Page 6 of 13 FirstFirst ... 2345678910 ... LastLast
Results 51 to 60 of 129

Thread: Thành phần thứ ba và chiêu bài HHHG với CS

  1. #51
    Dr_Evil
    Khách
    Quote Originally Posted by Gánh Hàng Hoa View Post
    Bác Dr Evil này tiếu lâm ghê . :)

    Gánh có làm ǵ đâu . Gánh chỉ phân tích những ǵ ông Trần và phe ông ta tự nói về ḿnh và hoạt động của phe ḿnh thôi mà .
    Thí chủ Siêu CS này quá là khiêm nhường khác thủ lănh đó, thí chủ không có nhận th́ bổn tăng cứ khen đại cho đă tai !

    Cái tai hại là cả đám người đi theo mà thiếu nghiên cứu và suy nghĩ mới chết đó chơ. Phần đồng là lớp trẻ họ thiếu kinh nghiệm với bọn CS nên bị nhẹ dạ thôi.

    Bổn tăng này lên đây để trừ quỷ mà quỷ hại bần tăng quá chừng

  2. #52
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054
    ( tiếp theo )

    Trước t́nh h́nh kể trên, ngày 17 tháng 9 năm 1970 Ngoại trưởng Nguyễn Thị B́nh của Chính phủ Cách mạng Lâm thời đưa ra đề nghị “8 điểm” trong đó có nói đến việc bầu cử để thành lập một chính phủ phản ánh các khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam về ḥa b́nh, độc lập, trung lập, dân chủ, và ḥa giải, ḥa hợp dân tộc. Điểm 5 đề cập đến một chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 3 thành phần: những nhân vật của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời; những nhân vật yêu chuộng ḥa b́nh, độc lập, trung lập và dân chủ trong chính quyền Sài G̣n; và những nhân vật của các lực lượng chính trị và tôn giáo, trong hay ngoài nước, có lập trường ủng hộ ḥa b́nh, độc lập, trung lập và dân chủ.[26]

    Đề nghị “8 điểm”, mà sau này phần lớn đă được đưa vào Hiệp Định Paris năm 1973, tạo được rất nhiều dư luận ủng hộ trên thế giới và cả ở nước Mỹ nên Nixon ngày 7 tháng 10 năm 1970 buộc phải trả lời bằng cách tuyên bố trên các đài truyền h́nh Mỹ một “phương án ḥa b́nh” nữa. Trong đó Nixon đ̣i rằng điều kiện tiên quyết cho một cuộc đàm phán là một “cuộc ngưng bắn tại chỗ” (ceasefire-in-place) và việc thả hết tất cả các tù binh của Mỹ; rằng cuộc đàm phán là phải với hết tất cả các nước Đông Dương (tức hai miền Việt Nam, Lào và Kampuchia) chứ không chỉ có với Việt Nam; rằng Mỹ và miền Bắc “rút quân cùng lúc” (mutual troop withdrawal) khỏi miền Nam; rằng một giải pháp chính trị cho miền Nam sẽ theo các thủ tục được đồng ư trong tương lai.[27]

    Nhiều thành phần nhân dân miền Nam lúc ấy phản đối đ̣i hỏi vô lư của Nixon. Sau một thời gian vận động, ngày 11 tháng 11 năm 1970 khoảng 1000 đồng bào gồm đủ các giới tham dự buổi hợp do Ủy Ban Đ̣i Quyền Sống Đồng Bào, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống, và Nghiệp Đoàn Giáo Chức Tư Thục tổ chức tại đại học xá Minh Mạng thành lập “Mặt Trận Nhân Dân Tranh Thủ Ḥa B́nh” (MTNDTTHB). Tuyên ngôn cho biết là MTNDTTHB “được thành lập với mục đích kết hợp mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, xu hướng và quá khứ cùng chung một ư chí đem lại Ḥa b́nh cho đất nước.”[28]

    Sự ra đời của MTNDTTHB giúp Mặt Trận Giải Phóng chứng minh rằng một giải pháp ngưng chiến tranh dựa vào giải pháp ḥa đàm sẽ được sự ủng hộ của nhân dân trong nước và trên thế giới. Ngày 10 tháng 12 năm 1970 bà Nguyễn Thị B́nh tuyên bố là sẽ có đ́nh chiến giữa quân đội Giải Phóng và quân đội của Mỹ và đồng minh nếu họ hứa sẽ rút quân trước ngày 30 tháng 6 năm 1971. Bà B́nh cũng nói là sẽ có ngưng bắn giữa quân đội Giải Phóng và Sài G̣n sau khi hai bên đồng ư thành lập một chính phủ lâm thời gồm 3 thành phần như đă được nêu trong đề nghị “8 điểm.” Nhưng Nixon không muốn có đ́nh chiến, chỉ muốn leo thang chiến tranh ḥng làm suy yếu phe cách mạng và củng cố chính quyền Sài G̣n v́ Nixon không tin tưởng ở khả năng chính quyền này có thể tồn tại trong một giải pháp ḥa b́nh dựa vào đấu tranh chính trị trong một chính phủ liên hiệp. Do đó, ngày 8 tháng 2 năm 1971 Mỹ và chính quyền Sài G̣n đă đưa hơn 45 ngàn quân vào khu vực đường 9 nam Lào, với ư định chiếm đóng toàn khu vực đó ḥng cắt đứt mọi chi viện cho Mặt Trận từ miền Bắc. Nhưng lư do mà Bộ trưởng Quốc pḥng Melvin Laird tuyên bố là để bảo vệ sinh mạng của Mỹ và để “bảo vệ chương tŕnh Việt Nam hóa” (to protect the Vietnamization program.)[29]

    Mặc dầu đây là một cuộc hành quân với quy mô rất lớn, tin tức về cuộc hành quân này đă bị lộ ra nhiều ngày trước. Do đó, theo hầu hết các báo Sài G̣n đăng vào ngày 5 tháng 2 năm 1971, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống, và Mặt Trận Nhân Dân Tranh Thủ Ḥa B́nh đă ra thông cáo chung phản đối việc Mỹ và chính quyền Thiệu mở rộng chiến tranh sang Lào. Thông cáo nói rằng đây là một cuộc leo thang chiến tranh rất nguy hiểm theo học thuyết Nixon về việc dùng người Đông Dương để giết nhau. Do đó, thông cáo nói là để chấm dứt cuộc tàn sát vô nghĩa tất cả quân đội Mỹ và đồng minh phải lập tức và hoàn toàn rút khỏi Đông Dương. Theo báo Tin Sáng, tờ báo của nhóm dân biểu Công giáo trong Quốc hội Sài G̣n và là tờ báo lớn nhất ở miền Nam lúc ấy, ngày 8 tháng 2 hơn 8000 người biểu t́nh chống việc đưa quân sang Lào. Đại diện của nhiều nhóm thuộc nhiều thành phần (phụ nữ, sinh viên, công nhân, chính trị, tôn giáo) đ̣i chồng con, anh em của họ phải được trở về với gia đ́nh. Chính quyền Sài G̣n bắt giữ và đánh đập nhiều người biểu t́nh, số lớn là sinh viên. Do đó, Tổng hội Sinh viên Sài G̣n buộc công bố một “tối hậu thư” đ̣i những sinh viên và bạn bè của họ phải được trả tự do trong ṿng 24 tiếng đồng hồ. Nhưng chính quyền Sài G̣n trả lời bằng cách đưa cảnh sát dă chiến và quân cảnh của Mỹ đến tấn công cư xá sinh viên Minh Mạng. Sinh viên trả thù bằng cách đốt các xe quân cảnh của Mỹ trên đường phố.[30] Ngày 14 tháng 2 năm 1971 sinh viên đốt 15 chiếc xe quân sự của Mỹ tại Sài G̣n và phát hơn 250 ngh́n truyền đơn chống việc Nixon leo thang chiến tranh.[31] Ngày 15 tháng 2 năm 1971 tại Sài G̣n 14 tổ chức đă đưa ra một thông cáo chung trong đó họ đ̣i Mỹ phải rút quân ngay lập tức khỏi Đông Dương và ngưng mọi hoạt động trá h́nh nhằm mở rộng chiến tranh và cản trở việc tái lập ḥa b́nh. Khẩn hiệu của các nhóm này đă đổi từ “chống Mỹ cứu nước”, “đuổi Mỹ cứu nước,” sang “diệt Mỹ cứu nước.” Từ đó trở đi hầu như mỗi ngày là có xe quân đội Mỹ bị đốt cháy trên đường phố Sài G̣n như các báo Sài G̣n đă đăng tin. Báo Dân Chủ Mới ngày 26 tháng 10 năm 1970 đăng một bài dài của GS Nguyễn Văn Trung, khoa trưởng Đại học Văn Khoa và là một người Công giáo, giải thích tại sao nhiều người Việt Nam đă trở thành những người thù Mỹ đến độ thấy xe Mỹ là đốt, thấy lính Mỹ là đánh.

    Thông tin về phong trào đô thị và hoạt động của sinh viên miền Nam trong thời gian này được phổ biến rất rộng răi tại Mỹ một phần v́ người đại diện chính thức của Tổng Hội Sinh Viên Sài G̣n đă thiết lập quan hệ tốt với báo chí Mỹ, với các tổ chức trong phong trào chống chiến tranh tại các đại học, và với Hiệp Hội Sinh Viên Quốc Gia Hoa Kỳ (United States National Student Association, USNSA). Một ví dụ điển h́nh là đại diện này đă thúc đẩy USNSA tổ chức một hội thảo quốc tế tại Georgetown University ở Hoa Thịnh Đốn ngày 13-16 tháng 10 năm 1971 gồm đại diện của hơn 30 nước trên thế giới và hơn 40 đại học tại Mỹ để chủ yếu bàn t́nh h́nh ở Nam Việt Nam và t́nh trạng của sinh viên Việt Nam trước sự đàn áp của chính quyền Sài G̣n.[32]

    Như đă thấy ở trên, thông tin về phong trào đô thị được nhiều báo và tập san viết đến, trong đó một trong những tờ báo quan trọng là tờ Tin Sáng không phải v́ nó là tờ báo lớn nhứt trong khoảng 30 tờ báo ở miền Nam, nhưng v́ nó là một tờ báo tiến bộ với sự cộng tác của nhiều nhân vật quan trọng trong Quốc hội và trong nhiều thành phần chính trị và tôn giáo tại miền Nam. Thêm vào đó những nhân vật này phần lớn là người Công giáo, như hai ông chủ biên Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận, cho nên lời nói của họ được nhiều người Mỹ tin tưởng. Mặc dầu là dân biểu Quốc hội (nên được hưởng quyền bất khả xâm phạm) và là cháu của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh, Tổng thống Thiệu gọi ông Ngô Công Đức là tay sai Cộng sản và bắt giam ông Đức 5 ngày năm 1971. Văn pḥng của ông Đức bị đặt bom plastic hai lần trong năm 1970 và cuối cùng bị thiêu rụi vào tháng ba năm 1971. Từ tháng 3 năm 1970 cho đến tháng hai năm 1972 tờ Tin Sáng bị tịch thu 295 lần, nhưng hầu hết các số bị tịch thu đă được ban biên tập t́m cách gởi sang cho Vietnam Resource Center qua hệ thống bưu điện quân sự của Mỹ (APO) cho nên chỉ vài ngày sau là nhận được. Các báo khác và các thông tin khác cũng phần lớn qua ngả này và sau đó được nhanh chóng dịch, phân tích, và phổ biến.[33] Ngô Công Đức cũng có quan hệ tốt với nhiều kư giả nước ngoài và nhiều lần được các tờ báo nước ngoài mời viết bài. Một ví dụ là bài “Anti-Americanism: Common Cause in Vietnam” (Chống Mỹ: Mục Đích Chung ở Việt Nam) đăng trong số tháng 2 năm 1971 của tập san The Progressive tại Mỹ. Dân biểu Lư Quí Chung trong nhóm Tin Sáng (sau khi Tin Sáng bị đóng cửa th́ Lư Quí Chung sang bên Điện Tín, cùng một nhóm thành lập), thuộc khối Phật giáo trong Quốc hội và trong cánh của Tướng Dương Văn Minh, năm 1970 xuất bản với một nhà xuất bản lớn tại Mỹ một cuốn sách gồm nhiều bài dịch từ Tin Sáng.[34]

    ( c̣n tiếp )

  3. #53
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054
    Qua các hoạt động như trên, “nhiều cá nhân và nhóm chính trị rất đa dạng” (theo lời nói của bà Nguyễn Thị B́nh được trích ở trên) đă giúp cho nhân dân trong nước và trên thế giới, đặc biệt là người Mỹ, thấy rơ hơn bộ mặt độc tài của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và tại sao càng ngày càng nhiều người Việt Nam chống chính sách và sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam. Để lừa quần chúng Mỹ và để có thể chứng minh rằng chính quyền Sài G̣n là một chính quyền có chính danh, Mỹ và Thiệu cho tổ chức bầu cử Quốc hội để dọn đường cho việc Thiệu chắc chắn thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 3 tháng 10 năm 1971. Các cuộc bầu cử này cũng nhằm phá hoại cuộc đàm phán tại Paris và các đề nghị của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời về một chính phủ liên hiệp lâm thời, về trung lập, về đ́nh chiến và về tự do. Cương lĩnh bầu cử tổng thống của Thiệu là chính sách “bốn không”: không có chính phủ liên hiệp dưới bất cứ một h́nh thức trá h́nh nào, không có nhượng đất đai cho Cộng sản, không có trung lập thiên Cộng, và không có chủ nghĩa Cộng sản được tự do tuyền bá và đảng Cộng sản được hoạt động ở Nam Việt Nam.[35] Ông Thiệu đă chính thức tuyên bố rằng trung lập tức là thiên Cộng. Ồng nói Cộng sản tuyên bố trung lập là không theo Mỹ hay theo Cộng sản, nhưng thật ra Cộng sản muốn miền Nam trung lập là v́ họ muốn Mỹ không có cớ ở lại miền Nam.[36]

    Tṛ bầu cử này đă bị các cá nhân và nhóm trong phong trào đấu tranh đô thị lật tẩy và phá vỡ. Các báo Sài G̣n, đặc biệt là Tin Sáng, cho biết Mỹ đă ủng hộ chính phủ Thiệu trong việc dồn phiếu cho các ứng cử viên ngay trước ngày bầu cử. Các ứng cử viên đối lập bị đánh đập, bị bắt, và bị dọa là sẽ bị giết. Lính của chính quyền được gởi đến các trạm bỏ phiếu để bỏ phiếu nhiều lần cho các ứng cử viên trong danh sách phe của Thiệu. Và tại nhiều làng hơn hai phần ba lá phiếu không được đưa cho cử tri v́ chính quyền nghi rằng những cử tri đó sẽ không đầu phiếu danh sách của Thiệu.[37] Tuy vậy, chính Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ cũng đă phải tuyên bố tại Sài G̣n là những vi phạm và gian lận trong cuộc bầu cử được nêu trên các báo chí thật ra chỉ bằng 25 phần trăm của những ǵ đă xảy ra trên khắp nước. Ông Kỳ nói tiếp là theo những ǵ chính bản thân ông biết th́ “thật là rùng rợn một trăm phần trăm và không thể tưởng tượng nổi.”[38]

    Ngoài việc phơi bày những vi phạm và gian lận trong kỳ bầu cử Quốc hội cho thế giới biết, các cá nhân và nhóm trong phong trào đô thị cũng đă làm áp lực các chính khách, trong đó có Dương Văn Minh, không ra ứng cử tổng thống để Mỹ và Thiệu không thể dùng cuộc bầu cử này để biện minh cho tính chính danh của chính quyền Sài G̣n.[39] Cuối cùng Nguyễn Văn Thiệu phải “độc diễn” và chính quyền Sài G̣n thông báo là theo con số đếm chính thức ông ta được 94,3 phần trăm tổng số phiếu. Chính phủ Mỹ không những không thể dùng tṛ bầu cử để bịp dân chúng Mỹ cho tiếp tục ủng hộ chính quyền Sài G̣n mà c̣n bị dư luận thế giới, trong đó có báo chí và chính khách Mỹ, phê phán kịch liệt.[40] Để gỡ gạc, đại sứ Ellsworth Bunker tuyên bố: “You can’t expect too much from this underdeveloped country” (Không có thể đ̣i hỏi quá đáng từ một nước chưa phát triển như thế này). Và tổng thống Nixon nói: “It’ll take a few more generations before the Vietnamese can enjoy democracy” (Cần một vài thế hệ nữa trước khi người Việt Nam mới có thể hưởng dân chủ). Cách ăn nói này đă gây phản ứng rầm rộ trên các báo Sài G̣n. Một số người viết thư cho các báo, hay thư ngơ cho Bunker và Nixon đăng trên các báo, phản đối sự trịch thượng của hai vị này và sự tàn bạo của đế quốc Mỹ.[41]

    Tại Mỹ một số hạ, thượng nghị sĩ đ̣i cắt viện trợ quân sự cho chính quyền Thiệu. Nhưng tổng thống Nixon đă bào chữa cho việc tiếp tục viện trợ với lư do là 30 trong 91 nước trên thế giới mà Mỹ cấp viện trợ quân sự là những nước mà các nhà cầm quyền được tuyển chọn qua các tiêu chuẩn bầu cử mà đối với người Mỹ là không công bằng. V́ thế, nếu áp dụng những tiêu chuẩn mà nhiều người Mỹ muốn áp dụng ở Nam Việt Nam th́ cũng phải cúp viện trợ cho hơn hai phần ba nước đang nhận viện trợ Mỹ lúc đó.[42]

    Được sự ủng hộ công khai của Nixon chính quyền Thiệu bắt đầu đàn áp thẳng tay những người tranh đấu đ̣i ḥa b́nh, trung lập và dân chủ. Trong một bản báo cáo (đăng trong Tia Sáng ngày 2 tháng 2 năm 1972) dân biểu Hoàng Thế Phiệt cho biết có hơn 40 ngàn người ở các địa phương c̣n ở trong tù v́ họ phản đối cuộc bầu cử tháng 10 năm 1971. Ông Phiệt viết là con số này không kể những sinh viên, học sinh đă bị bắt tại Sài G̣n và bị tra tấn không nương tay. Sau đây chỉ là một vài trường hợp lấy ra trong vài số báo từ tháng Giêng cho đến tháng 3 năm 1972 để cho độc giả thấy được một phần nào t́nh trạng lúc ấy đối với những người đấu tranh trong phong trào đô thị.

    Ngày 13 tháng Giêng năm 1972 tờ Tin Sáng Hải Ngoại cho biết là sinh viên Lê Văn Nuôi và hai bạn là Nguyễn Chiến và Trương Minh đă bị đánh què chân trong tù và một học sinh khác tên là Trương Văn Khuê đă bị hỏng mắt và sức khỏe bị đe dọa trầm trọng. Ngày 23 tháng 3 năm 1972 báo Dân Chủ Mới cho biết là v́ áp lực của bạn bè trong nước và trên thế giới Lê Văn Nuôi và các bạn được đem ra ṭa để xử. Hàng trăm cảnh sát đă phong tỏa ṭa và nhiều cảnh sát khác đă được đưa đến Quốc hội và ṭa đại sứ Mỹ để củng cố an ninh. Phiên ṭa phải chấm dứt khi Lê Văn Nuôi và bạn lấy dao lam rạch tay, rạch bụng, và rạch ngực và lấy máu ḿnh viết các khẩu hiệu chống chính quyền Thiệu trên vách tường của ṭa án. Mặc dầu những sinh viên này bị thương, họ bị bắt giải về tù mà không được cứu chữa ǵ hết. Theo báo Điện Tín ngày 25 tháng 3 năm 1972, sau khi bị giải về tù các học sinh trên lại bị tiếp tục tra tấn. Sự tàn bạo của chính quyền đă khiến cho toàn thể sinh viên học sinh tại Sài G̣n, khoảng 100 ngàn người, phản đối bằng một cuộc nghỉ học dài không thời hạn chấm dứt.

    Trường hợp thứ hai là trường hợp của Huỳnh Tấn Mẫm, chủ tịch Ban chấp hành lâm thời của Tổng hội Sinh viên miền Nam. Theo báo Tin Sáng Hải Ngoại ngày 3 tháng 3 năm 1972 Mẫm đă bị bắt giam trong tù của chính quyền Sài G̣n và đă bị tra tấn cho đến nỗi máu đă chảy ra từ mắt và tai. Sau khi bị tra tấn Mẫm c̣n bị gởi đến trung tâm của CIA tại Bến Chương Dương để bị “hỏi cung”, và tại đây Mẫm đă bị tra tấn thêm. Báo Dân Chủ Mới ngày 23 tháng 3 năm 1972 cho biết là trong khi bị CIA giữ Mẫm đă tuyệt thực trong 14 ngày và phải bị truyền nước muối (sodium pentathol) để khỏi chết; nhưng sức khỏe của Mẫm đă bị đe dọa trầm trọng.

    Ngày 7 tháng 3 năm 1972 Dân Chủ Mới đăng tin Giáo Sư Ngô Kha, Chủ tịch Mặt trận Văn hoá Dân tộc miền Trung, đă bị bắt và tra tấn dưới sự điều khiển của các cố vấn Mỹ. Ngày 17 tháng 3 Dân Chủ Mới đăng tin là Ngô Thế Lư, chủ tịch Hội Sinh Viên Phật Tử ở Đà Lạt vừa bị bắt và có thể đă bị giết v́ đă viết những bài phản đối chính quyền Sài G̣n. Và ngày 24 tháng 3 năm 1972 báo Điện Tín cho biết là bà Ngô Bá Thành, chủ tịch Ủy Ban Phụ Nữ Đ̣i Quyền Sống, đă bị tra tấn trong tù.[43]

    V́ báo chí đăng những tin như trên gần như hằng ngày, chính quyền Thiệu cũng gần như hằng ngày tịch thu các báo. Agence France Press ngày 3 tháng 6 năm 1972 cho biết là trong tháng 4 và tháng 5 năm 1972 các báo tại Sài G̣n đă bị tịch thu 337 lần. Các chủ bút và phóng viên của các báo cũng đă bị trù dập bằng nhiều cách. Một ví dụ là trường hợp của Linh mục Chân Tín, chủ nhiệm tờ Đối Diện. Báo Điện Tín ngày 14 tháng 3 năm 1972 cho biết là ông Chân Tín đă bị kêu án 12 tháng tù và phạt một triệu đồng (khoảng 5000 USD lúc đó). Trước đó ông Chân Tín và hai phóng viên của tờ báo đă bị xử 6 tháng tù v́ vài bài biết chỉ trích rất nhẹ nhàng chính phủ và các người trí thức ủng hộ chế độ.

    H́nh như thấy những biện pháp đàn áp trên vẫn chưa đủ để triệt tiêu phong trào đô thị ngày 19 tháng 5 năm 1972 Thiệu ra lệnh thiết quân luật. Sự đàn áp gia tăng đến nỗi mà ngày 13 tháng 6 năm 1972 tờ New York Post đăng tin là chỉ trong có vài tuần sau thiết quân luật mà đă có hơn năm ngàn người bị bắt bởi chính quyền Sài G̣n và kư giả nói thêm là những người này nhất thiết là những người tù chính trị. Tuần san Far Eastern Economic Review (FEER) ngày 3 tháng 6 năm 1972 đăng một bài khá dài và chi tiết về việc bắt bớ và tra tấn sau khi lệnh thiết quân luật được tuyên bố. Ngoài việc bắt bớ và xét nhà bất cứ lúc nào, nhưng đặc biệt là trong đêm khuya, th́ trong tháng 6 chính quyền Sài G̣n cho biết là sẽ bắt khoảng 42 ngàn sinh viên đi lính. Trong số này, theo tờ FEER sẽ có nhiều sinh viên Đại Học Vạn Hạnh và Đại Học Văn Khoa Sài G̣n v́ nhiều cuộc biểu t́nh đă xuất phát từ những nơi này. Ngày 5 tháng 8 năm 1972 tờ San Francisco Chronicle viết là khoảng 14 ngàn thường dân đă bị bắt giam từ tháng 4 năm ấy. Ngày 10 tháng 11 năm 1972 tờ Washington Post cho biết là từ sau Hiệp Định Paris được kư tắt chính quyền Sài G̣n đă bắt thêm 40 ngàn tù nhân chính trị. Ngày 11 tháng 11 năm 1972 chương tŕnh truyền CBS Evening News phát một bản tin trong đó Hoàng Đức Nhă, phát ngôn viên của Thiệu và là một người cháu, khoe rằng từ sau Hiệp Định Paris được kư tắt, chính quyền Thiệu đă bắt 55 ngàn “Communist sympathizers” (người thân Cộng) và giết 5 ngàn người khác. Thông tấn xă Associated Press và chương tŕnh truyền h́nh CBS Evening News cho thông tin là Tổng thống Thiệu đă đưa ra một sắc lệnh bảo nhân dân miền Nam phải diệt Cộng trước khi, trong khi, và sau khi Hiệp Định Paris được chính thức kư kết. Ngày 4 tháng 11 năm 1972 tờ San Francisco Chronicle trích lời phát biểu của Thiệu trong cùng ngày rằng tất cả ai ủng hộ một chính phủ liên hiệp đều là “trung lập thân Cộng” (pro-Communist neutralists) và v́ thế ông Thiệu sẽ không để cho những người nấy sống lâu hơn 5 phút. Cuối cùng, ngày 25 tháng 11 năm 1972 Thiệu kư một sắc lệnh cấm tất cả mọi h́nh thức biểu t́nh chống đối. Sắc lệnh này nói là người nào bị nghi là có quan điểm không phù hợp với t́nh h́nh hiện thời và trong tương lai, bất cứ về chuyện đối nội hay đối ngoại, sẽ có thể bị tuyên án tử h́nh bởi một ṭa án quân sự.[44]

    Những chi tiết trên cho thấy rơ ràng là chính quyền Thiệu muốn tiêu diệt phong trào đô thị để khỏi có một chính phủ liên hiệp. Chính quyền Nixon cũng muốn phá hủy Hiệp Định Paris mà họ đă buộc đă phải kư tắt bằng cách đ̣i thay đổi khoảng hơn 100 chỗ trong bản kư tắt đó. Khi chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa từ chối th́ Nixon ra lệnh một cuộc oanh tạc thành phố Hà Nội và Hải Pḥng với hàng trăm máy bay B-52 bắt đầu ngày 25 tháng 12 năm 1972 mà người Mỹ sau đó gọi là “cuộc oanh tạc Giáng Sinh” (Christmas Bombing). Nhưng cuộc tấn công này đă thất bại và sự chống đối của nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới buộc Henry Kissinger phải trở lại bàn đàm bán và kư Hiệp Định Paris mà trong đó chỉ có vài thay đổi nhỏ so với hiệp định đă được kư tắt.

    ( c̣n tiếp )

  4. #54
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054
    3. Vài đóng góp trong thời kỳ 1973-1975



    Ngoài việc thiết lập một “Hội đồng quốc gia ḥa giải và ḥa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau” như điều khoản 12 đă được trích ở trên, Hiệp Định Paris c̣n công nhận hai thực thể chính trị ngang nhau ở miền Nam là chính quyền Sài G̣n và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời; và hai chính thể này phải tiến đến một giải pháp chính trị trong t́nh trạng có đầy đủ các quyền dân chủ và không có sự can thiệp của Mỹ (các điều khoản 1. 4. 8, 9 và 11.) Điều khoản 8c nói rơ rằng tất cả các tù chính trị đều phải được thả “trên tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, nhằm chấm dứt thù hằn, giảm bớt đau khổ và đoàn tụ các gia đ́nh.” Nhưng đối với chính quyền Thiệu thả tù chính trị tức là giúp cho phong trào chống đối càng có thêm nhiều người tham gia. Nguyên văn điều khoản 11 như sau:

    Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:

    – Thực hiện ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đă hợp tác với bên này hoặc bên kia;

    – Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.

    Điều này có nghĩa bất cứ cá nhân hay tổ chức nào cho ḿnh không theo chính quyền Sài G̣n hay Chính phủ Cách Lâm Thời đều có quyền đi truyền bá một chủ nghĩa trung lập. hay một chính phủ liên hiệp mà không bị đàn áp. Nhưng ba ngày trước khi kư Hiệp Định Paris Kissinger c̣n tuyên bố tại một cuộc họp báo rằng chính sách của chính phủ Mỹ là không “áp đặt một chính phủ liên hiệp hay một chính phủ liên hiệp trá h́nh trên nhân dân Việt Nam” (“imposing a coalition government or a disguised coalition government on the people of South Vietnam.”)[45] Trong khi đó th́ vào ngày 23 tháng Giêng năm 1973 Nixon tuyên bố trên các đài truyền thanh và truyền h́nh rằng Hoa Kỳ “vẫn tiếp tục công nhận chính phủ Cộng Ḥa Việt Nam như là chính phủ chính danh độc nhất” (“continue to recognize the government of the Republic of Vietnam as the sole legitimate government of South Vietnam.”[46])

    Được thể, Tổng thống Thiệu lập tức nhấn mạnh lại lập trường “bốn không.” Sau đó, trong một bài phỏng vấn đăng trong Vietnam Report (số 15 tháng 7 năm 1973), ông Thiệu nói rằng “bọn Việt Cộng muốn thiết lập trong vùng họ kiểm soát một chính quyền, một chính quyền thứ hai ở miền Nam” được nhiều sự ủng hộ quốc tế để dẫn đến một “chính phủ liên hiệp màu hồng.”[47] Do đó, ông Thiệu nói tiếp: “Thứ nhất, chúng ta phải ráng hết sức để Mặt Trận Giải Phóng không có thể thiết lập một quốc gia, một quốc gia thứ hai ở miền Nam.” (Nguyên văn tiếng Anh: “In the first place, we have to do our best so that the NLF cannot build itself into a state, a second state within the South.”) Và thứ hai là dùng mọi h́nh thức và điều kiện trong tay để ngăn cấm không cho một lực lượng thứ ba h́nh thành v́ tất cả các nhân vật trong thành phần thứ ba đều thiên cộng và phản quốc. Cuối tháng 4 năm 1972, Hoàng Đức Nhă tuyên bố là nếu không phải quốc gia th́ là Cộng sản, chứ không có thành phần thứ ba thứ tư ǵ hết.[48] Và Dân biểu Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch hạ viện của Quốc hội, nói là “không có chuyện ḥa giải, ḥa hợp dân tộc” với các lực lượng chính trị đối lập.[49]

    Để đối với “bốn không” của chính quyền Thiệu th́ chính phủ miền Bắc đă đưa ra chủ trương “5 cấm” cho quân đội của họ ở miền Nam cũng như quân lính của Chính phủ Cách Mạng Lâm thời: không được tấn công địch, không được tấn công quân địch khi nó hành quân chiếm đất, không được bao vây đồn địch, không được pháo đồn địch, và không được xây ấp chiến đấu. Sau này, trong một bài viết đăng trên Tạp Chí Lịch Sử Quân Đội (số tháng 3 năm 1988), ông Lê Đức Thọ giải thích là một trong những lư do lúc đó chính phủ miền Bắc có chính sách dè dặt là v́ Liên Xô đă giảm viện trợ cho Việt Nam và Trung Quốc đă cắt hết tất cả các chương tŕnh viện trợ kinh tế. Nixon và Kissinger đă cho Thiệu biết trong cuộc viếng thăm Nhà Trắng vào tháng 3 năm 1973 là Liên Xô và Trung Quốc sẽ kiềm chế Hà Nội bằng cách giảm viện trợ.[50]

    Trong khi phía cách mạng gặp phải những hạn chế kể trên th́ chính quyền Sài G̣n được Mỹ cung cấp viện trợ quân sự cho đến mức mà, theo lời điều trần của Trung Tướng Peter Olenchuck trước Quốc hội Mỹ, th́ các quân chủng của Mỹ đă bị thiếu hụt trang bị ngay trong nước và cả ở bên Âu Châu.[51] Do đó chính quyền Thiệu đă lập tức điều hành các cuộc “hành quân tràn ngập lănh thổ” để chiếm các vùng dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời và tha hồ dội bom và nả pháo vào các vùng đó. Một báo cáo của Thượng Viện Mỹ tháng 6 năm 1973 cho biết quân đội Sài G̣n mỗi ngày bắn pháo 105 ly vào các vùng giải phóng ở các tỉnh miền Trung với tỷ lệ nhiều hơn là tổng số các đầu đạn đó được sản xuất mỗi ngày tại Mỹ.[52] Tờ Washington Post ngày 16 tháng 2 năm 1974 trích một báo cáo của Lầu Năm Góc (Pentagon) cho biết là quân đội Sài G̣n “nhắm mắt mà bắn” (“fire blindly”) vào các vùng của phía cách mạng v́ họ thừa biết là sẽ được Mỹ tái cung cấp (“knew full well they would get all the replacement supplies they needed from the United States”). Ngoài việc nả pháo và dội khoảng 15 ngàn trái bom mỗi tháng, chính quyền Sài G̣n c̣n khoe là mỗi tháng có hàng ngàn cuộc hành quân để tái chiếm các vùng quê miền Nam. Một báo cáo của Tỉnh Ủy Long An sau này cho biết là sau khi Hiệp Định Paris được kư mỗi ngày mỗi làng trong tỉnh dưới sự kiểm soát của cách mạng đă bị dội bom 4 đến 5 lần và bị nả pháo trung b́nh khoảng một ngàn quả. Từ tháng 5 cho đến tháng 8 năm 1973 phía cách mạng phải đương đầu với 3300 (ba ngàn ba trăm) cuộc hành quân của địch và nhiều cuộc hành quân này đă gồm vài sư đoàn.[53] Nói chung, các vùng giải phóng đă bị thiệt hại nặng nề trong hai năm 1973-1974.

    ( c̣n tiếp )

  5. #55
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054
    Trước t́nh h́nh nói trên, các cá nhân và các nhóm trong phong trào đô thị đă dựa vào các điều khoản được đảm bảo trong Hiệp Định Paris về các quyền tự do đă được trích ở trên cho các thành phần chính trị ở miền Nam, trong đó có “thành phần thứ ba”, để tranh đấu với chính quyền Sài G̣n trên nhiều lănh vực. Một trong những lănh vực đó là vấn đề trả tự do cho các người tù chính trị. Một ví dụ là “Ủy ban Vận động Cải thiện Chế độ Lao tù miền Nam Việt Nam” đă cho ra đời tờ Tin Lao Tù (bằng ronéo) và tại Mỹ bản tin này đă được Vietnam Resource Center thường xuyên dịch ra và đưa cho các báo chí Mỹ cũng như nhiều hạ, thượng nghị sĩ Mỹ. Tháng Giêng năm 1972 Ngô Công Đức, lúc đó đang ở Stockholm (Thụy Điển), tung ra một bài khá chi tiết về chế độ lao tù ở miền Nam và con số khoảng 200 ngàn tù chính trị tại các nhà tù lớn như Chí Ḥa, Phú Quốc, Thủ Đức, Tân Hiệp và Côn Sơn cũng như các trại giam ở các tỉnh. Vietnam Resource Center đă dịch và chú thích tài liệu này và gởi đến cho các báo cũng như đưa cho các tổ chức tại Mỹ để họ gặp các đại diện của họ ở Quốc hội làm “lobby.”

    Một kết quả là giữa tháng 3 năm 1973 Jerry Tinker, một trợ lư của Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy, đă hướng dẫn một phái đoàn điều tra của Quốc hội Mỹ sang Việt Nam. Phái đoàn đă gặp “Ủy Ban Vận động Chế Độ Lao tù miền Nam Việt Nam” ngày 18 tháng 3 và hứa sẽ phổ biến tin tức về chế độ lao tù và t́nh trạng của các tù nhân chính trị cho nhân dân Mỹ biết. Trong một bài diễn văn tại thượng viện Thượng Nghị Sĩ Kennedy cho biết là chính quyền Sài G̣n đă thay đổi các hồ sơ tù nhân chính trị thành “thường phạm” (common criminals). Kennedy trích một báo cáo của Đại Sứ Quán Mỹ tại Sài G̣n cho ủy ban do ông làm chủ tịch rằng trước và sau Hiệp Định Paris được kư chính quyền Thiệu đă thay đổi hồ sơ của các tù chính trị thành thường phạm bằng cách nói là họ đă bị tù v́ đă có vi phạm về thẻ căn cước hay v́ trốn lính.[54] Thượng Nghị Sĩ Kennedy cho biết là trong khi Đại Sứ Quán của Mỹ ở Sài G̣n và Bộ Ngoại Giao của Mỹ công nhận là có tù chính trị và họ có bị tra tấn, hai cơ quan này nói chuyện tù nhân là chuyện nội bộ của Nam Việt Nam. Thương Nghị Sĩ Kennedy nói rằng ông không hiểu nổi lư luận này v́ chính phủ Mỹ vẫn chi tiền cho hệ thống lao tù ở Việt Nam và vẫn đào tạo cảnh sát và các nhân viên tra tấn trong tù. Theo Kennedy, tài liệu của chương tŕnh viện trợ cho hệ thống lao tù ở Việt Nam mà AID (Agency for International Development) nộp cho ủy ban của ông tại Thượng Viện cho biết là trong năm 1973 Mỹ đă chi tiền để thiết lập 329 trại giam (“detention centers”) và định sẽ dùng thêm 12,2 triệu USD nữa cho “Fiscal Year 1974” (“Năm Tài Chính,” bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 năm 1973 cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1974) cho hệ thống lao tù ở Nam Việt Nam. Kennedy lưu ư là số tiền chính phủ Hoa Kỳ thông báo cho ủy ban của ông chỉ là một số tiền rất nhỏ so với tổng số được chi tiêu cho việc đàn áp của chính quyền Sài G̣n trong hệ thống nhà tù. Kennedy nói tiếp là việc che đậy và tráo trở của chính quyền Mỹ đối với việc tiếp tục tài trợ cho hệ thống cảnh sát và lao tù tại Nam Việt Nam là việc không thể hiểu được. (Nguyên văn lời nói của Kennedy: “The administration’s cover-up and deception on continuing support of the police and prison system in South Vietnam defies understanding.”)[55]

    Ngoài vấn đề tù chính trị các cá nhân và nhóm trong phong trào đô thị miền Nam cũng đă dùng các quyền “tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống” được bảo đảm trong điều khoản 11 của Hiệp Định Paris để tranh đấu cho những người trong các “trại tị nạn Cộng sản” và những người tị nạn chiến tranh đang sinh sống chung quanh các thành phố được trở về quê quán. Theo một nghiên cứu của thượng viện Mỹ th́ đến năm 1972 ở miền Nam đă có 10 triệu người tị nan trong tổng số dân là 18,2 triệu.[56] Năm ngày trước khi Hiệp Định Paris được kư chính quyền Thiệu đă cho đăng một số công bố ngày 22 tháng Giêng năm 1973 trên tờ Tin Sống, cơ quan ngôn luận bán chính thức của chính quyền, rằng ai xúi dục dân chúng ra khỏi vùng kiểm soát của chính quyền sẽ bị bắt và bị xử tử tại chỗ.

    Một vài cá nhân trong phong trào đô thị vội báo cho các kư giả nổi tiếng của các tờ báo lớn tại Mỹ về việc này và vận động họ sang Việt Nam để điều tra. Daniel Sutherland, lúc đó đang ở Hồng Công, lập tức sang miền Nam đi điền dă và sau đó đă viết trên tờ Christian Science Monitor ngày 29 tháng Giêng năm 1973 là không những chính quyền Sài G̣n cấm dân chúng trở về nông thôn mà tại nhiều nơi c̣n cấm họ không được làm việc ngoài đồng ruộng cách xa làng (“being prohibited from working in the outlying fields”) v́ sợ là những vùng này sẽ rơi vào tay Cộng sản. Đến giữa tháng 3 năm 1973 Sutherland lại viết một bài cho biết là chính quyền Sài G̣n đă dùng mọi cách để cấm các người tị nạn chiến tranh trở về quê, kể cả việc bắt họ đứng chụp h́nh dưới lá cờ của Mặt Trận Giải Phóng để vu khống họ nếu họ bỏ đi.[57] Frances FitzGerald, tác giả cuốn Fire in the Lake đă được giải Pulitzer, sang Việt Nam viết một loạt bài cho tờ New York Times, đă viết trong số ngày 4 tháng 5 năm 1973 rằng chính quyền Sài G̣n đă tịch thu thẻ căn cước của những người trong các trại tị nạn và dọa sẽ bắt họ và dùng bạo lực đối với họ nếu họ bỏ đi. Cảnh sát và lính pḥng biên đă bắt những người đi chợ, nói rằng họ gánh đồ cho Việt Cộng và trong những trường hợp như thế này không những hành trang của các người nông dân bị tịch thu mà họ c̣n bị tra khảo.[58]

    Ngoài việc cấm không cho dân tị nạn trở về quê, tờ New York Times ngày 22 tháng 3 năm 1973 cho biết rằng chính quyền Sài G̣n tuyên bố là họ đă chuyển 100 ngàn người tị nạn trong số 660 ngàn ở một số tỉnh miền Trung về khu vực phía bắc của thành phố Sài G̣n. Đây là chương tŕnh di dân mà cơ quan của Mỹ gọi là “Cơ quan Điều phối Dân sự Vụ và Phát triển Nông thôn” (Civil Operations and Rural Development Support, CORDS) cùng chính quyền Sài G̣n đă thiết lập. Trong kế hoạch năm 1973 chi phí cho 600 ngàn người bị di chuyển là 14 USD một người. Nhưng như các báo Sài G̣n cho biết th́ cuối cùng người dân không được hưởng ǵ cả v́ tham nhũng. Tờ Ḥa B́nh số ngày 6 tháng 6 năm 1973, chẳng hạn, cho biết rằng chỉ ở một trại tị nạn ở Đà Nẵng thôi th́ khoảng nửa triệu đô la đă bị lấy mất. Các báo Sài G̣n đưa tin, gần như hằng ngày, rằng một phần do tham nhũng và một phần do thiếu lương thực ở các tỉnh miền Trung nạn đói đă hoành hành dữ dội và các báo này thường có những bài rất chi tiết về hoàn cảnh bi đát của những người trong các trại tị nạn. Các báo lớn tại Mỹ cũng đă có những bài về vấn đề này, trong đó cho biết là vào tháng 9 năm 1973 đă có những cuộc biểu t́nh của dân tị nạn tại ba tỉnh miền Trung (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam) và tỉnh Long Khánh đ̣i được trả tự do.[59] Qua đến đầu năm 1974 các báo Sài G̣n đă gắn việc thiếu đói ở các tỉnh với sự tham nhũng của các quan chức chính quyền Sài G̣n, trong đó có Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Xă Hội Phan Quang Đán (người mà được chính phủ Mỹ rất tin cậy và nói là không có thể bị tham nhũng được).[60]

    Nói chung là trong giai đoạn 1973-1975 nhiều cá nhân và nhóm tại miền Nam đă dùng Hiệp Định Paris và việc không thi hành các điều khoản trong hiệp định ấy để đấu tranh với chính quyền Sài G̣n và Mỹ trên nhiều lănh vực. Nhiều “phong trào,” “mặt trận,” “lực lượng,” “ủy ban,” và “nhóm” đă được sáng lập với mục đích làm suy yếu chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Sau đây là tên của một vài tổ chức được sáng lập từ cuối năm 1973:

    - Phong trào Phụ nữ đ̣i Quyền sống. (Bà Ngô Bá Thành sáng lập).

    - Phong trào Thi hành Hiệp Định Paris.

    - Mặt trận Nhân dân Cứu đói. (Tổ chức lớn nhất ở miền Nam với sự tham gia của các nhóm Công giáo, Phật giáo, Ḥa Hảo và Cao Đài. Linh mục Phan Khắc Từ là một trong 3 phó chủ tịch.)

    - Mặt trận các Tôn giáo v́ Ḥa b́nh, Ḥa hợp, và Ḥa giải. (Dương Văn Minh sáng lập).

    - Lực lượng Ḥa hợp Ḥa giải Dân tộc (Một tổ chức Phật giáo do Vũ Văn Mẫu lănh đạo).

    - Tổ chức Nhân dân đ̣i Thi hành Hiệp định Paris. (Ngô Bá Thành sáng lập).

    - Ủy ban Tranh đấu cho Tự do Báo chí và Xuất Bản. (Dân biểu Nguyễn Văn Binh, anh vợ Ngô Công Đức đứng đầu).

    - Ủy ban đ̣i trả tự do cho tù Chính trị của Lực lượng thứ ba.

    - Ủy ban bảo vệ quyền lợi người lao động (Linh mục Phan Khắc Từ lănh đạo).

    - Nhóm các Nhà Lập Pháp Tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Ḥa b́nh.

    Các tổ chức này có thể là “năm cha bảy mẹ” và trong đó có một số “lực lượng không có lực lượng” (như có người đă mỉa mai), hay là “rất đa dạng” như báo Đại Đoàn Kết trích bà Nguyễn Thị B́nh nói phía trên. Nhưng tất cả đều chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và các chính sách của Mỹ tại Việt Nam.[61] Những cá nhân trong các tổ chức này, như Tướng Dương Văn Minh, đă thay đổi lập trường chính trị của họ từ chống Cộng đến chống Thiệu và chống Mỹ v́ hoàn cảnh bi đát của đất nước và dân tộc. Đầu tháng 10 năm 1974, trong một cuộc phỏng vấn với tuần san Far Eastern Economic Review, Tướng Minh tuyên bố: “Chiến tranh đă kéo dài quá lâu. Nhân dân đă chịu khổ đến hết mức rồi. Do đó, chiến tranh ư thức hệ đă mất hết ư nghĩa. Vấn đề khẩn cấp không c̣n là sự chiến thắng của lập trường chính trị này hay ư thức hệ kia mà là sự sống c̣n của dân tộc.”[62] Lẽ dĩ nhiên là những cá nhân và nhóm bao quanh ông Minh trong những năm 1973-1975 có lập trường chính trị khác nhau, có các cá nhân “tả khuynh” như Ngô Công Đức và Lư Quí Chung và “hữu khuynh” như Thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu và Dương Minh Đức (con trai ông Dương Văn Minh.) Nhưng đây là vấn đề khá “phức tạp”. Khó có thể xác định lập trường chính trị thật sự của các cá nhân dựa trên những lời tuyên bố của họ lúc này hay lúc khác v́ có thể trong thời điểm đó họ đang cần vận động dư luận về một vấn đề nào đó, hay một tổ chức chính trị đặc biệt nào đó.

    ( c̣n tiếp )

  6. #56
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054
    Ông Dương Văn Minh có lập một “văn pḥng chính trị” tại Sài G̣n do Dương Minh Đức và một số nhân vật khác điều khiển. Dương Minh Đức thường chạy sang Pháp, và sau đó sang Mỹ, nói là đại diện bố để gọi là trao đổi ư kiến với một vài nhóm chính trị.[63] Tháng Giêng năm 1975 Ngô Công Đức được mời sang Mỹ để gặp các tờ báo Mỹ và các chính trị gia Mỹ để nói về chế độ lao tù ở miền Nam và để dự “The Assembly to Save the Peace Agreement” tại Hoa Thịnh Đốn. Sau cuộc họp này, mấy ngàn người đă đi đến văn pḥng của các hạ, thượng nghị sĩ để đ̣i họ cắt viện trợ cho chính quyền Sài G̣n. Lúc đó chính quyền Sài G̣n và Nhà Trắng đ̣i Quốc hội Mỹ chi thêm 300 triệu USD quân viện cho Sài G̣n. Ngô Công Đức được mời đi gặp các hạ và thượng nghị sĩ và đă yêu cầu họ là không nên viện trợ cho chính quyền Sài G̣n để tiếp tục chiến tranh nữa.[64] Dương Minh Đức nhất định tháp tùng Ngô Công Đức sang Mỹ mặc dầu không được ai mời để mong kềm kẹp hoạt động của Ngô Công Đức. Nhưng trước cuộc họp ở Hoa Thịnh Đốn Ngô Công Đức quyết định mời Dương Minh Đức trở về Pháp.[65]

    Ông Vũ Văn Mẫu cho ḿnh là người “quốc gia,” có lẽ v́ ông là thượng nghị sĩ của chính quyền Sài G̣n hay là đại diện của nhóm Phật giáo Ấn Quang. Ông Mẫu đă có những tuyên bố “lúc này lúc kia.” Khi ông công bố “Lực lượng Ḥa hợp Dân tộc” đầu tháng 9 năm 1974 th́ ông nói mục đích chính tổ chức này là tạo một “bầu không khí ḥa hoăn” trong nước và ngoài nước ḥng để chấm dứt chiến tranh.[66] Tháng 9 năm 1974 ông tuyên bố rằng dân chúng miền Nam có thể sống trong đoàn kết và không có một lực lượng nào được khống chế lực lượng khác và tự gắn cho ḿnh danh nghĩa đại diện cho tất cả.[67] Hai tuyên bố trên rơ ràng là tiến bộ hay “tả khuynh” hơn tuyên bố cùng tháng 9 này của ông Dương Văn Minh là muốn lănh đạo các lực lượng thứ ba bằng cách kết hợp tất cả các lực lượng chống chính quyền Thiệu v́ tự do báo chí, v́ ḥa b́nh và v́ một chính quyền trong sạch.[68] Sang năm 1975 th́ có vẻ ông Mẫu “hữu khuynh” và “quốc gia” hơn trong như trong hai ví dụ sau đây: Cuối tháng 3 năm 1975 Vũ Văn Mẫu đ̣i Nguyễn Văn Thiệu từ chức để cho “những lực lượng quốc gia thật sự” có thể h́nh thành.[69] Ngày sau đó ông Mẫu tố cáo ông Thiệu là “đă đánh mất trong dưới hai tuần nhiều đất đai và nhiều dân số hơn hai mươi năm trước đó.”[70] Nhưng vài ngày sau đó, khi gặp một phái đoàn Quốc hội Mỹ sang Sài G̣n t́m hiểu t́nh h́nh th́ ông Mẫu đă yêu cầu họ cắt viện trợ cho chính quyền Thiệu.[71]

    Không những các cá nhân “tả khuynh” và “hữu khuynh” chung quanh Dương Văn Minh đă gặp nhau trên vấn đề Thiệu phải ra đi và Mỹ phải cắt viện trợ như trên, những nhân vật lúc trước cực kỳ chống Cộng như Linh mục Nguyễn Quang Lăm đă đi đến nhận định rằng chính quyền Sài G̣n đă thối nát đến tận xương tủy và dẫu có thêm 3000 tỷ thay v́ 300 triệu Mỹ kim th́ cũng không có thể cứu văn được nữa. Linh mục Lăm viết tiếp là càng có thêm nhiều tiền càng sụp đổ mau hơn.[72] Trước t́nh thế trên, Mỹ không có lựa chọn nào khác ngoài việc bắt Thiệu từ chức tối ngày 21 tháng 4 năm 1975 và mời ông Trần Văn Hương thay thế. Ông Hương là ứng cử viên phó tổng thống trong cuộc “độc diễn” của ông Thiệu năm 1971. Ông Hương yêu cầu Quốc hội bổ nhiệm ông Dương Văn Minh làm tổng thống. Lưỡng viện và các phe phái tranh nhau ghế ngồi trong chính quyền mới cho đến ngày 27 mới thông qua yêu cầu của ông Hương; và ngày 28, trong lúc 14 sư đoàn Quân đội Nhân Dân đang tiến vào Sài G̣n th́ ông Dương Văn Minh mới chính thức thành tổng thống của Việt Nam Cộng Ḥa. Thay v́ “tử thủ” như một số người kêu gọi hay chịu theo áp lực của Đại sứ Jean-Marie Mérillon của Pháp đ̣i thương lượng với phía cách mạng vào giờ chót để lập một chính phủ liên hiệp, ông Dương Văn Minh quyết định đầu hàng vô điều kiện. Trong khi ngồi chờ đại diện phía cách mạng đến gặp để nhận đầu hàng, ông Minh nói với một kư giả của hăng thông tấn Pháp rằng: “Sinh mạng con người, sinh mạng người Việt, sinh mạng người Pháp, phải được cứu. Bảo đại sứ Pháp là anh đă gặp tôi ở đây.”[73]


    4. Thay lời kết



    Mặc dầu quyết định đầu hàng của ông Dương Văn Minh đă giúp cứu được bao sinh mạng, tŕnh bày ở trên cho thấy các thành phần trong phong trào đấu tranh đô thị đă có những “đóng góp nhất định” trong giai đoạn từ 1968-1975 như ông Vơ Văn Kiệt và bà Nguyễn Thị B́nh đă khẳng định. Các cá nhân và tổ chức đă giúp tranh thủ dư luận quần chúng tại Việt Nam và trên thế giới chống các chính sách chiến tranh của chính quyền Sài G̣n và chính phủ Mỹ. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chính phủ Mỹ không muốn có một chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần ở miền Nam v́ họ sợ thua trong một cuộc đấu tranh chính trị. Họ đă sử dụng vũ lực và nhiều h́nh thức đàn áp khác với hy vọng triệt tiêu cách mạng và phong trào đối kháng tại đô thị. Nhưng, ngược lại, chính quyền Sài G̣n đă sụp đổ cho nên không c̣n điều kiện thành lập một chính phủ liên hiệp gồm “ba thành phần” như Hiệp Định Paris đă qui định và như chính phủ miền Bắc cũng như Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời đă kêu gọi. Không có một chính phủ liên hiệp th́ không có “thành phần thứ ba” trong ngoặc kép như báo Đại Đoàn Kết đă đề cập đến ở đầu bài này. Và không có “thành phần thứ ba” th́ không có chuyện cái thành phần không được h́nh thành này đóng vai tṛ ḥa giải, ḥa hợp dân tộc.

    Tuy nhiên, trong khi chiến tranh chưa kết thúc và miền Nam có hai lực lượng quân sự và chính trị ̶ Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời và Chính quyền Sài G̣n ̶ th́ người ta có thể gọi chung các tổ chức và các nhóm không thuộc hai chính phủ này là lực lượng thứ ba. Trong thời gian từ năm 1968, tức là thời gian chiến tranh cao độ dẫn đến phân cực ghê gớm, các nhóm “rất đa dạng” lúc đó đă cùng nhau chống chính quyền Sài G̣n và các chính sách của Mỹ và tranh đấu cho các quyền con người, cho ḥa b́nh, và cho ḥa hợp, ḥa giải dân tộc. Các hoạt động của các cá nhân trong phong trào đô thị lúc ấy đă có những “đóng góp nhất định” cho “ngày chiến thắng” mà tít báo Đại Đoàn Kết trích đầu bài này đă viết rất đúng. Nhưng đă chiến thắng, đặc biệt qua h́nh thức quân sự, th́ việc ḥa hợp, ḥa giải là của phe chiến thắng chứ không phải của các nhóm tranh đấu trong thời kỳ c̣n chiến tranh. Ngày 2 tháng 5 năm 1975 chính phủ mới đă ra lệnh giải tán tất cả các tổ chức chính trị được thành lập dưới chế độ cũ.[74] Các tổ chức có thể gọi là “xă hội công dân” như “Phong trào Phụ nữ Đ̣i Quyền Sống” tự giải thể v́, như bà Ngô Bá Thành đă tuyên bố, sau chiến tranh nó không c̣n lư do để tồn tại nữa.[75] Tất cả các nhóm phụ nữ khác được sát nhập vào “Hội Phụ Nữ Giải Phóng,” các tổ chức công nhân được sát nhập vào các “Ủy Ban Cách Mạng Nhân Dân,” và các tổ chức tôn giáo được sát nhập vào các tổ chức tôn giáo của Mặt Trận Giải Phóng.

    Việc giải tán và tự giải thể kể trên lúc đó không có một lời phản đối nào của những người trong các tổ chức đó hết cả, mặc dầu họ đă đương đầu rất gay gắt với chế độ cũ mà không hề tỏ ra sợ sệt ǵ cả. Vậy không rơ tại sao, như bà Nguyễn Thị B́nh thừa nhận ở trên rằng, 36 năm sau ngày chiến thắng, c̣n “nhiều người ngại nói đến lực lượng thứ ba”? Sợ kể công họ ra là mất hào quang chiến thắng cho ḿnh chăng? Hay sợ không c̣n được độc quyền chia chiến lợi phẩm? Chiến tranh càng lâu dài càng tạo phân cực ngày càng lớn trong xă hội. Do đó, muốn hàn gắn vết thương chiến tranh và tạo điều kiện cho việc ḥa hợp, ḥa giải dân tộc th́ người chiến thắng thường nên tỏ ra hào hiệp. Ít nhất th́ cũng nên mở cửa cho tương lai bằng xét lại quá khứ (chứ không phải khép kín) một cách trung thực và công bằng. Không có công bằng khó có thể có một xă hội dân chủ và hài ḥa.



    Chú thích


    [1] Bài này có thể tải về từ địa chỉ này: http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=28937. Tờ báo điện tử ChúngTa.com tại Hà Nội trong bài với tựa đề “Những trăn trở của cố Thủ tướng Vơ Văn Kiệt: Đại đoàn kết và ḥa hợp dân tộc” ngày 30 tháng 4 năm 2011 cũng có đăng lại nguyên văn bài phỏng vấn với Thủ tướng Vơ Văn Kiệt đă được đăng trên tuần báo Quốc Tế (số ra ngày 31-3-2005) và TuổiTrẻ Online (17-4-2005) mà tờ Đại Đoàn Kết trích. Trong đó ông Kiệt nói rơ hơn về vai tṛ của lực lượng thứ ba. Xin xem: http://chungta.com/PortletBlank.aspx...F671CE3F2B…anh Dong/Vo_Van_Kiet_doan_ket _hoa_hop_dan_toc/?print=2118950419 ; http://tuoitre.vn/PrintView.aspx?ArticleID=74587.

    http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai...goVinhLong.htm

  7. #57
    Dr_Evil
    Khách

    Xin Cảnh Báo GHH

    Coi chừng họ căi không lại họ lại làm ra vài chục cái video quái thai đem lên nữa đó ! Nguy hiểm lắm ..

  8. #58
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054

    Thành phần thứ ba là kẻ thù của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

    Qua bài viết trên chúng ta đă thấy thành phần thứ ba là những kẻ khoác áo dân tộc nhưng lại bắt tay đi đêm ngầm với CS để đánh phá VNCH , là kẻ thù của cố TT Thiệu , người đă tuyên bố " thành phần thứ ba toàn là những kẻ thiên cộng và phản quốc " .

    Vậy việc ông Trần tự nhận là cháu ông Thiệu là bịa đặt , không thể nào có được . Việc ông Trần nhận là cháu bên mẹ của tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cũng là xạo . Tướng Nghi là người ủng hộ Nguyễn Hữu Chánh và đảng Dân Tộc , đă từng đứng ra tái lập chính phủ VNCH lưu vong tại Mỹ mà ông Trần lại không biết ǵ về tổ chức này .

    Ông Trần là người của thành phần thứ ba , chuyên đánh phá VNCH nhưng lại tự nhận là con cháu tướng tá quân lực VNCH chỉ để lừa bịp người Việt hải ngoại mà thôi .

    Vơ Văn Kiệt đă từng được phỏng vấn và đă hết lời ca ngợi công trạng của thành phần thứ ba trong việc giúp đảng CSVN thành công cưỡng chiếm miền Nam . Đối với người dân miền Nam và đối với VNCH , thành phần thứ ba là những kẻ phản quốc , bán nước cầu vinh .

  9. #59
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054

    Báo CS ghi công thành phần thứ ba

    Mới gần đây báo Đại Đoàn Kết của trung ương Mặt trận tổ quốc VN c̣n đăng bài Vơ Văn Kiệt ghi công thành phần thứ ba trong việc đánh sập chính quyền của cố TT Thiệu , đưa đến ngày Quốc hận 30-04 và lầm than đau khổ cho hàng triệu người dân miền Nam .

    Bàn tay của những kẻ trong thành phần thứ ba này thắm máu của những người lính VNCH , của những tù nhân chính trị và trong trại cải tạo , của hàng trăm ngàn người dân miền Nam đă phải bỏ mạng ngoài biển Đông v́ bị CS trù dập không thể nào sống nổi , đành liều ḿnh vượt biên sau khi bị " giải phóng " năm 1975 .





    http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=28937


    V́ quen được báo CS khen ngợi nên gần đây ông Trần và phe ông ta rất " hồ hởi phấn khởi " khi được báo Quân đội nhân dân của CS viết bài về ḿnh , đem đi khoe tùm lum là thế .

  10. #60
    Member
    Join Date
    27-01-2011
    Posts
    2,054
    Quote Originally Posted by Dr_Evil View Post
    Coi chừng họ căi không lại họ lại làm ra vài chục cái video quái thai đem lên nữa đó ! Nguy hiểm lắm ..

    Đành chịu thôi bác .

    Họ tranh luận không lại , phản biện không xong , bịt miệng không được lại thất bại khi ép ông Quốc Dân phải ban nick Gánh khỏi VL vĩnh viễn th́ họ đành chơi những tṛ hèn hạ , dơ bẩn để tấn công thôi . Cũng như CS không bịt miệng được chị TKTT th́ đem phân và những thứ dơ bẩn tạt vào nhà người ta để khủng bố vậy .

    Điều này cho độc giả VL thấy họ là những kẻ có học thức và đạo đức cao cỡ nào . :rolleyes:

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 09:46 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 12-07-2011, 10:45 PM
  3. Replies: 4
    Last Post: 04-12-2010, 04:08 PM
  4. Replies: 6
    Last Post: 08-09-2010, 02:38 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •