tác giả Dominique Nguyen.

    Bài viết khá dài, Ullswater phải post thành tám lần, mong quư vị thông cảm:

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 1 / 8

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 2 / 8

    ...

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 8 / 8

    Phần đầu tiên bắt đầu ở post kế.

  2. #282
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 1 / 8

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa (1306-2006)
    - Đặt lại vấn đề của bi kịch lịch sử này - Dominique Nguyen (Chương Tŕnh Thế Giới Mă Lai-Đông Dương)


    Trong suốt mấy năm trường lănh đạo để chống quân xăm lăng của Mông Cổ, quốc vương Champa là Indravarman V qua đời v́ tuổi già, mà nhà thương thuyền Âu Châu là Marco Polo, nhân dịp ghé thăm Champa vào năm 1288, có nói đến.

    Sau ngày từ trần của vua cha, hoàng tử Harijit, con của hoàng hậu Gaurendraksmi, lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Sinhavarman III, mà tài liệu Trung Quốc gọi là Pou Ti và tài liệu Việt Nam gọi là Chế Mân.

    Từ khi lên nắm chính quyền, Chế Mân không ngừng đem lại niềm an vui và thịnh vượng cho quốc gia này. Gần 20 năm lănh đạo quốc gia, ngài đă để lại cho hậu thế hai công tŕnh kiến trúc đồ sộ đó tháp Yang Mum (Kom Tum) và tháp Po Klaong Garai (Phan Rang). Sau thế kỷ thứ 15, vương quốc Panduranga trưng dụng tháp này để thờ một trong ba vị thần quan trọng nhất ở địa phương, đó là vua huyền sử Po Klaong Garai.

    Hết đương đầu với quân Mông Cổ của Koubilai, ngài chủ trương tiếp tục bang giao với Đại Việt nhưng không bao giờ qui phục nước láng giềng. Ngài cũng t́m cách liên kết chính trị với vương quốc Majapahit của Mă Lai bằng cách kết hôn với công chúa Tapasi của quốc gia này.

    Bước vào thiên niên thế kỷ thứ 14 đánh dấu một khúc quanh mới trong chính sách bang giao giữa Champa và Đại Việt."Nhân dịp viếng thăm Champa vào năm 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tôn hứa gả công chúa Huyền Trân (tức là em gái của vua Trần Anh Tôn) cho vua Chế Mân, với điều kiện Champa phải nhường cho Đại Việt hai Châu Ô và Lư. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) là ngày kết hôn giữa vua Chế Mân và công chúa Huyền Trân. Tháng giêng năm Đinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn đổi hai châu Ô và Lư thành châu Thuận và châu Hóa. Tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), quốc vương Chế Mân từ trần. Tháng 10 cùng năm Đinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn sai Trần Khắc Chung sang Champa t́m cách đưa công chúa Huyền Trân về nước.

    Đây là cuộc t́nh hy hữu chưa từng xảy ra trong tiến tŕnh lịch sử ở các nước Đông Nam Á và cũng là một bi kịch t́nh sử mà các sử gia, các nhà văn và cả kịch ảnh Việt Nam không ngừng bàn đến, tùy theo gốc độ quan điểm của mỗi tác giả, như Bao La Cư Sĩ, G. Coedes, Lê Ước, Lê Trang Kiều, G. Maspero, Đỗ Trọng Huề, Phạm Văn Sơn, Thái Văn Kiểm, Vơ Liêu (xem thư mục), v.v.

    Dù dưới gốc độ ng̣i bút nào đi nữa, những bài viết về cuộc t́nh giữa Chế Mân và Huyền Trân của các chuyên gia Việt Nam chỉ nói lên quan điểm riêng tư của những tác giả này, thường mang màu sắc chính trị hay bộc lộ ḷng ái quốc của một dân tộc lớn có bốn ngàn năm văn hiến, để rồi quên đi những yếu tố lịch sử quan trọng nhằm dựa vào đó để phân tích lại một cách nghiêm túc và trung thực, dù sự trung thực đó có tổn thương đến danh dự người quá cố đi nữa. V́ vậy chúng tôi có quyền đặt lại những nghi vấn sau đây:

    [list=1][*] Chế Mân có quyền dâng hiến đất đai cho Đại Việt hay không?

    [*] Huyền Trân có đủ tư cách pháp lư để lên giàn hỏa hay không?

    [*] Tại sao Huyền Trân phải bỏ cung đ́nh chạy trốn?

    [*] Đâu là danh dự của quốc gia Đại Việt?

    -- ends 1 / 8

  3. #283
    Bách★Việt
    Khách
    Quote Originally Posted by Ullswater View Post
    Đất Miền Tây Nam Bộ cũng đúng là đất người Việt đi ăn cướp của người Campuchia.

    "Lịch Sử XỨ Đàng Trong" của PHan Khoang ghi rất rơ ràng, dân đâm thuê chém mướn Việt Nam và dân đâm thuê chém mướn gốc Hoa được chúa Nguyễn khuyến khích đến đây "lập nghiệp". Một h́nh thức cướp đất tiệm tiến. Người địa phương chống lại, họ bị gọi một cách khinh miệt là người Thổ, chúa Nguyễn mang quân đến đàn áp họ dă man lắm.

    Sau khi tướng giặc Tàu Minh, bị rợ Măn đánh chạy, sang Đàng Trong xin tỵ nạn, chúa Nguyễn cũng cho họ về Miền Tây Nam Bộ "khai khẩn" ( giống như là V+ giải phóng mặt bằng lúc này vậy đó ), tụi Minh Hương quen nghề ăn cướp từ trong máu rồi, nên thẳng tay tàn sát người địa phương, đất của chúa Nguyễn do đó càng trù phú ph́ nhiêu.

    Hà Tiên là một điển h́nh khác, hai cha con Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, quên ai là cha ai là con rồi, cũng vào đó "giải phóng" mở ṣng bạc, động đĩ v.v... thẳng tay tàn sát người nào chống lại. Ông con, quen nghề ăn cướp của tổ tiên ông ta, c̣n hưng binh sang chiếm Thái Lan. Bị c̣ng đầu đến chết ở bên đó. Đáng kiếp phường ăn cướp.

    Đồng bằng Sông Cửu Long tiêu tùng âu cũng là karma của dân Việt ăn cướp mà thôi.

    Mai mốt giặc Tàu sang xây mấy cái nhà máy nhiệt điện ở miền Tây th́ dân miền Tây chỉ c̣n nước chết.
    @UIlswater,

    Trong sách "Lịch Sử XỨ Đàng Trong" của PHan Khoang do Việt+ xuất bản có nói:

    1. Bao nhiêu vua Khmer cầu cứu chúa Nguyễn đem quân lính VN qua giúp Khmer đánh lại quân Xiêm xâm lược?

    2. Bao nhiêu lần hoàng tộc Khmer nhờ quân chúa Nguyễn sang dẹp loạn v́ tranh giành ngai vàng?

    3.. Bao nhiêu lần vua Khmer cắt đất dâng cho VN?

    4. Người Việt di dân vào miền nam gồm các thành phần như sau:

    a. Những người Thiên Chúa giáo bị cấm đạo vào thời vua Lê, gia đ́nh họ tự trốn vao` miền nam.

    b. Những người trốn đi lính cho chúa Nguyễn chúa Trịnh

    c. Chua' Nguyễn cho di dân từ ngũ Quăng: gia đ́nh tá điền không ruộng, muốn làm chủ ruộng vườn th́ di dân
    vào miền nam. Họ từ ngũ Quăng: Quăng B́nh, Quăng Trị, Quăng Ngăi, Quăng Tín và Quăng Nam.

    d. Chúa nguyễn cho 1 số phạm nhân đi đày ra biên giới để phá rừng canh tác.
    .
    e. Hậu duệ chúa Nguyễn và gia đ́nh binh lính chạy trốn vào miền nam khi bị Tây Sơn tiêu giệt Chúa Nguyễn

    f. Hậu duệ chúa Trịnh và binh lính chạy trốn vào miền Nam khi Tây Sơn chiếm miền bắc

    g. Hậu duệ nhà Tây Sơn và gia đ́nh binh lính chạy trốn vào miền nam khi Nguyễn Ánh tiêu diệt nhà Tây Sơn

    h. Vua Gia Long lên ngôi giết quan chức và gia đ́nh các quan Tây Sơn, rồi bắt toàn bộ bà con ḍng họ các quan chức đi đày vào biên giới gần núi Thất Sơn tại miền Nam.

    I. Thời nhà Nguyễn cấm đạo, nhiều gia đ́nh Công giáo phải bỏ làng, trốn chạy xuống miền nam

    j. Người Minh Hương chống Măn Thanh

    k. Người Chàm ở Campuchia bị Khmer tấn công để bắt làm nô lệ, được lính VN che chở, cho di dân về Tây Ninh và Hồng Ngự lập làng, được lính VN bảo vệ khỏi sự tấn công của Khmer.

    Nói chung, trước thế kỷ 20, miền nam nhiều đầm lầy rừng rậm hoang vu, nên nhiều nhóm người trốn về đây. Phan Khoan có nói đến những nhóm di dân này hay không?.

    Tại Phan Khoan viết thiếu hay tại bác U. "giả vờ " nói thiếu để xuyên tạc???

  4. #284
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 2 / 8

    [*] Đâu là đạo đức và thể diện của công chúa nhà Trần?[/list]

    Đó là 5 vấn đề trọng yếu c̣n chứa đựng bao điều bí ẩn cần được phân tích trong bài khảo luận, mà chúng tôi hy vọng đem lại sự sáng tỏ về biến cố này, nhân ngày kỷ niệm 700 năm cuộc t́nh sử Chế Mân-Huyền Trân Công Chúa (1306-2006).

    • Cuộc t́nh Chế Mân và Huyền Trân không phải là câu truyện hoang đường, mà là một biến cố lịch sử được ghi lại lần đầu tiêu trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (ĐVSKTT).


    Ai cũng biết ĐVSKTT là biên niên sử chính thức của vương quốc Đại Việt và cũng là tài liệu duy nhất đưa ra những dữ kiện rất là chi tiết liên quan đến cuộc t́nh Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. V́ là biên niên sử chính thức, thành ra tài liệu này luôn luôn mang màu sắc văn chương chính trị, viết theo quan điểm của vua chúa Đại Việt và nhằm tôn vinh vua chúa Đại Việt hơn là nói lên sự thật của một biến cố đă xảy ra. Đó là qui luật chung của tất cả tư liệu lịch sử cổ ở khu vực các quốc gia Đông Nam Á. Chính v́ thế, chúng tôi cần suy xét và phân tích lại một cách nghiêm túc từng khía cạnh của vấn đề trước khi đưa ra lời kết luận.

    Đây là phần trích dẫn từ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (tập II, Nhà xuất bản Khoa Học xă Hội, Hà Nội, 1971) liên quan đến cuộc t́nh Chế Mân và Huyền Trân:

    « - Tân sửu năm thứ 9 [1301] Nguyên Đại-đức thứ 5 (...). Tháng 2, nước Chiêm-thành sang cống. Tháng 3, thượng hoàng đi chơi các địa phương, sang Chiêm-thành (...). Mùa đông, tháng 11, thượng hoàng từ Chiêm-thành về (tr. 96).

    - Quư măo năm thứ 11 [1303] (...) Mùa đông, tháng 10, (...) Lấy Đoàn Nhữ Hài làm tham tri chính sự (...). Trước đây sứ nước ta sang Chiêm-thành đều lạy vua nước Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Khi Nhữ Hài đến, bưng ngay chiếu thư để lên trên án và bảo vua Chiêm rằng : "Từ khi sứ giả đem chiếu thư của thiên tử đến, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư ra, h́nh như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đă rồi mới tuyên độc sau". Rồi lập tức hướng vào chiếu thư lạy xuống. Lúc ấy vua nước Chiêm đứng ở bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ là lạy tờ chiếu th́ là thuận lễ, mà sứ thần cũng không phải khuất. (...). Sau này những người đi sứ Chiêm-thành không lạy vua nước Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài (tr. 98).

    - Ất tị năm thứ 13 [1305] (...) Tháng 2, Chiêm-thành sai Chế Bồ-đài và bộ đảng hơn trăm người đem vàng bạc, hương quư, vật lạ để dâng làm lễ vật cầu hôn. Các quan triều đều cho là không nên, duy có Văn-túc vương là Đạo Tái chủ trương là nên và Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết (tr. 100).

    - Bính ngọ năm thứ 14 [1306] (...). Mùa hạ tháng 6, gả công chúa Huyền-trân cho vua nước Chiêm-thành. Trước đây, thượng hoàng đi chơi các địa phương sang nước Chiêm-thành, đă trót hứa gả con gái cho. Các văn sĩ trong triều ngoài nội nhiều người mượn điển vua nhà Hán đem Chiêu-quân gả cho Hung-nô làm thơ bằng quốc ngữ để chê cười (tr. 102).

    Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn :" Ngày xưa Hán Cao hoàng v́ nước Hung-nô thường quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho thiền vu, kết hôn với người không phải giống ṇi, các tiên nho đă từng chê (...). C̣n như Nhân tôn đem con gái gả cho vua nước Chiêm-thành là nghĩa ǵ ? Nói rằng nhân khi đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín, th́ sao không làm việc đổi mệnh có được không ? Vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đă xuất gia rồi, vua đổi mệnh th́ có khó ǵ, mà lại đem gả cho người xa không phải giống ṇi cho đúng lời hẹn ước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế th́ tin ở đâu ? " (tr. 102).

    - Đinh mùi năm thứ 15 [1307] Mùa xuân tháng giêng. Đổi hai châu Ô Lư làm châu Thuận và châu Hóa, sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên nhân dân. Trước là vua Chiêm-thành Chế Mân đem đất hai châu ấy làm lễ vật dẫn cưới, người các thôn La-thủy, Tác-hồng, Đà-bồng không chịu theo, vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ư của triều đ́nh, chọn người trong bọn chúng bổ cho làm quan, lại cấp cho ruộng đất, tha tô thuế cho 3 năm để vỗ về (tr. 103)
    - Mùa hạ tháng 5. Vua Chiêm-thành là Chế Mân chết (tr. 103)
    - Mùa thu, tháng 9. Con vua Chiêm-thành là Chế Đa-da sai sứ thần là Bảo Lộc-kê dâng voi trắng (tr. 103).
    - Mùa đông, tháng 10, sai nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung và an phủ Đặng Văn sang Chiêm-thành đón công chúa Huyền-trân và thế tử Đa-da về. Tục nước Chiêm-thành, hễ vua chết th́ hoàng hậu phải vào giàn thiêu chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung sang, mượn cớ làm lễ viếng và nói rằng : “Nếu công chúa hỏa táng th́ việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng hăy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu. Người Chiêm nghe theo (tr. 103).

    Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, loanh quanh măi ở đường biển, lâu ngày mới về đến Kinh sư. Hưng nhượng đại vương ghét lắm, mỗi khi trông thấy Khắc Chung th́ mắng rằng : "Người ấy đối với nước ta là bất tường, họ tên là Trần Khắc Chung th́ nhà Trần có lẽ hết v́ người này chăng".

    Khắc Chung thường sợ phải lẩn tránh (tr. 104)
    Sử thần Ngô sĩ Liên bàn : Trần Khắc Chung là người gian tà biết chừng nào ? Không những là làm việc chó lợn này, đến sau lại vào tụi với Văn-hiến hầu vu hăm quốc phu thượng tể (53) vào tội phản nghịch, làm chết oan hơn trăm người mà nó được hưởng phú quư trọn đời (...) (tr. 104).

    - Mậu thân, năm thứ 16 [1308] (...) Mùa thu, tháng 8, công chúa Huyền-trân. Thượng hoàng sai trại chủ Hóa Châu cho thuyền đưa 300 người Chiêm về nước (tr. 104)».
    Phải công nhận rằng, ĐVSKTT kể lại cốt truyện hôn nhân giữa Chế Mân và Huyền Trân rất là chi tiết và hấp dẫn đối với độc giả b́nh dân. Tiếc rằng những chi tiết này, nếu nh́n trên khía cạnh lịch sử, c̣n mang một số điều vừa bí ẩn vừa mâu thuẫn mà chúng tôi xin đưa ra để b́nh luận.

    -- ends 2 / 8

  5. #285
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 3 / 8

    • 1. Chế Mân có quyền dâng hiến đất đai cho Đại Việt hay không?


    Theo ĐVSKTT, sau khi nhận lời hứa của thượng hoàng Trần Nhân Tôn, vua Chế Mân sai Chế Bồ Đài và hơn trăm người đem vàng bạc, hương quư, vật lạ để dâng làm lễ vật cầu hôn vào tháng 2 năm Ất Tị (1305). Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), Huyền Trân về Champa chung sống với Chế Mân. Chỉ trong ṿng 6 tháng sau, tức là tháng giêng năm Đinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn tiếp thu hai châu Ô và Lư mà vua Chế Mân đă dâng hiến cho ˜Đại Việt để làm quà cưới công chúa Huyền Trân.

    Đứng trên phương diện lịch sử mà phân tích, việc vua Chế Mân dâng hiến đất đai Champa cho nước láng giềng, dù sự dâng hiến này để chuộc sứ mạng v́ bị bắt làm tù binh chưa nói đến là dâng hiến đất đai để trao đổi lấy một đàn bà có sắc đẹp, hoàn toàn ngược lại với qui chế chính trị của vương quốc Champa thời đó.

    Ai cũng biết, Champa là một quốc gia theo chế độ mẫu hệ, tức là một hệ thống tổ chức xă hội trong đó mọi tài sản (dù đất đai hay châu báu) và con cái trong gia đ́nh là thuộc quyền sở hữu của người đàn bà. Người đàn ông dù họ là chồng, vua chúa hay quan lại, không có quyền chiếm đoạt, chuyển nhượng, mua bán hay đổi chác tài sản và con cái này.

    Champa là một quốc gia theo chế độ "mẫu hệ" chứ không phải chế độ "mẫu quyền". Thành vậy mọi quyền lực chính trị và xă hội đều nằm trong tay của người chồng. Đàn ông là người làm chủ gia đ́nh và lănh đạo quốc gia, nhưng mọi ngôi báu, vương niệm và quyền nối ngôi thuộc về gia đ́nh mẫu hệ. Hoàn toàn khác hẳn với thể chế chính trị của nền văn minh Đại Việt, chủ nhân của ngôi báu và đất đai ở Champa là bà hoàng hậu. Vua lên ngôi nhân danh bà hoàng hậu và phải phục vụ để duy tŕ ngôi báu của ḍng tộc hoàng hậu này. Chính v́ thế, tất cả những ai có liên hệ trực tiếp (như anh hay em trai của vợ cũng như cậu, bác phía bên vợ) hay gián tiếp (như chú rể) với thân tộc của bà hoàng hậu đều có quyền lên ngôi nếu hội đồng gia đ́nh hoàng gia mẫu hệ chấp thuận.

    Theo qui ước chế độ mẫu hệ ở Champa, vua là người lănh tụ tối cao của một quốc gia, nắm toàn quyền chính trị, quân sự và pháp lư. Vua có quyền lấy bao nhiêu người vợ cũng được nếu bà hoàng hậu chấp thuận, nhưng ông vua không có quyền chuyển nhượng hay đổi chác bất cứ những ǵ thuộc di sản thuộc về hoàng gia của bà vợ ḿnh, dù đó chỉ là áo quần, chứ đừng nói đến vàng bạc, đất đai và con cái. Thế th́ Chế Mân đă dựa vào qui ước nào của vương quốc Champa này để rồi tự tiện dâng hiến đất đai châu Ô và Lư cho Đại Việt để được cưới công chúa Huyền Trân ?
    Không ai phủ nhận là ĐVSKTT đă xác nhận sự chuyển nhượng đất đai này. Nhưng ĐVSKTT quên rằng Chế Mân là một nhà vua cai trị một quốc gia theo chế độ mẫu hệ. Thành vậy, mọi sự dâng hiến đất đai cho Đại Việt hoàn toàn đi ngược lại với thể chế pháp lư của Champa thời đó.

    -- ends 3 / 8

  6. #286
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 4 / 8

    1. 2. Huyền Trân có đủ tư cách pháp lư để lên giàn hỏa hay không?


    Chưa đầy một năm sau ngày kết hôn, vua Chế Mân chết vào tháng giêng năm Đinh Mùi (1307). Nghe tin này vua Đại Việt sai Trần Khắc Chung sang Champa lập mưu kế để đưa Huyền Trân về nước. Để giải thích cho vấn đề này, vua Đại Việt cho rằng theo tục lệ nước Champa, "hễ vua chết th́ hoàng hậu phải vào giàn thiêu chết theo".

    Theo truyền thống Champa, một khi vua từ trần th́ bà hoàng hậu thường xin lên giàn hỏa chết chung với chồng, chứ không bị bắt buộc phải lên giàn hỏa với chồng như một số người hiểu lầm. Tục lên giàn hỏa là một vinh dự lớn lao chỉ dành riêng cho bà hoàng hậu nhằm bày tỏ ḷng thủy chung của ḿnh đối với chồng, với điều kiện là phải được hội đồng hoàng gia chấp thuận. Chính v́ thế, trong suốt 18 thế kỷ của sự tiến tŕnh lịch sử ở Champa, người ta đă ghi nhận chỉ có vài bà hoàng hậu mà thôi đă nhận được ân huệ của hội đồng hoàng gia để lên giàn hỏa chết theo chồng.

    Huyền Trân công chúa chỉ là một nằm trong danh sách hàng thứ phi của Chế Mân. Giả sử Huyền Trân công chúa có van xin thật sự đi nữa để lên giàn hỏa cùng chết với Chế Mân, th́ hội đồng hoàng gia Champa, tức là cơ quan tập trung các nhân vật cùng ḍng tộc với bà hoàng hậu chính thức, không bao giờ chấp nhận, v́ tục lên giàn hỏa thiêu có những qui luật sau đây:

    1. Chỉ dành riêng cho bà hoàng hậu chính thức.


    2. Phải có ḍng máu Champa. Bà Tapasi là hoàng hậu gốc người Java, dù đă giữ một vai tṛ vô cùng quan trọng trong hoàng cung Champa thời đó mà bia kí thường nói đến, vẫn không nhận được ân huệ lên giàn hỏa với Chế Mân.


    V́ không phải là hoàng hậu chính thức và không có ḍng máu Champa, Huyền Trân không bao giờ nhận được ân huệ để cùng chết với Chế Mân được. Thế th́ chúng tôi không biết vua chúa Đại Việt thời đó dựa vào cơ sở nào để rồi kết luận rằng Huyền Trân bị buộc lên giàn hỏa sau ngày từ trần của Chế Mân.

    • 3. Tại sao Huyền Trân phải bỏ cung đ́nh chạy trốn?


    Đứng trên phương diện pháp lư, mọi nhân vật dù là vua chúa hay dân thường t́m cách thoát thân chạy trốn trước một biến cố có liên hệ đến xác người chết, đều bị cơ quan pháp lư nghi ngờ là kẻ "phạm pháp".

    Vào tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), vua Chế Mân từ trần. Trước cái chết của Chế Mân, đúng ra Huyền Trân phải buồn rầu than khóc để tiễn đưa cho số phận hẩm hiu của người chồng quá cố, dù rằng hai người chỉ mới chung sống với nhau vừa tṛn một năm. Đó là quy luật tự nhiên của đôi vợ chồng. Tiếc rằng Huyền Trân không than khóc mà lại t́m đường chạy trốn về Thăng Long. Chúng tôi không nói là Huyền Trân ám hại Chế Mân, nhưng chỉ đặt vấn đề ở đây có chăng Huyền Trân đă làm một việc phạm pháp nào đó có liên hệ đến cái chết của Chế Mân thành ra mới t́m cách chạy trốn. Chính đây mới là ch́a khóa quan trọng trong vụ t́nh sử vô cùng bí ẩn của Chế Mân và Huyền Trân.

    Theo ĐVSKTT (tr. 103), nếu Huyền Trân t́m cách thoát thân chạy trốn, là v́:

    "Tục nước Chiêm Thành, hễ vua chết th́ hoàng hậu phải vào giàn thiêu chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung sang, mượn cớ làm lễ viếng và nói rằng : Nếu công chúa hỏa táng th́ việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng hăy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn về, rồi sẽ vào giàn thiêu. Người Chiêm nghe theo".
    Đây là lư luận hoàn toàn phi khoa học. Chế Mân từ trần vào tháng 5 năm Đinh Mùi (1307). Theo phong tục của Champa, lễ hỏa táng Chế Mân phải tiến hành vào ngày tốt nhất trong ṿng một tháng sau cái chết. Trần Khắc Chung đến Champa vào tháng 10 năm Đinh Mùi (1307) có nghĩa là lễ hỏa táng đă xong rồi trước khi phái đoàn từ Đại Việt đến tiếp cứu. Th́ đâu c̣n đáùm tang nữa mà vua chúa Đại Việt bày mưu sai Trần Khắc Chung t́m cách đưa Huyền Trân chạy trốn.

    -- ends 4 / 8

  7. #287
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 5 / 8

    Cũng theo ĐVSKTT, vụ thoát thân chạy trốn của Huyền Trân không phải là quyết định riêng tư của công chúa này mà là mệnh lệnh của vua chúa Đại Việt. Ngay cả sử gia Ngô Sĩ Liên, tác giả của Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (tr. 102), cũng công nhận dữ kiện này.

    Đứng trên phương diện chính trị mà phân tích, sự bày mưu của vua chúa Đại Việt để đưa Huyền Trân về nước bằng con đường thoát thân chạy trốn sau ngày từ trần của Chế Mân hoàn toàn đi ngược lại với qui luật ngoại giao thời đó. Sự kết hôn giữa Chế Mân và Huyền Trân là một hiệp ước chính thức được kư kết giữa hai quốc gia Champa và Đại Việt. Nếu Chế Mân từ trần th́ vương quốc Champa phải có nghĩa vụ làm lễ, cho người tháp tùng đưa Huyền Trân về nước. Bà Tapasi, hoàng hậu gốc người Jawa cũng trở về nước sau ngày Chế Mân từ trần. Thế th́ tại sao Đại Việt quá vội vă t́m cách “dùng mưu gian trá cướp Huyền Trân về Thăng Long. Hành động này của vua chúa Đại Việt đă đưa chúng tôi đặt lại một nghi vấn ngắn gọn sau đây:

    "Có chăng vua chúa Đại Việt không sợ Huyền Trân lên giàn hỏa mà chết ; v́ hội đồng hoàng gia không ai yêu cầu công chúa này lên giàn hỏa ; mà chỉ sợ triều đ́nh Champa đưa Huyền Trân ra pháp lư để xét sử về tội dùng mưu trá mà Đại Việt đă xếp đặt để ám hại Chế Mân?"

    Ngô Sĩ Liên, một quan lại trong triều đ́nh Đại Việt thời đó cũng đồng quan điểm với chúng tôi. Tác giả đặt lại nghi vấn có chăng Huyền Trân đă nhận mệnh lệnh của vua cha để làm việc phi pháp ǵ đó ở Champa, thành vậy vua Trần Anh Tôn phải "dùng mưu gian trá cướp" công chúa đưa về Thăng Long (ĐVSKTT, tr. 104).

    Ai cũng biết, chính sách mỹ nhân kế dùng đàn bà Việt làm để phục vụ cho ư đồ chính trị của Việt Nam cũng thường xảy ra nhiều lần trong lịch sử. Điển h́nh nhất là trong thế kỷ thứ 17, vua Lê Thần Tôn cũng gả một công chúa Việt cho vua Lào là Suliya Vongsa, cũng như Chúa Săi Vương đă gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II và công chúa Ngọc Khoa (con của Chúa Săi Vương) cho vua Champa là Po Romé (1627-1651).

    Ngọc Khoa có tên là Bia Ut trong tư liệu viết bằng tiếng Chăm, có nghĩa là hoàng hậu miền bắc (Ut có nghĩa là phía bắc). Sau ngày kết hôn với vua Po Romé, bà ta đă tiếp tay với vua cha ở Phú Xuân hầu cung cấp tin tức liên quan đến chiến lược quân sự của chồng ḿnh. Nhờ tin này, Chúa Nguyễn xua quân chinh phạt Champa bắt được vua Po Romé và nhốt trong rọ sắt. V́ quá hổ thẹn, Po Romé quyết định chấm dứt cuộc đời của ḿnh bằng cách tự tử mà một người truyền giáo tây phương Jésuite Joseph Tissanier đă kể lại. Sau ngày chết của Po Romé, hoàng cung Champa đưa Bia Ut (Ngọc Khoa) ra pháp lư và kết tội tử h́nh v́ tội phản bội tổ quốc bằng cách đạp đầu bà ta vào bùn lầy cho đến khi tắt thở. Sau đó, cung đ́nh Champa ra lệnh tạc tượng bà ta với tư thế đầu chúi xuống đất để hậu thế không quên vụ án này. Theo Nghiêm Thẩm, tượng Bia Ut vẫn c̣n vào năm 1960 tọa lạc ở cánh đồng Hamu Biuh (Phan Rang) cách đền Po Romé vào khoảng 8 cây số.

    Bia Ut, tức là Ngọc Khoa, con của Chúa Săi Vương bị hoàng cung Champa lên án tử h́nh v́ tội làm gián điệp. Có chăng Huyền Trân cũng mang thân phận như công chúa Ngọc Khoa, tức là bị Champa lên án v́ đă nhận sứ mệnh của triều đ́nh Đại Việt nhằm ám hại Chế Mân để rồi vua Trần Anh Tôn phải t́m mưu kế đưa Huyền Trân về Thăng Long. Đây chỉ là giả thuyết của chúng tôi mà thôi. Nhưng giả thuyết này rất gần gủi với quan điểm của nhà sử gia Ngô Sĩ Liên (tác giả của ĐVSKTT), tức là không chấp nhận hành động gian trá của vua chúa Đại Việt trong vụ hôn nhân giữa Chế Mân và Huyền Trân.

    Ngô Sĩ Liên là một quan lại quan trọng trong cung đ́nh của Đại Việt. Mặc dù ông ta không nói ra một cách công khai là vua chúa Đại Việt ra lệnh cho Huyền Trân ám hại Chế Mân, nhưng nội dung của một đoạn văn ông viết: dùng mưu gian tra cướp về sau, thế th́ tin ở đâu? Đă cho chúng tôi một minh chứng rơ rệt thế nào là ư đồ của vua chúa Đại Việt liên quan đến cái chết của Chế Mân và cuộc chạy trốn của Huyền Trân.

    Những dữ kiện đă nêu ra, cho phép chúng tôi đề ra một nghi vấn: Huyền Trân chạy trốn không phải v́ sợ lên giàn hỏa với Chế Mân mà là sợ bị cung đ́nh Champa kết án về tội liên luỵ đến cái chết của vua Chế Mân vào năm 1307. Nhưng đây chỉ là một giả thuyết mà thôi.

    -- ends 5 / 8

  8. #288
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 6 / 8

    • 4. Đâu là danh dự của quốc gia Đại Việt?


    Là hai quốc gia láng giềng có hai nền văn hóa và văn minh khác nhau, Champa và Đại Việt không tránh khỏi những xung đột quân sự đẫm máu mà người thắng trận thường giữ quyền ưu thế chiếm đóng đất đai của người thua trận. Trận chiến vẻ vang của vua Lư Thánh Tôn chống lại vua Rudravarman III vào năm 1069 đă cho phép Đại Việt xâm chiếm lănh thổ Champa ở khu vực Địa Lư, Ma Linh và Bố Chính (Quảng B́nh-Quảng Trị).
    Sự thất thủ của Champa vào năm 1069 là tiếng chuông báo hiệu cho chính sách Nam Tiến của Đại Việt. Kể từ đó, Champa và Đại Việt chỉ biết dùng chiến tranh trong suốt 237 năm để giải quyết sự tranh chấp giữa hai quốc gia, nhưng không ai đạt được phần thắng lợi.

    Một khi giải pháp quân sự không c̣n hiệu nghiệm để chinh phạt Champa nữa, vua chúa Đại Việt lại nghĩ đến mưu đồ đê tiện hơn, đó là dùng mỹ nhận kế để phục vụ cho ư đồ chính trị. V́ quyền lợi chung của dân tộc, vua chúa Đại Việt không cần nghĩ đến thế nào là danh dự của một quốc gia, dù là quốc gia hùng mạnh gấp bội so với lực lượng quân sự Champa thời đó. Năm 1306, vua Trần Nhân Tôn t́m cách dâng hiến con gái của ḿnh là Huyền Trân cho vua Chế Mân, một quốc vương nước ngoài mà tuổi đă già, để đổi lấy hai châu Ô và Lư. Ngô Sĩ Liên, tác giả của ĐVSKTT là người đầu tiên đă lên án nhà Trần. V́ ḷng tham lam một mảnh đất ở châu Ô và Lư, vua Trần Nhân Tôn không c̣n biết đâu là thể diện của vương quốc Đại Việt để rồi bán đứng trinh tiết con gái của ḿnh cho một người không cùng giống ṇi.

    Ngô Sĩ Liên lư luận rằng, nếu: "Ngày xưa Hán Cao Hoàng v́ nước Hung Nô thường quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa để kết hôn với người không phải giống ṇi, các tiên nho đă từng chê" (ĐVSKTT, tr. 102), th́ sử gia Ngô Sĩ Liên c̣n tha thứ được v́ người đàn bà này không phải là con vua chúa, ngược lại "[Trần] Nhân Tôn đem con gái gả cho vua nước Chiêm Thành là nghĩa ǵ?" (ĐVSKTT, tr. 102).

    Thêm vào đó, Ngô Sĩ Liên c̣n bày tỏ ḷng phẫn nộ của ḿnh trước mưu đồ quá đe hèn mà cấp lănh đạo Đại Việt đă áp dụng để phục vụ cho ư đồ chính trị của ḿnh, chẳng những không biết đến danh dự quốc gia, nhà Trần c̣n ra lệnh cho con ḿnh ám hại người khác, tức là Chế Mân để rồi "dùng mưu gian trá" cướp con của ḿnh đưa về Thăng Long. Đây là lời trăn trối của Ngô Sĩ Liên:

    "Nói rằng nhân khi đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín, th́ sao không làm việc đổi mệnh có được không ? Vua giữ ngôi trời mà Thượng Hoàng đă xuất gia rồi, vua đổi mệnh th́ có khó ǵ, mà lại đem gả [Huyền Trân] cho người xa không phải giống ṇi cho đúng lời hẹn trước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế th́ tin ở đâu?" (ĐVSKTT, tr. 102).
    Ngô Sĩ Liên là một quan lại quan trọng trong triều đ́nh mà không "tin" nhà Trần, thế th́ ai là người c̣n tin vào chủ trương bang giao với nước láng giềng của Đại Việt nữa.

    Đối với Đại Việt, thể diện quốc gia không phải là một vấn đề thực tiễn mà là mục tiêu chính trị. Chính v́ thế, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục đeo đuổi chính sách này bằng cách dâng hiêán công chúa Ngọc Khoa cho vua Po Romé (1627-1651) để thực hiện ư đồ đánh bại cho bằng được quốc vương Champa vào giữa thế kỷ thứ 16.

    • 5. Đâu là đạo đức và thể diện của công chúa nhà Trần?


    -- ends 6 / 8

  9. #289
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 7 / 8

    • 5. Đâu là đạo đức và thể diện của công chúa nhà Trần?


    Theo ĐVSKTT, tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), vua Chiêm Thành là Chế Mân chết. Tháng 10 cùng năm, vua Trần Anh Tôn sai Trần Khắc Chung sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trân và thế tử là Chế Đa Da về. Hơn một năm trôi dạt ở giữa đại dương, tháng 8 năm Mậu Thân (1308), công chúa Huyền Trân về đến Thăng Long. Lợi dụng cơ hội trên đường về, Trần Khắc Chung "tư thông với công chúa [Huyền Trân], loanh quanh măi ở đường biển, lâu ngày mới về đến Kinh sư" (ĐVSKTT, tr. 103).

    Nghe tin này, vua Trần Anh Tôn vô cùng phẫn nộ và mỗi khi trông thấy Trần Khắc Chung th́ mắng rằng : "Người ấy đối với nước là bất tường, họ tên là Trần Khắc Chung th́ nhà Trần có lẽ hết v́ người này chăng ?" (ĐVSKTT, tr. 104).

    Nếu thật sự Huyền Trân chấp nhận cho Trần Khắc Chung khám phá tiết trinh của ḿnh trong suốt 16 tháng lênh đênh ở ngoài biển khơi, th́ người ta phải đặt lại vấn đề đâu là đạo đức và thể diện của công chúa Đại Việt thời đó.

    Ai cũng biết, trong triều đại của nhà Trần luôn luôn đề cao tôn ti trật tự trong gia đ́nh, đạo đức của người đàn bà Việt Nam. Sự dâng hiến tiết trinh của một công chúa cho quan lại trong triều là Trần Khắc Chung hoàn toàn đi ngược lại với qui ước đạo đức của người đàn bà Việt do nhà Trần chủ trương. Nếu cho rằng đây chỉ là do sự cưỡng ép của Trần Khắc Chung đi nữa, chúng tôi cho rằng vấn đề này không thể xảy ra được nếu Huyền Trân từ chối. Xưa kia, công chúa Champa là Mỵ E, vợ vua Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II) bị bắt làm tù binh vào năm 1044. Trên đường dẫn độ về Thăng Long, tướng Phật Mă dùng quyền lực để uy hiếp dâm bà ta. V́ danh dự của một công chúa Champa, bà ta phải nhảy xuống sông tự tử để giữ trọn tiết trinh với người chồng.

    Chế Mân vừa chết chưa đầy 6 tháng. Nhân danh công chúa của một vương quốc Đại Việt có bốn ngàn năm văn hiến, vừa là hoàng hậu của Champa dù chỉ mới một năm, nếu Huyền Trân không thực tâm để tang cho chồng như đàn bà Chăm trong cung đ́nh đă từng thủ tiết, bằng cách không phấn son và không gội đầu trong suốt một năm trường, th́ ít ra Huyền Trân cũng phải làm thế nào để giữ danh dự và thể diện một công chúa Việt Nam.

    700 năm đă trôi qua, nhưng cuộc t́nh Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa vẫn để lại cho hậu thế nhiều câu hỏi lớn. Bài khảo luận của chúng tôi không ngoài mục đích là đem lại một số dữ kiện để làm sáng tỏ lại một số vấn đề bí ẩn nằm trong chính sách bang giao giữa hai quốc gia láng giềng Champa và Đại Việt vào đầu thế kỷ thứ 14. (Harak Champaka số 16, 14-11-06)

    -- ends 7 / 8

  10. #290
    Ullswater
    Khách

    700 năm cuộc t́nh Chế Mân... 8 / 8

    • Tài liệu tham khảo


    1. Bao La Cư Sĩ, Huyền Trân về Chiêm quốc. Văn hóa nguyệt san, số 43, tháng 8-1959, trang 913-919.

    2. Coedes, G., Les Etats hindouisés d'Indochine et d'Indonésie. De Boccard, Paris, 1964.

    3. Lê Ước, Chế Mân và Huyền Trân công chúa. Phổ Thông tạp chí, số 199, tháng 9-1967, trang 99-104.

    4. Lê Trang Kiều, Huyền Trân công chúa và châu Ô châu Lư cùng câu chuyện gốc tích thành Lồi ở Huế. Phổ Thông tạp chí, số 167, 3-1966, số 16, 3-1966.

    5. Maspero, G., Le Royaume de Champa. Van Oest, Paris, 1928.

    6. Đỗ Trọng Huề, Vua Trần Nhân Tông. Hương Trà, 1968, trang 155-156.

    7. Phạm Văn Sơn,V́ sao công chúa Huyền Trân qua Hời. Phổ Thông tạp chí, số 230 tháng 9-1969, trang 23-28.

    8. Thái Văn Kiểm,
      • Công chúa Huyền Trân và cuộc hôn nhân với Sri Simhavarman III để đổi lấy hai châu Ô và Lư về cho Đại Việt (vùng Quảng Trị-Thừa Thiên ngày nay). Đất Việt Trời Nam, 1960, trang 399-403.
      • Huyền Trân Công Chúa và ảnh hưởng Chàm trong các điệu ca Huế. Tạp chí Tinh Hoa, số 02-1950, trang 44-49.
      • Huyền Trân Công Chúa. Những Nét Đan Thanh, 1957, trang 93-102.
      • Huyền Trân về Chiêm Quốc. Văn hóa nguyệt san, số 34, tháng 8-1959, trang 913-919.

    9. Vơ Liêu, Châu Ô và sông Ô Lâu. Phổ Thông tạp chí, số 35, tháng 4-1959, trang 45-50 ; số 36, tháng 4-1959, trang 36-39 ; số 37, tháng 5-1959, trang 53-58. - Châu Ô và sông Ô Lâu. Phổ Thông tạp chí, số 35, tháng 4-1959, trang 45-50 ; số 36, tháng 4-1959, trang 36-39 ; số 37, tháng 5-1959, trang 53-58.


    -- ends 8 / 8

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 5 users browsing this thread. (0 members and 5 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 30
    Last Post: 13-06-2017, 03:42 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 17-05-2014, 07:41 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 11-07-2012, 01:58 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 16-03-2011, 12:14 AM
  5. Replies: 1
    Last Post: 11-02-2011, 11:44 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •