Results 1 to 7 of 7

Thread: Chết bởi Trung Quốc (Death by China) – 16 chương sách của Peter Navarro và Greg Autry

  1. #1
    Member thuongdan's Avatar
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    682

    Chết bởi Trung Quốc (Death by China) – 16 chương sách của Peter Navarro và Greg Autry

    Nguồn: chuacuuthe.co
    Đăng Bởi admin Lúc 28/12/11 2:25 Sáng

    VRNs (28.12.2011) – Sài G̣n – Tháng 6 năm 2011 vừa qua, hai vị giáo sư thuộc Đại Học UC Irvine, Tiểu Bang California là Tiến sĩ Peter Navarro và Tiến sĩ Greg Autry đă xuất bản quyển sách viết về Trung Quốc. Tựa đề của quyển sách “Death by China – Confronting the Dragon – A Global Call to Action” (Chết Bởi Trung Quốc – Đối đầu với Con Rồng – Lời kêu gọi hành động toàn cầu) đă lôi cuốn rất nhiều sự quan tâm của độc giả và hiện là một trong 10 quyển sách viết về Trung Quốc được đánh giá cao hiện nay.

    Death By China (Chết Bởi Trung Quốc) gồm có 16 chương, dày hơn 300 trang, đúc kết từ những nghiên cứu, phỏng vấn và khảo sát của hai tác giả tại nhiều thành phố, công xưởng ở Trung Quốc trong hơn hai năm qua, về những tham vọng của Bắc Kinh đang muốn thu tóm Thế giới và Nhân loại vào trong tay, qua những thủ đoạn “hắc ám”.

    Ngoài chuyên môn về kinh tế, hai tác giả rất quan tâm về các vấn đề xă hội, nhất là đời sống của những dân tộc Tây Tạng, Nội Mông, Urghur đang bị đảng Cộng sản Trung Quốc khống chế hiện nay. Nhờ vậy mà những phân tích của tác giả về các hiểm họa của Trung Quốc không chỉ thuần túy trên mặt kinh tế, khoa học, quân sự mà c̣n liên hệ đến các thủ đoạn tiêu diệt tiềm lực đối kháng của các dân tộc thiểu số tại Trung Quốc hiện nay.

    Bên cạnh 16 chương sách, hai tác giả đă nhờ nhà phản kháng Trung Quốc Đường Bạch Kiều (Tang Baiqiao) viết Lời Mở Đầu và Dân biểu liên bang Hoa Kỳ Dana Rohrabacher viết Lời Bạt.

    Ông Đường Bạch Kiều là một cựu sinh viên đă tham gia trong biến cố Thiên An Môn năm 1989. Sau mấy năm ở tù, ông đă được thả và trốn sang Hồng Kông; từ đó ông được can thiệp xin tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ vào năm 1992, hiện sống tại Nữu Uớc. Ông Đường cho rằng, những nội dung trong tập sách “Chết Bởi Trung Quốc” là những sự thật về một Trung Quốc ác độc: Một mặt th́ giai cấp cai trị ở Bắc Kinh tiếp tục đàn áp dă man những tiếng nói của nhân dân Trung Quốc; mặt khác họ tuôn tràn ra thế giới bên ngoài những sản phẩm độc hại và nguy hiểm, hạ giá thành xuống rẻ mạt và bán phá giá để tiêu diệt nền kinh tế Phương Tây, và nhanh chóng trang bị những vũ khí lợi hại nhất nhờ vào hệ thống gián điệp tối tân của họ.

    Ông Đường viết: “Tôi cũng có thể hiểu tại sao những sự kiện hiển nhiên thức tỉnh và những sự thật thô bạo này có thể đi ngược với kinh nghiệm cá nhân của chính bạn. Khi đi du lịch Trung Quốc, bạn có thể đă ngồi trên một du thuyền tiện nghi dọc theo sông Dương Tử, quyến rũ v́ những người lính đất nung, đi bộ hớn hở dọc theo Vạn Lư Tường Thành, hay say mê với Cẩm Thành. Thậm chí bạn c̣n có thể là một giám đốc điều hành một công ty Hoa Kỳ tại Thượng Hải hay Thẩm Xuyên, kiếm được nhiều tiền và được chiêu đăi với những bữa ăn thịnh soạn, không nh́n thấy cái ǵ khác ngoài bầu trời xanh và những đại lộ màu vàng phía trước. Tiếc thay, đa số người Mỹ không bao giờ nh́n thấy mặt trái của Trung Quốc và dân tộc Trung Quốc đă trả giá ra sao cho những “tiến bộ” này qua ô nhiễm môi sinh, tham ô, bất công xă hội, vi phạm nhân quyền, thực phẩm nhiễm độc và nghiêm trọng nhất là sự suy đồi đạo đức trong linh hồn của họ.”

    Trong Lời Bạt ở cuối tập sách, Dân biểu liên bang Hoa Kỳ Dana Rohrabacher đă nhắc đến thời kỳ mà quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ coi như tốt đẹp nhất là từ năm 1978 đến năm 1988. Từ tháng 6 năm 1989 trở đi, sau biến cố Thiên An Môn, Trung Quốc đă bắt đầu thay đổi và mối quan hệ thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trở nên bất thường, do những ứng xử quá “yếu” của các chính quyền Bush Cha, Clinton, Bush Con và cả ông Obama hiện nay. Dân biểu Dana Rohrabacher cho rằng các vị Tổng thống nói trên và cả lănh tụ của hai đảng Dân Chủ và Cộng Ḥa đă vấp phải một sai lầm cơ bản là đă đối xử với các lănh đạo Bắc Kinh, giống như và nhiều lúc “trịnh trọng” hơn cả đối với những người bạn dân chủ gắn bó với nước Mỹ từ Nhật Bản và Âu Châu; trong khi đó trên thực tế, Bắc Kinh là chế độ hung ác không thua ǵ Ahmadinejad của Iran hoặc Gadhafi của Libya, tàn bạo không thua ǵ Nga dưới thời Stalin.

    Dân Biểu Dana Rohrabacher cho rằng: “Tôi có thể xác định với bạn rằng nếu Tổng thống Ronald Reagan c̣n là Tổng thống ngày hôm nay, ông sẽ đối đầu lại chế độ toàn trị tại Bắc Kinh như ông đă từng làm đối với Liên Xô. Sẽ không bao giờ có “tối huệ quốc” và cũng không thể để ngân sách của chúng ta lệ thuộc vào sự tài trợ từ Trung Quốc. Sẽ nhanh chóng xét xử gián điệp Trung Quốc, mạnh mẽ cấm vận chống lại chiến tranh tin học của Trung Quốc và không khoan nhượng cho những hành động vụ lợi như thao túng tiền tệ chẳng hạn. Đồng thời sẽ bày tỏ nhiều lần sự phẫn nộ ngoại giao đối với việc Trung Quốc sử dụng quyền phủ quyết của Liên Hiệp Quốc để thu tóm được các nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng từ những quốc gia bất hảo. Và giống như ông Ronald Reagan đ̣i hỏi ông Gorbachev “phá đổ bức tường” và tuyên bố với nhân dân Trung Quốc rằng “chúng tôi đứng về phía các bạn, không phải bên phía đàn áp các bạn”. Và ông sẽ bảo đảm với các công nhân Hoa Kỳ rằng: “Chúng tôi sẽ không chuyển công ăn việc làm của quư vị đến Quảng Châu để sản phẩm được chế tạo rẻ hơn bởi nô lệ lao động, trợ cấp xuất khẩu bất hợp pháp, vi phạm bản quyền trắng trợn và đồng nhân dân tệ bị hạ thấp.”

    Chết bởi Trung Quốc đă diễn ra như thế nào?

    Trong 16 Chương, tác giả “Death By China” đă dành Chương 1 tŕnh bày tổng quát về những hiểm họa mà Bắc Kinh đang gây ra cho nhân loại, trong đó có một phần trách nhiệm của Hoa Kỳ. Từ Chương 2 cho đến Chương 15, tác giả đă giúp cho người đọc nh́n thấy những chính sách hắc ám của Trung Quốc từ sản xuất hàng hóa độc hại bừa băi chỉ để kiếm lợi nhuận, khống chế đồng tiền, cạnh tranh bất chính, xâm thực Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh cho đến những thủ đoạn chạy đua vũ trang, bành trướng quân sự, tung gián điệp và tin tặc để ăn cắp kỹ thuật Phương Tây… Chương 16 là phần mà tác giả đề nghị một số giải pháp tẩy chay Trung Quốc để cứu lấy hành tinh, trước khi nó bùng nổ v́ những phế phẩm mà các nhà máy Trung Quốc đă thải ra một cách bừa băi trong quá tŕnh sản xuất ô nhiễm.

    Chương 1: Chết Bởi Trung Quốc: Không Phải Là Chỉ Trích Trung Quốc Mà Là Sự Thật.

    Chết Bởi Trung Quốc, theo tác giả Peter Navarro và Greg Autry th́ đây là một nguy cơ rất thực mà giờ đây tất cả chúng ta phải đối mặt khi quốc gia đông nhất thế giới, và chẳng bao lâu nữa nền kinh tế lớn nhất thế giới, đang nhanh chóng biến thành sát thủ tàn độc nhất hành tinh. Trong chương này, tác giả nhấn mạnh đến năm vấn đề:

    Thứ nhất, hàng hóa Trung Quốc sản xuất không an toàn cho người tiêu dùng. Những doanh nhân vô lương tâm Trung Quốc đang làm tràn ngập thị trường thế giới với một loạt những sản phẩm, thức ăn, thuốc men không gây chết người th́ cũng làm mục xương, gây ung thư, dễ cháy, nhiễm độc. Trong đồ chơi trẻ em, những sản phẩm nguy hiểm này bao gồm từ ṿng tay, dây chuyền và đồ chơi nhiễm chất ch́ cho đến những quần áo ngủ dễ cháy, nhiễm độc. Trong các tiệm thuốc, quư vị có thể t́m thấy tất cả các loại thuốc và cách chữa trị ở những tiệm gần nhà hay trên mạng, nhưng đó là sản phẩm giết người – từ aspirin nhiễm độc, Lipitor nhái, Viagara giả có chứa độc tố strychnine cho đến thuốc heparin phá thận và thuốc bổ chứa độc tố arsenic. Ngoài ra, những đồ ăn nhập khẩu từ Trung Quốc như cá, trái cây, thịt hay rau cải có thể nói là bị tẩm đủ thứ kháng sinh bị cấm, vi khuẩn thối rữa, kim loại nặng hay thuốc trừ sâu rầy bất hợp pháp.

    Thứ hai, Trung Quốc đang giết chết hạ tầng sản xuất Hoa Kỳ và Thế Giới. Với thủ đoạn trợ cấp xuất khẩu ào ạt và trái phép, giả mạo sở hữu trí tuệ và giữ hối xuất đồng Nhân Dân Tệ luôn luôn thấp hơn thị trường hầu giành ưu thế xuất khẩu, Trung Quốc đang hủy diệt hạ tầng sản xuất khi cướp đi hàng triệu công việc làm trong các ngành sản xuất của Hoa Kỳ. Từ khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001, các ngành may mặc, dệt và đồ gỗ tại Hoa Kỳ đă giảm xuống chỉ c̣n một nửa – chỉ riêng công việc của ngành dệt giảm 70%. Những ngành công nghiệp quan trọng khác tại Hoa Kỳ như hóa chất, giấy, thép và bánh xe đă bị suy giảm tương tự, trong khi đó, việc làm trong ngành sản xuất máy vi tính và điện tử cao cấp đă tụt xuống hơn 40%. Ngoài việc, Trung Quốc sản xuất những mặt hàng rẻ tiền, cấp thấp như giày dép, đồ chơi, hàng tiểu công nghệ, quần áo… Trung Quốc c̣n đang chiếm lấy thị trường của nhiều ngành công nghiệp thu nhập cao c̣n lại của Hoa Kỳ – từ xe hơi và không gian cho đến những dụng cụ y khoa tối tân.

    Thứ ba, Trung Quốc đang h́nh thành những thuộc địa tại Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh. Để vận hành cỗ máy sản xuất, Trung Quốc đă phải dùng một nửa xi măng của thế giới, gần một nửa lượng thép, một phần ba lượng đồng, và một phần ba lượng nhôm. Hơn nữa, vào năm 2035, nhu cầu dầu của chỉ riêng Trung Quốc sẽ vượt qua tổng số dầu sản xuất hiện nay cho toàn thế giới. Để nắm trong tay những nguyên liệu này, Trung Quốc đă với tay đến các xứ Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh, hợp tác với những tên lănh đạo độc tài sát nhân để khai thác và biến thành thuộc địa riêng. Khắp Châu Phi, và Châu Mỹ La Tinh, nhăn hiệu thực dân thế kỷ 21 của Trung Quốc luôn luôn bắt đầu với sự mặc cả độc địa gồm: những khoản cho vay hậu hĩnh, lăi xuất thấp để xây dựng hạ tầng đổi lấy nguyên liệu và sự xâm nhập thị trường nội địa. Một khi nước đó cắn phải miếng mồi thực dân này, thay v́ dùng lao động tại chỗ, Trung Quốc sẽ mang vào đội quân to lớn gồm cả kỹ sư và công nhân của họ để xây dựng đường cao tốc, đường sắt, hải cảng và hệ thống viễn thông. Tất cả những hạ tầng này trên thực tế là để phục vụ cho việc khai thác mỏ và vận chuyển nhiên liệu để chở ngược về lại Trung Quốc. Trung Quốc sau đó sẽ bán lại thành phẩm vào thị trường các nước này – đè bẹp những ngành công nghiệp địa phương, đẩy cao tỷ lệ thất nghiệp và đẩy các thuộc địa mới của Trung Quốc lún sâu hơn vào đói nghèo.

    Thứ tư, Trung Quốc đang gây ô nhiễm cho chính người dân Trung Quốc và các quốc gia khác. V́ đặt nặng vào nền kinh tế sản xuất để xuất khẩu nên bầu trời chung quanh khu vực nhà máy tại Trung Quốc luôn luôn bao phủ một tầng mây đen như là tấm vải trắng tẩm thuốc độc. Hơn 70% sông hồ của Trung Quốc đều ở vào t́nh trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Thậm chí một du thuyền chạy dọc theo sông Dương Tử, bên trên đập Tam Hiệp, cũng thấy được vùng này, một thời được xem là bảo vật cổ kính nhất nước, nơi mà Mao đă từng tắm năm 1961 nhưng nay hầu như không c̣n thấy chim hay các dấu vết của các loài thủy sinh. Ngoài ra, khi các nhà máy Trung Quốc sản xuất ào ạt những sản phẩm để chất đầy lên các kệ của những tiệm bán hàng hóa trên thế giới những không khí ô nhiễm cực kỳ độc hại của Trung Quốc đă bay hơn 600 dặm theo các luồng gió xoáy đến Bangkok, Sydney, California, vứt xuống dọc đường những chất thải độc hại. Ngày nay, phần lớn mưa a-xít ở Nhật và Hàn Quốc là “Made in China”, trong khi số lượng hạt bức xạ mỗi ngày mỗi gia tăng được t́m thấy trong không khí ở những thành phố phía Tây như Los Angeles xuất phát từ các nhà máy của Trung Quốc.

    Thứ năm, thế giới và nhất là Hoa Kỳ đă làm ngơ cho Trung Quốc thao túng. T́nh trạng gây nguy hiểm của Trung Quốc hiện nay là do chính những công ty lớn của Hoa Kỳ như Catepillar, Cisco, GM. Microsoft… đă hoàn toàn đồng lơa với các chính sách của Trung Quốc. V́ chủ trương hẹp ḥi nhằm t́m kiếm tối đa lợi nhuận nên nhiều lănh đạo công ty Mỹ đă đứng về phía hàng ngũ đối tác Trung Quốc ủng hộ chính sách lái buôn và bảo hộ mậu dịch của Bắc Kinh gây nguy hại cho ngành sản xuất Hoa Kỳ. Chịu trách nhiệm về những điều xảy ra nói trên chính là hai tổng thống George W Bush và Barack Obama. Trong nhiệm kỳ của Tổng Thống Bush, Hoa Kỳ đă chuyển nhượng cho Trung Quốc hàng triệu việc làm. Tổng thống Barack Obama, trong lúc tranh cử năm 2008, đă hứa hẹn nhiều lần sẽ kiên quyết chấm dứt hoạt động thương mại không công bằng của Trung Quốc; nhưng khi lên cầm quyền th́ nhiều lần làm ngơ các tác hại của Trung Quốc v́ muốn Trung Quốc tiếp tục tài trợ cho thâm hụt ngân sách khổng lồ của Mỹ.
    (c̣n tiếp)

    Đoàn Hùng

  2. #2
    Member thuongdan's Avatar
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    682
    (Tiếp theo)
    Đăng Bởi admin Lúc 29/12/11 2:30 Sáng

    VRNs (29.12.2011) – Sài G̣n – Chương 2: Chết Bởi Thức Ăn và Thuốc Uống Độc Hại Của Trung Quốc.

    Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất về Thủy sản cho Hoa Kỳ, cung cấp then chốt về thịt gà và chiếm 2/3 lượng trà thế giới đang dùng, cung cấp hơn 60% nước táo đặc, 50% tỏi và những số lượng đáng kể về mọi thứ từ lê đóng hộp và nấm đóng hộp đến mật ong thường và mật ong chúa.

    Trung Quốc c̣n là nơi sản xuất 70% pennicillin của thế giới, 50% aspirin và 33% Tylenol. Các công ty dược phẩm Trung Quốc cũng chiếm lĩnh nhiều thị trường thế giới về kháng sinh, enzyme, acid amino, thuốc bổ. Trung Quốc c̣n chiếm lĩnh đến 90% thị trường thế giới về Vitamin C, đóng vai tṛ hàng đầu trong việc sản xuất Vitamin A, B12 và E, bên cạnh những thành tố gốc trong các thuốc mutivitamins.

    Những thực phẩm và dược phẩm nói trên của Trung Quốc mang đầy chất độc. Đó là lư do tại sao thực phẩm và thuốc men của Trung Quốc luôn luôn bị nêu tên đầu bảng trong số những món bị chận lại ở các cửa khẩu và thu hồi bởi Cơ quan thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ và Cơ quan an toàn Thực phẩm Âu Châu. Tác giả đă liệt kê một số những vụ án liên quan đến việc gian thương Trung Quốc đầu độc người tiêu dùng như sau:

    Thứ nhất là vụ bỏ chất Melanine trong sữa. Chất Melanine thực sự là một hóa chất có giá trị – khi nó không được lén lút bỏ vào thức ăn. Nếu bỏ chất melanine vào trong thức ăn cho gà, chó mèo, sữa, hay sữa bột trẻ em th́ nó phá hủy hai trái thận nhanh hơn bất kỳ thứ ǵ khác. Sở dĩ gian thương Trung Quốc cho melanine vào trong thực phẩm v́ số lượng nitrogen cao trong melanine sẽ làm tăng chỉ số chất đạm (protein). “Sự giả mạo protein của Trung Quốc” như thế, nhằm đánh lừa những nhân viên kiểm tra thực phẩm về độ protein trong các thực phẩm. V́ melanine rẻ hơn protein rất nhiều, pha chế thêm melamine sẽ mang lại nhiều tiền cho bọn tội phạm. Năm 2008 có gần 300 ngàn trẻ em Trung Quốc bị bệnh và sáu trẻ em chết v́ 22 hăng sữa Trung Quốc âm mưu bỏ chất melanine vào sữa nước và sữa bột trẻ em.

    Thứ hai là vụ bỏ chất Heparin vào thức ăn. Chất Heparin là một hoạt chất chống đông máu rất phổ thông trong những vụ giải phẫu và chuyền máu cũng như lọc thận, được tinh chế từ màng nhờn của ruột heo. Để tăng lời, gian thương Trung Quốc đă bỏ thêm vào heparin một chất có hoạt tính tương tự như heparin nhưng nguy hiểm chết người, đó là chất chondroitin sulfate với nồng độ sulfate quá tải, đưa đến những phản ứng trầm trọng có thể giết người như hạ áp huyết, thở rút, nôn mửa và tiêu chảy. Điều đáng ghê sợ là tà chất này rất giống heparin khiến việc điều tra tạp chất heparin rất khó khăn; tà chất này lại rẻ gấp 100 lần với giá trung b́nh $9 một pound so với heparin $900 một pound. Ḷng tham vô đáy của gian thương khiến họ đă trộn tới 50% hóa chất giả này trong thuốc heparin bán trên thị trường. Cho tới nay, thuốc heparin của Trung Quốc đă giết hằng trăm người Mỹ và làm hằng ngàn người trọng thương.

    Thứ ba là thức ăn Trung Quốc bị ô nhiễm trầm trọng. Sự ô nhiễm môi trường với các chất thải độc địa ngấm sâu vào đất đai, nước uống, không khí … khiến Trung Quốc – cái nôi sản xuất của thế giới và cũng là môi trường ô nhiễm tệ nhất hoàn cầu – biến thành địa điểm xuất cảng những thức ăn và sản phẩm nhiễm độc tố đủ loại từ ch́, chất hóa học, thuốc trừ sâu bọ, kim loại, thủy ngân….. Ví dụ Hoa Kỳ nhập khẩu nước táo từ Trung Quốc mỗi năm lên đến 500 triệu gallons có chứa độc tố arsenic, một chất kim loại nặng có thể tạo ung thư nằm trong đất trồng táo tại Trung Quốc. Hoặc những loại trà nhập khẩu từ Trung Quốc có chứa chất ch́ v́ bọn gian thương Trung Quốc đă trải lá trà ra trên sàn một nhà kho vĩ đại rồi lái xe truck lên trên để khói thải từ ống bô của xe làm trà mau khô hơn. V́ Trung Quốc dùng xăng có ch́, không có cách nào hữu hiệu hơn để biến những lá trà xanh thành một loại vũ khí giết người hàng loạt. Ngoài ra, gian thương Trung Quốc c̣n làm gạo plastic bán cho những người dân làng nghèo đói Trung Quốc: Theo một giới chức của Hiệp Hội Tiệm Ăn Trung Hoa th́ “ăn ba chén cơm gạo này sẽ tương đương với việc nuốt nguyên một bịch ny lông”.

    Chương 3:Chết Bởi Hàng Dỏm, Hàng Rẻ Tiền Của Trung Quốc.

    Hàng hóa của Trung Quốc có một đặc điểm chung là giá rẻ (người ta hay nói đùa là giá rẻ hơn bèo). Chính v́ giá rẻ nên người ta không cần cân nhắc, so đo giá cả khi mua và v́ thế theo tác giả đă xảy ra rất nhiều tai nạn cho người tiêu thụ như:

    -Bạn găy cổ khi một cái dè tồi trên xe đạp rơi vào bánh xe và ném bạn qua tay lái.
    -Đứa con trai của bạn đang chơi bóng chày và bị một quả bóng rơi ngay trên “mũ an toàn” – cái mũ vỡ tan tành khi bị quá bóng rơi trúng; đầu cháu bị thương tích.

    -Một người khách ngồi xem trận đấu Super Bowl bị phỏng tay v́ cái Remote TV bị bốc cháy trong tay.

    -Nhà người láng giềng của bạn bị cháy rụi v́ cái quạt bị chạm điện.

    -Người bạn thân nhất của bạn bị thương khi điện thoại di động trong túi phát nổ và bắn mảnh vào tim.

    Sở dĩ gian thương Trung Quốc không quan tâm đến yếu tố an toàn cho người tiêu thụ và các nhà sản xuất Trung Quốc không sợ bị trừng phạt v́ có bị kiện ra ṭa họ cũng được nhà nước Bắc Kinh bao che và nhất là rất khó theo đuổi một vụ kiện đ̣i bồi thường tại Hoa Kỳ hay tại Trung Quốc. Ngoài ra, cán bộ kiểm phẩm an toàn của Trung Quốc đă bị mua từ trên cao xuống đến thấp. Đây là bộ máy tham ô và tồi bại nhất thế giới. Tác giả đă nêu ra một số tai hại gây ra bời những hàng dỏm của Trung Quốc như sau:

    Thứ nhất là vụ tường tiền chế (Drywall) của Trung Quốc. Bọn gian thương Trung Quốc đă pha vào thạch cao những tro phế thải từ các nhà máy Trung Quốc chạy bằng than có nồng độ lưu huỳnh cao, để sản xuất ra tường tiền chế bán sang Hoa Kỳ. Chất độc lưu huỳnh trong tường tiền chế của Trung Quốc không những làm không khí trong nhà ngửi giống như trứng thối và tấn công hệ thống khí quản, mà chất ga lưu huỳnh rất mạnh nên c̣n làm xói ṃn các đường ống, và làm hỏng các máy móc và hệ thống quạt, sưởi, điều ḥa không khí, biến nữ trang bằng bạc thành màu đen, và giết chết chó mèo trong nhà. Tường tiền chế làm từ Trung Quốc đă được phát hiện trong khoảng 100 ngàn căn nhà mới tại nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ.

    Thứ hai là vụ ch́ trong đồ chơi trẻ con. Chất ch́ cho vào sơn làm khô rất nhanh và do đó làm giảm đáng kể chi phí sản xuất. Ch́ cũng là chất có giá thành thấp và mềm dẻo hơn thay thế cho các kim loại đắt tiền hơn như niken và bạc trong các sản phẩm như đồ trang sức và nữ trang rẻ tiền. Nhưng, chất ch́ tấn công trẻ con khốc liệt v́ bộ óc và cơ thể đang phát triển của chúng rất nhạy cảm dù với lượng tương đối nhỏ của kim loại nặng. Chỉ từ những lượng ch́ rất nhỏ, trẻ con có thể bị những thương tổn không thể hồi phục được, mà trong cuộc sống sau này chúng sẽ sinh ra bất cứ thứ bệnh ǵ, từ rối loạn thiếu sự tập trung và tính hiếu động thái quá, cho đến hành xử tội phạm, ph́nh năo, và hư hoại cơ quan trọng yếu.

    Thứ ba là chất độc Cadmium trong đồ chơi trẻ em. Chất cadmium là một chất độc hại khủng khiếp. Chất này có thể sinh ra ung thư, sinh ra các phản ứng hô hấp rất nghiêm trọng như viêm phổi độc tính và đau phổi. Cadmium cũng có thể hút mật độ của các tỷ trọng chất khoáng (mineral) ra khỏi xương, do đó gây ra cơn đau xương sống và khớp trầm trọng trong khi làm tăng các rủi ro găy xương; và có thể gây ra rối loạn hoạt động thận dẫn đến hôn mê. Gian thương Trung Quốc dùng chất này sơn lên trên các đồ trang sức bán cho trẻ em v́ khó phát hiện hơn ch́ và làm màu sắc óng ả. Trong năm 2010, Walmart đă bị phát giác việc bán các ṿng/dây chuyền cho trẻ em có pha cadmium, được sản xuất để mô phỏng các nhân vật trong bộ phim Disney Công Chúa và Chú Ếch.

    Thứ tư là lừa bịp chất lượng. Bên cạnh việc sử dụng chất độc trong sản phẩm, các gian thương Trung Quốc c̣n nổi tiếng trên thế giới là “hàng dỏm”, tức hàng thiếu chất lượng. Sự lừa bịp chất lượng này diễn ra bằng cách ở giai đoạn đầu, công ty sản xuất Trung Quốc chế tạo ra một loạt hàng mẫu đúng chất lượng theo yêu cầu của công ty Mỹ. Thế là công ty Mỹ hài ḷng và đă kư hợp đồng sản xuất với công ty Trung Quốc với một khối lượng sản phẩm nhất định trên cơ sở hàng tuần hoặc hàng tháng v́ giảm giá thành đến 50%. Sau đó, nhà sản xuất Trung Quốc bắt đầu thay thế các nguyên vật liệu hay các bộ phận bằng những thứ phẩm chất kém như là một phương cách gia tăng lăi suất. Bớt một chút chỗ này, cạo một tư chỗ kia; nhưng không bao giờ bớt quá nhiều trong một lần để khỏi bị phát hiện. Thí dụ về một trường hợp “cắt xén” liên quan tới vỏ bánh xe đă gây tai nạn chết người tại Hoa Kỳ khiến hàng chục triệu vỏ xe đă bị thu hồi.

    Đoàn Hùng

  3. #3
    Member thuongdan's Avatar
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    682
    (Tiếp theo)

    Chết bởi Trung Quốc (3): Tiêu huỷ sản xuất, thao túng tiền tệ, Mỹ rút khỏi thị trường Trung Quốc
    Đăng Bởi admin Lúc 30/12/11 2:30 Sáng

    VRNs (30.12.2011) – Sài G̣n – Chương 4: Chết Bởi Thủ Đoạn Hủy Diệt Hạ Tầng Sản Xuất Của Trung Quốc.

    Trung Quốc hiện đă trở thành một cường quốc tài chánh và thương mại toàn cầu. Nhưng kinh tế gia Paul Krugman, khôi nguyên giải Nobel Kinh Tế cho rằng Trung Quốc đă không hành xử như những nền kinh tế lớn khác. Ngược lại, Trung Quốc đă theo đuổi một chính sách con buôn, duy tŕ thặng dư mậu dịch cao một cách giả tạo. Và trong thế giới suy thoái ngày hôm nay, chính sách đó, nói trắng ra, là chính sách săn mồi.

    Suốt nhiều thập niên qua, ngồi trên lưng con ngựa gỗ tự do mậu dịch, một Trung Quốc “săn mồi” đă đánh cắp hàng triệu công việc sản xuất Hoa Kỳ ngay trước mắt của chúng ta. Nếu không bị đánh cắp th́ tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ đă thấp hơn 5%, ngân sách Hoa Kỳ đă ổn định, và quốc gia một thời an b́nh này đă nh́n thấy một tương lai tươi sáng hơn bất kỳ viễn tượng nào mà chúng ta có thể h́nh dung. Tác giả đă đưa ra một số lư do dẫn đến hệ quả nói trên.

    Thứ nhất là làm nền sản xuất của Hoa Kỳ chết dần ṃn. Trong một thập niên vừa qua, Hoa Kỳ mất ít nhất là 10 triệu công ăn việc làm, điều này đă dẫn đến một số hệ quả làm suy yếu nền sản xuất. 1/ Trong vai tṛ khởi động, những công việc sản xuất đă tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn đối với các ngành dịch vụ. Cứ mỗi một Mỹ Kim của thành phẩm, Hoa Kỳ tạo ra gần một Mỹ Kim rưỡi trong những dịch vụ liên quan đến xây dựng, tài chánh, bán lẻ và giao thông. 2/Những công việc sản xuất cũng trả lương nhiều hơn – nhiều hơn nhiều – đặc biệt là đối với phụ nữ và các sắc dân. Măi lực mạnh hơn của tầng lớp công nhân này đă là một kích thích quan yếu cho phần c̣n lại của nền kinh tế. 3/Hạ tầng sản xuất đóng vai tṛ quan trọng trong việc kích thích những phát minh kỹ thuật mà Hoa Kỳ cần để đẩy nền kinh tế của ḿnh trong dài hạn. Khi những nhà sản xuất bỏ sang Trung Quốc, họ mang theo những ngân khoản nghiên cứu và phát triển – và mang đi cả khả năng phát minh của Hoa Kỳ…

    Thứ hai là Trung Quốc dùng 8 thủ đoạn để phá hủy hạ tầng sản xuất của Hoa Kỳ. 1/Thiết lập một mạng lưới trợ cấp xuất khẩu bất hợp pháp; 2/Thao túng và duy tŕ hối xuất thấp của đồng nhân dân tệ; 3/Giả mạo trắng trợn, vi phạm bản quyền và công khai đánh cắp kho tàng tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ; 4/Đảng Cộng sản Trung Quốc khiến họ sẵn sàng đánh đổi sự thiệt hại môi trường to lớn với một chút lợi nhuận qua lợi thế cắt giảm chi phí sản xuất; 5/Coi thường những tiêu chuẩn về sức khoẻ và an toàn cho công nhân; 6/Hạn ngạch thuế quan bất hợp pháp và hạn chế xuất khẩu đối với những nguyên liệu thô chủ chốt từ A đến Z – từ antimon đến kềm (zinc) – như một thủ thuật nhằm tăng cường kiểm soát ngành luyện kim của thế giới và ngành công nghiệp nặng; 7/Thi hành những thủ đoạn phá giá để loại các đối thủ nước ngoài trong những thị trường tài nguyên chính yếu và sau đó khống chế người tiêu thụ; 8/Áp dụng “Chính sách bảo hộ Vạn Lư Tường Thành” – để ngăn chận những doanh nhân ngoại quốc không được xây dựng cơ xưởng trên đất Trung Quốc.

    Tám thủ đoạn hủy diệt công việc do Trung Quốc tiến hành, không chỉ nhắm vào Hoa Kỳ mà c̣n ảnh hưởng đến sự tŕ trệ kinh tế tại Nhật Bản, khủng hoảng tài chánh tại Châu Âu, và hỗn loạn dân sự tại Mexico. Thủ đoạn này của Trung Quốc phát sinh từ chính sách con buôn và bảo vệ thị trường nội địa của Trung Quốc nhằm thống lĩnh thị trường thế giới, lănh đạo sản xuất và muốn thế giới Tây Phương phải phục quị kinh tế đối với Thiên Triều.

    Chương 5:Chết Bởi Sự Thao Túng Tiền Tệ Của Trung Quốc

    Trung Quốc thao túng tiền tệ bằng cách cố t́nh “neo” đồng nhân dân tệ (yuan) đối với đồng Mỹ Kim ở một hối xuất cố định thấp hơn giá trị thật. Để hiểu tại sao điều này đă làm suy thoái nền kinh tế Hoa Kỳ, điều cốt yếu cần hiểu là nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều bị chi phối bởi bốn yếu tố: tiêu thụ (Consumption – C), đầu tư kinh doanh (business Investment – I), chi tiêu công (Goverment spending – G) và tổng mậu dịch (net export = xuất khẩu – nhập khẩu). Biểu thị bằng toán học, Tổng sản lượng quốc gia GDP = C + I + G + (X-M).

    Động lực tăng trưởng sau cùng – tổng mậu dịch – là quan trọng nhất khi chúng ta bàn về thao túng tiền tệ của Trung Quốc. Khi Hoa Kỳ lâm vào thâm hụt mậu dịch kinh niên với Trung Quốc, điều đó làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ [GDP giảm khi (X-M) mang dấu âm]. Nhịp độ tăng trưởng chậm hơn này, kế đến, sẽ kéo giảm số lượng công việc làm mà Hoa Kỳ tạo ra.

    Dĩ nhiên, khi kinh tế Hoa Kỳ chịu đựng sự tăng trưởng chậm và thất nghiệp cao th́ Trung Quốc được hưởng kết quả ngược lại. Con Rồng vươn lên trong khi Hoa Kỳ suy thoái. Trong chương này, tác giả đă nêu lên ba vấn đề lớn:

    Thứ nhất là kích thước thâm thủng mậu dịch giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Nếu xét trên kích thước tuyệt đối (absolutue size), Hoa Kỳ nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều hơn xuất khẩu tới 1tỷ Mỹ Kim hằng ngày. Nếu xét trên kích thước tương đối (relative size), thâm thủng mậu dịch Trung – Mỹ thật đáng kinh ngạc: Trung Quốc chiếm hơn một nửa tổng số thâm thủng mậu dịch hàng năm về hàng hóa của Hoa Kỳ với thế giới và hơn 75% nếu không tính những nhập khẩu dầu hỏa. Nếu Hoa Kỳ muốn giảm tổng thể thâm thủng mậu dịch để gia tăng tốc độ tăng trưởng và tạo thêm nhiều việc làm hơn, điểm khởi đầu tốt nhất là phải cải tổ chính sách tiền tệ với Trung Quốc. Tầm ảnh hưởng thực tế của việc lệ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc lên mức tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ, điều này cũng làm người ta điên đầu. Hơn một thập niên qua, sự thâm thủng mậu dịch của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đă lấy mất gần 0.5% tỷ lệ tăng trưởng của Tổng sản lượng nội địa (GDP) hàng năm.

    Thứ hai là Trung Quốc đă tấn công Hoa Kỳ như thế nào. Trung Quốc dọa sẽ bán sạch 800 tỷ Mỹ Kim trái phiếu mà Hoa Kỳ đang nợ họ, nếu Hoa Thịnh Đốn áp dụng biện pháp trừng phạt. Nếu điều này xảy ra, đồng Mỹ Kim sụp đổ và chắc chắn gây thiệt hại lớn cho thị trường địa ốc và có thể đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ suy thoái hơn. Ngoài ra, Trung Quốc có thể đem quỹ dự trữ ngoại hối 2000 tỷ Mỹ Kim của họ mua quyền kiểm soát của những đại công ty Hoa Kỳ được liệt kê trên Chỉ Số Dow Jone của thị trường chứng khoán, bao gồm cả những đại công ty Microsoft, Exxon và Walmart, và vẫn c̣n dư tiền để mua đứt trên 50% cổ phần – tức quyền quyết định – của Apple, Intel và Ford. Chính khối lượng tích lũy ngoại hối khổng lồ đó bây giờ cho phép đảng Cộng sản Trung Quốc đủ sức đe dọa “tấn công” hệ thống tài chánh Hoa Kỳ. Trong thực tế, đă có chứng cứ rơ ràng rằng một Chú Sam khúm mún đă bắt đầu dâng hiến cho Trung Quốc ít nhất một vài chủ quyền chính trị của Mỹ do nguy cơ có thật của phương án tấn công tài chánh từ phía Trung Quốc.

    Thứ ba là thế kẹt của Hoa Kỳ. Sự thao túng tiền tệ của Trung Quốc không chỉ làm mất chủ quyền chính trị của Mỹ, nó c̣n làm người Mỹ tự sa vào “cái chết từ sự tiêu hoang”. Việc Trung Quốc bỏ tiền mua công khố phiếu của Hoa Kỳ chính là đă giúp các chính khách Hoa Kỳ tài trợ cho mức thâm hụt ngân sách khổng lồ. Sự kiện Trung Quốc giúp Hoa Kỳ tài trợ các chương tŕnh như những kế hoạch kích thích tài chánh hàng loạt và việc in tiền dễ dàng của Ngân khố Hoa Kỳ không phải là sự mỉa mai nho nhỏ. Tựu trung, phần lớn bởi v́ mức thâm thủng mậu dịch xuất huyết của Hoa Kỳ với Trung Quốc mà những chính trị gia Hoa Kỳ cảm thấy cần tiếp tục bơm hơi cho nền kinh tế với chi tiêu thâm thủng, thậm chí cả trong khi Hoa Kỳ tiếp tục lún ngày một sâu vào nợ nần với một chế độ độc tài toàn trị đang ḅn rút cạn kiệt từ các nhượng bộ của Hoa Kỳ.

    Chính sách thao túng tiền tệ của Trung Quốc, trong thực tế, không chỉ làm suy yếu nền kinh tế Hoa Kỳ mà nó c̣n đe dọa xé nát hệ thống kinh tế toàn cầu và khung điều hành tự do mậu dịch. Vấn đề là ở chỗ: bất cứ khi nào đồng đô la giảm so với các loại tiền khác như euro, real, won hay yen – một chuyện xảy ra khá thường xuyên ngày nay – th́ đồng yuan cũng rớt giá theo. Sự rớt giá của đồng yuan so với các đồng tiền khác lại cung cấp cho chính sách bảo hộ của Trung Quốc một lợi thế lớn hơn đối với những đối thủ cạnh tranh khắp thế giới, từ Âu Châu và Brazil đến Nhật và Nam Hàn.

    Qua tất cả những điều này – và bất chấp những lời kêu gọi từ các định chế như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới yêu cầu Trung Quốc tăng giá tiền tệ – Trung Quốc vẫn giữ thái độ cứng rắn nhất chống lại việc cải tổ. Đường lối cứng rắn này bắt đầu ngay trên thượng tầng của giới lănh đạo Trung Quốc; như một câu ngạn ngữ nói: “Cá ươn từ trên đầu xuống”.


    Chương 6:Chết Bởi Sự Phản Bội Của Những Công Ty Hoa Kỳ.

    Không có vấn đề danh dự đối với bọn cướp – và không có ḷng yêu nước trong hàng ngũ những công ty Mỹ. Đó là thông điệp rơ ràng mà những công ty như GE, Caterpillar, và Evergreen Solar đang gửi đến nhân dân Hoa Kỳ trong những ngày gần đây, khi họ đóng cửa những nhà máy ở Hoa Kỳ để mở những công xưởng mới, tráng lệ, hiện đại trên xứ Con Rồng. Khi xuất nguồn sang Trung Quốc, các tập đoàn này không những tiếp tay xô đẩy quốc gia của ḿnh xuống vực thẳm, mà c̣n đang kư những bản án tử h́nh cho chính tương lai của công ty ḿnh. Trước đây không có t́nh trạng này.

    Khi Trung Quốc lần đầu tiên gia nhập WTO và bắt đầu áp dụng chính sách bảo hộ để tấn công hạ tầng sản xuất của Hoa Kỳ, những giới lănh đạo các xí nghiệp Hoa Kỳ đă sát cánh với công nhân để phản đối kịch liệt những thủ đoạn mậu dịch bất chính của Trung Quốc. Nhưng bây giờ, sau một thập niên, Liên minh Công – Thương của Hoa Kỳ đă chết, các chủ công ty và những tổ chức “Hoa Kỳ” như là Hội Nghị Bàn Tṛn Doanh Nhân, Hiệp Hội Quốc Gia Chế Tạo và Pḥng Thương Mại Hoa Kỳ biến thái từ những nhà phê b́nh gắt gao sang những kẻ bênh vực ngoan ngoăn cho chính sách lái buôn và bảo hộ của Trung Quốc vốn đang lũng đoạn nền kinh tế và công nhân Hoa Kỳ.

    Sở dĩ các công ty Hoa Kỳ đứng về phía Trung Quốc v́ hai lư do: Thứ nhất là khai thác mạng lưới tinh xảo qua trợ cấp xuất khẩu phi pháp của Trung Quốc, các chủ nhân Hoa Kỳ có thể sản xuất hàng rẻ hơn tại Trung Quốc, và nếu họ không làm thế th́ những kẻ cạnh tranh của họ cũng sẽ làm. Thứ hai là các công ty Hoa Kỳ sản xuất hàng hóa tại Trung Quốc để bán cho 1.3 tỷ người tiêu dùng ngay tại thị trường Trung Quốc. Nhưng để bán được hàng hóa tại thị trường Trung Quốc, các công ty Hoa Kỳ phải chấp nhận ba điều kiện bảo hộ như được nêu trong chính sách của Trung Quốc được gọi là “sáng tạo bản địa” (Indigenous Innovation).

    Điều kiện bảo hộ thứ nhất đ̣i hỏi thiểu số sở hữu (minority ownership), tức là những công ty Hoa Kỳ phải liên doanh với một đối tác Trung Quốc và cổ phần không được chiếm quá 49% vốn xí nghiệp. Điều kiện này có nghĩa là công ty Hoa Kỳ mất quyền kiểm soát xí nghiệp.

    Điều kiện bảo hộ thứ hai là các công ty Hoa Kỳ phải chuyển giao công nghiệp – tức tài sản trí tuệ của họ cho các đối tác Trung Quốc như một điều kiện gia nhập thị trường. Hệ quả thực tế của t́nh trạng này là đă giúp tán phát những công nghệ khác nhau, không chỉ cho đối tác Trung Quốc trực tiếp tham gia, mà c̣n cho chính quyền Trung Quốc và các đối thủ Trung Quốc có tiềm năng cạnh tranh khác.

    Điều kiện thứ ba là bắt buộc các công ty phải xuất khẩu những cơ sở nghiên cứu và phát triển cho Trung Quốc. Đây là thủ đoạn bất chính nhất trong số tất cả những thủ đoạn v́ không khác ǵ bán đi hạt ngô giống của Hoa Kỳ. Nếu nghiên cứu và phát triền được thực hiện ở Trung Quốc chứ không phải trên đất Mỹ th́ đoán xem nước nào sẽ chiếm ưu thế trong việc tạo ra công ăn việc làm mới?

    Tại điểm này, người ta thấy rơ ràng là tại sao bất kỳ công ty nào của Hoa Kỳ cũng đều từng bước rơi vào ṿng tự hủy diệt khi chấp nhận ba điều kiện bảo hộ của Trung Quốc về sáng tạo bản địa (Indigenous Innovation). Khi một công ty Hoa Kỳ chuyển giao quyền tự trị của ḿnh, chuyển giao những kỹ thuật và khả năng phát triển những kỹ thuật tương lai của ḿnh, vấn đề chỉ c̣n là thời gian trước khi những công ty Trung Quốc “tiêu hóa” (digest) được những kỹ thuật này và sử dụng chúng để cạnh tranh dễ dàng với những công ty Hoa Kỳ – không chỉ trên đất Trung Quốc, mà c̣n trên thị trường thế giới.

    Dựa trên một số những điều kiện mà Trung Quốc đưa ra để “bắt chẹt” các công ty Hoa Kỳ đầu tư trên đất Trung Quốc, hai tác giả đă truy t́m một số những câu chuyện “dở khóc, dở cười” của 4 công ty Hoa Kỳ đang làm ăn trên đầt Tàu: Westinghouse (tập đoàn ngây thơ nhất); General Electronic (tập đoàn bị bệnh tâm thần); Catepillar (tập đoàn tiêu biểu nhất về nạn nhân ăn phải bả lái buôn của Trung Quốc) và Evergreen Solar (tập đoàn đă từng là Hy Vọng Xanh Vĩ Đại của chính quyền Obama, và bây giờ đang là một hỡi ôi về sự thất bại của các chính trị gia Hoa Kỳ trong việc bảo vệ các thương vụ của chúng ta trước sự xâm lấn của Trung Quốc).

    Đoàn Hùng

  4. #4
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    Trả giá...

    Mỹ và đồng minh đă làm tất cả những ǵ cần thiết đă từng diễn ra và có ghi nhận rơ ràng trong cái gọi là ThinkTank TQ : Xích Bích
    Chỉ có điều bây giờ là Ver 2.0, c̣n cái ghi chép trong " Tam quốc chí " là ver 1.0.
    Chỉ có điều đáng nói là cả thế giới phải liên lụy hậu quả một cách bất đắc dĩ !

    C̉N ĐÁNG KHIẾP HƠN CẢ "NGHI BINH"...??
    http://www.vietlandnews.net/forum/sh...%A3y-ra/page12

    post #118

    bussoni128 !

  5. #5
    Member thuongdan's Avatar
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    682
    (Tiếp theo)

    Chết bởi Trung Quốc (4): Chính sách, quân đội và gián điệp Trung Quốc
    Đăng Bởi admin Lúc 31/12/11 2:50 Sáng

    VRNs (31.12.2011) – Sài G̣n – Chương 7: Chết Bởi Chính Sách Thực Dân Của Trung Quốc.

    Trung Quốc hiện đang tiêu thụ phân nửa lượng xi măng thế giới, gần phân nửa số thép thế giới, một phần ba số lượng đồng, và một phần tư lượng nhôm, cùng với những số lượng lớn lao về đủ mọi thứ từ antimony, chromium, và cobalt cho đến lithium, gỗ, và kẽm… Tất cả những tài nguyên thiên nhiên này từ các quốc gia khác nhau trên thế giới mà Trung Quốc hiện nay muốn giành lấy hết cho riêng ḿnh để xử dụng cho hạ tầng sản xuất và bộ máy tạo công ăn việc làm của họ. Bắc Kinh đă dùng chiến lược “Mồi Câu và Lật Lọng” để khuynh loát các xứ chậm tiến.

    Thứ nhất là thu tóm tài nguyên thiên nhiên. Lănh đạo Bắc Kinh gồm Chủ tịch nước, Thủ tướng, hay Bộ trưởng của họ đi đến thủ đô của vài quốc gia xa xôi như Djibouti hay Niger, Somalia. Họ đến vẫy tay với tấm ngân phiếu to lớn hứa hẹn sẽ cho những khoản tiền vay hấp dẫn với lăi xuất thấp để xây dựng hạ tầng dân sự lẫn quân sự – như đường xá, hải cảng và đường xa lộ, một cung điện nguy nga và sang trọng cho những tay bạo chúa hay những khẩu súng AK 47 dùng để kềm kẹp một dân tộc bất măn dưới gót giày áp bức. Để đổi lấy sự hào phóng của Trung Quốc, tất cả những thuộc địa vừa chớm nở phải làm hai điều: Một là họ phải trao quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên để đổi lấy tiền vay. Hai là phải mở cửa thị trường cho tất cả những sản phẩm công xưởng Trung Quốc đă sản xuất từ những nguyên liệu mà thuộc địa cung ứng.

    Sau khi thu tóm quyền kiểm soát những tài nguyên thiên nhiên vốn tiêu biểu cho của cải thực sự của một thuộc đia, Bắc Kinh xuất khẩu những tài nguyên này ngược trở lại Trung Quốc thay v́ cho phép thuộc địa xử dụng những tài nguyên này để phát triển kinh tế của chính họ. Sau đó tái xuất khẩu những nguyên liệu trở lại thuộc địa dưới những hàng hóa đă chế biến. Điều này như vậy đă tạo ra việc làm cho mẫu quốc, gia tăng lợi nhuận của những công ty mẫu quốc, và dĩ nhiên kéo dài t́nh trạng thất nghiệp tại thuộc địa. Những ǵ c̣n lại trong thuộc địa phần lớn chỉ là những công việc với đồng lương rẻ mạt trong các kỹ nghệ khai thác, trong khi tất cả những công việc sản xuất có giá trị cao đều chuyển đến Quảng Châu, Thành Đô hay Thượng Hải.

    Thứ hai là di dân sang các thuộc địa. T́nh trạng nghèo nàn và nội chiến của Phi Châu là hệ quả trực tiếp thủ đoạn dùng tiền mua chuộc của Trung Quốc. Ngay từ đầu của mối quan hệ thực dân, Trung Quốc hứa hẹn rằng tất cả những món tiền cho vay để xây dựng hạ tầng cơ sở của xứ thuộc địa sẽ mang lại nhiều công việc làm và lương cao cho người dân địa phương. Tuy nhiên, sau khi kư xong giao kèo, Trung Quốc đă lật lọng: thay v́ thuê mướn những kiến trúc sư, kỹ sư, công nhân xây dựng và những công ty vận tải bản xứ, Trung Quốc đă lặng lẽ xuất cảng “đạo quân một triệu người” của chính họ sang làm việc.

    Tham vọng của Trung Quốc là xuất khẩu hàng triệu công dân Trung Quốc một cách có hệ thống sang những quốc gia vệ tinh ở Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh để giảm bớt áp lực nạn nhân măn tại Đại lục. Trong tập sách “China Safari”, một nhà khoa học Trung Quốc mô tả chiến lược di dân này như sau: “Chúng tôi có 600 con sông ở Trung Quốc, 400 trong số này đă bị chết bởi ô nhiễm… chúng tôi sẽ phải gửi đi ít nhất 300 triệu người sang Phi Châu…” Khi Namiba không thể trả nổi hàng tỉ Mỹ kim tiền vay, Bắc Kinh đă xiết nợ bằng cách buộc chính quyền Namiba phải chấp nhận để cho hàng ngàn gia đ́nh người Trung Quốc di dân sang Namiba. Thỏa ước mật này bị tiết lộ qua WikiLeaks khiến cho người dân xứ này phẫn nộ dữ dội.

    Thứ ba tại sao Trung Quốc được đón tiếp nhiều nơi. Đa số những quốc gia đón chào Trung Quốc là những nhà nước độc tài, nơi mà những luật lệ được ban hành bởi các tay quân phiệt, cộng sản, những tên sát nhân hàng loạt vô nhân tính, hoặc những nhà nước dân chủ trá h́nh. Các thể chế dân chủ giả mạo như Angola, Sudan, Zimbabwe luôn luôn đứng đầu trong danh sách các quốc gia này. Tại những quốc gia Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh khác, có đặc điểm là nền dân chủ rất yếu hoặc phe quân đội nắm quyền lực mạnh mẽ. Nguyên tắc thực dân của Trung Quốc dựa trên điều mà Hồ Cầm Đào, chủ tịch nước Trung Quốc đă nói trước Quốc hội Gabon là: “Chỉ có kinh doanh, không đề cập tới chính trị.”.

    Khi Hoa Kỳ cắt đứt ngoại giao và thương mại với Sudan v́ chính quyền này đă đàn áp và giết chết nhiều người Phi Châu tại Darfur, hoặc khi Liên Hiệp Quốc áp dụng lệnh cấm vận quân sự vào bờ biển Ngà hoặc Siera Leone, hoặc khi Châu Âu áp lực Etriea hoặc Somalia, hay khi toàn thế giới chống lại nhà độc tài Robert Mugabe của Zimbabwe th́ Bắc Kinh lại đi cửa hậu để tranh thủ họ. Bắc Kinh đưa một số những đề nghị béo bở với các tay độc tài này – bất cứ điều ǵ đối tác mong muốn – từ các vũ khí hạng nhẹ và máy bay chiến đấu đến các máy tính đời mới và hệ thống viễn thông hiện đại để giúp họ củng cố quyền lực hầu làm ăn với Bắc Kinh.

    Chương 8: Chết Bởi Sự Trổi Dậy Của Quân Đội Trung Quốc.

    Trong 20 năm vừa qua, Bộ binh, Không quân, và đặc biệt là Hải quân Trung Quốc đă có những bước nhảy vọt vĩ đại về phía trước trở thành lực lượng được trang bị dữ dội nhất trên thế giới.

    Thứ nhất là tăng cường bộ binh: Từ thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc đă dựa trên một chiến lược quân sự là “đánh phủ đầu”. Ngày nay, mặc dù Trung Quốc đang hướng tới một cái nh́n hiện đại hơn về chiến tranh, vẫn tiếp tục duy tŕ một lực lượng bộ binh lớn nhất thế giới. Lực lượng này có đến 2,3 triệu; nhiều hơn tổng số quân của Gia Nă Đại, Đức, Hoa Kỳ và Anh cộng lại. Hơn nữa, bộ binh Trung Quốc được trang bị dồi dào nhất thế giới gồm xe tăng, pháo binh và vận chuyển. Chỉ riêng xe tăng không thôi, 6,700 xe tăng của Trung Quốc vượt xa 1,100 xe tăng của Đài Loan, 2,300 xe tăng của Nam Hàn và 1,000 xe tăng của Việt Nam. Ngay cả Hoa Kỳ ở giữa hai cuộc chiến ở Châu Á chỉ có khoảng 5,000 xe tăng. Biểu tượng của sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ mới của Hồng Quân Trung Quốc là loại tăng chiến đấu “Type 99”, vốn là vũ khí tiên phong ngày nay cho nhu cầu hiện đại hóa lực lượng bộ binh của Trung Quốc.

    Thứ hai là đánh cắp kỹ thuật để tự xây dựng lực lượng không quân. Hai chiếc máy bay “cá mập bay” (Flying Shark) có tên là Thẩm Dương J-11B và J-15 mà Trung Quốc sử dụng hiện nay đă đánh cắp từ kỹ thuật của hai chiếc Su-27 và Su-33 của Nga. Chiếc phản lực Thunder J-17 được Trung Quốc phỏng chế một cách bí mật từ một số những kỹ thuật quân sự nhạy cảm mà họ lấy được của Âu Châu. Và mới đây, Không quân Trung Quốc c̣n tiết lộ cho thế giới thấy là họ đă chế được loại máy bay không người lái (drones), mô phỏng từ loại máy bay không người lái mà Hoa Kỳ đă xử dụng rất hiệu quả ở hai chiến trường Iraq và A Phú Hăn. Ngoài ra, loại máy bay chiến đấu tàng h́nh Chendu J-20 “Ó Đen” (Black Eagle) đánh cắp kỹ thuật từ Hoa Kỳ nhưng lại vượt xa máy bay tàng h́nh F-22 của Hoa Kỳ về khả năng không kích khá chính xác những mục tiêu trên mặt đất bao gồm cả sức chứa nhiên liệu để bay đường dài và có thể mang số lượng lớn về bom và hỏa tiễn.

    Thứ ba là thách thức lực lượng hải quân Hoa Kỳ. Chính sức mạnh của Hạm đội Thái B́nh Dương của Hoa Kỳ khiến cho các nhà chiến lược quân sự Trung Quốc ngày đêm lo sợ là một ngày nào đó, hải quân Hoa Kỳ sẽ phong tỏa toàn bộ con đường vận chuyển 80% dầu hỏa của Trung Quốc để trả đũa những toan tính bành trướng xâm lấn trên biển Đông. Do đó, những nhà chiến lược quân sự Trung Quốc đă tiến hành một chiến lược phản công gồm 2 mũi nhọn: Một là đẩy mạnh chế tạo Hàng không mẫu hạm. Hai là hoàn chỉnh hỏa tiễn tối tân để tiêu diệt Hàng không mẫu hạm của đối phương, được Ngũ Giác Đài gọi là Hỏa Tiễn BAMer viết tắt của Ballistic Anti-ship Missile (Hỏa tiễn chống tàu thủy). Việc Trung Quốc cố hoàn chỉnh Hỏa tiễn BAMer đang làm cho Hoa Kỳ quan ngại và có thể làm đảo lộn t́nh thế khi mà ṿng đai an toàn của các Hàng không mẫu hạm của Mỹ bị đe dọa. Hiện nay, Trung Quốc đang sử dụng sa mạc Gobi làm nơi thực tập tác xạ Hỏa tiễn BAMer, trước khi mang nó ra thực tập trên biển v́ theo tác giả là không phải dễ bắn trúng những mục tiêu nhấp nhô trên sóng biển từ cả ngàn dặm.

    Thứ tư là chế tàu ngầm để vượt ra biển xanh. Không có hạm đội Hàng Không Mẫu Hạm nào hoạt động hiệu quả nếu không có lực lượng tàu ngầm hùng mạnh chạy thật êm và thật sâu. Trung Quốc đă và đang âm thầm xây dựng một lực lượng tàu ngầm, chẳng bao lâu sẽ lớn nhất thế giới. Trung Quốc đang sở hữu thế hệ mới nhất của những tàu ngầm chạy bằng tổng hợp điện – dầu cặn (Diesel – Electric) rất nhanh và yên lặng nên nó có thể bám sát và theo dơi những tàu chiến của Hoa Kỳ mà rất ít khi bị phát hiện. Ngoài ra, những tàu ngầm mới hơn của Trung Quốc thuộc loại yuan Class, nó c̣n chạy im hơn và có thể hoạt động dưới biển trong một thời gian rất dài nhờ vào một hệ thống “động cơ không cần không khí”. Ngoài ra để bảo đảm khả năng đưa được lực lượng hải quân chiến đấu tới những vùng biển xanh xa xôi như tận bờ biển California chẳng hạn, Trung Quốc đă chế một số tàu ngầm mang hỏa tiễn loại 094 Jin Class, bắn xa đến tận thành phố Savannah hay thành phố Missouri vùng Đông Nam Hoa Kỳ.

    Chương 9: Chết Bởi Gián Điệp Trung Quốc.

    Hàng ngày có hàng ngàn gián điệp chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp của Trung Quốc đang thu thập tin tức t́nh báo ở những văn pḥng, nhà máy và trường học Hoa Kỳ, Âu Châu và những quốc gia khác nhau như từ Brazil, Ấn Độ đến Nhật và Nam Hàn. Và mỗi phút trong ngày, hàng trăm tin tặc Trung Quốc khống chế hàng ngàn máy điện toán để triệt phá tường lửa bảo vệ của các hệ thống thông tin kỹ nghệ, tài chánh, học đường, chính trị và quân sự trên toàn thế giới nhằm t́m kiếm những dữ kiện quư báu và âm thầm truy cập những kẽ hở có thể khai thác để tấn công và phá hoại trong tương lai.

    Thứ nhất là gián điệp Trung Quốc xâm nhập như thế nào. Chính phủ Trung Quốc và nhiều ngành công nghiệp quốc doanh đă tích cực mở ra một chiến dịch hoạt động t́nh báo với ba mũi nhọn rất tinh vi chống lại nhiều quốc gia trên thế giới – đặc biệt, các đối thủ lớn như Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản. Chiến lược 3 mũi nhọn này bao gồm các trung tâm nghiên cứu, kỹ nghệ và những cơ quan chính quyền với mục đích đánh cắp những thông tin giá trị về tài chánh, kỹ thuật, và chính trị, đồng thời chuẩn bị cho những cuộc tấn công gây rối và phá hoại trong trường hợp xảy ra chiến tranh nóng. Trung Quốc có khoảng 100 ngàn gián điệp chính thức hay điềm chỉ viên, không kể những gián điệp tài tử, và một số lớn những cá nhân làm việc như những gián điệp bên trong những cơ quan chính phủ Trung Quốc. Đa số những gián điệp chính thức của Trung Quốc là những kư giả, nhiếp ảnh gia, thành viên của các tổ chức NGO, những thương gia, kỹ sư và học giả người Trung Quốc. Những điệp viên chuyên nghiệp này có thể không có điều kiện thu thập những thông tin quan trọng nhưng họ sẽ tập trung tuyển mộ những điềm chỉ viên để qua đó lấy những tin tức cần thiết.

    Thứ hai là gián điệp Trung Quốc hoạt động ra sao? Trong lănh vực hoạt động gián điệp công nghiệp, mạng lưới này được tổ chức với mục tiêu t́m kiếm những công nghệ mới, những bí mật thương mại và phương pháp thực hiện. Trong mặt trận quân sự, mạng lưới này có mục tiêu kiếm được từ những hệ thống vũ khí mới cho đến những thông tin chi tiết hơn về các căn cứ và các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ. Trong cả hai hoạt động t́nh báo công nghệ và quân sự, yêu cầu của gián điệp Trung Quốc là hăng say, kiên nhẫn như đàn ong. Qua từng thập niên, hàng ngàn gián điệp “ong thợ” (worker bee) và những nhóm thu thập tin tức cần cù hút những thông tin nho nhỏ từ các pḥng nghiên cứu đại học, những pḥng nghiên cứu nhạy cảm quốc gia, những đại học Hoa Kỳ, những công ty mới khởi đầu tại Silicon Valley, và những công ty liên hệ đến quốc pḥng.

    Thứ ba là một số gián điệp Trung Quốc bị phát hiện tại Hoa Kỳ. Trong khi những người Mỹ gốc Hoa chiếm số lượng lớn trong mạng lưới gián điệp Trung Quốc, những tay trùm t́nh báo Trung Quốc đôi lúc cũng đă thành công trong việc “cải hóa” những người không phải gốc Hoa thành những tay gián điệp theo cách Liên Xô cũ. Chẳng hạn, Mộ Khả Thuấn (Moo Ko Suen), người Nam Hàn đă cộng tác làm gián điệp cho Trung Quốc, t́m cách đến kho máy bay tại Floria để mua một đầu máy phản lực có quạt chạy bằng Turbine của hăng GE sản xuất, thiết kế cho phi cơ chiến đấu F16. Quan thuế Hoa Kỳ đă phá vỡ âm mưu này và họ Mộ đă bị bắt giữ hồi tháng 5 năm 2006. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng đă thất bại trong một số vụ, điển h́nh là Phát Hoán Quyền (Park Hwan Kwon), một người Nam Hàn làm việc cho t́nh báo Trung Quốc. Phát đă thành công trong việc xuất khẩu hai đầu máy trực thăng Backhawk sang Trung Quốc thông qua một công ty Mă Lai. Tuy nhiên, sau đó, Phát Hoán Quyền đă bị bắt tại phi trường Dulles, Hoa Thịnh Đốn khi t́m cách bay qua Trung Quốc với một va-li chứa đầy những trang bị quân sự để quan sát ban đêm.

    Trong khi nhiều gián điệp Trung Quốc gần như là nghiệp dư như Mộ và Phát, một số gián điệp – được gọi là “đặc vụ ch́m” (sleeper agents) – được Trung Quốc cố ư cài lâu dài trong nước Mỹ. Đó là trường hợp Tôn Đông Phương (Chung Dong Fan), kỹ sư làm việc 30 năm cho hăng Boeing đă thu thập những thiết kế của Phi thuyền con thoi và Hỏa tiễn Delta IV chuyển cho Bắc Kinh. Khi bị bắt, Tôn Đông Phương đă giấu nhẹm được 3 triệu Mỹ Kim, và bị t́m thấy hơn 300,000 trang tài liệu kỹ thuật trong nhà, cùng với các ghi chép về những điều mà họ Tôn hy vọng sẽ giúp cho “mẫu quốc của ḿnh.”

    Đoàn Hùng

  6. #6
    Member thuongdan's Avatar
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    682
    (Tiếp theo)

    Chết bởi Trung Quốc (5): Chủ trương tin tặc, khống chế vũ trụ và ô nhiễm môi trường của Trung Quốc

    Đăng Bởi admin Lúc 1/01/12 1:31 Sáng

    VRNs (01.01.2012) – Sài G̣n – Chương 10: Chết Bởi Tin Tặc Đỏ Của Trung Quốc.

    Trung Quốc đă tổ chức những lữ đoàn Tin Tặc Đỏ chuyên thâm nhập vào cơ quan NASA, Ngũ Giác Đài và Ngân hàng Thế giới; tấn công pḥng Kỹ nghệ và An ninh của Bộ thương mại Hoa Kỳ rất mạnh đến nỗi Bộ này phải hủy bỏ hàng trăm máy điện toán; xóa sạch ổ dĩa cứng chứa dự án hỗn hợp phi cơ chiến đấu F-35 của hăng Lockheed Martin, và gần như dội bom rải thảm vào hệ thống kiểm soát không lưu của Không quân Hoa Kỳ. Chúng cũng đă xâm nhập vào những máy điện toán của những dân biểu có đầu óc cải cách trong Ủy ban ngoại giao Hạ Viện vân, vân…

    Giống như các hoạt động gián điệp, mỗi ngày, hàng ngàn người được gọi là “tin tặc” liên tục thăm ḍ, phá hoại và đánh cắp những định chế của Phương Tây – cũng như các đối thủ Á Châu như Nhật Bản và Ấn Độ, với nhiều mục tiêu khác nhau như phá hoại những trang nhà hay tấn công ồ ạt, vũ băo các máy chủ (servers) với “từ chối dịch vụ” DdoS, đánh cắp những thông tin có giá trị hay phá hủy dữ kiện nhằm gây ra những thiệt hại hạ tầng đáng kể. Nhưng mục tiêu then chốt mà tin tặc Trung Quốc nhắm đến là kiểm soát những hệ thống vốn kiểm soát những tài sản vật lư. Chẳng hạn, một nhóm các gián điệp vi tính Trung Quốc có thể đóng cửa mạng lưới điện của New England để “trừng phạt” Hoa Kỳ về hành động như chào đón Ngài Đạt Lai Lạt Ma đến Ṭa Bạch Ốc hay bán vũ khí cho Đài Loan. Để thực hiện mục tiêu trên, Trung Quốc đă:

    Thứ nhất là tổ chức những nhóm tin tặc đỏ. Tất cả các hoạt động chính của lữ đoàn tin tặc đỏ Trung Quốc có một điểm chung, họ là cánh tay nối dài và nằm dưới sự giám sát lỏng lẻo của đảng Cộng sản. Tất nhiên, đảng giữ một khoảng cách – chính là để họ luôn luôn có thể đưa ra một sự phủ nhận khả dĩ đối phó với bất cứ t́nh huống nào xảy ra – như cuộc tấn công vào Ngũ Giác Đài, cướp quyền truy cập mạng 18 phút đồng hồ, cuộc tấn công vào mă nguồn (source code) của Google… Những kẻ gọi là đạo quân “tin tặc’ Trung Quốc sẽ không bao giờ hiện hữu nếu không có bàn tay chỉ đạo của Bắc Kinh.

    Đạo quân tin tặc Trung Quốc đă tổ chức thành hàng ngàn nhóm nhỏ với những tên như Đội Quân Xanh (Green Army Corps), Nhóm Cua (Crab Group), và thậm chí tất cả đám nữ tặc gom lại như Lục Hoàng Hoa (Six Golden Flowers). Trung Quốc thậm chí c̣n có hàng trăm “trường tin tặc’ dạy nghệ thuật hack cho đám thanh niên giỏi vi tính. Trong khi đó, chính phủ trung ương Trung Quốc cho phép những nhóm như Liên Hiệp Tin Tặc Trung Quốc (China Hacker Union) được công khai hoạt động và thậm chí được duy tŕ những cơ sở thương mại trong khi bóc lột người ngoại quốc – miễn là chúng không tấn công vào các trang mạng hay nhu liệu nội địa.

    Thứ hai là ra lệnh tấn công một số vụ điển h́nh.

    -Vụ nổi tiếng nhất có tên là “Operation Aurora”, nhằm tấn công có hệ thống vào công ty Google cùng với 200 công ty Hoa Kỳ khác từ Adobe, Dow Chemical, và DuPont đến Morgan Stanley và Northrop Grumman. Trong kế hoạch này, tin tặc Trung Quốc trước hết làm quen với nhân viên của những công ty nhắm đến thông qua những trang mạng xă hội khá thịnh hành như Facebook, Twitter và LinkedIn. Sau khi khởi động những chat qua lại, tin tặc liền dụ những người bạn mới này đến viếng một trang mạng chia xẻ h́nh ảnh, vốn là b́nh phong có cài mă độc Trung Quốc. Khi những nhân viên của công ty “cắn mồi”, máy điện toán của họ bị nhiễm mă độc có nhiệm vụ thu thập và chuyển tên sử dụng (usernames) và mật khẩu (password) của người nhân viên về cho tin tặc. Những tin tặc Bắc Kinh sau đó xử dụng thông tin đánh cắp để truy cập các số lượng lớn dữ kiện giá trị của công ty – kể cả mă nguồn quư báu của Google.

    -Vụ thứ hai là Cướp Mạng Toàn Cầu. Trong 18 phút vào tháng 4 năm 2010, công ty viễn thông quốc doanh Trung Quốc đă cướp đi 15% lưu thông Internet trên thế giới, bao gồm những dữ kiện từ quân đội, những tổ chức dân sự Hoa Kỳ và những tổ chức đồng minh Hoa Kỳ. Vụ chuyển hướng rộng lớn những dữ kiện này hầu như nhận được sự chú ư của rất ít các phương tiện truyền thông chính ḍng, bởi v́ phương cách tiến hành vụ đánh cướp ra sao và những phức tạp của vụ này rất khó nắm bắt cho những người không liên hệ tới cộng đồng an ninh mạng.” Tin tặc Trung Quốc dùng chiến thuật “cướp đường” (Route Hijacking) với mục tiêu chứng tỏ cho thế giới biết họ có khả năng giành quyền kiểm soát bất cứ lúc nào một phần đáng kể mạng Internet toàn cầu.

    -Vụ thứ ba là Đánh Cắp Tên Miền. Tin tặc Trung Quốc cũng đă nhúng tay vào rất nhiều vụ đánh cắp tên miền (DNS). DNS là chữ viết tắt của Domain Name Services và chính những trị số DNS này lập nên “điện thoại niên giám” (phonebook) của mạng Internet. Việc thao túng tên miền xảy ra khi những dữ kiện DNS không đầy đủ được dùng để ngăn chận những người dùng Internet trên thế giới không được vào các trang mạng mà đảng Cộng sản coi là kẻ thù. Việc thao túng DNS có nghĩa là sự kiểm duyệt Internet của Trung Quốc bây giờ vượt quá biên giới của họ và t́nh thế sẽ chỉ xấu đi hơn khi mà Trung Quốc cố thu tóm nhiều quyền hạn trên mạng Internet.

    Thứ ba là cài cắm con Chip Măn Châu trong những máy vi tính bán ra thị trường chờ lệnh tấn công. Trung Quốc đă cho thiết kế một con chip “cửa sau” (Backdoor) điều khiển từ xa, trong hệ thống điều hành của một máy điện toán, hay một cách khác, thiết lập “mạch sát thủ” (a kill switch) gắn trong con chíp đặc chế và phức tạp của máy điện toán, và khó phát hiện. Trung Quốc sau đó xuất khẩu một cách bí mật những con chíp Măn Châu và con chíp “cửa sau” đến Hoa Kỳ, ở đó chúng trở thành một phần của hệ thống lớn hơn vốn thực hiện những chức năng b́nh thường của chúng. Các thiết bị Măn Châu nằm chờ một số loại tín hiệu cho phép của Bắc Kinh hoặc đóng hoặc chiếm quyền kiểm soát của dụng cụ – có lẽ là một hệ thống thiết yếu như trụ điện, hệ thống xe điện ngầm, hay một thiết bị định vị toàn cầu.

    Chương 11: Chết Bởi Những Chương Tŕnh Khống Chế Không Gian Của Trung Quốc.

    Chương tŕnh khai phá không gian của Trung Quốc đặc biệt đáng thán phục và ráo riết. Trong vài thập niên tới đây, họ có kế hoạch gởi những phi vụ lên cả mặt trăng và hỏa tinh, trong khi chỉ năm ngoái thôi, Trung Quốc đă phóng lên quỹ đạo 15 trọng tải (payloads). Lịch tŕnh phóng đầy tham vọng này đă làm cho họ trở thành quốc gia đầu tiên sánh kịp Hoa Kỳ trong lănh vực này; và Trung Quốc rơ ràng đang trên đường qua mặt Hoa Kỳ về số lượng phóng; ngay đúng thời điểm Hoa Kỳ hoàn tất sứ mạng phi thuyền con thoi cuối cùng và kết thúc chương tŕnh.

    Thứ nhất là chương tŕnh thám hiểm không gian của Trung Quốc. Trung Quốc có ba lư do để theo đuổi thám hiểm không gian. Thứ nhất là sự phát triển của nhiều ngành công nghệ mới và đa dạng. Thứ hai là khai thác và vận chuyển trong tương lai những nguồn năng lượng và nguyên vật liệu thô trọng yếu từ không gian đến những nhà máy Trung Quốc. Thứ ba là t́m một hành tinh khác để giải quyết nạn nhân măn và đang nóng lên nhanh chóng của trái đất. V́ thiếu hụt ngân sách, Hoa Kỳ đang lơ là về việc nghiên cứu không gián th́ Trung Quốc trái lại rất tích cực dành nhiều tài chánh và phương tiện cho thám hiểm không gian. Lư do là Trung Quốc muốn đi t́m trong không gian nhiều thứ kim loại quư và nguyên liệu khác từ lớp vỏ của mặt trăng hay từ các tiểu hành tinh gần trái đất.

    Ngoài ra, Trung Quốc không chỉ t́m kiếm các nguyên liệu như nhôm, vàng, và kẽm trong vũ trụ. Từ tầm nh́n viễn kiến của Trung Quốc, họ có thể thu được những thứ có giá trị cao hơn trên mặt trăng. Đó là nguồn năng lượng phân hạch (nuclear fusion energy). Khác với những nhà máy điện hạt nhân đang có nhiều vấn đề, năng lượng phân hạch sẽ vừa an toàn, vừa sạch và thực sự quá rẻ. Và điều này liên quan đến mặt trăng: một thành tố mà các khoa học gia tin rằng sẽ giúp thực hiện phản ứng phân hạch là chất Helium 3 – một chất đồng vị cực kỳ hiếm được coi là có nhiều trên mặt trăng.

    Thứ hai là vấn đề chiến tranh không gian. Nước Mỹ hiển nhiên vẫn c̣n nắm giữ thế thượng phong trong chiến lược không gian hiện nay. Từ thế thượng phong đó, cả kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ đều phụ thuộc nặng nề vào một hệ thống phức tạp gồm 400 vệ tinh quỹ đạo vốn cung cấp tất cả các loại, từ trinh sát và dẫn đường cho đến viễn thông và đo đạt từ xa hay c̣n gọi là viễn trắc (Telemetry). Đó chính là mạng lưới đáng phục đang cung cấp cho những lực lượng chiến đấu Hoa Kỳ một sức mạnh gần như là siêu nhiên trong con mắt của kẻ thù. Tuy nhiên, Trung Quốc không chịu thua. Trung Quốc đang tiến hành ít nhất 2 biện pháp pḥng thủ để đối phó với lợi thế không gian của Hoa Kỳ. Thứ nhất là phá hủy một phần hay toàn bộ những vệ tinh của Hoa Kỳ. Thứ hai là – đạt được mục đích như vậy nhưng không cần phá hủy – đơn giản là làm mù những con chim trinh sát của Hoa Kỳ. Trong lănh vực phá hủy các vệ tinh, Trung Quốc đă thí nghiệm một số phương pháp để làm nổ tung – hay đúng ra là bắt cóc – các vệ tinh của Hoa Kỳ.

    Thứ ba là đối đầu với Hoa Kỳ. Chiến lược quân sự mà Trung Quốc đang tính toán hiện nay đó chính là sự tập trung trên cái gọi là “chiến tranh bất đối xứng” (asymmetric warfare). Tuy Trung Quốc đang đối diện với một thất thế đáng kể về mặt kỹ thuật so với Hoa Kỳ, nhưng những nhà chiến lược Trung Quốc đang liên tục t́m ṭi những cách bất ngờ và ít tốn kém nhất để vô hiệu hóa, tiêu diệt hay đánh bại những sức mạnh kỹ thuật lớn nhất của Hoa Kỳ. Đó là hỏa tiễn đạn đạo chống tàu thủy tương đối rẻ tiền có khả năng đánh ch́m một Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ – hay ít nhất khiến nó phải sợ để quay đầu chạy trốn về quần đảo thứ nh́. Ngoài ra, Trung Quốc có thể xử dụng loại vũ khí chống vệ tinh trên không gian để có thể phá hoại hệ thống GPS và hệ thống vệ tinh viễn liên của Hoa Kỳ và các quốc gia khác.

    Chương 12: Chết Bởi Ô Nhiễm Môi Trường Trầm Trọng Của Trung Quốc.

    Trung Quốc không phải là sắc dân ngu đần. Nhưng những ǵ mà giới kinh doanh và lănh đạo nhà nước đang làm cho không khí, đất và nước của xứ sở họ – với sự chấp nhận ngầm của đa số người dân – phải là một trong những hành vi mù quáng nhất, thiển cận nhất, và tự hủy diệt nhất đối với Mẹ Thiên Nhiên mà thế giới chưa từng chứng kiến.

    Dĩ nhiên, các quan chức đảng Cộng sản quen biện hộ cho những tội ác chống lại Mẹ Thiên Nhiên bằng lối ngụy biện rằng đế chế non trẻ của họ hăy c̣n trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Họ nhấn mạnh rằng ít nhất một số hư hại môi trường được ước đoán sẽ xảy ra trước khi Trung Quốc Đỏ tạo nên một quá tŕnh chuyển đổi “không thể tránh khỏi” thành Trung Quốc Xanh. Chính quyền Trung Quốc muốn đánh đổi không khí, nước và đất của họ lấy tiền và giành một phần thị trường thế giới lớn hơn.

    Thứ nhất là bầu trời Trung Quốc không có màu xanh. Trung Quốc hiện có 100 thành phố với hơn 1 triệu dân và hầu hết mọi người trong đám đông dày đặc này bị bao phủ trong đám hơi độc của a-xít lưu huỳnh (Sulfur dioxide) và những hạt bụi xuyên lủng phổi (lung-piercing particulates). Hơn nữa, trong số 20 thành phố lớn nhất thế giới đang bị ô nhiễm nặng nề nhất th́ Trung Quốc chiếm 16 thành phố. Lư do là Trung Quốc lệ thuộc đến 75% nguồn năng lượng than đá, nhưng lại không có nỗ lực nghiêm chỉnh để giải quyết việc dùng than một cách sạch sẽ. Khắp Trung Quốc, than được vận chuyển, đốt và thải khói với rất ít kỹ thuật kiểm soát ô nhiễm và thậm chí c̣n ít quan tâm hơn về những ảnh hưởng của nó trên đời sống con người và súc vật. Trong nhiều gia đ́nh nông thôn Trung Quốc, than sống vẫn c̣n được đốt để nấu ăn và sưởi ấm – với rất ít hay không thông gió.

    Than hiện diện khắp nơi trong nền kinh tế Trung Quốc nên chiếm tới 90% khí thải a-xít lưu huỳnh – thành phần chủ yếu của sương mù. Sự lệ thuộc vào than đá quá lớn như vậy cũng là lư do tại sao không khí ở Trung Quốc lại chứa đầy các hạt bụi chất thải chết người; chúng có thể xâm nhập sâu và xé rách mô phổi. Với mỗi 100 tấn a-xít lưu huỳnh, hạt bụi chất thải, hay thủy ngân chết người mà những nhà máy Trung Quốc tung lên vùng trời Trung Quốc, hàng ngàn cân Anh của những chất ô nhiễm này, cuối cùng sẽ đi vào mắt, phổi, cổ họng và hệ thống thần kinh của người dân tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và sau đó cả ở Bắc Mỹ.

    Thứ hai là không có nước sạch để uống. Chiếm 20% dân số thế giới, nhưng Trung Quốc chỉ có 7% nước ngọt; nhiều vùng đất rộng lớn của lănh thổ này – bao gồm 100 thành phố – phải chịu hạn hán triền miên. Bất chấp nạn khan hiếm nước uống như thế, giới kinh doanh và chính quyền Trung Quốc đă để cho 70% sông, hồ suối và 90% nguồn nước ngầm của họ trở nên ô nhiễm trầm trọng. Hơn nữa, tại những khu công nghiệp như Sơn Tây, nhiều nước sông bị nhiễm độc không thể sờ tay vào. Sự nguy hại này gây ra bởi ḍng thác của hàng tỷ tấn chất thải công nghiệp phần lớn không được giải quyết, những phân hóa học và nước cống từ người và thú vật tuôn ra từ mọi nơi, từ những nhà máy hóa học, nhà máy bào chế thuốc và phân bón cho đến nhà máy thuộc da, nhà máy sản xuất giấy và những trại nuôi heo. Chính v́ sự phóng uế không nao núng này, một tỷ dân Trung Quốc phải uống nước ô nhiễm hàng ngày trong khi ít nhất 700 triệu trong số những người này, phải cam chịu dùng nước uống có “gia vị” chất thải của người và thú vật.

    Thứ ba là đất nhiễm độc. Đất canh tác của Trung Quốc – nơi nuôi sống 22% dân số thế giới – đang đối mặt với nạn ô nhiễm và suy thoái. Sự suy thoái chất lượng đất trở thành một phó sản đáng lo ngại nhất của sự tăng trưởng kinh tế chóng mặt của Trung Quốc. Những kim loại nặng đang tích tụ trong đất, làm chai mặt đất, giảm màu mỡ và những tàn dư của phân hóa học và thuốc trừ sâu xuất hiện trong các nông sản, gây ngộ độc cho cả con người và gia súc. Gần đây, khoảng 10 triệu mẫu tây đất trồng trọt – tương đương với 10% đất trồng trọt nội địa đă bị nhiễm độc.

    C̣n một vấn đề nữa là Trung Quốc sẵn sàng – quả thực, tới độ hăng hái quá mức – muốn làm băi rác thải cho những loại hợp chất độc hại tân tiến nhất chưa từng có: cái gọi là “băi rác điện tử”. Băi rác điện tử như thế gồm những máy điện toán hư, điện thoại di động lỗi thời và các đồ điện tử khác; và đó thực sự là một hỗn hợp kim loại nặng không giống một hỗn hợp nào khác. Hiện có tới 50 triệu tấn chất thải điện tử được tạo ra trên toàn cầu mỗi năm – đủ để chất đầy đoàn xe tải thu gom rác xếp hàng dài tới nửa ṿng trái đất;” và đương nhiên, Trung Quốc dự trữ đủ xe tải chở rác để thu gom tới 70% số rác thải điện tử đó.

    Đoàn Hùng

  7. #7
    Member thuongdan's Avatar
    Join Date
    13-03-2011
    Posts
    682
    Chết bời Trung Quốc (6): Lănh đạo tàn ác, độc tài và những kẻ pḥ Trung Quốc
    Đăng Bởi admin Lúc 2/01/12 1:34 Sáng

    VRNs (02.01.2012) – Sài G̣n – Chương 13: Chết Bởi Những Tàn Ác Của Lănh Đạo Trung Quốc.

    Trong “thiên đường” của những công nhân Trung Quốc, kẻ thù thông thường nhất của đảng Cộng sản lại là những công dân của chính họ. Tại những phần đất bị chiếm đóng như Tây Tạng, Nội Mông, và Tân Cương, những kẻ thù của đảng Cộng sản Trung Quốc này cũng là những người bản xứ can đảm đi t́m quyền tự chủ từ chế độ Bắc Kinh; họ đ̣i hỏi quyền được chia một phần sự thịnh vượng từ việc khai thác các nguồn tài nguyên trên mảnh đất quê hương; và họ căm phẫn tột cùng trước làn sóng tràn vào của sắc dân thống trị người Hán mà Bắc Kinh đă đưa vào nhập cư để xóa nḥa và tẩy sạch gốc tích di truyền của họ.

    Đối với hàng trăm triệu nạn nhân này của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc có ba vấn đề: 1/Sự áp bức nội địa do mô h́nh tăng trưởng kinh tế đầy ô nhiễm vận hành trên lao động rẻ mạt; 2/ Một hệ thống thần quyền cứng ngắc của Đảng Cộng sản dựa trên giai cấp đă hạn chế sự thăng tiến xă hội; 3/Một chế độ độc tài toàn trị theo dơi mọi động thái của người dân, ức chế mọi hơi thở, và tuyệt đối không dung thứ đối lập.

    Thứ nhất là đế quốc đỏ nói dối. Điều 35, Hiến Pháp của Trung Quốc đă ghi như sau: “Công dân nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do diễn hành và biểu t́nh.” Nhưng nếu ai đ̣i hỏi điều này th́ sẽ tự chuốc lấy hoặc bị đánh đập, hoặc bị bỏ tù hay cả hai. Điều 40 Hiến Pháp ghi rằng: “Tự do và quyền riêng tư thư tín của các công dân nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc được bảo vệ bởi luật pháp”. Điều này cũng thật nực cười. Trung Quốc đă sử dụng hơn 500,000 công an mạng và nhân viên kiểm duyệt để kiểm soát mọi trao đỗi của dân chúng. Sự kiện có quá nhiều công dân Trung Quốc bị bỏ tù v́ cố thực thi quyền tự do được quy định trong điều 35 và điều 40 của Hiến Pháp, rơ ràng cho thấy rằng công an Trung Quốc không buồn đọc điều 37 Hiến pháp – nêu rơ: “Quyền tự do của các công dân của Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc là bất khả xâm phạm.”

    Thứ hai là đế quốc đỏ bần cùng. Phần lớn sự đổi mới và năng động mà chúng ta liên kết với Trung Quốc bắt nguồn từ đời Đường (khoảng từ 600 đến 900 trước Công nguyên) và đầu triều đại nhà Minh (từ 1370 đến 1450). Đặc biệt dưới triều đại nhà Minh, trong khi Châu Âu c̣n ngủ vùi trong thời kỳ tăm tối, Trung Quốc đă phát triển một nền kinh tế tiêu dùng vững chắc với sự hỗ trợ của một đế chế sáng tạo kỹ thuật và thương mại to lớn. Tuy nhiên, giấc mộng đế quốc của Trung Quốc đă không thành hiện thực và Trung Quốc từ từ rơi vào thời kỳ đen tối trong lúc Phương Tây phát triển rực rỡ. Sau hy vọng ngắn ngủi về một nền cộng ḥa dưới sự lănh đạo của Tôn Trung Sơn vào năm 1912, Trung Quốc nhanh chóng bị cuốn vào cuộc nội chiến đẫm máu đa phương giữa các phe quốc gia, cộng sản, và nhiều lănh chúa. Đây là một cuộc hỗn loạn làm suy nhược toàn diện, dẫn đến cuộc xâm lược tàn bạo của Nhật Bản và đạt đến đỉnh điểm với sự trổi dậy của Mao Trạch Đông, sáng lập nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc vào năm 1949 và sự đào thoát của những lực lượng quốc gia sang Đài Loan.

    Thứ ba là đế quốc đỏ sát nhân. Mao Trạch Đông đă tái thống nhất Trung Quốc dưới sự cai trị của “Hán” tộc, trục xuất vô điều kiện tất cả những người ngoại quốc, và khôi phục niềm tự hào Trung Hoa. Điều đó nói rằng, cái giá mà nhân dân Trung Quốc đă phải trả – bằng máu, nước mắt, mồ hôi, lao động cưỡng bức, tù tội và sống trong nơm nớp sợ hăi – cho cuộc giải phóng kiểu cộng sản của Mao là một cái giá cực kỳ đắt. Trong khi Hitler giết hay tiêu diệt khoảng 12 triệu thường dân và Stalin khoảng 23 triệu trong các cuộc thanh trừng và bỏ đói của ông ta, th́ con số người chết do Mao lên khoảng 49 đến 78 triệu. Điều đó khiến Mao trở thành kẻ giết người hàng loạt tồi tệ nhất của mọi thời đại – ít nhất đó là theo ông Piero Scaruff, người đă thống kê những vụ diệt chủng khủng khiếp nhất trong lịch sử.

    Thứ tư là đế quốc đỏ trổi dậy. Người đă đưa Trung Quốc ra khỏi vũng lầy kinh tế của Mao là Đặng Tiểu B́nh. Đặng Tiểu B́nh là nhân vật quan trọng nhất ở Trung Quốc ngày nay v́ hai lư do. 1/Trong khi Mikhail Gorbachev nhượng bộ những người biểu t́nh và cho phép giải thể một Liên Bang Xô Viết, chính Đặng Tiểu B́nh là người đă ra lệnh quân đội Trung Quốc tàn sát những người biểu t́nh tại Thiên An Môn vào năm 1989 – để bảo vệ nhà nước Trung Cộng tàn nhẫn và áp bức. 2/Đặng Tiểu B́nh đă một ḿnh thúc đẩy nhăn hiệu chủ nghĩa tư bản trọng thương được nhà nước bao cấp, đặc trưng của nền kinh tế Trung Quốc “lợi ḿnh, hại người” ngày nay. Chính ông Đặng là người đă mở cửa những đặc khu kinh tế cho Tây Phương và cuối cùng giải phóng một lực lượng lao động khổng lồ của chính họ trên thị trường thế giới được trang bị những vũ khí hủy diệt việc làm mạnh mẽ như trợ cấp xuất khẩu phi pháp và thao túng tiền tệ. Chính đó là Trung Quốc ngày nay mà Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu B́nh đă tạo ra, tàn nhẫn với nhân dân của ḿnh và chơi bẩn với các đối tác mậu dịch trên khắp thế giới.

    Chương 14: Chết Bởi Những Chính Sách Tàn Độc Của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

    Thứ nhất là chính sách triệt sản phụ nữ. Trung Quốc là quốc gia vừa bị nhân măn, vừa đông dân nhất hành tinh. Tuy nhiên, trong nhiều cách, lối giải quyết nạn nhân măn của Trung Quốc – chính sách một con – đă tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết. Nền tảng của chính sách cưỡng chế là số tiền phạt đối với trường hợp sinh con thứ hai: số tiền phạt to lớn gần như luôn luôn vượt quá mức thu nhập hàng năm của nhiều gia đ́nh. Mức tiền phạt lớn đó có nghĩa là đa số những cặp vợ chồng nào lỡ mang thai đứa con thứ hai sẽ kiệt quệ tài chánh nếu quyết định giữ đứa con. Hậu quả không có ǵ ngạc nhiên là Trung Quốc có nhiều vụ phá thai hơn phần c̣n lại của thế giới cộng lại với gần 13 triệu mỗi năm – và đó là con số ước lượng dè dặt của chính quyền.

    Tuy nhiên, ngay cả một cặp vợ chồng có đủ tiền để trả tiền phạt hay đủ điều kiện được miễn, điều đó cũng không có nghĩa là họ có thể sinh đứa thứ hai. Các quan chức quá hăng say tại địa phương, những người mà cơ hội thăng tiến của họ phụ thuộc vào mức độ chấp hành chính sách một con, thường được biết đă cưỡng ép tập trung phụ nữ mang thai. Do chính sách một con và chuộng nam giới mà ngày nay hơn một trăm triệu đàn ông Trung Quốc không thể t́m được vợ. Những “cành cây trụi lá” này – theo cách gọi của Trung Quốc - lớn hơn số đàn ông của Nhật và Nam Hàn gộp lại hay bằng toàn bộ thanh niên của Hoa Kỳ. Hậu quả không tránh khỏi là sự gia tăng đột biến về nạn măi dâm (cùng tất cả những hệ lụy của nó), nạn nô lệ t́nh dục, buôn bán phụ nữ và ngay cả bắt cóc phụ nữ từ nước ngoài.

    Thứ hai là chính sách diệt chủng và Hán hóa. Cưỡng bức triệt sản không chỉ giới hạn đối với phụ nữ Trung Quốc muốn có đứa con thứ hai. Nó c̣n là thủ tục vận hành tiêu chuẩn tại Tây Tạng, Nội Mông và Đông Turkestan – ba vùng của cái được gọi một cách mỉa mai là tỉnh “tự trị” của Trung Quốc. Đây là bức tranh lớn hơn của chính sách diệt chủng các sắc tộc thiểu số. Ngày nay, cả ba vùng lănh thổ này đang hứng chịu một chiến dịch diệt chủng tàn nhẫn nhằm mục tiêu thay thế sắc dân bản xứ bằng sắc dân Trung Hoa gốc Hán. Điều này gọi là Hán hóa (Hanification) Tây Tạng, Nội Mông và Đông Turkestan liên quan đến tất cả mọi thứ – từ việc sắp xếp đưa vào hàng triệu sắc dân Hán và giết hại người dân địa phương hàng loạt, đến việc triệt sản người phụ nữ địa phương và lai giống của họ thông qua chính sách kết hôn với đàn ông người Hán.

    Chính sách diệt chủng bản xứ đă thành công nhất tại Nội Mông, nơi có đến 80% dân số là người Hán. Theo đảng Nhân Dân Nội Mông, để thực hiện chính sách Hán hóa này, hơn một phần tư triệu dân Mông Cổ đă bị sát hại trong khi hơn 15 triệu người Hoa được di cư đến để xóa dần nền văn hóa Nội Mông. Như đối vối Đông Turkestan – nơi được biết như là Tỉnh Tân Cương trên bản đồ của Trung Quốc – 240 ngàn dân Duy Ngô Nhĩ, đa số là phụ nữ, đă bị cưỡng bức rời khỏi quê hương của họ, theo lời điều trần trước hạ viện Hoa Kỳ của bà Rebiya Kadeer, một lănh đạo của người Duy Ngô Nhĩ bị trục xuất sang Hoa Kỳ. Đa số những người phụ nữ này đă bị ép buộc làm vợ đàn ông Hán để lai giống, trong khi nhiều người khác bị cưỡng bức làm nô lệ lao động và làm điếm rẻ tiền.

    Thứ ba là nạn nô lệ lao động. Lao động trong những nhà máy lụp xụp nóng bức là một trong những điều kiện “bán lao động – bán nô lệ” mà hàng triệu công nhân Trung Quốc phải đối mặt. Đây là điều có thực ngay cả trong các nhà máy mà bề ngoài có vẻ được đặt dưới sự chỉ huy của những công ty lớn của Hoa Kỳ như Microsoft và Walmart. Chẳng hạn, công nhân hăng Yuwei ở phía Nam thành phố Đông Quan làm việc vất vả 7 ngày 1 tuần, trong những ca làm 14 giờ mỗi ngày, và thường điều khiển những dụng cụ với các thiết bị an toàn bị cố t́nh vô hiệu hóa. Một kết quả là tốc độ sản xuất cao trông thấy; nhưng kết quả kia cũng đạt tỷ lệ cao không kém, đó là công nhân bị cắt, bị cụt tay, chân, ngón, hay bị tàn phế.

    Trong t́nh trạng lao động tồi tệ nói trên, theo sự điều nghiên của IHS Child Slave labor News th́ tỉ lệ lao động trẻ em tuổi từ 10 đến 14 tuổi ở Trung Quốc chiếm 11.6%. Rất nhiều nhà máy Trung Quốc thích nhận lao động trẻ em v́ rẻ và sẵn sàng nghe lời, nhanh nhẹn để có thể điều khiển trong những khu vực có nhiều máy móc. Ngoài những điều kiện làm việc tồi tàn, nguy hiểm và nhàm chán, công nhân Trung Quốc c̣n phải chịu đựng một áp lực khác tạo ra từ cuộc sống xa nhà hàng trăm dặm. Họ buồn v́ nhớ nhà, nhớ người thân nhưng lại không có điều kiện về thăm. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng như vậy, đă có nhiều công nhân chịu không nổi phải tự tử.

    Chương 15: Chết Bởi Những Người Ủng Hộ Trung Quốc.

    Mỗi ngày trên toàn quốc Hoa Kỳ, có một số đông người cố bênh vực và ca tụng Trung Quốc, không hề nhận thức về những điều tồi tệ mà Trung Quốc đang nhắm vào Hoa Kỳ như đánh cắp tài sản trí tuệ, đánh cắp hàng triệu việc làm của công nhân Hoa Kỳ, ráo riết tân trang vũ khí để đánh ch́m hải quân Hoa Kỳ…. Một số nhà báo, giáo sư đại học và b́nh luận gia nổi tiếng như Fareed Zakaria, James Fallows, Tom Friedman, Fred Hiatt, Nicholas Kristof, David Leonhardt và Joseph Stiglitz, là những người đứng về phía Trung Quốc để chống lại những người đang thúc đẩy những cải cách mà đáng lư đă phải làm từ lâu.

    Hiện có một liên minh gồm những đoàn thể, công ty và cá nhân liên kết một cách không chính thức để ủng hộ Trung Quốc qua 6 trường phái như sau:

    Trường Phái Phóng Khoáng: Dân Chủ Hóa và Thuần Phục Con Rồng

    Nội dung chính trong lập luận ủng hộ Trung Quốc của nhóm này là: Chúng ta phải tiếp cận con Rồng để chế ngự nó. Theo quan điểm này, tất cả những ǵ mà một Trung Quốc độc tài toàn trị thật sự cần để trở thành một Trung Quốc dân chủ là thời gian – và một liều lượng khổng lồ của thịnh vượng kinh tế. Nhóm này c̣n lập luận rằng: khi trở nên sung túc hơn, Trung Quốc sẽ trở thành như Hoa Kỳ, có nghĩa là, một nền dân chủ văn minh, biết tôn trọng tự do ngôn luận, nhân quyền, sở hữu trí tuệ, những nguyên tắc tự do mậu dịch, và giá trị thiêng liêng của các thùng phiếu. Chính những lập luận sai lầm này đang là nền tảng cho nguồn gốc của những vấn đề kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chính quyền Bill Clinton đă không ngừng sử dụng luận cứ đó trong những năm cuối thập niên 1990 để hỗ trợ cho chính sách “can dự” (engagement) với Trung Quốc và gây áp lực với các nhà lập pháp để đưa Trung Quốc vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới vào năm 2000.

    Trường Phái Bảo Thủ: Tự Do Mậu Dịch Bằng Mọi Giá

    Có lẽ những hung thủ lợi hại nhất của nhóm này là những tay tài phiệt lớn như Goldman Sachs và Morgan Staley. Họ đă thiết lập một vài chi nhánh thuộc loại nhất của Hoa Kỳ tại Trung Quốc, thường có một quan hệ khắng khít với những cán bộ Trung Quốc và muốn bảo đảm rằng không có ǵ có thể làm chao đảo chiếc thuyền chở vàng của họ. Với mục đích đó, họ đă thuê hai trong số những tay súng đánh thuê có thành tích cao nhất trong cuộc tranh luận về Trung Quốc, đó là Jim O’Neil, Chủ tịch Ban quản trị tài sản của Goldman Sachs và Stephen Roach, Cựu chủ tịch của Morgan Stanley Asia. Cũng như các biên tập viên của The Wall Street Journal, hai người luân phiên nhanh chóng chụp mũ “bảo hộ” hay “bài Trung Quốc” cho bất cứ ai t́m cách cải tổ với Trung Quốc – và cả hai được tán thưởng như những ca sĩ nhạc Rock trên báo chí của nhà nước Trung Quốc. Điểm nổi bật giữa hai tên đánh thuê nặng kư này với đám đông là cách xử dụng thông minh các lập luận kinh tế và xuyên tạc các thống kê.

    Những Người Nhân Nhượng Trong Chóp Bu Quyền Lực Tại Hoa Thịnh Đốn

    Thập niên vừa qua, trong khi Trung Quốc chế ngự nền kinh tế Hoa Kỳ, dường như nó không là vấn đề cho bất cứ ai ngồi ở Ṭa Bạch Ốc, ai điều hành Bộ Tài Chánh, hay ai chiếm đa số tại Capital Hill. Bất luận đảng chính trị nào nắm quyền lực, sự đồng thuận trong nhóm “những kẻ nhân nhượng trong chóp bu quyền lực tại Hoa Thịnh Đốn” là nên nhân nhượng hơn là đối đầu với Con Rồng. Điểm đáng ngại nhất, có lẽ là Tổng Thống Obama thực sự không hiểu những phức tạp của kinh tế vĩ mô toàn cầu và như là một phiên bản hiện đại của Neville Chamberlain, “tuyệt đối tin rằng” sự “trổi dậy” của Trung Quốc sẽ “ḥa b́nh” và “tốt cho Hoa Kỳ”. Dù cách nào đi nữa, chúng ta ở Hoa Kỳ đă không được đáp ứng tốt về những câu hỏi liên quan tới Trung Quốc từ hai chủ nhân gần đây nhất của Toà Bạch Ốc.

    Những Bậc Thầy Toàn Cầu Hóa “Thế Giới Phẳng”

    Những bậc thầy về Toàn cầu hóa là những người như Tom Friedman, Nocholas Kristof, và Fareed Zakaria viết những bài bóng bẩy ca ngợi Trung Quốc và đăng trên những tạp chí và nhật báo có uy tín quốc gia như Atlantic Monthly, The New York Times và Tuần Báo Time. Những nhân vật này có chung một nền tảng nhận định rất sai lầm rằng các công nhân và những công ty Hoa Kỳ thuê mướn họ không c̣n khả năng cạnh tranh chi phí với những quốc gia đang phát triển như Trung Quốc. Vấn đề hiện nay của Hoa Kỳ với Trung Quốc không phải là cạnh tranh về lương thấp. Các công ty và công nhân Hoa Kỳ phải vượt qua những trợ cấp xuất khẩu phi pháp của Trung Quốc, sự thao túng tiền tệ và nhiều vũ khí tiêu diệt việc làm của Trung Quốc. Nhưng các bậc thầy Toàn cầu hóa từ chối ghi nhận sự thật này và thay v́ vậy, họ khăng khăng rằng những người công nhân Hoa Kỳ không cần những công việc sản xuất bởi v́ những công việc này “dứt khoát” phải đưa sang những quốc gia như Trung Quốc.

    Những Nhóm Tư Vấn Dẫn Mối Cho Gấu Trúc

    Nhóm Tư Vấn Dẫn Mối Cho Gấu Trúc trong và ngoài Washington D.C vốn thường xuyên nhảy vào các cuộc tranh luận về Trung Quốc. Họ lên tiếng bênh vực Trung Quốc một cách rất thiển cận, thậm chí họ c̣n cố t́nh đưa ra những luận điệu tạo sự hoài nghi trong dư luận qua các dữ kiện nguỵ tạo từ chính họ. Sau đây là một danh sách không theo thứ tự gồm những nhóm tư vấn và các nhà phân tích thiếu sáng suốt và hiểu biết về Trung Quốc: Albert Kiedel của Atlantic Council.; Peter Bottelier và Doug Paal của The Carnegie Endowment; Kenneth Lieberthal, Bob Rubin và John Thornton của The Brookings Institute; Charles Freeman của Center for Strategic and International Studies (Trung Tâm Chiến Lược và Nghiên Cứu Quốc Tế); Ed Gresser của Progressive Policy Institute.

    Đoàn Hùng

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Death by China-Bài cuối
    By Vinh Phan in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 12-06-2011, 01:40 AM
  2. Death by China-Bài 2
    By Vinh Phan in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 10-06-2011, 03:37 AM
  3. Death by China
    By Vinh Phan in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 09-06-2011, 03:57 AM
  4. Replies: 2
    Last Post: 20-05-2011, 05:41 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 04-03-2011, 02:39 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •