Page 5 of 10 FirstFirst 123456789 ... LastLast
Results 41 to 50 of 91

Thread: Cùng chào đón Mùa Lễ Hội / Season's Greeting

  1. #41
    Nói Thẳng
    Khách

    Gởi chị Tigon !

    Xin chân thành cám ơn chị rất nhiều, đă chỉnh lại cho thêm đẹp mắt...

    Nhân dịp Giáng Sinh, xin chúc Chị...
    Việt Land, gia đ́nh Chị Tươi vui...
    Và Năm Mới ngập tin vui...
    Biểu t́nh thắng lợi, tin vui quê nhà...


    Nói Thẳng

  2. #42
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674



    GIÁNG SINH C̉N ĐẤY NỖI SẦU



    Sân nhà ai nở hoa đèn

    Phố khuya trăng lạnh giữa đêm tôi về.

    Từ trong kư ức u mê

    Lời kinh dĩ văng vọng lên trong hồn.

    Đưa tay vuốt những giọt buồn

    Trăng nghiêng sườn núi, sầu rơi rụng đầy...

    Giáng Sinh tôi ở chốn này,

    Niềm vui không trọn, lưu đầy chưa xong.



    (Thơ Trần Thu Miên)
    Last edited by Tigon; 19-12-2011 at 09:42 AM.

  3. #43
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Giáng Sinh trong tâm thức người Việt



    Từ lâu, Giáng Sinh đă trở thành ngày đại lễ có ư nghĩa đặc biệt trong tâm thức người Việt nói chung. Cứ mỗi độ Giáng Sinh về, những người dân Việt Nam dù khác biệt niềm tin tôn giáo vẫn ḥa chung trong niềm vui Giáng Sinh.

    1. Liên đới trong đời sống cộng đồng

    Tính cộng đồng là một nét tinh hoa trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Có nhiều người đă đặt vấn đề “đâu là hồn Việt, và đâu là nét tinh túy nhất của con cháu Lạc Hồng ?”, th́ chúng ta không thể không nói đến tính cố kết cộng đồng.

    Đây là điểm giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với Kitô giáo trong diễn tŕnh Đạo Công Giáo phát triển trên đất Việt Nam.

    Lễ Giáng Sinh là dịp tốt để người Việt nói chung có thể gặp gỡ giao lưu và phát huy đời sống cộng đồng ngày một tốt đẹp hơn. Sức sống ấy đang được biểu tỏ mỗi lần Giáng Sinh về. Đông đảo những người lương dân xa gần thích được về các xứ đạo, muốn được đến các Nhà thờ trong đêm Giáng Sinh, vừa để chứng kiến và trong sâu thẳm, họ muốn được sẻ chia t́nh liên đới với cộng đoàn Kitô hữu.

    Hiện nay, khi các sinh hoạt văn hóa mang đậm tính cộng đồng tại những làng quê Việt ngày một phai nhạt và bị xem nhẹ, rất đông người dân cảm thấy hụt hẫng và họ cần được lấp đầy khoảng trống ấy. Trong đêm Giáng Sinh, dù rất bận rộn, nhiều người trong số họ đă đến với bà con giáo dân để cảm nghiệm bầu khí của một đại gia đ́nh thực sự, điều mà họ khó nghiệm thấy trong cuộc sống thường nhật. Họ có thể không thuộc những lời kinh, lời thánh ca nào đó, nhưng chính những lời tâm t́nh ấy đă nói thay ước nguyện của họ, muốn được vươn ra khỏi cái tôi tầm thường để ḥa nhập vào giữa cộng đoàn yêu thương, vị tha. Họ muốn được đến cùng người Kitô hữu trong đêm Giáng Sinh như dấu chỉ hy vọng khơi dậy tương quan mật thiết giữa những con người vốn cùng chịu thương chịu khó trước những biến động của lịch sử xă hội.

    Thật vui biết bao khi những người lương dân lại đến với các gia đ́nh Công giáo để thăm hỏi, chia vui và cầu chúc cho nhau những điều tốt lành trong ngày lễ Giáng Sinh. Bầu khí tại các gia đ́nh và những làng quê trở nên ấp áp, thân thiết và cố kết hơn khi tất cả cùng hướng về Hài Nhi Giêsu như biểu tượng tối thượng của yêu thương, ḥa b́nh.

    2. Liên đới trong giá trị đạo đức

    Người Việt c̣n có truyền thống tương thân tương ái, vị tha. Tính cố kết trong đời sống cộng đồng đă tạo cho tâm thức của đồng bào ta biết quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau trong vui buồn cuộc sống. Những con người dù không cùng niềm tin tôn giáo nhưng vẫn đến tham dự lễ Giáng Sinh với thiện chí muốn kết chặt hơn liên đới các giá trị đạo đức ấy. Họ nhận thấy nơi Đấng Cứu Thế một mẫu gương tuyệt hảo về ḷng vị tha nhân ái, điều mà họ không được thỏa măn nơi những thần tượng lănh tụ hay một anh hùng dân tộc nào đó. Họ t́m thấy nơi Hài Nhi Giêsu điểm tuơng đồng, dễ gần với cuộc sống của những người dân nghèo nàn, phải vất vả một nắng hai sương kinh qua đêm trường tăm tối của thời cuộc. Chính sứ điệp Giáng Sinh đă lay động họ hơn bất cứ học thuyết chính trị xă hội nào. Truớc nền giáo dục đang có biểu hiện suy đồi trầm trọng, họ ư thức sâu xa hơn bài học đạo đức mà Ngôi Hai Thiên Chúa đang gửi trao cho muôn người, cho dù niềm tin ấy đối với họ có thể c̣n rất mơ hồ. Với thái độ thành kính trước hang đá nhỏ, những con người dù chưa “rửa tội” vẫn có thể hiểu được Đấng Cứu Chúa sinh ra nơi máng cỏ đơn hèn đă từng sống kiếp phàm nhân cách triệt để, chỉ v́ minh chứng cho T́nh Yêu – Nơi Ngài, giá trị của t́nh yêu tự hiến trở thành điểm tựa cho những tâm hồn muốn hy sinh xả kỷ v́ hạnh phúc đồng bào, quê hương ḿnh.

    3. Liên đới trong nhu cầu tâm linh.

    Đại lễ Giáng Sinh thu hút đông đảo những người trẻ khác biệt niềm tin không chỉ v́ đáp ứng một niềm vui thuần túy. Hơn thế nữa, yếu tố tâm linh là nhu cầu cấp thiết cho người trẻ trong bối cảnh xă hội hôm nay.

    Họ đến với Hài Nhi Giêsu để có thế lấp đầy khoảng trống tâm hồn trước một xă hội, một nền giáo dục mất định hướng. “Đêm Thánh Vô Cùng” mở ra cho họ tương lai tối hậu để sống đúng phẩm giá của những con người đích thực.

    Chúng ta dễ dàng gặp thấy những người trẻ lương dân đứng cầu nguyện thành khẩn bên hang đá nhỏ trong đêm Giáng Sinh. Sự thành khẩn ấy cho ta thấy dấu hiệu khả quan của sứ điệp cứu độ.

    Việt Nam, mảnh đất màu mỡ cho việc vun trồng những hạt mầm đức tin đang cựa ḿnh nơi những tâm hồn trẻ.

    Đă đến lúc, chúng ta cần ưu tiên việc thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng trong việc thấu hiểu và dấn thân hiện thực hóa dấu hiệu khả quan ấy theo lời mời gọi của Ngôi Hai giáng sinh làm người.

    J.B. Nguyễn Quốc Tuấn

    http://www.vietcatholic.net/News/Html/86158.htm

  4. #44
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Câu chuyện Giáng Sinh


    Hàng bao thế hệ qua đi, người Do Thái luôn mong chờ sự xuất hiện của Đấng Được Xức Dầu, người sẽ mang lại ư nghĩa cho lịch sử lâu dài gồm đủ tân toan, đắng cay, hy vọng của họ.

    Thoạt đầu, họ chỉ có thể h́nh dung ra Đấng ấy như một ông vua trần thế, giống Đa-vít, người sẽ giải phóng họ khỏi mọi xích xiềng nô dịch. Nhưng với thời gian, một ư niệm vĩ đại dần dần được khai sinh.

    Giáo Hội Kitô luôn nh́n thấy nơi Đấng Xức Dầu của Dân Do Thái một h́nh ảnh, thoạt đầu mờ nhạt, của Đấng Kitô, người có sứ mạng không hẳn khôi phục Vương Quốc Israel mà đúng hơn tạo ra một Israel Mới, một dân mới của Thiên Chúa gồm mọi dân tộc và lănh thổ.

    Thiên Chúa hứa ban Đấng Được Xức Dầu ấy qua những con người mà Người gọi là tiên tri.

    Các tiên tri

    Nói đến tiên tri, nhiều người nghĩ ngay tới các cụ già râu tóc bạc phơ, đầy thịnh nộ lên tiếng rủa nguyền lên án.

    Quả họ có kêu gọi sám hối thật, một đề tài chẳng mấy ai ưa, nhưng họ không già. Trái lại, phần đông rất trẻ, đầy nhiệt huyết và có tư tưởng cách mạng, chẳng thua ǵ các thanh thiếu niên cấp tiến ngày nay. Amos (760 B.C.), chẳng hạn, là một người chăn chiên, nhưng đă dạy rằng Thiên Chúa của Israel không phải là Thiên Chúa duy nhất của một ḿnh Israel. Nhiều năm sau đó, Micah đă can đảm lên án các nông dân giầu về tội ăn cướp các nông dân nghèo. C̣n về Đấng Được Xức Dầu, th́ Daniel bảo rằng: “Tôi thấy một thị kiến lúc đêm khuya. Từ giữa đám mây trời, tôi thấy xuất hiện Đấng giống như Con Người”. Tuy nhiên, Isaiah là người đầu tiên trong các tiên tri đă phát biểu một cách minh nhiên hơn cả. Ông là một chính khách của Giêrusalem, một cố vấn cho mấy triều vua liên tiếp, và nhiều người c̣n nghĩ ông cũng là một thành viên của hoàng gia nữa. Điều này th́ hiển nhiên hơn: ông là một thi sĩ thiên tài, nhờ thế trong bộ Cựu Ước, sách của ông rất nổi bật về tính tươi mát và sáng chói.

    Mặc dù có phán tai ương, nhưng nói chung ông đem lại sứ điệp tin tưởng và hy vọng: “Dân đang bước trong bóng tối đă nh́n thấy ánh sáng, một ánh sáng chói lọi đang chiếu sáng những ai đang sống trong lănh thổ tối tăm”.

    Vẫn là thứ ánh sáng ấy. “V́ một con trẻ sẽ sinh ra cho chúng ta, một bé trai sẽ được ban cho chúng ta, và quyền thống trị sẽ được đặt trên vai em, và đây là tên người ta sẽ đặt cho em: Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Quyền Năng, Người Cha Vĩnh Cửu, Hoàng Tử Ḥa B́nh”.

    C̣n ǵ rơ ràng hơn thế. Ấy thế nhưng lời ấy vẫn không giúp nhiều người nhận ra Người lúc Người xuất hiện.

    Trong suốt lịch sử của ta, xem ra những người được chọn, những người có đặc sủng vĩ đại, thực hiện những công tŕnh lớn lao, gây ảnh hưởng cho muôn thế hệ, đều là những con người “không giống ai”, không đáng được chọn: họ là những người ít tuổi nhất chứ không nhiều tuổi nhất, yếu đuối nhất chứ không mạnh khoẻ nhất, ít chữ nghĩa nhất chứ không thông thái nhất, có khi c̣n tệ nhất chứ không tốt lành nhất, hoài nghi nhất chứ không tin tưởng nhất.

    Bởi thế, dù người Do Thái vẫn biết đường lối hành động “kỳ lạ” của Chúa, nhưng làm sao họ có thể áp dụng các danh xưng “Cố Vấn”, “Quyền Năng”, “Người Cha Vĩnh Cửu” và “Hoàng Tử” cho một con người do một thiếu nữ tỉnh nhỏ là Maria thành Nadarét sinh hạ được?

    C̣n tiếp...

  5. #45
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674


    Na-da-rét

    Vào thời Chúa Giêsu, Na-da-rét nằm gọn trên đỉnh đồi, nhưng thị trấn phồn vinh mang tên ấy ngày nay vẫn như xưa với những căn nhà mầu trắng, dọc theo những hàng bách cao thon, những con phố hẹp và những ngôi chợ đông người.

    Đă đành, ngôi Nhà Thờ Truyền Tin vĩ đại đă được dựng lên, huy hoàng với những kính mầu sáng láng, những tranh ghép khổ lớn trang hoàng cùng khắp, và đă đành là du khách lũ lượt kéo nhau từng đoàn đến viếng thăm mỗi ngày, thị trấn v́ thế nhan nhản những hướng dẫn viên du lịch sẵn sàng chào mời những chuyến tham quan bổ ích, nhưng những cửa tiệm nhỏ nhoi, có tính gia truyền vẫn c̣n đó, bán đủ thứ từ lúa gạo, tới hoa quả và thịt dê…

    Vẫn c̣n những con lừa chở đồ, những người đàn ông đàn bà vận đồ Ả Rập, và nhất là cửa tiệm thợ mộc với tường đất sét, với khu vực sinh hoạt dành cho gia đ́nh bác phó, thoáng mát, đây đó là hốc tường để đựng b́nh đèn dầu, đàng kia là ḷ nấu than, rất dễ nhận ra đó là chỗ ở của Thánh Gia Thất. Vẫn c̣n cả một dẫy phố thợ mộc.

    Vẫn c̣n những người đàn bà đầu đội ṿ đi kín nước tại “Ain-sitt Miriam” (Giếng Đức Mẹ), nguồn nước duy nhất của thị trấn mà ngày xưa chắc chắn Đức Mẹ phải tùy thuộc để giải quyết nhu cầu đệ nhất đẳng của gia đ́nh…

    Thị trấn ấy, vào thời Chúa Giêsu, chẳng có ǵ hay ho, đến độ Na-tha-na-en, người sau này vinh dự được chết cho người quê Na-da-rét ấy, đă không ngần ngại bảo rằng: có ǵ tốt đẹp phát sinh từ Na-da-rét đâu!

    Dù sao, thị trấn này cũng chịu nhiều ảnh hưởng của ngoại giáo Hy Lạp, làm sao có thể giữ được tính chính thống mà cha mẹ của Đấng Được Xức Dầu cần phải có? Mặt khác, Na-da-rét cũng không thuộc Giu-đê-a, nơi mà các bậc trưởng thượng biết rơ Đấng Được Xức Dầu sẽ sinh ra.

    Há Micah đă chẳng từng tiên báo: “Nhưng ngươi, hỡi Bê-lem Ephrathah, nhỏ bé nhất trong các chi tộc Giu-đa, từ ngươi sẽ sinh cho ta Đấng cai trị Israel…”

    Dă sử

    Làm thế nào các bậc trưởng thượng ấy có thể đoán ra cách thế lạ lùng nhờ đó, Maria thành Na-da-rét được đưa tới Bê-lem?

    Cha mẹ cô vốn không được các Phúc Âm nhắc tới. Nhưng theo truyền thuyết, tên các ngài là Gio-a-kim và An-na.

    Họ chỉ được nói tới trong các phúc âm ngoại thư, một thứ văn chương nhà đạo măi tới thế kỷ thứ 2 hay thứ 3 mới được viết ra để thêm hoa lá cành (embroidery) cho các tŕnh thuật vắn vỏi của Thánh Kinh.

    Theo các dă sử này, ông Gio-a-kim và bà An-na chỉ có được Maria vào lúc đă trọng tuổi. Lúc lên ba, cô được cha mẹ dâng vào đền thờ, nhưng thay v́ ngồi yên tại bậc thứ ba của bàn thờ như lời tư tế dặn, cô đă đứng dậy và múa hát, khiến mọi người mê thích.

    Các truyện dă sử này tiếp tục đề cập tới lễ đính hôn giữa Maria và Giu-se và việc hạ sinh Chúa Giêsu. Phần lớn cho rằng Thánh Giuse là người góa vợ, tuổi từ 50 tới 90.

    Các nhà thần học Trung Cổ mau mắn dựa vào các dă sử này để “củng cố” quan điểm của họ về đức đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ.

    Nhưng thực ra quan điểm ấy hạ giá cả thánh Giu-se lẫn Đức Mẹ. V́ đức đồng trinh của hai vị chắc chắn sẽ được đề cao hơn khi hai vị cũng trẻ trung như nhau như phần đông các thanh niên nam nữ Na-da-rét hồi ấy. Phần chắc là hai vị thương nhau như những cặp trai gái khác trong thị trấn. Rồi trong nghi lễ đính hôn, hẳn của hồi môn phải bao gồm những cây nến để người vợ đốt lên trong những ngày Sa-bát, rồi quà tặng của hôn phu, và việc ấn định ngày cưới. Tất cả đều phải được giải quyết trong lễ đính hôn, một nghi thức có tính trói buộc và khá long trọng. Trong đó, Maria sẽ hứa hôn với Giuse nghĩa là thề hứa trung thành, trung thực và chung thủy.

    C̣n tiếp...

  6. #46
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Truyện thật

    Nhưng chưa đến ngày cưới, th́ thiên thần đă hiện ra với Maria.

    Ta không biết lúc đó, Đức Mẹ đang ở đâu.

    Người Chính Thống Giáo cho rằng lúc đó, Ngài đang ở bên giếng nước của thị trấn (Giếng Đức Mẹ).

    Người Công Giáo chúng ta tin lúc đó, Ngài đang dệt vải trong nhà, tại nơi ngày nay có tấm bảng “Hic Verbum caro factum est” (nơi đây Ngôi Lời đă trở nên nhục thể) trong Đại Thánh Đường Truyền Tin.

    Thiên thần vốn là tạo vật rất đẹp. Tiên tri Daniel mô tả các ngài có đôi mắt sáng như đuốc sáng.

    Trong Tân Ước, tại mộ huyệt Chúa Giêsu, mặt thiên thần được mô tả như ánh chớp, áo sống trắng như tuyết, làm cho lính canh ngất v́ sợ.

    Trên thực tế, các thiên thần tới viếng thăm thường bắt đầu sứ điệp của ḿnh bằng câu: “Đừng sợ”. Thành ra cái nét độc đáo nơi Đức Mẹ là Ngài không khiếp sợ, dù lời chào của thần sứ Gabriel: “Xin kính chào, bà là người đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà: bà diễm phúc hơn mọi người phụ nữ” có làm Ngài sửng sốt.

    Đức Mẹ chắc chắn là người khiêm tốn, nhưng Ngài không mất điềm tĩnh và việc thuận t́nh của Ngài cũng không ngây thơ.

    Ngài chỉ thưa lại: Sao có chuyện đó được? Chắc chắn Ngài đă nghe và đă hiểu mọi lời tiên tri, nhất là lời tiên tri của Isaiah, nên không ngạc nhiên chi về việc một trinh nữ sẽ mang thai.

    Điều khó hiểu chỉ có thể là tại sao một người tăm tối, mạt hạng như Ngài lại được chọn làm người trinh nữ ấy.

    Nhưng rồi chuyện ǵ đă xẩy tới đối với một cô gái luôn có dạ kính trọng, khiêm tốn, đáng yêu và trung thành như Thánh Kinh diễn tả về Đức Mẹ khi người ta khám phá ra cô mang bầu trước khi về chung sống với chồng.

    Cha mẹ cô, nếu c̣n sống, hẳn phải là những người đầu niên rẫy bỏ cô. Điều chắc là vị hôn phu của cô toan tính bỏ rơi cô cách kín đáo. Phần cô, không một mặc cảm tội lỗi và cũng không thấy nhu cầu cần giải thích.

    Vả lại, có ai mà tin được dù cô có lên tiếng giải thích mười mươi. Hay cái hoài nghi của Giuse chính là lưỡi gươm thứ nhất đâm thâu qua ḷng cô? Dù sao, cô vẫn giữ im lặng, không nói với Giuse điều ǵ.

    Trong Tân Ước, Đức Mẹ không nói quá 200 chữ. Thánh Giuse th́ không nói chữ nào. Nhưng hành động của các ngài th́ nói lên vô chừng.

    Đức Mẹ hiển nhiên cảm thấy nhẹ nhơm khi thiên thần đến yêu cầu Giuse nhận Maria làm vợ. Chắc chắn Giuse là dụng cụ của Thiên Chúa, hay nói theo kiểu thời nay, là dụng cụ của đấng quan pḥng. Không có ông, Maria chắc chắn phải bị ném đá cho đến chết như luật lệ hồi ấy vốn dành cho tội ngoại t́nh. Sự im lặng của Giuse đă làm im việc đó.

    Nhưng tại một thị trấn nhỏ như Na-da-rét, sự ṭ ṃ không dễ ǵ dẹp bỏ. Có lẽ đó là lư do khiến Giuse phải đem Maria đi Bê-lem đăng kư kiểm tra dân số.

    Cứ 14 năm một lần, người Rôma lại tổ chức kiểm tra dân số một lần làm cơ sở đánh thuế, lấy tiền đài thọ đoàn quân, lối sống xa hoa của họ cũng như “bánh ăn và tṛ xiếc” cho dân họ. Cuộc kiểm tra dân số được Phúc Âm Luca nhắc tới chắc chắn xẩy ra giữa năm 10 và 7 B.C. dưới thời Augustus.

    V́ cuộc kiểm tra dân số này, Giuse buộc phải trở về Bê-lem, quê cha đất tổ của ông thuộc nhà Đa-vít. Phải đem một thiếu nữ trẻ, đang gần ngày sinh đứa con đầu, làm một cuộc hành tŕnh gian khổ trên lưng lừa suốt 4, 5 ngày đường quả là một việc điên khùng.

    Nhưng với Maria, sự trùng hợp giữa việc kiểm tra dân số và ngày sinh đứa con trai đầu ḷng của ḿnh hiển nhiên là một “chứng thực” khác; nó làm nên trọn lời tiên xưa của Micah về nơi sinh của Đấng Được Xức Dầu.

    Mấy thế kỷ sau, Dionysius Exiguus, một đan sĩ Rôma, nẩy ra ư tưởng phân chia lịch sử thành 2 thời đại căn cứ vào ngày sinh của Chúa Kitô. Nhưng ngày nay, ta biết năm lịch thứ nhất sau Chúa Kitô không phải là năm Chúa Kitô sinh ra, v́ Người sinh ra dưới thời Hêrốt, một người lúc đó bệnh rất nặng và đă qua đời vào năm thứ 4 trước Chúa Kitô.

    Khi các chiêm tinh gia tới thăm ông, th́ chưa có dấu hiệu ǵ là ông đang bệnh hoạn. Có lẽ Chúa Kitô sinh ra vào năm 7 trước Chúa Kitô. Đây cũng là năm trùng hợp với lời giải thích về ngôi sao của ba chiêm tinh gia.

    Thánh Giuse và Đức Mẹ có lẽ đă phải băng qua thung lũng Gio-đan, một thung lũng lúc đó không đến nỗi nóng, khô và lởm chởm như bây giờ. Lúc ấy, thung lũng này vẫn c̣n giữ được nhiều nét mầu mỡ xưa của miền Palestine, và nhiều cánh rừng của nó. Các ngài chắc chắn đă đi theo các đường ṃn cho tới Giê-ri-khô, rồi leo đèo lên Giêrusalem, và tiếp tục đi Bê-lem cách đó 5 dặm.

    Có lẽ các ngài phải đi một ḿnh, một phần để tránh nhiều con mắt ṭ ṃ. Và do đó, cuộc hành tŕnh lại càng thêm phần cam go. Trên đường, không thiếu những tên cướp ŕnh rập đâu đó sau những tường dốc của núi đồi. Lừa la di chuyển không nhanh, mà Đức Mẹ lúc đó th́ đă đến lúc nở nhụy khai hoa. Đêm hôm, chắc chắn các ngài phải dừng lại nghỉ ngơi tại các quán trọ bên đường, những căn nhà nhỏ một tầng, những chiếc sân có vây tường, với chiếc giếng nằm giữa, những hàng rào sơ sài nhằm ngăn ngừa thú rừng, và nơi nấu nướng làm bằng đất sét hay đào xuống đất. Con lừa có thể phải mang theo đồ làm giường và Đức Mẹ hiển nhiên phải mang theo tă lót. Và sau 4 hay 5 ngày đường như thế, các ngài đặt chân tới Bê-lem Ephrathah, một thị trấn ẩn hiện giữa những mảnh vườn olive xanh ngát.

    Ephrathah có nghĩa là “nhiều hoa trái”, c̣n Bê-lem có nghĩa là nhà bánh; Chúa Giêsu sau này ví ḿnh là “cây nho thật” và là “bánh ban sự sống”; và hàng triệu Kitô hữu vẫn tin Người hiện diện mỗi ngày dưới h́nh bánh và rượu trên các bàn thờ sang hèn khắp nơi trên thế giới. Nhưng đêm đó, tại Bê-lem, không ai chào đón Người cả, không có cả nơi cho Người hạ sinh cách xứng đáng. Một chuồng ḅ lừa, có lẽ của chính một quán trọ, đă được lấy làm nơi Người sinh ra. Nó thường là một cái hang, v́ tại vùng đồi núi Bê-lem, đó là nơi người ta thường dùng để giữ súc vật về đêm.

    Chắc Đức Mẹ phải sinh con một ḿnh. Nhưng theo một câu truyện ngoại thư khác, Thánh Giuse có đi kiếm một bà đỡ và thế là cả thế giới đứng lặng thinh: Giuse tôi đang bước đi, phải dừng lại… Tôi ngước nh́n lên bầu trời và thấy mọi sự đều đứng lặng thinh, cả chim trời cũng thế. Nh́n xuống đất, tôi thấy một đĩa đồ ăn đă được dọn sẵn, một số công nhân đang nằm quanh nó, tay tḥ vào đĩa đồ ăn: người đang nhai hết nhai, người đang lấy thức ăn không lấy nữa, và người đang cho thức ăn vào miệng không cho nữa, mọi người đều hướng mắt lên trời. Và ḱa, các con cừu đang được điều khiển, nhưng chúng không tiến tới mà lại đứng lặng thinh; người chăn cừu giơ roi định đánh chúng, nhưng roi giơ lên mà không hạ xuống. Rồi tôi quay nh́n ḍng sông, thấy nhiều dê con đang há miệng uống nước nhưng đă không uống. Và rồi bất th́nh ĺnh mọi vật lại bắt đầu chuyển động… Và này, một đám mây sáng bao phủ cả hang. Rồi đám mây cũng tan đi, nhường chỗ cho một ánh sáng vĩ đại xuất hiện trong hang… rồi ánh sáng ấy cũng từ từ biến đi cho tới lúc một con trẻ xuất hiện… Quả là một bức tranh đẹp cho thấy toàn vũ trụ nín thở.

    C̣n tiếp ...

  7. #47
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674


    Mục đồng


    Sự hiện diện của ḅ lừa đă làm trọn lời tiên tri. Habakkuk từng viết về Đấng Được Xức Dầu: Ngài sẽ được người ta biết đến giữa hai sinh vật. C̣n Isaiah th́ viết: Ḅ biết người sở hữu và lừa biết máng của chủ ḿnh.

    Tại Phương Đông, máng ăn của ḅ lừa thường làm bằng đất sét hay bằng đá, và dù Đức Mẹ có lấy rơm trải lên, nó vẫn rất lạnh. Truyền thuyết vẫn cho rằng ḅ lừa thổi hơi ấm để sưởi cho hài nhi.

    Tại Palestine, người ta ít đi xa đủ mà lại không gặp một mục đồng, đôi khi với một chiên con hay một cừu đực bị thương trên vai ông. Trên chiếc áo dài, ông ta có thể khoác một áo khóac bằng lông dê; ông mang gậy trong tay khi lùa đoàn vật, nói truyện với chúng như ḥ hát.

    Mục đồng khá nổi bật trong Thánh Kinh, từ Ápraham với đoàn súc vật, và Đa-vít, người vốn được kêu gọi lúc đang chăn đoàn vật để được xức dầu phong vương, cho tới chính Chúa Kitô. Chúa là đấng chăn chiên tôi, tôi chẳng c̣n thiếu thốn ǵ.

    Đó có lẽ là thánh vịnh đáng yêu nhất trong Sách Thánh và Chúa Giêsu rất nhiều lần đă kể dụ ngôn để cho biết Người là mục tử nhân lành.

    Cho nên c̣n điều ǵ công chính hơn khi những người đầu tiên đến chiêm ngưỡng hài nhi thánh hạ sinh là chính các mục đồng.

    Dù thế, việc này vẫn tạo ra khá nhiều tranh căi. Nhiều thần học gia bảo rằng có lẽ Chúa Giêsu không sinh ra vào mùa đông v́ Bê-lem vào tháng 12 lạnh thấu xương và do đó đoàn vật không thể ở ngoài cánh đồng. Người khác th́ cho rằng chắc chắn việc sinh ra ấy phải xẩy ra vào mùa xuân v́ đó là thời gian chiên con sinh ra, cần các mục đồng canh thức, chứ vào những thời điểm khác, họ để mặc đoàn chiên lúc đêm hôm.

    Tranh luận ǵ th́ tranh luận, Phúc Âm nói rất rơ: các mục đồng của Đêm Giáng Sinh đang sống ở ngoài đồng. Căn cứ vào đó, có thể kết luận họ thuộc sắc dân Bedouins hay một sắc dân du mục khác; cả ngày nay, ta vẫn thấy quanh Bê-lem những chiếc lều mầu đen của người Bedouins, bất kể là mùa đông hay mùa hạ, và ánh lửa bập bùng về đêm từ những túp lều ấy vẫn chiếu sáng.

    Vào mùa Giáng Sinh, Bê-lem ngày nay đông đúc du khách, con số lên đến hàng ngàn, khiến các Kitô hữu địa phương không c̣n chỗ tham dự thánh lễ nửa đêm. Hang đá hay động đá nằm dưới một nhà thờ lớn xây theo kiểu Rôma; hai hàng cầu thang dẫn xuống một động nhỏ dài rộng chỉ một vài thước Anh.

    Động này nực mùi hương trầm và trang trí tỉ mỉ, với hơn 50 ngọn đèn; nhưng nền động được gắn một ngôi sao lớn, màu bạc của nó đă phai đi v́ sự hôn kính của tín hữu, đó chính là địa điểm Chúa Kitô sinh ra, vừa nhắc ta nhớ tới ḍng dơi Đa-vít vừa nhớ tới ngôi sao của các nhà chiêm tinh.

    C̣n tiếp...

  8. #48
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Ba nhà chiêm tinh


    Không ai rơ ba nhà chiêm tinh này xuất thân từ đâu, nhưng sự sang trọng trong các lễ vật của họ và sự tôn kính mà triều đ́nh Hêrốt buộc phải tỏ ra với họ, hẳn họ phải là ḍng qúy phái nổi danh; theo truyền thuyết b́nh dân, họ chính là các vị vua. Hiển nhiên, họ từ phương xa lặn lội tới, rất có thể cỡi trên lạc đà và vượt qua nhiều sa mạc. Theo hướng dẫn của một v́ sao, chắc họ phải du hành về đêm.

    Các sử gia và thiên văn gia, trong nhiều thế kỷ, vốn tranh luận xem ngôi sao kỳ lạ kia là ngôi sao nào.

    Một sao chổi? Tức ngôi sao xuất hiện năm 17 trước Chúa Kitô? Không hẳn, v́ ngôi sao này quá sớm; hay ngôi sao xuất hiện năm 66 sau Chúa Kitô, như điềm báo trước cái chết của Nero?

    Ngôi sao này lại quá trễ. Người Trung Hoa, có tiếng thông thiên văn địa lư, xác nhận ngôi sao chổi xuất hiện có lúc mờ lúc tỏ vào năm 5 trước Chúa Kitô. Hay ngôi sao ấy là một tân tinh (nova), không hẳn một ngôi sao mới, cho bằng một ngôi sao bỗng sáng rực lên lúc tự phát nổ bên trong; tia sáng của một tân tinh có thể hết sức lớn lao.

    Người Trung Hoa nhận ra một ngôi như thế vào năm 4 trước Chúa Kitô mà họ gọi là “sao chổi không đuôi”. Ngôn ngữ của thiên văn học gọi nó là vẻ đẹp thiên hà.

    Một sự trùng hợp khác được sự hỗ trợ của cả khoa thiên văn học lẫn chiêm tinh học, là khoa nghiên cứu ảnh hưởng của các ngôi sao và hành tinh đối với con người và công việc của họ.

    Ta biết: các hành tinh di chuyển trong thái dương hệ của chúng ta đôi khi tới gần nhau đến độ đối với chúng ta, từ hàng triệu dặm xa, xem ra như chạm vào nhau.

    Năm 1603, nhà thiên văn học vĩ đại người Đức là Johannes Kepler, dùng viễn vọng kính của ông, đă nh́n thấy sự xáp lại giữa Jupiter và Saturn trong cḥm Song Ngư, làm ông nhớ lại một điều đă đọc trước đó là: các chiêm tinh gia thuở xưa vốn tin rằng sự xáp lại gần nhau giữa các hành tinh này là dấu chỉ của đêm, trong đó, Đấng Được Xức Dầu xuất hiện, v́ cḥm Song Ngư tức hai con cá trời nối đuôi nhau chính là dấu chỉ của Người; Jupiter vốn là hành tinh vương giả và may mắn, c̣n Saturn vốn được coi là sao phù trợ Israel.

    Nhờ cẩn thận tính toán các ghi chép của ḿnh, Kepler thấy rằng việc xáp lại gần nhau này từng xẩy ra trước đây vào khoảng các năm 6 hay 7 trước Chúa Kitô. Nhiều năm sau đó, khám phá của ông vẫn bị làm ngơ. Nhưng năm 1925, người ta bỗng t́m được nhiều tài liệu xưa tại một Trường Chiêm Tinh Học ở Sippar thuộc Babylon; tại đó, dưới h́nh thức chữ h́nh nêm của Babylon, một hiện tượng xáp gần nhau đă được ghi chú rơ ràng và được quan sát suốt 5 tháng liên tiếp trong năm 7 trước Chúa Kitô: đó chính là sự xáp lại gần nhau của Jupiter và Saturn trong cḥm Song Ngư!

    Quả không c̣n bài bác vào đâu được… Nhưng đối với những người thông thái như ba chiêm tinh gia ngày xưa, th́ sự xáp lại gần nhau ấy dẫu có gần đến đâu đi nữa, cũng đâu có thể trở thành một ngôi sao?...C̣n điều này nữa: dù có giải thích là nhiều v́ sao, hay sao chổi Trung Hoa hay tân tinh đi chăng nữa, th́ tại sao chúng hiển hiện ở Babylon và khắp Đông Phương, tới tận Trung Hoa, mà ở Palestine, không ai nh́n thấy chúng, cả thầy cả thượng phẩm và các luật sĩ của Hêrốt, và cả dân thành Giêrusalem cũng thế, không ai thấy chúng hết. Cả lúc các chiêm tinh gia nói với họ về chúng, họ vẫn tỏ ra mù tịt. Tại sao?

    Về vấn đề này, bộ Thánh Kinh Giêrusalem, có tiếng biết chú trọng tới việc loại bỏ các chi tiết tưởng tượng và luôn cố gắng tách chân lư ra khỏi dă sử, đă ghi chú như sau: “hiển nhiên phúc âm gia (một Mátthêu sử gia thận trọng) nghĩ tới một ngôi sao lạ; nhưng đi t́m một giải thích tự nhiên là điều vô ích”.

    Vả lại, thị kiến luôn có yếu tính này: chỉ những ai nó có ư nói với mới nh́n thấy nó mà thôi. Không hề có ghi chép nào cho thấy ngoài Gioan Tẩy Giả ra, đâu c̣n ai khác nh́n thấy chim bồ câu xuất hiện lúc ông làm phép rửa cho Chúa Giêsu; trên đường đi Đa-mát, đâu có ai khác ngoài Thánh Phaolô thấy được thị kiến, dù ánh sáng chói lọi từ thị kiến ấy khiến thánh nhân bị ḷa một thời gian. Thị kiến nào cũng thế.

    Ngôi sao phương đông của ba nhà chiêm tinh cũng vậy, chỉ có họ mới thấy mà thôi. Điều kỳ lạ là ở chỗ ấy. Đối với Đức Mẹ, việc những người khách vĩ đại từ phương xa đến kính viếng, qùy lạy con trai ḿnh, quả là điều không có tính trần gian chút nào. Nhưng các món quà th́ quả là có tính trần gian, dù chúng hơi lạ đối với một trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, các nhà chiêm tinh gia vốn có óc nh́n xa trông rộng: họ dâng vàng v́ vương đế của Người, dâng nhũ hương v́ Thiên Tính của Người và dâng mộc dược v́ cái chết và nỗi thống khổ của Người.

    Nỗi thống khổ ấy chẳng bao lâu sẽ xẩy tới. Trong lịch sử, không có con quái vật nào khủng khiếp bằng Hêrốt, là người Flavius Josephus từng viết về: “Ông ta không phải là một ông vua mà chỉ là một bạo chúa tàn ác từng lên ngôi báu. Ông ta cướp bóc chính thần dân ḿnh, hành hạ trọn từng cộng đoàn; hầu như ngày nào, cũng có xử tử một người, kể cả bạn bè ông, kể cả tư tế và gia đ́nh ông, cả vợ cả con”.

    Nhưng không có ǵ khủng khiếp trong suốt cuộc đời khủng khiếp của ông cho bằng việc sát hại hàng trăm trẻ sơ sinh, các anh hài, dưới hai tuổi, quanh vùng Bê-lem. Chúa Giêsu được cứu thoát nhờ hành động mau mắn và đức vâng lời của Thánh Giuse đối với lời báo mộng của thần sứ Thiên Chúa, vâng lời ngay tức khắc, không cần chờ tới sáng.

    Nhưng c̣n Đức Mẹ th́ sao, phải chạy qua Ai Cập để lại sau lưng không biết bao sinh mạng trẻ thơ bị tước đoạt?

    Cuộc hành tŕnh dưới bóng bạo tàn ấy quả là dài thăm thẳm, dài hơn từ Na-da-rét tới Giu-đê-a nhiều lắm, đến 250 dặm, theo lộ tŕnh nam Hebron, tây Gaza, rồi dọc theo duyên hải, phần lớn qua vùng núi non hiểm trở và cát bụi ngập trời, đến lừa có khi cũng phải chết dọc đường.

    Bên kia biên giới, cách bắc Cairo chừng vài dặm, là làng El Matariya. Theo tương truyền, Thánh Giuse đă dẫn Chúa Hài Đồng và Mẹ của Người đến đây tị nạn.

    Các khách hành hương ngày nay vẫn tới đây để kính viếng Nhà Thờ Thánh Gia… Phải tới khi được tin Hêrốt qua đời, Thánh Giuse mới đưa Thánh Gia trở lại quê hương Na-da-rét.

    Theo Thánh Kinh, câu truyện chung quanh việc Chúa sinh ra đời chấm dứt ở đây. Nhưng như thế cũng đủ để xác nhận lời tiên báo của Amos rằng Thiên Chúa không phải chỉ của riêng Israel.


    http://www.vietcatholic.net/News/Html/74797.htm

  9. #49
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Mùa Sao Sáng







  10. #50
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Christmas và Xmas



    Trong một buổi phát thanh, một diễn giả rất có thế giá phàn nàn rằng: “Xă hội chúng ta đang sống đây càng ngày càng bị tục hóa. Một thí dụ hùng hồn, thưa ông bà và anh chị em, đó là người ta luôn cố gắng loại bỏ Thiên Chúa ngay trong những từ ngữ dùng hàng ngày. Thay v́ viết Christmas, người ta viết Xmas, loại bỏ chữ Christ là Chúa đi, thay vào đó bằng chữ X”.

    Đúng là trào lưu tục hóa trong xă hội đang ngày càng mạnh mẽ như Đức Thánh Cha phân tích trong Tông Thư Nhân Kỷ Niệm 40 Năm Hiến Chế Phụng Vụ của Công Đồng Vatican II “Trong bốn mươi năm qua, xă hội đă chịu nhiều thay đổi sâu rộng trong đó có những thay đổi đă làm cho sự dấn thân của Giáo Hội bị thử thách nặng nề. Trước mặt chúng ta là một thế giới mà những dấu hiệu của Tin Mừng đang bị giảm sút, kể cả tại những miền có truyền thống Kitô kỳ cựu”. Tuy nhiên, thí dụ mà vị thuyết giảng đưa ra “không hùng hồn” và có thể khẳng định là sai lầm. Chữ X trong từ Xmas thực sự có nghĩa là “Chúa Kitô”.

    Ngày xưa, khi người ta chưa phát minh ra máy in th́ cách duy nhất để nhân bản ra nhiều là chép bằng tay. Cho nên, không lạ ǵ khi những người chép sách nghĩ ra những cách thức viết tắt để chép cho mau. Cùng với đà phát triển của Kitô Giáo, nhu cầu về Thánh Kinh càng trở nên cấp bách. Những chữ xuất hiện nhiều lần trong Thánh Kinh thường được viết tắt cho mau. Chẳng hạn, như Iesus Christus (Giêsu Kitô) trong các bản văn Thánh Kinh Hy Lạp thường được viết tắt là IHC XPC. Chữ C (chi) trong tiếng Hy Lạp tương đương với chữ S trong tiếng La Tinh. Do đó, đôi khi trong các h́nh tượng trong nhà thờ, và các sách dùng tiếng La Tinh, ta cũng có thể thấy chữ viết tắt IHS XPS.

    Năm 324 sau Chúa Giáng Sinh, Constantinô trở thành đại đế. Đây là một Kitô hữu đầu tiên leo đến chức vụ trần thế này. Trên các cờ xí, đồng phục và khiên, nhà vua thường cho vẽ các chữ XPC chồng chéo lên nhau. Lâu dần, người Hy Lạp có thêm một kư tự mới là χ (đọc là /chai/), giống như chữ X trong tiếng La Tinh, nghĩa là Kitô.

    Theo Magistra Nicolaa de Bracton, http://4th.com/milica/2000-01.html#xmas, từ năm 1100, trong thế giới La Tinh, đă xuất hiện chữ viết tắt Xmas thay cho Christmas. C̣n theo cuốn từ điển Merriam-Webster, http://m-w.org/cgi-bin/dictionary ít nhất từ năm 1551 đă có chữ Xmas. Tuy có sự khác biệt về niên đại, ta vẫn có thể khẳng định rằng

    a) Chữ Xmas là chữ viết tắt cho Christmas đă có từ lâu lắm rồi.

    b) Chữ X trong Xmas có nghĩa là Christ.

    Cố nhiên, để tránh hiểu nhầm, người Công Giáo nên dùng chữ Christmas thay v́ Xmas. Chúng tôi đề cập đến chuyện này chỉ để khi chúng ta thấy người ta viết Xmas ta không buồn ḷng, và khi thấy chữ đó ta nên phát âm là /krist-mơs/ thay v́ /ex-mơs/.


    Nguyễn Việt Nam

    http://www.vietcatholic.net/News/Html/13996.htm

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 5
    Last Post: 24-06-2011, 11:15 AM
  2. Replies: 1
    Last Post: 08-05-2011, 02:52 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •