Page 3 of 6 FirstFirst 123456 LastLast
Results 21 to 30 of 54

Thread: LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    D


    Tháng 7 năm 1962 Bộ trưởng Quốc pḥng Robert Mc Namara triệu tập cuộc họp gồm các quan chức Ngoại giao, Bộ Quốc pḥng và CIA để tranh luận về việc chuyển giao kiểm soát các hoạt động bán vũ trang ở Việt Nam từ tay CIA sang Bộ Quốc pḥng trong chương tŕnh một năm được gọi là "Chiến dịch quay trở lại". Đại tá George C. Morton, chỉ huy trưởng lực lượng yểm trợ quân sự ở Việt Nam thuộc lực lượng chiến tranh đặc biệt đă kêu gọi tăng cường sự can thiệp của lực lượng đặc biệt của Mỹ vào Việt Nam. Đại tá Morton, người đă có một quá tŕnh chỉ đạo ngầm các hoạt động ở Hy Lạp trong những năm 1950, được nh́n nhận như là "một chuyên gia về chiến tranh đặc biệt".
    Tháng 9 năm đó, nhóm đặc biệt của Hội đồng An ninh Quốc gia (5412) thông qua kiến nghị ủng hộ ư tưởng của đô đốc Felt trước đây bằng việc đưa ra một khuyến nghị về vai tṛ tác dụng của các tàu phóng ngư lôi và SEALS đối với các hoạt động ngầm chống Bắc Việt. Song những nỗ lực ấy cũng không thể tạo ra vật chất đem lại kết quả ngay tức thời, v́ thiếu tàu ngầm và lính biệt kích.
    Sự việc này dược diễn ra trong bối cảnh các hoạt động ngầm chống Bắc Việt không ngừng mở rộng. Đây là nhiệm vụ mà Hội đồng an ninh quốc gia giao cho CIA thực hiện theo chỉ thị NSCID 5412/2 để tiến hành các hoạt động bán vũ trang. Về lư thuyết nó là cơ sở để phát triển các toán gián điệp biệt kích ở trong ḷng địch, ém sẵn lực lượng chờ chiến tranh công khai và là biện pháp cần thiết cho việc mở rộng chiến tranh của Lầu Năm góc. Những kinh nghiệm này được các sĩ quan OSS đúc rút từ chiến tranh thế giới thứ hai ở Châu Âu mà có. Những người đó đang làm việc trong Bộ Quốc pḥng, Bộ Ngoại giao, CIA…
    Những kinh nghiệm đó tuy đă được áp dụng trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng thành công c̣n phụ thuộc vào một loạt các yếu tố và hoàn cảnh cụ thể mà người chỉ huy vận dụng nó. Rất nhiều người trong số họ đă trưởng thành lên từ OSS, đó cũng c̣n là những cơ sở để CIA vạch kế hoạch hoạt động sau Đại chiến thế giới thứ hai. Hiển nhiên, có ba điều khác biệt, rất cơ bản cho thấy ư niệm này khó áp dụng ở Việt Nam, đó là:
    -Thứ nhất, các toán bán vũ trang đ̣i hỏi sự hỗ trợ rộng lớn của các đồng minh chiến tranh. Ví dụ trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 các toán OSS ở Pháp và các nước bị Đức chiếm đóng chứ không phải ở chính nước Đức. Bắc Việt Nam tất nhiên không phải là nước Pháp.
    -Thứ hai, việc làm mất tác dụng của lực lượng phản gián đối phương chống lại các toán biệt kích đă đ̣i hỏi một khả năng phán đoán nhạy bén để biết bằng cách nào và khi nào các lực lượng của đối phương sẽ áp dụng. Trong chiến tranh thế giới thứ 2 việc bắt và kiểm soát các điệp viên Đức được đưa tới nước Anh, cũng như hiểu biết về các kế hoạch hiện tại và tương lai của tổ chức gián điệp đối phương, đă giúp cho việc đảm bảo thành công của các nước Đồng minh trở lại lục địa Châu Âu. Chưa có một bằng chứng xác đáng nào nói rằng điều đó đă xảy ra ở Việt Nam.
    -Thứ ba, khả năng ngăn chặn và giải mă của đối phương là vấn để mấu chốt đối với những thành công của các nước Đồng minh chống lại Đức. Ở Việt Nam kết quả quan trọng hàng đầu của hệ thống thông tin t́nh báo quân đội Mỹ gắn liền với các máy phát sóng công suất thấp của Bắc Việt đă không xảy ra cho đến tận mùa xuân năm 1961 khi bộ phận nghiên cứu về điện đài thứ 3 của quân đội Mỹ có mặt ở Sài G̣n. Vài năm sau, một sự may mắn cho phép t́nh báo Mỹ mở được những mật mă tốt nhất của Hà Nội, nhưng đồng thời cũng làm hạn chế cả khả năng của Mỹ trong việc thu thập và giải mă đối với bất kỳ một bức điện nào của Bắc Việt.
    V́ vậy, ư tưởng về một lực lượng ngầm gồm các toán gián điệp đang hoạt động chỉ có thể tồn tại trong suy nghĩ của những người ở Lầu Năm góc cho rằng họ đang tiếp quản cả mạng lưới điệp viên thực thụ. C̣n những quan chức của CIA th́ đă nhận ra rằng các toán đó đang bị vô hiệu hóa, và chính Hà Nội là những người đang kiểm soát các toán gián điệp đó. Họ đang khuyến khích Washington đưa tiếp các toán khác vào, chứng tỏ đó là một ư tưởng rất mơ hồ.
    Trần Văn Minh, một trong những người Nam Việt Nam đối lập với Gilbert Layton đă đưa ra những nguyên nhân thất bại khá cụ thể. Anh ta cho rằng, vào thời điểm đó hầu hết các sĩ quan t́nh báo Mỹ đến Việt Nam đều muốn chứng tỏ ḿnh là người có thể đảo ngược t́nh thế một cách nhanh chóng, nhưng họ lại không rnuốn đối mặt với những hậu quả tệ hại do hành động của họ gây ra. Họ muốn ngay từ đầu gây ấn tượng mạnh với cấp trên để được đánh giá tốt về năng lực và phẩm chất công tác.
    Cũng như đối với những kết quả trong hoạt động phản gián chúng tôi không có ǵ để nói về ḿnh khi mà những toán gián điệp đầu tiên tung ra miền Bắc không có kết quả. Pḥng 25 là một bộ phận phản gián của chúng tôi và họ làm rất ít việc. Họ quan tâm chủ yếu đến việc điều tra về tiểu sử của những người được tuyển vào lực lượng bí mật. Pḥng 25 có quá ít người so với lực lượng bí mật khổng lồ mà chúng tôi đang gởi đi. Mỗi người trong số họ đều cần có sự điều tra kỹ lưỡng. Bộ Nội vụ của Tổng thống Diệm đă không làm ǵ và Cục t́nh báo Quân đội cũng không làm được ǵ hơn. Cũng như đối với lực lượng cảnh sát, nhiệm vụ chính của họ là giữ ǵn trật tự xă hội mà ngày đó có bao nhiêu cuộc bạo loạn xảy ra.
    Layton thừa nhận có khả năng điệp viên của đối phương nằm trong lực lượng an ninh biên giới. Ông ta kể lại cách nh́n nhận của bản thân và kinh nghiệm của trung tâm CIA về các hoạt động "tṛ chơi" điện đài ở Lào:
    -Năm 1963, một trong các toán của chúng tôi bị bắt ở Attopeu, cực nam của Lào. Nhân viên điện đài của toán đó chuyển đi một bức điện báo động cho chúng tôi biết rằng anh ta đang bị bắt buộc phải truyền tin dưới sự kiểm soát của đối phương. Những người bắt anh ta là bộ đội giải phóng Lào và các cố vấn Bắc Việt đă táo bạo bắt nhân viên điện đài đó yêu cầu chúng tôi cung cấp đủ lương thực cho cỡ một tiểu đoàn, gấp mười lần số lương thực mà toán đó cần. Điều đó đă giúp chúng tôi xác định ở đó có khoảng một tiểu đoàn. Chúng tôi đă báo cho nhân viên điện đài biết chúng tôi sẽ đến cứu họ. Chúng tôi liền cho máy bay bắn phá vào vị trí mà đối phương đóng quân, và kết quả là toán đó đă trốn thoát đến sân bay Attopeu.
    Ông đại sứ Mỹ ở Viên Chăn tỏ ra khó chịu về việc toán biệt kích bị phát hiện, bởi v́ chúng tôi không được phép có mặt ở Lào-sau khi ranh giới Harriman (Harriman line) có hiệu lực vào mùa thu 1962 sau hoà ước Giơneve về Lào được kư kết.
    Trong cơ quan của tôi và phần lớn các cơ sở của cục t́nh báo đều phải giả định đă có người của đối phương xâm nhập (trong các đối tác người Nam Việt Nam). Điều này có thể đúng trong hầu hết các trường hợp. Khi tôi bắt đầu tuyển một nhân viên, có người nói: ông không sợ trong số họ có Việt cộng cài vào mà ông phải trả công cho họ à? Tôi nói rằng có khoảng 10%, nhưng tính ra th́ người của chúng tôi đông hơn họ: chín chọi một cơ mà. Người ta giải quyết khả năng này bằng cách kiểm tra các toán biệt kích: họ chỉ được biết những ǵ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, động viên họ để nếu cần xả thân thực hiện nhiệm vụ mà thôi.
    Layton thừa nhận rằng hiệu quả của một chương tŕnh bán quân sự sẽ trở thành vô nghĩa nếu mức độ xâm nhập của đối phương cao hơn nhiều so với dự tính. Về sự có mặt của các chuyên gia phản gián ở cơ quan CIA, Layton b́nh luận: “T́m đâu ra những người như vậy? Chúng tôi được sự giúp đỡ cần thiết đúng lúc, thực ra th́ cũng có vài người nhưng không giúp ǵ được nhiều”.
    Dẫu cho trong thực tế có thể không bị xâm nhập đi nữa th́ cũng cần phải giả định là có thể bị xâm nhập và phải tiến hành chống xâm nhập. Đó là phương thức duy nhất có thể làm. Bởi v́ đối phương cũng thành thạo như chúng ta thậm chí họ c̣n thành thạo, khôn khéo hơn chúng ta nhiều lần. Ed Regan nói về giai đoạn chuyển tiếp này theo khía cạnh tác chiến như sau:
    - Cơ quan CIA chúng ta vừa làm việc với lực lượng t́nh báo bí mật của ông Diệm lại vừa cố gắng giám sát những kẻ muốn loại bỏ ông Diệm… Năm 1962 sự việc đă trở nên căng thẳng. Ông Diệm bắt đầu kiểm soát các sĩ quan của chúng ta và những mối liên hệ của họ với phái đối lập với ông Diệm… Trên cương vị Tổng thống, ông Diệm không chỉ chống lại Cộng sản và phật tử, mà c̣n phải tranh đấu với các phe phái chính trị khác như Đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc dân Đảng nữa.
    Ví dụ như Lou Conein có những mối quan hệ với các nhóm như Việt Nam Quốc dân Đảng và thông qua Vọng A Sáng, một chỉ huy cũ của lực lượng người Nùng ở vùng Đông Bắc của Bắc Việt, biết rằng mạng lưới cũ của Sáng đă hoàn toàn bi phá vỡ. Từ những mối liên hệ của chúng tôi với Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt, chúng tôi đề nghị Tổng thống Diệm đưa một số người của Đại Việt ra miền Bắc để xác định xem lực lượng nào c̣n hoạt động ở đó. Đại uư Ngô Thế Linh, sĩ quan phụ trách các hoạt động ở phía Bắc của đại tá Tung có vẻ như nắm được các vấn đề đă cừ một số điệp viên cùng đi với các điệp viên Đại Việt của chúng tôi. Sau đó thông qua nhân viên điện đài chúng tôi được biết rằng Linh đă phân công một điệp viên vào trong nhóm chủ yếu là để theo dơi hoạt động của CIA và Đại Việt. Nhóm đó trong thực tế đă không bao giờ được đưa ra miền Bắc…
    Một lần nữa với sự hỗ trợ của Washington để mở rộng hoạt động trên tuyến đường sắt mà chúng tôi đă nêu ra, khoảng cuối năm 1962 Tucker Gougelmann, chỉ huy trưởng căn cứ ở Đà Nẵng, và Cart Jenkins, sĩ quan trù bị của chúng tôi tại trung tâm huấn luyện Hoàng Hoa Thám, đă được bổ sung.
    Russ Miller đă ra đi vào mùa xuân 1962 và W.T.Cheney, một người Châu Âu, đến thay. Tôi biết ông ta là một sĩ quan xuất sắc trong những công việc được giao trước đây, nhưng ông ta lại quá thiên về Châu Âu và không hiểu được phải làm thế nào để gần người châu Á. Lúc đó Bill Colby đang ở Tổng hành dinh và ông ta đă bắt đầu luân chuyển các sĩ quan đến khu vực Đông Nam Châu Á để mở rộng kinh nghiệm của họ. Đến bây giờ các hoạt động bán vũ trang đă bộc lộ rơ rằng nó đă bị đối phương xâm nhập vào nhiều hơn là chúng tôi nghĩ. Không một ai trong chúng tôi thuộc lực lượng bí mật đă báo cáo hết những điều mà lẽ ra phải báo cáo các hoạt động xâm nhập đó cho Lầu Năm Góc như chúng tôi đă biết. Đó là một tội lỗi.
    Sự cần thiết của cơ quan CIA trong việc theo dơi các lực lượng đối lập với Diệm dẫn đến việc mùa xuân 1962 tôi gặp gỡ một số toán trên và kéo tôi ra khỏi các hoạt động bán vũ trang, trừ việc đi Đà Nẵng để đánh ra Bắc. Larry Jackson lưu lại thêm một thời gian, sau đó ông ta chuyển về Long Thành làm chỉ đạo viên kỹ thuật khi căn cứ này mở cửa lần đầu tiên vào mùa xuân năm đó. Phải giải quyết thế nào trước một thực tế là tất cả các nhóm phái đi đều bị bắt, và một số trong đó đă hợp tác với Bắc Việt?
    Regan đă nêu một câu hỏi mà dường như không có câu trả lời:
    -Sẽ có lư nếu như đặt câu hỏi phải chăng tổn thất này là ngẫu nhiên hay do đă có sự tính toán trước? Xin nhớ rằng các sắc tộc thiểu số là mối đe doạ lớn đối với Diệm, bởi v́ họ đang đấu tranh dể giành quyền tự quyết và chúng ta đă có những người trong lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ cùng làm việc với họ. Vậy sẽ đem lại quyền lợi cho ai nếu như tất cả họ bị bắt? Tất nhiên là cho Diệm. Nó sẽ là một sự suy đoán khi nói rằng chúng đă được thoả thuận một cách có tính toán.
    Nếu như các sĩ quan CIA ở Sài G̣n không phát hiện ra sự xâm nhập của Hà Nội, th́ câu hỏi ở đây là tại sao? William R. Johnson nguyên trưởng trung tâm CIA ở Viễn Đông đă đưa ra lời nhận xét sau:
    - Các hoạt động của cơ quan t́nh báo được đưa ra tranh luận ở đây thực sự không có sự kết hợp với bất kỳ công tác phản gián nào và không được phối hợp với bất cứ hoạt động phản gián nào đang được tiến hành ở các bộ phận trong cơ quan t́nh báo hoặc của các bộ phận khác trong chính phủ…
    Không có hoạt động phản gián nào để đảm bảo an ninh kể cả các hoạt động chống lại Bắc Việt. Vấn đề an ninh không được coi trọng của trung tâm, hoặc việc xâm nhập của chính phủ Nam Việt Nam. Vào khoảng năm 1965, khi John Hart tiếp nhận trung tâm ở Sài G̣n, ông ta nói với tôi rằng ở đó không có hoạt động phản gián rơ nét-chỉ là "hữu danh vô thực" mà thôi.
    Bill Johnson quy kết cho William Colby như là nguyên nhân của vấn đề và miêu tả những khía cạnh hoạt động rời rạc của CIA đang được chuyển giao cho Lầu Năm góc.
    Sự thật là các trung tâm và các sĩ quan của chúng ta ở Viễn Đông với các bộ phận nghiên cứu ở Washington đă thổi phồng kết quả việc tuyển lựa bằng bất cứ phương tiện nào, bao gồm các hoạt động tiếp xúc và các điệp viên là những người điều hành được tài trợ với những động cơ chính trị hơn là đă tuyển chọn một cách giấu giếm và kiểm soát sự xâm nhập vào các mục tiêu của đối phương. Việc đảm bảo an ninh cho hoạt động t́nh báo mang tính máy móc như tin tưởng vào các điệp viên có triển vọng, dựa vào kiểm tra tên tuổi của họ qua quá tŕnh hoạt động, thậm chí sử dụng máy kiểm tra nói dối ở địa bàn châu Á là hoàn toàn không thích hợp.
    Russess Holmes, nguyên sỹ quan phản gián của CIA, lặp lại những quan điểm tương tự về giai đoạn này:
    - Việt Nam không được nh́n nhận như là một sự đe doạ ở mức độ cao về mặt phản gián vào thời điểm đó. Phần lớn những ǵ chúng ta biết về Cộng sản Việt Nam là thông qua người Pháp trong đó có rất ít điều đáng được quan tâm về phản gián thực sự. Dù sao th́ cuối cùng Đông Dương vẫn là của họ.
    Liệu có phải các hoạt động của chúng ta đă bị xâm nhập trong suốt cả giai đoạn đó không? Rơ ràng là có. Tại sao? Sự thất bại mới chỉ nhấn mạnh đối với công tác phản gián ở khía cạnh hoạt động bí mật. Sự bất đồng giữa các lực lượng ủng hộ công tác phản gián và chống đối nó mới là mâu thuẫn có tính đối địch trong các hoạt động của CIA ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng các sĩ quan ở pḥng Viễn đông không sốt sắng ǵ trong việc áp dụng các biện pháp chuẩn mực về phản gián. Bởi lẽ những người lănh đạo ở đây thực sự đă không quan tâm tới hoạt động phản gián.
    Căn cứ vào thông tin do các điệp viên bán vũ trang (người Việt) cung cấp chúng ta đă tung các toán gián điệp ra miền Bắc vào đầu những năm 1960. Đây là hoạt động chính của pḥng Viễn Đông dưới thời William Colby và thực sự đă bị những người cộng sản phát hiện ngay khi mới bắt đầu. Điều muốn nói là họ đă xâm nhập cả vào miền Nam mà chúng ta không hay biết hoặc vẫn làm ngơ nên phải gánh chịu hậu quả.
    Các toán được đánh ra miền Bắc năm 1962 phần lớn là người dân tộc thiểu số được tuyển lựa từ quân đội Nam Việt Nam năm 1961. Số này được tuyển chọn trong nhiều nguồn: họ là những người vượt tuyến từ Bắc vào, những người di cư, những người trước đây sống ở miền Bắc rồi sang sinh sống ở Lào… Tuy nhiên lực lượng để tuyển chọn ngày càng khó kiếm những người tự nguyện tham gia vào các hoạt động xâm nhập của miền Nam chưa kể đến các hoạt động mở rộng qua biên giới sang Lào.
    Một điệp viên cũ đă nói về giai đoạn này như sau:
    -Tôi không cho rằng không có toán biệt kích nào thành công cả. Thực tế có những toán đă xâm nhập vào và rút ra an toàn, nhưng đó chỉ là những toán có nhiệm vụ hoạt động chớp nhoáng gây rối ở phía Bắc khu vực phi quân sự. C̣n hoạt động trên phạm vi rộng và trong thời gian dài ở các vùng xa th́ hầu như hoàn toàn thất bại. Cũng tương tự như các hoạt động gián điệp. Điều đó thật có ư nghĩa nếu như người ta chịu suy nghĩ nghiêm túc về nó. Những toán đó thực sự đáng lo ngại nhất v́ dễ dàng bị loại khỏi ṿng chiến. C̣n những toán khác không cùng chịu chung số phận th́ lại bị bỏ rơi.
    Trần Quốc Hùng một điệp viên cũ cũng nói rơ ư kiến của ḿnh về giai đoạn đó. Khoá đào tạo của anh ta gồm một số môn cơ bản chung, một phần nghe về học thuyết của Đảng Cần lao. Anh ta không được đào tạo về các hoạt động dành riêng đối với miền Bắc. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của anh ta là xâm nhập vào hàng ngũ sinh viên ở Sài G̣n và thu thập thông tin về các hoạt động chống chính quyền Diệm. Từ việc huấn luyện này và qua các hoạt động gián điệp ở Nam Việt Nam, Hùng đă biết rằng tổ chức của bác sĩ Tuyến đă tiến hành công tác t́nh báo chính trị nội bộ song song với hoạt động t́nh báo đối ngoại. Hùng đă kể lại việc xâm nhập của anh ta ở miền Bắc:
    -Năm 1962, tôi được chiếc tàu xâm nhập đưa ra miền Bắc . Tôi rời Đà Nẵng và được đưa vào bờ tại tỉnh Hà Tĩnh. Đây là sai với địa điểm định đổ bộ và nơi cần đến. Sau đó tôi ra Hà Nội, tôi luôn lo sợ rằng họ đă biết sự xuất hiện của tôi. Tôi có ấn tượng dễ bị lộ và có cảm giác bị theo dơi ngay từ khi tới Hà Nội. Tôi không biết v́ sao họ lại biết được tôi, nhưng có một cái ǵ đó như là một sự sắp đặt sẵn ở mọi nơi hoặc có kẻ nào đó đă bán đứng chúng tôi giúp cho họ phát hiện được tôi một cách rất nhanh chóng. Họ theo dơi ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên với những linh mục tại một nhà thờ, v́ họ đă từng làm cho Pháp trước 1955.
    Willíam Colby, trưởng trung tâm CIA ở thời điểm Hùng được đánh ra miền Bắc đă lập luận rằng: trung tâm CIA ở Sài G̣n đánh giá thấp về khả năng thực tế của những hoạt động đó. Colby giải thích thêm:
    -Tôi không biết người Pháp chuyển giao họ thế nào nhưng nếu quả như vậy th́ một số người Việt Nam có thể nghi ngờ đối với người Pháp, bởi v́ họ bị choáng váng về người Pháp. Họ tin rằng người Pháp đang tiến hành một số chính sách ở đó, nhất là Ngô Đ́nh Nhu. Ông ta thường t́m kiếm sự vận động của người Pháp trong một số sự việc. Tất nhiên là ông Diệm rất trung thành với đạo Thiên chúa cùng các linh mục, và tin tưởng rằng có thể dựa vào họ được. Đó là phép thử của ông ta. Và như là kết quả của một số linh mục trong việc tổ chức các nhóm tự vệ thuộc cộng đồng của họ. Điều đó dường như rất có khả năng là người của Diệm sẽ liên hệ với các linh mục Thiên chúa ở ngoài ấy bởi họ có một niềm tin nhất định. Và những người Thiên chúa giáo vẫn bị coi là không được tin cậy dưới chế độ Cộng sản ở Bắc Việt.
    Khi được hỏi rằng liệu ngoài đó c̣n những cơ sở của người Pháp vẫn có tác dụng sau 1955 không? Colby đă nhấn mạnh thêm:
    -Tôi nghĩ rằng các việc chúng ta đă tiến hành ở miền Bắc đều đă bị tiêu tan. Tôi không muốn nhắc lại là chúng ta đă có bao nhiêu đầu mối ở ngoài ấy. Tôi hoàn toàn tin rằng chúng ta đă không làm được điều đó. Chúng ta có thể có một số ư kiến về sự đồng cảm nếu các bạn đến đấy và tiếp xúc với họ. Điều đó lẽ ra đă không c̣n tồn tại trong cộng đồng những người di cư và mối liên hệ của Diệm đối với cộng đồng Thiên chúa Giáo.
    Hùng đă không tán thành. Theo Hùng th́ người Mỹ đă đào tạo cho anh về hoạt động t́nh báo và dựng nên những câu chuyện ngụy trang để sử dụng khi anh ta đến gặp các linh mục ở Hà Nội. Người Mỹ đă chỉ dẫn cho anh ta từng trường hợp một, trong khi người Việt Nam chỉ có nhiệm vụ dịch lại cho anh ta nghe. Hùng nói tiếp:
    - Tôi nắm rơ về địa bàn xâm nhập như trong ḷng bàn tay. Qua các chuyến bay trinh sát, các sĩ quan huấn luyện CIA đă treo đầy cả bức tường với các tấm ảnh chụp từ trên không về địa điểm tôi sẽ đổ bộ tới Hà Nội. Chi tiết đến mức không thể tưởng tượng được! Tôi không biết bằng cách nào họ có thể chụp được những tấm ảnh như vậy, nhưng rơ ràng những tấm ảnh ấy là có thực và chi tiết đến mức có thể đếm được từng người ở trên tàu.
    H́nh như các điệp viên của chúng tôi đă bị đón lơng trước khi họ được tung vào miền Bắc. Họ luôn luôn được những người ở trên đất liền chờ đón. Nếu có điệp viên nào đó đă vào ra trót lọt th́ ta có thể đặt câu hỏi là liệu đó có phải là họ không cần phải làm ǵ nữa không, v́ đă biết rất rơ mọi điều rồi.
    Những người theo đạo Thiên chúa đă thổi phồng lên rằng hệ thống nhà tù của Hà Nội vào những năm 1962 đă giam giữ nhiều người được gọi là lợi dụng đạo Thiên chúa. Một cựu tù nhân đă từng bị giam giữ miêu tả bầu không khí ngột ngạt lúc đó và vai tṛ của ông ta trong việc tạo nên bầu không khí đó. Ông ta ngồi khom lưng nh́n ra một phía và cao giọng kể lể: "Tất nhiên là các anh đúng. Quả thật lúc ấy tôi có mặt ở đó. Đây là một cơn ác mộng. Các anh phải có mặt ở đó th́ mới hiểu hết được”, giọng anh ta vang xa trong khi anh ta ngồi ở mép giường, đôi tay ôm lấy ngực.
    Tên của tôi đă có sẵn ở trong danh sách. Tôi bị bắt năm 1955 khi tôi cố gắng vượt qua sông Bến Hải. Họ đă biết rơ tiểu sử của tôi. Không phải chỉ là tôi đă không gắn bó với Nhà nước nên đă bỏ trốn mà c̣n v́ tôi là một linh mục mới vào nghề. Điều đó đă làm cho tôi tự nhiên trở thành kẻ thù của Đảng. Các cán bộ an ninh nhà nước từ Bộ Công an ở Hà Nội đă đến gặp tôi vào năm 1960. Tôi trở lại Hà Nội sau ba năm học tập cải tạo về tội trốn vào Nam. Họ biết tôi có dính líu tới các hoạt động Thiên chúa giáo ở Hà Nội. Họ có thể bắt giam tôi bất cứ lúc nào. Nhưng họ lại ban ơn cho tôi. Họ nói rằng họ chỉ muốn t́m ra ai là kẻ chủ mưu gây rối thôi. Họ nói có những "lực lượng thù địch nước ngoài" đang cố gắng gây hại. Đấy tất nhiên là những phần tử tội phạm đang muốn lợi dụng sự mất ổn định. Họ có nhiều lư do để chứng minh điều ấy. Họ chỉ cần tôi theo dơi sát những ǵ đang xẩy ra. V́ vậy tôi đă làm việc cho họ.
    Hàng tháng tôi có một cuộc gặp gỡ với cán bộ an ninh Nhà nước thuộc bộ phận an ninh của Hà Nội, bộ phận chuyên trách theo dơi các nhà thờ Thiên chúa giáo. Chúng tôi gặp nhau trong một khách sạn đối diện cửa ra vào phía Đông cửa ga Hà Nội. Các cuộc gặp gỡ của chúng tôi thường ngắn gọn. Tôi nói cho họ biết tôi đă đi đâu, gặp ai, các linh mục đang làm ǵ, những người dân xứ đạo làm ǵ và nói ǵ.
    Sự việc đó diễn ra cho đến năm 1962. Khi Sở công an Hà Nội đă bắt hầu hết các linh mục, tu sĩ theo sắc lệnh tập trung cải tạo. C̣n những người chưa bị bắt th́ tiếp tục bị giám sát. Tôi nói với cán bộ an ninh người mà tôi đă từng tiếp xúc rằng tôi không thể tiếp tục làm việc cho ông ta được nữa. ông ta chỉ mỉm cười và nói rằng tôi sẽ thay đổi ư nghĩ đó. Vài tuần sau họ trở lại gơ cửa pḥng tôi trước khi trời sáng. Họ gồm vài nhân viên cảnh sát, một quan chức địa phương. Tôi bị c̣ng tay và họ kéo tôi ra giữa một ngơ hẹp, họ đọc cho tôi nghe một bản án. Bản tuyên án đó nói rằng tôi bị phát hiện là có tham gia vào các hoạt động phá rối trật tự xă hội và bị bắt giam tại nhà giam của Sở Công an Hà Nội để thực hiện sắc lệnh tập trung cải tạo.
    Tôi rất bực ḿnh! Tôi đă cộng tác với họ hơn hai năm và để rồi bị bắt. Những điều tôi làm cho họ là không đáng kể. Thật không có ǵ đáng kể. Tôi muốn nói rằng việc báo cáo tin cho họ chưa làm cho ai bị chết cả.
    Giọng của ông ta trầm xuống và im lặng, đôi tay ôm lấy ngang người rồi duỗi ra phía trước, đưa về phía sau như là làm động tác thư giăn. Ông ta nói tiếp sau một hồi suy nghĩ: lệnh bắt tôi không ghi rơ thời hạn giam giữ. Sau đó tôi được biết rơ là 3 năm. Đúng là một tṛ cười. Tôi đă phải lao động khổ cực ở trong tù 15 năm, phần lớn là ở Phong Quang và Tuyên Quang. Tôi ra khỏi tù năm 1977 khi họ bắt đầu trả tự do cho một số linh mục.
    Tôi hỏi ông ta: “Ông c̣n nhớ những ǵ về 15 năm đó không?".
    "Nhớ?". Ông ta ngừng một lúc. "Nhớ ǵ à? Sự đau đớn..."
    Một tháng trước ngày toán REMUS nhảy dù xuống khu vực biên giới Lào-Bắc Việt Nam, toán TOURBILLON được tập trung tại Sài G̣n để chuẩn bị cho nhiệm vụ của toán xâm nhập vào tỉnh Sơn La, về phía đông của toán REMUS. Đại uư Triết đă gặp riêng Vàng A Giong, nhân viên điện đài của toán TOURBILLON để hướng dẫn anh ta việc sử dụng điện đài và giao cho anh ta bộ mă của toán.
    Giong nhận thấy bộ mă này cùng dạng với loại mà anh ta đă sử dụng nhiều năm trước đây, đó là loại mă một tầng. Đồng thời anh ta cũng được giao một tín hiệu nhận diện cá nhân, một nhóm năm chữ số, và được chỉ định đưa vào nhóm thứ ba của bức điện. Điều đó sẽ giúp cho Sài G̣n xác nhận được rằng đúng anh ta là người đang đánh bức điện đó.
    Đại uư Triết yêu cầu: "Không được ghi lại bất cứ cái ǵ. Anh phải nhớ lấy". Đêm hôm ấy Giong đă ghi lại tín hiệu riêng đó ở ngoài b́a cuốn sổ hướng dẫn sử dụng tín hiệu.
    Mấy năm sau, Giong giải thích:
    -Các ông phải hiểu cho tôi. Tôi sợ sẽ quên mất… nếu điều đó xảy ra , tôi biết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ được tiếp tế bởi v́ tôi không thể chứng minh rằng tôi đang phát đi những bức điện. Tôi không tin vào trí nhớ của tôi. V́ vậy tôi đă ghi lại, chính điều đó đă làm hại tôi và tôi đành để cho điều có hại đó tiếp tục diễn ra.
    Tôi tham gia quân đội năm 1960 và được chỉ định vào nhóm quan sát đầu tiên ở Nha Trang. Đó là thời gian đại tá Trần Khắc Kinh (phó của đại tá Tung) bắt đầu đưa các toán xâm nhập vào Lào hợp tác với người H'mông dưới sự chỉ đạo của Vàng Pao. Trong đó có 10 toán của chúng tôi, mỗi toán 15 người. Tôi là nhân viên điện đài của toán số 9. Khoảng năm 1961 tôi đă đánh đi 5 bức điện qua biên giới…
    Vào năm 1962 tôi được chuyển về Sài G̣n và tham gia vào toán TOURBILLON làm nhân viên điện đài. Tôi học một khoá huấn luyện một tháng, chủ yếu là gài ḿn và chiến thuật.
    Ngô Thế Linh tập hợp chúng tôi lại và nói là chúng tôi sẽ xâm nhập vào tỉnh Sơn La, Bắc Việt Nam. Ông ta giải thích rằng họ đă đưa một toán vào Sơn La năm 1961. Toán đó có tên gọi là CASTER. Toán CASTER đă báo cáo về Sài G̣n là đă đến nơi an toàn và trụ vững được. Trong năm đầu họ đă phát triển được cơ sở và tuyển chọn được nhiều người làm việc cho họ. Nhưng dù sao th́ toán của họ cũng không đủ sức để phát triển cơ sở và huấn luyện cho nên phải điện về Sài G̣n yêu cầu giúp đỡ. Nhiệm vụ của toán chúng tôi là tăng cường cho toán CASTER và huấn luyện cho họ. Đồng thời chúng tôi tiến hành việc trinh sát dọc theo tuyến đường 41 (con đường mà sau này họ đổi tên là đường số 6 chạy từ Sơn La đến Sầm Nưa của Lào) kiêm cả nhiệm vụ phá huỷ 17 chiếc cầu dọc theo đường 6 sau khi chúng tôi đến nơi hoạt động. Tôi không hiểu tại sao họ lại muốn chúng tôi thực hiện một phần nhiệm vụ đó.
    Ông Linh nói với chúng tôi rằng không có ǵ đáng ngại. Toán CASTER đang đợi chúng tôi và mọi thứ đều an toàn. Chúng tôi không được biết ǵ hơn về lực lượng của đối phương ở đó và cũng không có ai nói rơ là chúng tôi phải làm ǵ nếu bị bắt. Ông Linh và sĩ quan điện đài của toán Pang chỉ nói rằng không có ǵ phải lo. Toán CASTER đang ở đó, toán CASTER vẫn an toàn, và toán CASTER sẽ bảo vệ cho chúng tôi.
    Bây giờ, nh́n lại những ǵ đă xảy ra 32 năm trước đây và những ǵ đang xảy ra thật rơ ràng rằng không một ai ở Tổng hành dinh có ư kiến ǵ về việc chúng tôi phải đương đầu với miền Bắc. Tôi cho rằng chúng ta không có hoạt động t́nh báo thật sự ở ngoài Bắc và chúng ta cũng giống như toán CASTER, thậm chí đă dựa vào những tấm bản đồ cũ kỹ mà người Pháp đă sử dụng trước 1954. Vào năm 1962, mọi thứ đă thay đổi cả rồi. Nhược điểm lớn nhất là không một ai hiểu rơ được kết quả công tác phản gián của Bắc Việt Nam.
    Last edited by alamit; 21-10-2012 at 01:29 AM.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    E





    Ngày 16 tháng 5 năm 1962, chúng tôi đă bay đến đó trên một chiếc máy bay vận tải của Mỹ với phi hành đoàn người Đài Loan. Chúng tôi nhảy dù vào khoảng nửa đêm và phát hiện thấy có người đang đợi dưới mặt đất. Nhưng không phải là toán CASTER đón chúng tôi, mà là những người miền Bắc Việt Nam.
    Nhưng người miền Bắc đă bao vây xung quanh chúng tôi khi vừa tiếp đất, một vài người trong số chúng tôi đă kịp chạy trốn nhưng chỉ được một vài ngày. Tôi tính sẽ huỷ quyển mật mă nhưng tôi biết rằng nếu làm như vậy sẽ không thể liên lạc được với bất cứ ai. Sau đó họ bắt được tôi và phát hiện ra tài liệu tôi mang theo. Đó là lư do tại sao họ biết được tín hiệu riêng của tôi.
    Tại sao tôi lại cộng tác với họ? Họ đă cố gắng làm cho tôi nghĩ rằng tất cả như vậy đă kết thúc. Và tôi đă phải chọn lựa giữa việc cộng tác với họ để sống sót hoặc là bị thủ tiêu kể cả toán CASTER. V́ vậy tôi phải nhận cộng tác với họ và cho điện đài tiếp tục hoạt động. Đây là cách duy nhất mà tôi có thể thoát chết. Nó cũng chính là suy nghĩ của tôi lúc đó. Mừời một ngày sau khi chúng tôi nhảy dù, tôi đă chuyển bức điện đầu tiên về Sài G̣n. Tất nhiên đó không phải là bức điện thực của chúng tôi mà là những điều Hà Nội muốn điện cho Sài G̣n.
    Tôi ở đó sử dụng điện đài trong hai nămtrước khi toán COOTS đến thay thế. Đó là lúc tôi được đưa về trại giam Thanh Tŕ-nơi họ giam giữ các toán bị bắt.
    Trong hai năm ở Sơn La. Tôi bị giam giữ trong một nhà giam của tỉnh. Đến giờ chuyển điện đi, tôi được đưa đến một làng hẻo lánh ở trên núi là nơi tôi phát điện đi báo cho Sài G̣n biết rằng chúng tôi đang hoạt động. Một tay tôi được tự do c̣n tay kia bị khoá vào một thứ ǵ đó ở xung quanh. Tôi là một nhân viên điện đài giỏi khi tôi mới ra miền Bắc, thường th́ tôi phát điện đi rất nhanh. Nhưng sức khoẻ của tôi sút kém đến nỗi mà tôi chuyển điện đi quá chậm, điều đó làm cho Sài G̣n lo ngại. Tôi đoán rằng họ chẳng thể kiểm tra lại điều đó.
    Các cán bộ phản gián của Bộ Công an rất tử tế. Họ chỉ cần một người ở đó quản lư tôi, lắng nghe mọi thứ tôi chuyển đi và đó là điều mà ai cũng có thể hiểu được. Thậm chí nếu Sài G̣n phát hiện được Bắc Việt Nam đă bắt được chúng tôi th́ họ sẽ không bao giờ nghe được một điều ǵ cả. Xin để cho tôi được giải thích:
    Sài G̣n chuyển một bức điện ra, nhưng chúng tôi không bao giờ phải trả lời ngay lập tức. Sau phiên phát chuyển điện, tôi được đưa trở lại pḥng giam và cán bộ quản lư tôi sẽ đi về Hà Nội. Họ giải mă bức điện và vạch ra điều mà họ sẽ làm trong đợt tới. Sau khi tôi bị bắt, tôi chưa bao giờ được tiếp cận quyển mật mă của tôi; họ giữ tất cả và tôi chỉ là người thu phát những bức điện chuẩn bị sẵn. Khi trả lời những bức điện nhận được theo yêu cầu của Sài G̣n, viên sĩ quan đó đến và đưa tôi ra khỏi nhà tù tới nơi phát điện đi. Tôi đợi cho đến giờ mở máy và tới lúc ấy mới được cho biết mật mă của bức điện để chuyển đi. Khi kết thúc phiên làm việc tôi lại trở về nhà giam.
    Các ông biết đấy, nếu tôi chuyển một bức điện trả lời ngay lập tức th́ sự việc sẽ khác đi, nhưng mọi việc lại được tiến hành quá chậm chạp nên cán bộ cục phản gián của Bộ Công an có thừa thời gian để vạch kế hoạch trả lời. Hiển nhiên là những người canh giữ tôi không có quyền đưa ra những quyết định. Họ phải về Hà Nội để nhận chỉ thị và họ không cần phải sử dụng điện đài. Họ dùng xe tải để đi lại. Sự việc đó diễn ra trong ṿng hai năm và chúng tôi chưa bao giờ được tiếp tế trong suốt thời gian đó. Khi tôi nghĩ lại việc này, đó là một việc làm thật khó chịu. Nếu có ai đó hỏi rằng chúng tôi phải làm một điều ǵ đó ngay lập tức, chuyển và nhận nhiều bức đi và đến thường xuyên hơn th́ sẽ là những rắc rối cho họ. Tôi không biết Sài G̣n nghĩ ǵ và tại sao họ lại không nghĩ rằng thực tế Hà Nội đang điều khiển chúng tôi. Các ông hiểu cho, thậm chí nếu chúng tôi đổ bộ an toàn và không bị bắt th́ tôi tin rằng rồi họ cũng sẽ phát hiện ra thôi. Bởi v́ chúng tôi dùng bộ mă của quân đội Nam Việt Nam nên bất cứ một nhân viên điện đài nào của Bắc Việt thu được họ cũng sẽ biết ngay đó là máy phát sóng của đối phương. Nhưng Ngô Thế Linh lại nói với tôi rằng khi tôi phát điện đi th́ người ta sẽ thu được bởi v́ nó cùng tần số với hạm đội 7 của Mỹ, các nhân viên t́nh báo ở Nhật Bản và Philipin giám sát. Hà Nội chắc chắn cũng chẳng xa lạ ǵ.
    Cuối năm 1962 toán TOURBILLON báo cáo đă thực hiện việc phá cầu vào ngày 24/9 và vào ngày 9/12. Toán ARES báo cáo đă tuyển chọn thêm 6 điệp viên. Các cuộc tấn công của toán TOURBILLON chưa hề xảy ra nhưng họ định tạo ra một ấn tượng là toán đó thực hiện một cách năng động nhiệm vụ của ḿnh. Đối với các điệp viên của toán ARES đây là một sự sáng tạo của họ từ Hà Nội.
    Ngày 28/6, thuỷ thủ đoàn NAUTILUS 2 đă rời Đà Nẵng để thực hiện một cuộc tấn công chớp nhoáng do những người nhái tiến hành tấn công vào những chiếc tàu tuần tiễu thả neo ở cửa sông Gianh. Đến địa điểm hành động, những người nhái nhanh chóng lặn xuống nước, nhưng một trong những thiết bị phá nổ của họ bị nổ sớm, giết chết một người nhái. Vụ nổ đă trực tiếp báo động cho lực lượng an ninh địa phương. Họ đă đuổi theo thuỷ thủ đoàn N2 và đánh đắm chiếc tàu trước khi toán N2 kịp đưa tàu của ḿnh quay trở lại vĩ tuyến 17. Các sĩ quan CIA ở Đà Nẵng đă giám sát những sự kiện đó nhưng không thể hỗ trợ được ǵ. Hai người nhái thoát chết và bị bắt, trong đó có Lê Văn Kinh chỉ huy của N2. Ngoài số thuỷ thủ đoàn của toán N2 bị bắt c̣n có một người nhái khác được cử từ Đà Nẵng ra vào ngày hôm sau mới phát hiện thấy c̣n sống ở ngoài khơi.
    Một toán gồm 7 người được gọi là toán LYRE, đă đổ bộ vào Hà Tĩnh vào trong tháng 12. Toán này đă hai lần cố gắng nhảy dù xuống, nhưng chiếc máy bay vận tải Đài Loan đă phải bay lượn măi v́ súng pḥng không bắn gắt gao. Nhiệm vụ của toán LYRE là thực hiện trinh sát trạm ra đa ở Đèo Ngang và tiêu diệt trạm ra đa này cũng như những kho chứa lương thực ở địa phương.
    Trong bức điện đầu tiên gửi về Sài G̣n Nguyễn Quy tổ trưởng điện đài của toán đă báo cáo họ đến nơi aa toàn. Nhưng anh ta báo cho biết rằng khu vực đó không an toàn và yêu cầu được chuyển đến khu vực khác. Sài G̣n trả lời là phải giữ nguyên vị trí và đợi lệnh. Trong những ngày đó, toán này đă bị hai đơn vị an ninh địa phương bao vây chặt.
    Hài thành viên trong toán LYRE, Trần Nghiêm và Nguyễn Ly bị chết trong một trận đánh nhau ác liệt. Các thành viên c̣n lại của toán đă bị bắt khi họ cố gắng chạy trốn về phía Nam Quảng B́nh. Toán trưởng Lê Khoan bị xử tử sau vụ bắt đó như là một sự trả đũa v́ những thiệt hại của phía bên kia.
    Vấn đề của các toán đổ bộ xuống một nơi mà không đúng với dự kiến đă được tính đến, ít nhất theo Trung tá William Mc. Lean, người theo dơi các hoạt động ở Lào trong suốt giai đoạn này đă giải thích rằng:
    - Điều tai hại nhất là các tấm bản đồ đáng nguyền rủa mà vẫn phải sử dụng. Đó là những tấm bản đồ cũ từ thời Pháp, và chính nó đă tạo nên những sự rắc rối. Các ông biết đấy, người Pháp bắt đầu hệ thống bản đồ thế giới của họ lấy trung tâm ở Pari chứ không phải ở London như chúng ta. Hệ thống bản đồ của người Pháp cũng không được tỷ mỷ ở Lào và Việt Nam mà cách đến nửa ṿng trái đất, có sự sai lệch vào khoảng 3000 m so với những tọa độ trên bản đồ của chúng ta với cùng một điểm căn cứ vào toạ độ trên bản đồ Pháp. V́ vậy, nếu đánh dấu một địa điểm căn cứ vào bản đồ của Mỹ nhưng chọn các điểm đến và trong thực tế lại chỉ dùng bản đồ của Pháp th́ kết quả sẽ thế nào, nếu không phải là sự rắc rối phiền toái lớn, và tin chắc rằng ḿnh đang so sánh những quả táo với những quả cam. Tôi không gặp phải những rắc rối đó ở Lào, v́ tôi có hai bộ bản đồ và có thể tin chắc rằng tôi đă để ư đến sự so sánh ấy.
    Nếu có một người Mỹ nào đó nói về việc toán của anh ta xác định một toạ độ như vậy và không nhận rơ rằng toán của anh ta sử dụng bản đồ Pháp th́ nhất định toán đó sẽ đi quá 3 km địa điểm mà họ dự định sẽ tới.

    Đầu năm 1962 hiệp định Gơnevơ về Lào được kư kết. Hầu hết lực lượng bán vũ trang được đưa ra khỏi Lào.
    Khi toán LYRE đang đến gần giai đoạn kết thúc khoá huấn luyện th́ thiếu tá Lê Văn Bưởi nhận được một bức điện của Ngô Đ́nh Cẩn qua một điệp viên ở địa phương của Bưởi tại Ḥn Gai. Bức điện đó ra lệnh cho Bưởi phải quay trở về miền Nam. Bưởi kể lại những ngày c̣n được tự do cuối cùng của ḿnh:
    - Tôi đến Đồng Hời vào ngày 22 tháng 10 và chờ đợi người ta đem thuyền đến đón. Tôi được hướng dẫn là đợi ở một quán cà phê nhỏ và sẽ có một người đến đón kèm theo tín hiệu nhận biết và sẽ đi vào Huế cùng với họ. Tôi chờ đợi nhưng không có ai tới cả. Ngày 23 tôi quay trở lại quán cà phê đó lần thứ 2. Có thể là kế hoạch này được vạch ra trước rồi sau đó việc đưa những chi tiết trong bức điện là do ông Cẩn nghĩ ra. Tôi vừa mới vào quán và ngồi xuống th́ có mấy nhân viên cảnh sát bước vào và đi thẳng đến chỗ tôi ngồi.
    Họ hỏi: "Anh có phải là Lê Văn Bưởi?"
    Họ đă biết rơ câu trả lời của tôi là thế nào rồi nên cũng không cần đóng kịch làm ǵ.
    Tôi trả lời: "Vâng, đúng".
    Họ nói bằng một giọng nhẹ nhàng: "Xin mời đi theo chúng tôi".
    Họ đưa tôi ra khỏi quán cà phê và đưa thẳng về nhà biệt giam. Họ có một nhóm thẩm vấn hỏi tôi mấy tháng liền. Và thường làm việc vào giữa đêm. Tôi không nghĩ là những người tù khác ở Đồng Hới biết được sự có mặt của tôi ở đấy.
    Sau đó họ đưa tôi tới gặp một số sĩ quan cấp tá. Trong số ấy có giám đốc ban an ninh của tỉnh, cán bộ phụ trách nhà giam và một người giới thiệu là trung tá cán bộ Công an từ Hà Nội vào.
    Viên trung tá đem theo một phong b́ to được gắn xi, ông ta mở chiếc phong b́ đó và lấy ra một xấp ảnh của những người như Ngô Đ́nh Cẩn, Nhu, Tuyến… và một xấp mật mă, một số bức điện.
    "Tôi biết anh là ai rồi, chúng tôi biết anh đến đây vào mùa hè năm 1961 và làm việc cho ai. Đây, anh hăy đọc bức điện này...".
    Đó chính là bức điện đă nhận được do Ngô Đ́nh Cẩn gửi ra trước đây mấy tuần yêu cầu tôi quay trở về Nam Việt Nam. Nhưng dù sao tôi cũng biết được đó không hoàn toàn là bức điện v́ nó thiếu tín hiệu nhận biết của Ngô Đ́nh Cẩn. Điều ấy cho tôi hiểu rằng họ đă biết nội dung của bức điện, nhưng nó không phải là bức điện gốc.
    “…Chúng tôi có được bức điện này là do Mặt trận Giải phóng chuyển cho và họ yêu cầu anh trả lời một số câu hỏi …”.
    Viên trung tá dừng lại, chỉ một người đang bước vào. Người ấy nh́n chằm chằm vào tôi. Sau đó anh ta nói:
    - Tôi biết anh là Bưởi và anh cũng biết tôi. Tôi nói thế có đúng không?
    Tôi nh́n kỹ lại anh ta. Đúng là tôi có biết anh ta. Người này tôi đă gặp ở Tổng nha cảnh sát Sài G̣n trước khi tôi được đưa ra Huế. Khi ấy anh ta mặc quân phục cấp bậc đại uư, và anh ta không có vẻ ǵ đặc biệt như những người b́nh thường được chỉ định đến làm việc ở đó.
    Tôi suy nghĩ kỹ trước khi trả lời: "Anh có thể hỏi tôi những ǵ anh muốn, nhưng tôi chỉ thừa nhận là tôi đă từ miền Nam ra đây. Anh đă biết rơ tôi là ai rồi…".
    Viên sĩ quan cấp tá chưa hài ḷng, ông ta hỏi:
    "Những điệp viên của anh là ai?".
    Đó là điều mà Bưởi đă chờ đợi từ lâu. Điều ấy đă diễn ra một năm rưỡi trước đây. Bưởi nói tiếp :
    Tôi nói với họ về tướng Giáp…
    Các ông phải nhớ rằng chúng tôi đă theo dơi các hoạt động đi lại của tướng Giáp và chúng tôi biết ông ta đang chuẩn bị đi Matxcova, nhưng chúng tôi không biết rơ là ông ta sẽ làm ǵ ở đó. Chúng tôi cũng biết được những vấn đề trong phong trào Cộng sản quốc tế về vấn đề lănh đạo Nam Tư đă bất đồng với Liên Xô và đă xảy ra những vấn đề trong nhũng năm 1950 ở Đông Đức và Ba Lan. Chúng tôi biết được cuộc xung đột giũa Trung Quốc và Liên Xô có những cuộc tranh luận ở Bắc Việt về việc họ nên nghe theo ai. Có một nhóm kêu gọi rằng Hà Nội nên đứng ngoài cuộc và chừng mực nào đó phải giữ được tính độc lập-nhóm này được gọi là những kẻ xét lại.
    Trong cuộc họp giữa tôi với các sĩ quan CIA và Cẩn trước khi tôi được đánh đi họ đă cân nhắc đến những việc tôi phải làm nếu tôi bị bắt. Nếu điều này xảy ra, đặc biệt là việc ném bom được thực hiện trước khi trở về th́ tôi có thể sẽ được giúp đỡ v́ sự bất đồng của những quan chức trong nhóm xét lại mà mục đích của họ là chống lại những người thuộc phái ủng hộ Đảng. Cho nên tôi khai với họ điều mà tôi đă được hướng dẫn để nói. Tôi khai rằng tướng Giáp đang làm việc cho Mỹ, ông ta đă được tuyển ở Matxcova và là người đứng đầu của nhóm xét lại. Điều này có ư nghĩa là ông ta không sẵn ḷng chấp nhận sự lănh đạo của Matxcova và ủng hộ một Bắc Việt Cộng sản theo kiểu Nam Tư, đồng thời không thừa nhận sự lănh đạo của cả Matxcova và Bắc Kinh.
    Bưởi ghi nhớ một danh sách các tên để khai với Bộ Công an và các quan chức Bắc Việt, lập tức được ghi lại khi anh ta khai ra điều đó. Danh sách này gồm Trần Hữu Dực phụ trách Nông nghiệp trong văn pḥng Thủ tướng, Trần Danh Tuyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, Trịnh Nguyên giám đốc mỏ than Ḥn Gai, Nguyễn Thọ Chân, Chủ tịch tỉnh Quảng Ninh và một số quan chức an ḿnh khác. Bưởi nói tiếp:
    -Tôi nhớ lại một thời gian sau đó có nghe nói tới việc tướng Giáp đi Bắc Kinh, một trong những quan chức trong trại nói là tướng Giáp đi Bắc Kinh v́ ông ta bị nghi ngờ là đứng đầu nhóm xét lại. C̣n những người khác th́ không thấy xuất hiện trên báo chí nữa, trừ ông Nguyễn Thọ Chân, người ta nói rằng ông ta đă đi làm đại sứ ở Matxcova. Tôi không rơ những ǵ đă khai báo với Bộ Công an có tác động trực tiếp đến việc bắt giữ những phần từ xét lại hay không, nhưng tôi tin chắc là có đóng góp một phần nhỏ trong làn sóng bắt bớ lúc bấy giờ.
    Tôi bị giam tại một nhà tù ở Vĩnh Linh vào thời kỳ đầu Mỹ ném bom Bắc Việt-tháng 8/1964. Năm 1965, ba năm sau khi bị bắt tôi được đưa ra xét xử tại Toà án quân sự về tội làm gián điệp với mức án 20 năm tù giam. Sau khi xét xử tôi được đưa đến trại giam số 3 ở Nghệ An. Vào khoảng năm 1968 tôi được chuyển đến trại Phong Quang. Tôi không bao giờ quên những câu hỏi của giám thị trại giam. Khi tôi đến đó-ông Hoàng Thanh nói: "Này tôi biết anh đă khai những ǵ với Bộ Công an rồi, hăy nói cho tôi biết những ǵ anh muốn khai thêm với tôi". Tôi không nói ǵ cả và điều đó đă làm cho ông ta tức giận.
    Trong khi ở trại Phong Quang tôi gặp Trần Quốc Hùng và Lưu Nghĩa Lương, hai điệp viên này cũng bị Bắc Việt bắt. Tôi gặp người anh của Nguyễn Cao Kỳ bị bắt ở đó. Ông ta ở lại miền Bắc sau năm 1954 và đă sống yên ổn cho tiến khi xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ. Sau đó ông ta bị bắt và bị cách ly. Một lần tôi nói chuyện với ông ta và điều ấy đă gây ra một loạt các cuộc thẩm vấn đối với tôi nhằm t́m ra những tác hại trong cuộc nói chuyện với người anh của Kỳ. Họ giam tôi ở đây cho đến năm 1972, khi được biết là tôi sẽ được trao trả. Sau những lớp nhồi sọ trước khi trao trả họ cười thân thiện và nói rằng tôi sẽ được về nhà sau ngày chiến thắng.
    Vào cuối năm 1962, những hồ sơ của Hà Nội ghi chép về những hoạt động phản gián thành công bao gồm K26 (Mộc Châu); K36 (Sông Mă-Sơn La); K33 (Hoà B́nh); K37 (Hà Bắc); K34 (Quảng B́nh); K32 điện Biên); K35 (Yên Bái)...
    Việt Nam đă công bố những thành công của ḿnh vào các năm sau đó. Sau một loạt những phỏng vấn các t́nh báo viên của cơ quan t́nh báo quân sự và dân sự Việt Nam Cộng hoà bị bắt vào 30.4.1975, nhất là những người có liên quan đến các hoạt động t́nh báo chống lại miền Bắc.
    Đặc biệt đối với các hoạt động hỗ trợ của các tổ chức bí mật, thắng lợi của mỗi điệp vụ này chứng minh rằng các thông tin liên quan đến các hoạt động được tuyên truyền qua các phương tiện bí mật đă được đảm bảo hoàn toàn bí mật và thực hiện đúng các yêu cầu của mỗi điệp vụ nói trên.
    Một số nhân viên điện đài đă báo động cho Sài G̣n về việc họ bị bắt giữ và bị sử dụng trong các hoạt động đánh lừa của Hà Nội qua điện đài, c̣n một số khác th́ không. Năm 1962 CIA đă hạn chế những hoạt động với những nhóm mà họ cho là đă bị đối phương khống chế. Tuy nhiên cũng có một số ít các toán đă cho thấy là không có bằng chứng chắc chắn nào chứng tỏ họ đă làm việc cho Hà Nội khi các sĩ quan bán quân sự Mỹ được rút khỏi Lào theo hiệp định Genevơ về Lào năm 1962.
    Đối với John Richardson, một trưởng trung tâm CIA mới ở Sài G̣n việc kết thúc năm 1962 có ư nghĩa nhiều hơn là việc kết thúc 6 tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ mới của ông ta ở Việt Nam, v́ nó trùng hợp với những bước đầu tiên chuyển giao một số hoạt động bán quân sự của CIA cho quân đội Mỹ. Đồng thời Richarson cũng phải giám sát những thay đổi về mặt chính trị đối với Diệm, khi các lực lượng của Diệm theo dơi các sĩ quan CIA và Ngô Thế Linh tiếp tục phái gián điệp ra miền Bắc.
    Đối với William Colby, sự chú ư của ông ta đă có sự thay đổi do cuộc đảo chính đang âm ỉ ở Sài G̣n. Sự chuyển giao đă trở thành vấn đề cần phải thương lượng với Bộ Quốc pḥng. Những cuộc thương lượng ấy đă làm mờ mắt Hà Nội bởi con sâu bỏ rầu nồi canh.
    4. CHIẾN LƯỢC CÀI RĂNG LƯỢC ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG.
    Ngày 1 tháng 1 năm 1963 cùng với việc thực thi kế hoạch chiến lược cài răng lược theo từng giai đoạn, bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài G̣n chính thức nhận trách nhiệm về an ninh biên giới từ lực lượng bán quân sự của CIA dưới quyền của Gilbert Layton. Trong khi đó các hoạt động phía Bắc của CIA tiếp tục dưới quyền chỉ huy của W.T Cheney đóng tại Sài G̣n. Chiến lược cài răng lược ở miền Nam Việt Nam dường như là đă được chỉ đạo để hoàn thành vào tháng 7 năm 1963, tuy vậy diễn biến của chiến lược này thiếu sự chỉ đạo của Tổng thống Diệm.
    Gilbert Layton nhớ lại giai đoạn đó:
    - Đại tá George Morton chỉ huy lực lượng đặc biệt "C" lúc đó đóng tại Nha Trang. Chương tŕnh hành động bán quân sự ở phía Nam của tôi được chuyển qua cho ông ta theo từng giai đoạn phù hợp với chiến lược cài răng lược. Ngay khi mà lực lượng quân sự sẵn sàng tiếp nhận chúng tôi chuyển giao ngay. Tôi nhớ lại là vào mùa hè năm 1963, hầu hết việc chuyển giao này đă hoàn thành và tôi ở lại làm trợ lư đặc biệt cho Morton.
    Ngay từ đầu đại tá Morton đă hiểu rằng chương tŕnh hành động phía Nam phụ thuộc vào việc duy tŕ lực lượng đặc biệt của quân đội Mỹ đóng cùng lực lượng dự bị địa phương trong các làng xă chứ không thể tách biệt được. Đây chính là hạt nhân của khái niệm bán quân sự, dùng các lực lượng tại chỗ bảo vệ làng xă của họ như giữ cho cá sống trong vùng nước của nó.
    Những lực lượng ở mức độ làng xă này là nguồn cơ bản cung cấp thông tin về các hoạt động của kẻ địch. Lực lượng này phục vụ như là tai mắt trong các làng xă mà từ đây họ đă sống và được tuyển mộ. Họ sẽ chiến đấu để bảo vệ nơi sinh sống của họ, bởi v́ họ có rất nhiều quyền lợi ở đó. Đưa họ sang vùng đất khác nơi không có những người dân địa phương sinh sống cũng có nghĩa là làm cho lực lượng này trở nên không hiệu quả.
    Trong suốt quá tŕnh chiến lược cài răng lược được thực hiện tướng Richard G. Stilwell đă quyết định chuyển lực lượng đặc biệt cộng với các lực lượng dự bị mà chúng tôi đă chuyển cho đại tá Morton tại Nha Trang di chuyển theo hướng tây về phía biên giới Lào. Chiến lược của tướng Stilwell chính là lực lượng dự bị địa phương có thể phản ứng nhanh ngăn chặn các lực lượng Bắc Việt khi xâm nhập qua biên giới, nhưng điều này cũng hoàn toàn đối nghịch với chiến lược của tôi trước khi chuyển lực lượng này đi. Đại tá Morton đă hiểu cái mà tôi đang làm. Tôi cũng tham gia vào cuộc họp trong đó Morton thúc giục lực lượng này ở lại vị trí cũ, nhưng tướng Stilwell lại yêu cầu lực lượng này di chuyển lên phía trên. Nó có thể là một chiến lược hợp lư, nhưng nó lại tạo ra một hiệu ứng là đưa cá ra khỏi vùng nước nó sinh sống. Lực lượng di động của chúng tôi được đặt ở trên vùng biên giới đă sớm mất hiệu quả bởi v́ họ phải hoạt động trong vùng không hề có dân, nơi mà họ chẳng có quyền lợi ǵ ở đó. Tướng Stilwell đă chịu rất nhiều áp lực, theo tôi chủ yếu là từ Washington.
    Khi chiến lược cài răng lược tiếp tục được thực hiện chính quyền Diệm bắt đầu tăng cường sự theo dơi đối với các sĩ quan CIA đang có quan hệ với các nhóm chính trị bên ngoài, ví dụ như Việt Nam Quốc dân Đảng. Vào mùa xuân 1963, một ḿnh Tucker Gougelmamn thu xếp cho ra đời một cơ quan tại Đà Nẵng với sự giúp đỡ từ Carl Jenkins, sĩ quan trong lực lượng bán quân sự của CIA trực tiếp phụ trách căn cứ huấn luyện Hoàng Hoa Thám. Tại Long Thành căn cứ huấn luyện mới được thành lập, sĩ quan bán quân sự của CIA Larry Jackson đă làm việc với các đồng nghiệp Việt Nam để giúp đỡ trong việc mở lớp và lần đầu tiên lực lượng này đă sẵn sàng tới đó để dự huấn luyện.
    Tháng 4 năm ấy toán "PEGASUS" đă nhảy dù xuống Lạng Sơn, 2 tuần sau, một nửa toán "JASON" tới Quảng B́nh và nửa c̣n lại đến vào tháng sau đó. Nhưng tất cả thành viên của hai toán đều bị bắt.
    Việc thành lập trung tâm huấn luyện Long Thành vào tháng 4 năm 1963 là bước chuẩn bị tiếp theo của CIA trong việc chuyển chương tŕnh bán quân sự ra miền Bắc sang cho Lầu Năm góc . Một bằng chứng khác của việc chuyển đổi này bao gồm tái tổ chức nội bộ toán. Việc sử dụng tên toán cũng mang tính chất quân sự hơn. Cựu chỉ huy căn cứ huấn luyện tại Long Thành, Nguyễn Hưng nhớ lại việc thành lập:
    - Larry Jackson là sĩ quan CIA chủ yếu hướng dẫn tôi về huấn luyện và ông ta đă làm việc với tôi cho tới khi lực lượng quân sự Mỹ tiếp quản tất cả vào mùa xuân năm 1964. Trong suốt mùa hè 1963, lực lượng quân sự đặc biệt của Mỹ đă đến Long Thành để tổ chức huấn luyện các toán tung ra miền Bắc. Khi các toán tiến vào vùng giới nghiêm trước lúc mở màn chiến dịch, Cục t́nh báo trung ương Mỹ tiếp nhận và trong trường hợp này viên chức CIA phải sắp xếp cho họ nhảy dù xuống trên chuyến bay C-123 do đoàn phi hành người Đài Loan điều khiển. Cùng với việc thành lập trung tâm huấn luyện ở Long Thành, chúng tôi kết thúc với 2 toán hoàn toàn ngăn cách. Một toán biết rất rơ trung tâm huấn luyện Long Thành. C̣n toán thứ hai ở trong những ngôi nhà được bảo vệ an toàn nằm rải rác quanh Sài G̣n. Những người trong trung tâm huấn luyện Long Thành dù biết nhau, nhưng những người trong khu được bảo vệ an toàn th́ vẫn ở trong những căn pḥng riêng biệt. Đây c̣n được coi như một phần bí mật của chiến dịch. Trong công tác huấn luyện, chúng tôi quan tâm đến cả hai loại lực lượng: một lực lượng sẽ được tung ra miền Bắc và một lực lượng hoạt động ở miền Nam. Công việc chủ yếu của tôi là bảo đảm cho họ hiểu được những kiến thức cơ bản về chất nổ, về thu lượm tin và sử dụng thành thạo. Tôi cho rằng chúng tôi đă chuẩn bị khá tốt cho loại công việc này.
    Các cuộc tranh luận mang tính chất chuyên môn về việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam không chỉ hạn chế đối với người Mỹ mà những cuộc tranh luận như thế cũng xuất hiện trong bộ chỉ huy Quân đội nhân dân B-2 Việt Nam tại miền Nam. Bộ chỉ huy này được mang tên là Bộ Tư lệnh Quân giải phóng. Trong nhiều năm, những cán bộ chỉ huy chủ chốt ở đây như tướng Trần Độ, một trong những chỉ huy phó của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng đă luôn chú ư và đẩy mạnh chiến tranh du kích chứ không phải là sự leo thang chiến tranh. Quan điểm này được giữ vững măi đến năm 1963, khi tướng Nguyễn Chí Thanh từ Hà Nội vào giữ chức Tư lệnh lực lượng quân sự miền Nam. Tướng Thanh vào mang theo một quyết định cứng rắn chuyển chiến tranh du kích sang các hoạt động quân sự tầm rộng hơn. Quan điểm của tướng Trần Độ và của vài người khác ở Bộ Tư lệnh tại miền Bắc tỉnh Tây Ninh đă bị lu mờ trước kế hoạch bất ngờ của Hà Nội trong việc chuẩn bị gửi các đơn vị quân thường trực chính quy vào miền Nam Việt Nam.
    Một phần của trục trặc này là do áp lực từ Washington hối thúc việc chuyển giao này xảy ra nhanh hơn. Và một phần khác hiển nhiên thấy được là có rất ít toán biệt kích thực sự tồn tại và hoạt động trong ḷng Bắc Việt. Điều này có nghĩa rằng việc thúc đẩy để thực hiện chương tŕnh là phụ thuộc vào kỳ vọng của Washington.
    Một nhân tố khác dẫn tới cách tiếp cận vấn đề thiếu toàn diện là sự khác biệt cơ bản về mặt quan điểm giữa William Colby, người chịu trách nhiệm phần Viễn Đông của CIA với Giám đốc CIA James Angleton. Đây là vấn đề cơ bản quan trọng nhất của giới lănh đạo bắt nguồn từ quá tŕnh ra quyết định bởi các quan chức cao cấp nhất của CIA tại tổng hành dinh, Trưởng trung tâm tại Sài g̣n (dĩ nhiên người ta dễ thiên về ư kiến của Trưởng trung tâm hơn). Thêm vào đó. các tin đồn về đảo chính đang tràn ngập cả Sài G̣n và Washington càng tạo thêm áp lực đ̣i CIA phải chuyển giao gấp các lực lượng bán quân sự (phần lớn là chưa hoàn chỉnh, chắp vá) cho Lầu Năm góc.
    Trong suốt mùa xuân năm 1963, phong trào Phật giáo tẩy chay Diệm đă phát triển và Colby đă bị rối lên trong các cuộc tranh luận đối với vấn đề có nên duy tŕ Tổng thống Diệm hay loại bỏ ông ta. Quyền Bộ trưởng Quốc pḥng của Tổng thống Diệm, ông Thuần đă đưa cho tướng Maxwell Taylor một lá thư khuyến cáo các yêu cầu của Washington đ̣i mở rộng quyền hạn của các cố vấn Mỹ, trong khi Tổng thống Diệm vẫn giữ lập trường kiên quyết chống lại những cố gắng tăng thêm cố vấn mà ngài Bộ trưởng năng động đă chính thức yêu cầu người Mỹ dưới danh nghĩa của Tổng thống Diệm. Sự có mặt của quân đội Mỹ tại Việt Nam lúc này đă vượt quá 15.000 người. Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara đă đưa ra hai hướng giải quyết cùng một lúc. Một mặt ông ta chỉ đạo Lầu Năm góc chuẩn bị cắt giảm đáng kể các nguồn viện trợ quân sự tới Việt Nam xuống con số 0 trong ṿng 6 năm, ngừng tăng quân số của quân đội Mỹ tại Việt Nam và đồng thời ra kế hoạch giảm 1000 lính vào cuối năm. Bên cạnh đó, ông ta phê chuẩn tăng viện trợ vào khoảng 10% mức hiện tại, điều này làm cho việc chuẩn bị giảm quân số và ngân sách trở nên lỗi thời ngay trước khi kịp ráo mực.
    Việc chuyển các toán hoạt động bán quân sự ở phía Bắc cho giới quân sự trùng hợp với việc tuyển chọn dân sự đang được huấn luyện ở các trung tâm sang thành các toán xâm nhập đường biển chứ không phải bằng đường không cũng gây một xáo trộn lớn. Cũng vào thời điểm đó, các toán biệt kích đă không thể xâm nhập vào Bắc Việt theo đường biển bằng thuyền lại được chuyển vào Sài G̣n để huấn luyện nhảy dù chuẩn bị đột kích bằng đường không.
    Cho đến tháng 6 những lời đồn đại về những cố gắng cho các đơn vị biệt kích bán quân sự xâm nhập bằng thuyền từ Đà Nẵng đă gặp những khó khăn nghiêm trọng lan tràn khắp căn cứ. Không ai nhận thấy điều này rơ hơn Nguyễn Văn Ngọ chỉ huy toán hoạt động dài ngày, người đă thực hiện nhiều cố gắng xâm nhập vào vùng cán xoong ở Bắc Việt bằng thuyền, song không thành công. Lực lượng của ông ta thuộc một trong những toán được gửi từ Đà Nẵng vào Sài G̣n để huấn luyện nhảy dù. Sau khi hoàn thành việc huấn luyện, lực lượng của ông Ngọ chia làm hai toán: BART và TELLUS. Ông Ngọ là chỉ huy trưởng của TELLUS và được thả dù xuống mục tiêu của nó vào một thời điểm rất thuận lợi trong đêm. Cùng với các thủ tục nhảy dù b́nh thường, toán được hướng dẫn nhảy dù xuống bất kỳ địa điểm nào cách khu dân cư trên 10 km.
    Những người c̣n sống sót của toán sau này tả lại là họ đă nhảy dù xuống một vùng đông dân ở tỉnh Ninh B́nh, nhưng lại sai vị trí dự định. Tồi tệ hơn toán nhảy dù xuống một làng khá lớn và hạ ngay trước trụ sở Hợp tác xă.
    Ban quản trị làm việc rất khuya và phát hiện ra ngay khi họ vừa hạ cánh. Cả toán bị bắt ngay trước khi họ kịp rút vũ khí ra.
    Toán BART, do Đinh Văn Chức chỉ huy, nhảy dù xuống gần Thanh Hoá. Toán này không bị rơi vào những vùng đông dân cư nhưng lại bị dân địa phương phát hiện và báo cho lực lượng an ninh địa phương. Họ bị bao vây và tóm gọn một cách nhanh chóng.
    Vào ngày 4/6 toán BELL đă nhảy dù vào huyện Văn Bản thuộc tỉnh Yên Bái phía Đông Bắc Hà Nội. Toán này bị bắt ngay lập tức, và người điều khiển điện đài là Lù Thế Toàn cũng bị bắt.
    Sau đó, các t́nh báo viên thông báo lại rằng, những người thổ dân trên núi không nói được tiếng phổ thông và bất cứ một sự liên lạc quan trọng nào với họ đều bị bế tắc. Vào tháng 9, BELL thông báo với Sài G̣n là đă đánh phá được đường xe lửa Hà Nội-Lào Cai vào ngày 31/8 nhưng việc này không bao giờ xảy ra cả.
    Toán DAUPHINE gồm năm người đi cùng với toán BELL trên một đợt đổ bộ bằng dù, họ được thả xuống Lào Cai trước BELL. Chỉ huy của toán kể lại nhiệm vụ như sau:
    - Toán của chúng tôi được thành lập vào năm 1962. Tất cả đều là người dân tộc Tày ở khu vực Lào Cai và tôi ở huyện Văn Bản. Nhiệm vụ cuối cùng của chúng tôi trong giai đoạn từ tháng 6/1962-6/1963 là phải tiến hành 5 phi vụ trên khu vực dự định hoạt động và chọn lựa nơi đổ bộ. Lực lượng không quân Nam Việt Nam đưa chúng tôi đến Thái Lan, và đội bay của Đài Loan chở những toán c̣n lại. Chúng tôi cất cánh từ Thái Lan, bay qua Việt Nam, và đến vịnh Bắc Bộ. Chúng tôi bay trên sông Hồng, qua Hải Pḥng, Hà Nội, Yên Bái, rồi lên Lào Cai trước khi quay trở lại Thái Lan. Năm phi vụ này dường như là bay có định hướng v́ các phi hành gia Đài Loan tỏ ra thạo đường. Chúng tôi đă sử dụng một ống kính tầm xa khuếch đại ánh sáng để xác định các vị trí trên mặt đất đă đảnh dấu trên bản đồ của các phi hành gia. Chúng tôi luôn bay vào những đêm trăng sáng ở một khoảng cách không cao lắm nên có thể nh́n rơ mọi thứ.
    Nhiệm vụ của DAUPHINE là phải bắt mối liên lạc với những người dân tộc Tày và xây dựng một căn cứ tại đấy. Sau đó chúng tôi phải phá hoại tuyến đường sắt Lào Cai-Hà Nội. Một thành viên trong toán của tôi được gọi là t́nh báo chính trị v́ anh ta có chân trong "Đảng Gươm thiêng ái quốc", một Đảng có nhiệm vụ chính trị đằng sau những hoạt động biệt kích đơn thuần của chúng tôi. Trong đợt bay thứ 6 của tôi có 2 toán trên cùng một chuyến bay, tôi biết Lư Văn Choi là một trong những thành viên của toán kia mà sau này biết rơ là của toán BELL. Toán của chúng tôi nhảy ra trước ở độ cao khoảng 300m. Trời lúc đó gió nhẹ nhưng khoảng 20 giây sau chúng tôi mới tiếp đất.
    Last edited by alamit; 21-10-2012 at 01:30 AM.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    F



    Vừa tiếp đất chúng tôi đă mau chóng phát hiện ra là ḿnh đang ở trong ṿng vây của dân quân địa phương. Đây quả là điều mà không ai mong đợi, nhưng chúng tôi đă kiên quyết chống trả dữ dội trong nhiều giờ trước khi bị mất liên lạc Tôi bị trúng đạn nhiều lần nhưng đă cố gắng lẩn trốn được khoảng 7 ngày th́ bị bắt. Họ chở tôi bằng máy bay trực thăng tới một bệnh viện chuyên khoa của Bộ Công an nằm trong một thị trấn nhỏ có tên Phố Mới, và họ đă thẩm vấn tôi ở đó. Do chúng tôi đă ngoan cố lẩn trốn để tránh bị bắt giữ, và do thái độ không chịu hợp tác. Sau năm đó tôi đă bị đưa tới nhà tù Quyết Tiến và tôi nhớ là đă gặp 37 biệt kích khác ở đấy. Hai người đồng đội của tôi đă không cùng tôi tới nhà tù Quyết Tiến. Chúng tôi chống trả và kiên quyết không hợp tác với Bộ Công an. Hai đồng đội của tôi bị tử h́nh v́ đă kháng cự.
    Ở đợt bay của tôi đă có điều ǵ đó sai sót rất nghiêm trọng mà vào ngày đó tôi không thể hiểu cái ǵ đă xảy ra. Chúng tôi có nhiệm vụ đổ bộ lên một làng nhỏ của dân tộc Tày có tên là Bản Lùn. Tôi biết khu vực này và tôi đă nhận ra nó trong chuyến bay qua trước đó. Nhưng chúng tôi đă được thả đúng vào bản Vo Lao cách xa khoảng 25 km. Những người nông dân đang tuốt lúa ở phía trước nơi tụ họp của bản đă nh́n thấy ngay khi chúng tôi đáp xuống đất. Tại sao chúng tôi, bị thả chệch quá xa điểm dự tính mà phi hành đoàn đă bay qua rất nhiều lần? Tôi đă phải đợi tới 25 năm sau mới có một vài người Mỹ nói cho biết v́ sao và cái ǵ đă xảy ra. Các bạn có biết tại sao họ làm như vậy không?
    Ở đợt bay của tôi đă có điều ǵ đó sai sót rất nghiêm trọng mà vào ngày đó tôi không thể hiểu cái ǵ đă xảy ra. Chúng tôi có nhiệm vụ đổ bộ lên một làng nhỏ của dân tộc Tày có tên là Bản Lùn. Tôi biết khu vực này và tôi đă nhận ra nó trong chuyến bay qua trước đó. Nhưng chúng tôi đă được thả đúng vào bản Vo Lao cách xa khoảng 25 km. Những người nông dân đang tuốt lúa ở phía trước nơi tụ họp của bản đă nh́n thấy ngay khi chúng tôi đáp xuống đất. Tại sao chúng tôi, bị thả chệch quá xa điểm dự tính mà phi hành đoàn đă bay qua rất nhiều lần? Tôi đă phải đợi tới 25 năm sau mới có một vài người Mỹ nói cho biết v́ sao và cái ǵ đă xảy ra. Các bạn có biết tại sao họ làm như vậy không?
    Tôi không có được câu trả lời đích đáng nào cả.
    Bốn ngày sau toán MIDAS đă tới Nghệ An và rơi vào tầm kiểm soát của Hà Nội. Khi đó toán NIKE bị bắt giữ ở tỉnh Hà Tĩnh. Vào tháng 8 toán EASY tới Sơn La, phía tây của TOURBILLON và đă tuyển thêm một số người vào danh sách điện báo viên của toán. Các toán khác được CIA tung ra phía Bắc quá nhanh đến nỗi sau này những nhà nghiên cứu của Lầu Năm góc cũng không thể h́nh dung được chính xác vị trí và thời điểm mà họ đổ bộ.
    Vào năm 1963 điệp viên đơn tuyến Dương Chúc một ḿnh đáp xuống băi đổ bộ đèo Ngang, một khu vực được sử dụng nhiều lần ở tỉnh Hà Tĩnh. Ngay lập tức anh ta đă bị bắt. Điệp viên Nguyễn Thuỳ sau đó ít lâu cũng chịu chung số phận như vậy.
    Toán điệp viên kép gồm hai người được mọi người biết tới với cái tên ARES đă phải chịu nhiều tổn thất hơn. Vào tháng 11/1962, toán BECASSINE 6 người được huấn luyện ở một căn cứ an toàn trong ngôi nhà số 199 trên nút giao thông chính Phú Nhuận tại ngoại ô Sài G̣n.
    Toán được giảng viên người Việt Nam và Mỹ huấn luyện trong ṿng 8 tháng. Một sĩ quan quân đội Mỹ mà mọi người biết tới với cái tên "Dick" chịu trách nhiệm hướng dẫn về cách thức phá hoại. Giảng viên người Việt dạy cách thức và tŕnh tự thu thập tin tức, t́nh báo, huấn luyện nhảy dù, và các loại vũ khí. Việc tập bắn súng diễn ra tại trung tâm huấn luyện bộ binh Thủ Đức. Điện báo viên của toán đă tiếp nhận luật mật mă tại một trường tư thục ở Quận Tân Định-Sài G̣n.
    Vào tháng 6/1963, toán nhận nhiệm vụ hoạt động ở vùng Đông Bắc-Bắc Việt Nam gần thị xă Ḥn Gai. Toán phải bắt liên lạc với dân địa phương, thiết lập mạng lưới giao liên, báo cáo các tin tức về các căn cứ quân sự và những mục tiêu khác trong khu vực. Sau khi đổ bộ cả toán phải di chuyển nhanh tới điểm tập trung đầu tiên, liên lạc điện đài với chỉ huy sở, và thiết lập căn cứ hoạt động an toàn. Vào thời điểm đó, Ban chỉ huy sẽ giao nhiệm vụ cụ thể và chỉ dẫn các hoạt động tiếp theo để tới những khu căn cứ mới. Nhiệm vụ của toán là duy tŕ hoạt động trong 3 năm, sau thời gian đó các thành viên trong toán sẽ được xuất đầu lộ diện.
    Việc cài cắm được một đội h́nh như vậy vào vùng Đông Bắc-Bắc Việt Nam gieo vào tâm trí họ như một chiến thắng vĩ đại và động viên mọi người có thái độ làm việc tích cực. Ngô Thế Linh, một sĩ quan lâu năm của chỉ huy sở hứa sẽ để ư theo dơi mọi việc.
    Khu vực đổ bộ và điểm tập trung đầu tiên đă được xem xét rất cẩn thận. Dựa trên những thông tin có sẵn trên bản đồ, có thể khẳng đ́nh khu vực đổ bộ là an toàn và không có dân cư.
    Cả toán đi trên một chiếc xẻ tải bịt kín ra sát máy bay ở sân bay Tân Sơn Nhất, Sài G̣n. Phi hành đoàn gồm phi công Đài Loan và các nhân viên "Kickers", những người có nhiệm vụ đẩy hàng hoá ra khỏi máy bay khi hạ độ cao. Máy bay cất cánh, nó bay qua vùng biển Nam Trung Quốc, rồi hướng về phía Bắc qua Đại dương. Đôi khi nó dường như bay là là ngọn sóng. Sau khi bay qua vịnh Bắc Bộ và Hạ Long giữa Ḥn Gai và Cẩm Phả. Tiếp tục hướng về phía bờ biển, máy bay đột ngột tăng độ cao và hướng vào điểm thả dù theo kế hoạch lúc nửa đêm trên núi Yên Tử. Bốn thùng hàng lớn chứa các thiết bị cung ứng được thả xuống băi thử nhất, sau đó máy bay bay một ṿng, và cả toán sẽ nhảy ra ngoài ở độ cao vừa phải trên băi thứ hai của mục tiêu.
    Khi đă ở trên mặt đất, các thành viên sẽ dùng điện đài xách tay để định vị đèn tín hiệu đă chạm đất, các thành viên trong nhóm hên lạc với trung tâm bằng máy điện đàm cầm tay của ḿnh để xác định vị trí đầu tiên và liên lạc với nhau bằng điện đàm nhỏ của ḿnh. Năm trong sáu thành viên tới được điểm hẹn và bắt đầu t́m kiếm bốn thùng hàng chứa thiết bị và các vật dụng-triển khai việc t́m kiếm toán viên Cao Văn Thông bị mất tích.
    Vào khoảng 5 giờ sáng hôm đó, họ đă t́m được anh ta. Dù của anh ta không mở và bị đập đầu vào đá mà chết. Họ cũng t́m thấy 2 thùng hàng và đem giấu chúng vào một hang đá để dùng sau này.
    Khi những tia nắng sớm đầu tiên chiếu lên những tảng đá xung quanh, cả toán quây quần và pha cà phê chờ cho trời sáng rơ để t́m nốt 2 thùng hàng c̣n lại. Họ nhanh chóng uống cà phê. Nguyễn Văn Thiệt và Bùi Minh Thế được lệnh t́m nốt các vật dụng c̣n thiếu. Khi trời sáng rơ, các thành viên trong toán nhận thấy rằng toàn bộ khu vực lấm chấm những nông trường và xí nghiệp mà không hề được đánh dấu trên bản đồ.
    Khu vực này không an toàn chút nào cả và không có dân ở. Người lên kế hoạch thiếu hoàn chỉnh.
    Sau nhiều giờ đi t́m kiếm cách nơi nhảy dù 1 km, Thiệt và Thế t́m thấy một ḥm bị thất lạc trên một quả đồi phủ kín cây. Bên cạnh đó có nhiều người chăn các đàn gia súc. Họ lần ngược trở lại để báo cho toán trưởng Đinh Văn Công đang ở trên núi về thùng hàng mất tích. Tin này quả là bất lợi, v́ những người chăn gia súc sẽ báo cho lực lượng an ninh biết việc phát hiện ra chiếc ḥm và việc tung lực lượng truy t́m biệt kích sẽ được triển khai. Không c̣n thời gian để liên lạc đường dài với trung tâm, t́nh h́nh an toàn nhanh chóng xấu đi. Họ quyết định phân tán đội h́nh, mỗi người t́m cách thoát riêng. Họ đưa ra ư kiến nên trèo xuống núi và cố gắng đi gần tới bờ biển, t́m mọi cách lấy cắp tàu thuyền để trốn. Rủi ro thay, nơi họ đổ bộ lại là vùng núi đá, mà việc trèo xuống là cực kỳ khó khăn. Ban đầu người ta bảo rằng vùng đất nơi họ nhảy dù là an toàn, nhưng bây giờ trở nên quá tồi tệ.
    Họ đành vứt bỏ lại vật dụng của hai thùng hàng. Đây là hai thùng hàng chứa nhiều thuốc men và vật dụng của cả toán, không thể biết chính xác là thùng nào có chứa tiền. Ngô Thế Minh cho biết là họ mang ra 4 triệu tiền Bắc Việt để sử dụng vào một số nhiệm vụ đặc biệt nào đó. Anh ta không nói rơ là tiền này từ đâu mà có, và là tiền thật hay là giả. Và một máy in truyền đơn cũng nằm ở 1 trong 2 thùng hàng ấy.
    Trong ngày 4 tháng 6 các thành viên trong toán lần lượt bị các lực lượng dân pḥng địa phương, Công an và bộ đội chủ lực bắt gọn. Họ được đưa đến Thị xă Ḥn Gai và bị nhốt trong nhà tù tỉnh. Lực lượng công an tỉnh xét hỏi về việc huấn luyện họ ở miền Nam, và những ǵ họ đă làm khi ra miền Bắc . Một điều kỳ lạ là những người xét hỏi không hề đả động ǵ về các mối quan hệ với dân địa phương nơi bị bắt hoặc là sự liên hệ với các nhóm biệt kích có ở trong vùng. Nhân viên xét hỏi cũng nói rơ việc họ đă phát hiện ra tiền trong thùng hàng nhưng sự quan tâm lại tập trung vào số tiền mang theo trong người. Có khá nhiều câu hỏi chung về chỉ dẫn điện đài mà điện báo viên đă cố ư phá khi bị bắt. Người thẩm vấn hầu như biết rất rơ về tổ chức của biệt kích và các hoạt động của họ. Điều đáng chú ư nữa là không bao giờ nhắc tới điệp viên đơn tuyến mà Washington gọi là ARES.
    Vào tháng 10, cả toán biệt kích bị đưa ra xử tại toà án quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Phiên toà bắt đầu lúc 10 giờ sáng, 12 giờ sau bản án được thi hành. Tất cả các thành viên bị buộc tội làm gián điệp và bị bỏ tù. Toán chưa có hành vi phá hoại lớn nên không bị tuyên án tử h́nh.
    Ngay sau phiên toà họ được đưa đến khu biệt giam tại nhà tù Bất Bạt. Tại đây c̣n có trên 30 biệt kích đường không và đường biển bị giam giữ. Gián điệp đơn tuyến Nguyễn Văn Hồng cũng ở đây. Tại Bất Bạt họ không bị đối xử tàn tệ, mặc dù trong đó có nhiều người bị đưa tới Hoả Ḷ để thẩm vấn.
    Thời gian lặng lẽ trôi qua trong nhà tù. Thỉnh thoảng họ được đưa ra ngoài để cắt tóc, hái rau ở vườn nhà tù, một vài người lại được đưa về gần Sơn Tây để xây dựng một nhà tù mới. Họ rất ngạc nhiên khi thấy hai hay ba phạm nhân ngay phía ngoài cổng. Họ được biết đây là những người Pháp nói rất sơi tiếng Bắc Việt. Sau một tháng tại Bất Bạt tất cả lính biệt kích được chuyển về nhà tù Yên Thọ tỉnh Phú Thọ và họ ăn Tết Nguyên đán 1964 ở đó.
    Cùng tháng 7 năm ấy, toán 6 người dân tộc Nùng do Mộc A Tài làm toán trưởng, mật danh là DRAGON xâm nhập lần thứ 3 từ tàu Nautilus 7 để thực hiện một nhiệm vụ vào vùng Móng Cái ngay sát biên giới với Trung Quốc. Các thành viên trong toán DRAGON nhận nhiệm vụ chung do một người Mỹ tên là "Robert" giao, c̣n nhiệm vụ chi tiết sẽ do chỉ huy của họ đưa ra. Nhiệm vụ của họ là tấn công một trạm Rada ven biển của Bắc Việt và cố t́m ra điệp viên do đại tá Ṿong A Sáng để lại năm 1954 khi ông rút sư đoàn người Nùng của ḿnh vào Nam Việt Nam. Một thông báo nói rằng Sở khai thác địa h́nh đă liên lạc với đại tá Sáng. Sáng công nhận có cài người lại, nhưng đă bị mất liên lạc với họ từ năm 1954. Nếu toán DRAGON, t́m được các điệp viên của Vọang A Sáng th́ sẽ dùng họ vào các hoạt động gián điệp trong thời gian không hạn định. Họ cũng thông báo cho biết về trạm rađa trên đảo Hải Nam cửa Trung Quốc để tránh phát hiện ra sự xâm nhập của họ vào Vịnh Bắc Bộ.
    Một cậu bé đă thấy họ vào bờ và những người dân chài xung quanh đó đă báo động cho lực lượng an ninh bắt những kẻ xâm nhập. Trịnh A Sam nhân viên điệp báo của toán DRAGON đă từ chối làm việc cho những người bắt họ.
    Trong khi toán DRAGON đang chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ của ḿnh th́ toán EUROPA bổ sung được lệnh đổ bộ. Chiếc máy bay C-123 và tổ lái Đài Loan đă đâm vào núi ở Lào trước khi đến được đích. Một toán bán quân sự của CIA đă nghiên cứu vị trí máy bay rơi và phát hiện ra tất cả các thành viên trên máy bay đă chết sau khi đâm vào núi.
    Sau một tháng toán DRAGON bị bắt, thủy thủ đoàn cũng bị giam giữ. Một người sống sót của toán NAUTILUS 7 đă thuật lại nhiệm vụ cuối cùng của họ như sau:
    -Cuộc hành quân đường biển của chúng tôi ư? Tất nhiên là nó đă diễn ra! Tôi đă thực hiện 11 vụ trước khi tôi bị bắt.
    Các cuộc hành quân của chúng tôi ở Đà Nẵng do Sở Pḥng vệ duyên hải điều khiển. Chúng tôi phải làm 3 việc: dẫn dắt mục tiêu trinh sát dọc bờ biển Bắc Việt Nam, cài cắm gián điệp, phá hoại miền Bắc . Tổng chỉ huy cuộc hành quân là đại tá Lê Quang Tung, chỉ huy lực lượng đặc biệt, và Ngô Thế Linh, sĩ quan hành quân cao cấp của chúng tôi. Họ có một cố vấn người Mỹ tên là "Robert" ở Sài G̣n. Theo Ngô Thế Linh cho biết th́ Robert là một trung tá làm việc cho CIA và chịu trách nhiệm về các hoạt động của chúng tôi. Anh ta đến đó năm 1961 và có thể vẫn ở đó cho đến năm 1963.
    Tôi hay ra ngoài uống rượu, đập phá và bị bắt vào quân cảnh. Tôi có lư do riêng của tôi. Tôi nói cho họ biết rằng tôi ở trong lực lượng đặc biệt. Tôi đưa cho họ số ḥm thư đơn vị của tôi KBC 4373, trên giấy chúng tôi là một bộ phận của lực lượng đặc biệt trừ một thứ: chúng tôi không có số lính. Đó chỉ là sự nguỵ trang.
    Chúng tôi có một nhóm nhỏ các sĩ quan thuộc lực lượng đặc biệt của quân đội Nam Việt Nam tại Đà Nẵng, chỉ huy nhóm là đại úy Đang. Tôi nghĩ rằng phó của anh ta là đại uư Phan. Đại uư Lư là người phát lương cho chúng tôi và Mai Xuân Đê nắm các vấn đề như là nguồn nhiên liệu cho chúng tôi.
    Không thấy hỏi ai là người trực tiếp chỉ đạo các cuộc hành quân của chúng tôi. Lúc đó chúng tôi có 2 người Mỹ: một người tên là John và đại uư Đang có thể phiên dịch cho anh ta. Người Mỹ huấn luyện giao nhiệm vụ cho chúng tôi, miêu tả các đặc điểm của khu vực mục tiêu và vạch kế hoạch xâm nhập. Người Mỹ có các bức ảnh cận cảnh của khu vực mà họ chụp cách đó 30 dặm và họ sử dụng chúng khi giao nhiệm vụ cho chúng tôi.
    Chúng tôi có 7 thuyền đánh cá được đánh số từ 1 tới 7. Không có dấu hiệu nào trên thuyền nhưng chúng tôi biết rơ từng chiếc. Tôi đi ṿng quanh một hồi. Tôi bắt đầu với chiếc số 2, sau đó chuyển sang số 4 và lúc bị bắt th́ đang ở trên chiếc số 7. Chúng tôi không chỉ đơn thuần là những người lái tàu mà c̣n được huấn luyện làm người nhái.
    Tôi nghĩ rằng chúng tôi ra đi vào ngày l3/8/1963 và tới vịnh Hạ Long vào ngày 15. Tôi phụ trách toán xâm nhập và chọn 5 người lên một chiếc thuyền cao su. Khi tôi kiểm tra khu vực đổ bộ, mọi việc lúc đầu xem ra ổn cả. Tôi biết rằng đây là một công việc quan trọng v́ chỉ huy bảo có mấy thùng vật dụng trong đó một thùng chứa 4 triệu đồng tiền Bắc Việt c̣n 2 thùng vũ khí và đạn dược. Phần c̣n lại là các vật dụng thông thường.
    Toán đổ bộ của chúng tôi vừa kiểm tra nơi đổ bộ xong th́ bị các tàu tuần tra của Hải quân Bắc Việt Nam bắn. Thuyền của chúng tôi bị tấn công khi chỉ cách bờ 100m. Không c̣n cách nào khác là phải chạy ra ngoài biển bỏ lại các vật dụng. Một vài người trong số chúng tôi bị bỏ lại trên bờ. Tôi được biết rằng thuyền của chúng tôi quay lại Đà Nẵng vào ngày 17 nhưng báo cáo là 6 chúng tôi bị giết, và 2 thuyền viên đă bị thương. Công, một nhân viên điệp báo của lực lượng đặc biệt trên tàu của chúng tôi là một trong 2 người bị thương đó. Sau này phía Bắc Việt Nam có thông báo qua đài là chúng tôi đă bị bắt. Điều này tạo ra sự mơ hồ và lo lắng thêm cho gia đ́nh tôi v́ trước đó họ đă được báo là chúng tôi bị giết.
    Trong 11 lần làm nhiệm vụ trước tháng 8 năm 1963 tôi đă không gặp bất cứ một trục trặc nào cả. Chúng tôi bị mất một thuyền viên trên tàu M1 vào cuối năm l96l. Trước đây tôi ở trên tàu đó và ít nhất đă 2 lần đến cửa sông Gianh trong các cuộc hành quân thả thuỷ lôi. Chúng tôi đă làm nổ tung một tàu của Bắc Việt Nam trong một lần hành quân. Vấn đề là ở chỗ chiếc tàu quá nhỏ. Vào lần làm nhiệm vụ cuối cùng của ḿnh chiếc tàu này đi vào Ḥn Gai và bị mất tích không để lại dấu vết.
    Tàu N4 nghe nói đă đi Hải Pḥng 2 lần và quay ra an toàn. Trên tàu có Thanh, một điệp viên đơn tuyến sau này bị chết trong tù. Tôi đă đi tới tận Móng Cái sát biên giới với Trung Quốc và vào tận Đèo Ngang Hà Tĩnh với tàu N7. Vào khoảng tháng 6 năm 1962 tàu N2 bị mất tích trong khi đưa một toán người nhái đi thả thuỷ lôi. Đó là những mất mát duy nhất của chúng tôi. Thuỷ thủ đoàn của tôi tàu N7, là toán cuối cùng bị mất tích. Sau đó tôi cũng không biết việc ǵ đă xảy ra. Nhưng qua các lính biệt kích trong tù tôi được biết rằng đă có một vài cuộc hành quân phá hoại ở Đồng Hới.
    Vào lúc chúng tôi phải ở lại trên bờ, tôi không tài nào hiểu được tại sao mà người Bắc Việt lại phát hiện được chúng tôi đến đó. Khi ở trong tù tôi nghe người ta nói về một điệp viên đôi đó chính là người mà chúng tôi vào bắt liên lạc ở Ḥn Gai. Có thể anh ta là nguyên nhân gây nên hậu quả cho chúng tôi, nhưng tôi không hoàn toàn chắc chắn.
    Tôi đoán rằng lực lượng an ninh Bắc Việt không phát hiện ra việc chúng tôi phải ở lại trên bờ. Chúng tôi phải lên đường bằng con thuyền cao su và không c̣n sự lựa chọn nào khác. Tất nhiên là chúng tôi không thể ở lại đó. Chúng tôi chèo thuyền ra biển và 5 ngày sau mới đến Kiến An gần thành phố Hải Pḥng. Chúng tôi thực sự bị kiệt sức v́ đói và mong kiếm được ǵ để ăn trên bờ rồi sẽ t́m đường trở vào Nam. Chúng tôi bị bắt ở ngoài Kiến An vào ngày 20/8/1963. Họ dẫn giải về Hải Pḥng và giam chúng tôi trong nhà tù Trần Phú. Ở đó chúng tôi đă bị tra hỏi trong suốt 5 tháng trời. Sau đó bị đưa ra toà, bị kết tội làm gián điệp và lĩnh án 20 năm tù lao động khổ sai. Chúng tôi bị đưa đến trại Bất Bạt và sau đó lại đưa đến Yên Thọ giam chung với các lính biệt kích khác. Trong ṿng 19 năm tiếp theo là lao động và cải tạo giáo dục. Không có ǵ khác.
    Vào tháng 5/1963, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân chỉ thị cho đô đốc (Admiral) Felt phát triển kế hoạch yểm trợ nhũng cuộc hành quân bí mật "Nam Việt Nam" thực hiện các hoạt động chống phá miền Bắc. Vào tháng 6, ông ta chuyển bản kế hoạch 34 cho hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Bản kế hoạch dựa trên giả thuyết cho rằng việc tăng cường hành quân bằng cách này cách khác có thể làm cho Bắc Việt Nam phải giảm bớt các hoạt động quân sự ở miền Nam.
    Colby vẫn đang vật lộn với chiến dịch cài răng lược và đang bàn tính các cuộc hành quân phục vụ cho kế hoạch 34 khi mà lực lượng vũ trang An ninh Nhân dân Bắc Việt Nam phải đương đầu với nỗ lực của CIA tăng cường hoạt động ra Bắc Việt Nam.
    Lực lượng Công an vũ trang Nhân dân đă từng biết đến các cuộc xâm nhập của các toán biệt kích bán quân sự vào mùa mưa ở các vùng khác nhau của đất nước. Có lẽ không có ǵ làm ngạc nhiên trước việc Washington bất ngờ tấn công miền Bắc, các toán của năm 1963 được thả xuống trên các trục đường giao thông chính nhằm phá hoại đường vận chuyển vật dụng bằng đường bộ và bằng đường sắt từ Trung Quốc qua Bắc Việt và vào căn cứ. Dưới đây là đoạn viết về giai đoạn này:
    "Vào đêm 4 tháng 6, ba toán được đưa vào ba tỉnh khác nhau: một toán 5 người được đưa vào Lào Cai, toán 7 người vào Yên Bái và toán 6 người xâm nhập vào phía Tây Bắc của vùng Uông Bí. Nhưng tất cả đều bị bắt. Vào ngày 7 tháng 6 một toán xâm nhập vào Thanh Hoá và một toán khác vào Ninh B́nh. Cả 2 toán cũng đều bị bắt. Ngày 9 tháng 6 một toán xâm nhập vào Hà Tĩnh và một toán vào Nghệ An. Cả 2 toán này cũng bị bắt.
    Việc đưa ồ ạt các toán gián điệp đă đặt lực lượng Công an Nhân dân vũ trang vào t́nh trạng báo động chiến đấu cấp 1, và nhanh chóng chuyển sang t́nh trạng báo động cấp 3.
    Tiếp theo vào ngày 3/7 một toán được đưa vào tỉnh Hà Tĩnh và 1 toán khác xâm nhập vào một vùng cách không xa Yên Bái. Tất cả các toán này đều bị bắt và đều được đưa tin trên đài phát thanh Hà Nội. Qua thẩm vấn các lính biệt kích, người ta phát hiện ra rằng các toán này có nhiệm vụ phá hoại và kiểm soát sự xâm nhập vào Lào qua các đường 217, 15, 7 và 8.
    Vào ngày 12/8 một toán 2 người nhảy dù xuống Lai Châu để hợp lực với toán REMUS ở miền Tây Bắc. Một trong những người sống sót than phiền về số phận của họ như sau:
    "…Tôi xung phong tham gia vào hoạt động này năm 1961. Tôi là một thợ sửa chữa điện đài bậc trung trong quân đội và được chuyển về Sài G̣n. Một người bạn tôi đă được tuyển mộ trước đó tên là Lữ Thế Toàn cho tôi biết anh ta tham gia vào Sở khai thác địa h́nh. Công việc có vẻ rất hấp dẫn. Lúc đó tôi mới 22 tuổi. Chúng tôi c̣n trẻ và sẵn sàng đối đầu với bất cứ việc ǵ.
    V́ vậy tôi đă nộp đơn và chờ măi mà vẫn không có ǵ xảy ra. Sau đó vào năm 1962 một trong những người tuyển mộ tiếp cận tôi. Đào Vĩnh Lộc, mà mọi người gọi là Mau. Họ cần tuyển thêm người và tôi đoán tay nghề của tôi là người mà họ đang cần t́m. Cả 2 chúng tôi, Bế Ích Đàm và tôi sống trong một căn hộ nhỏ ở phố Trầu Hưng Đạo. Cuối cùng họ nói rằng chúng tôi sắp được đưa đi đào tạo thực hiện các nhiệm vụ phá hoại và bắt đầu theo một chương tŕnh đào tạo từng bước. Ban đầu là ở Thủ Đức, sau đó chuyển về Long Thành. Căn cứ Long Thành vừa mới được xây dựng xong năm 1963 và thiếu tá Hưng thực hiện chương tŕnh huấn luyện cho chúng tôi trong một kho đạn cũ vừa sửa lại.
    Tôi biết đă có nhiều người được tung ra Bắc nhưng chưa có ai quay trở về. Gia đ́nh vẫn nhận được tiền lương của họ và vẫn ngóng họ từng ngày. Đó chỉ là điều tự nhiên, tôi là một người dân tộc Thái trắng ở Lai Châu và chú của tôi Diêu Chính Thạch đă tham gia xâm nhập trong toán REMUS năm 1962, do đó tôi vẫn giữ quan hệ với gia đ́nh chú ấy.
    Vào một ngày viên sĩ quan hành quân Đào Vĩnh Lộc nói rằng chúng tôi sắp lên đường làm nhiệm vụ và Ngô Thế Linh lần lượt chỉ thị nhiệm vụ cho từng người. Cả hai chúng tôi sẽ nhảy dù xuống Lai Châu để hỗ trợ cho toán REMUS. Họ bảo rằng chúng tôi không cần ám hiệu v́ REMUS đă báo cáo là mọi việc đều ổn nhưng họ cần thêm người. REMUS vừa gây dựng xong một căn cứ và cần có người để tham gia vào việc phá hoại cầu và đường nên chúng tôi được giao nhiệm vụ đó. Họ đưa chúng tôi vài ám tín hiệu riêng để nhận biết chắc chắn người chúng tôi gặp là người của toán
    REMUS, nhưng họ cũng bảo chúng tôi là không có ǵ phải lo lắng cả.
    Chúng tôi ra đi ngày 12/8 trên máy bay vận tải C123 cùng với một phi hành đoàn người Đài Loan. Chúng tôi bay qua khu vực đổ bộ thấy trên mặt đất có ánh đèn. Chúng tôi nhảy dù từ độ cao gần 1000 feet cùng với 4 thùng lớn. Trong thùng có chất nổ và thức ăn mà lúc ở Sài G̣n họ đă cho biết.
    Chúng tôi tiếp đất lúc 2 giờ sáng và ở lại đó chờ sáng. Vào khoảng 8 giờ 30 sáng chúng tôi đi ḷng ṿng thăm ḍ th́ bị một số người mặc quần áo đen áp sát, trên vai họ có súng. Ư nghĩ đầu tiên của tôi là họ có thể là người của REMUS nhưng tôi đă lầm. Khi anh ta tới gần tôi th́ giơ súng chĩa vào mặt tôi và bảo giơ 2 tay lên. Hoá ra anh ta là một Giám thị trại giam của Công an vũ trang nhân dân cùng một vài dân quân địa phương đi t́m chúng tôi. Thế là chúng tôi không bao giờ nh́n thấy bốn thùng hàng đi theo nữa.
    Họ giữ chúng tôi ở đó 3 ngày rồi chuyển sang một trại có lính canh. Ở đây tôi gặp Diệu Chính Thạch người của toán REMUS. Anh ta làm điện đài. Chúng tôi ở đó 1 tuần và được chuyển về nhà tù Thanh Tŕ ngoại thành Hà Nội. Chúng tôi bị giữ tới năm 1969 và sau đó được chở đến Phong Quang bằng đường thuỷ.
    Tôi có 2 bản đồ định vị mà Ngô Thế Linh đưa cho, một bản dự tính chuyển cho Diệu Chính Thạch trưởng toán REMUS. Bản đồ bao gồm một khu vực rộng từ Điện Biên Phủ tới phía Đông dọc theo tuyến đường 41 nối liền với Tuần Giáo.
    Tất cả cầu dọc theo tuyến đường dự tính phải phá đều được đánh dấu bằng bút ch́ đỏ.
    Ban đầu tôi không muốn nói ǵ cả. Nhưng khi họ cho tôi gặp chú tôi và điều đầu tiên ông ta hỏi là: "Gia đ́nh có khoẻ không? Hàng tháng họ có nhận được lương hay không?" Tôi bảo chú rằng gia đ́nh vẫn khoẻ và vẫn nhận được lương đều.
    Sau khi chúng tôi bị bắt, rơ ràng việc tồn tại của các toán biệt kích là do cơ quan an ninh miền Bắc muốn tuyên truyền cho mọi người biết về sự hiện diện của người Mỹ ở Việt Nam. Chúng tôi cũng là người Việt Nam nhưng cán bộ cơ quan An ninh lại gọi chúng tôi là lính biệt kích Mỹ. Đó là cách nói để gắn sự liên hệ giữa người Mỹ với các cuộc hành quân của chúng tôi chứ không phải là người Mỹ trực tiếp làm việc này. Thay vào đó các cán bộ cố gắng nhấn mạnh thực tế là Việt Nam bị Mỹ xâm lược. Phần lớn những người sống ở nông thôn tŕnh độ thấp, không hiểu rộng, họ tin vào những ǵ cán bộ bảo họ và điều đó giúp họ huy động được dân chúng, dẫu rằng chúng tôi cũng đều là người thuộc các dân tộc ít người.
    Sau đó REMUS báo cáo thành công lớn nhất về Sài G̣n. Họ thông báo là đă gài ḿn trên một đoạn đường vào ngày 18/11.
    Toán SWAN đổ bộ vào ngày 4/9, toán BULL đổ bộ vào Hà Tĩnh ngày 7/10 và toán RUBY bị bắt ngay sau khi xâm nhập Hà Tĩnh vào cuối tháng 12. RUBY cố gắng chạy trở lại miền Nam nhưng đă bị bắt gần tỉnh Quảng Trị. Việc bắt các toán biệt kích đều được Hà Nội thông báo và cơ quan thông tấn của nước ngoài đưa tin, được CIA thu lại một cách đầy đủ.
    Suốt mùa thu, kế hoạch 34 phải ngừng thực hiện. Tại trụ sở của CIA, Colby phải tuyên bố tŕ hoăn việc thực hiện kế hoạch là do kết quả đàm phán giữa CIA và Lầu Năm góc về việc chuyển giao cuối cùng các nỗ lực bán quân sự và tiếp tục kế hoạch 34. Colby cũng bị lôi kéo vào quyết định của Washington là nên hay không nên tiếp tục ủng hộ Tổng thống Diệm. Quân bài sau chót được ném ra khi Washington thẳng thừng từ chối không tham gia ngăn chặn những kẻ nổi dậy ở Sài G̣n làm đảo chính lật đổ Tổng thống Diệm vào ngày 1/11.
    Vào ngày 3/11 cả Diệm và em trai Ngô Đ́nh Nhu bị giết chết, số phận của Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu cũng vậy. Trong ṿng 2 tuần sau vụ ám sát Tổng thống Diệm, tướng Paul Harkins chỉ huy cơ quan viện trợ quân sự Việt Nam (MACV) điện báo cho đô đốc Felt rằng "khí hậu tốt" cho việc tiến hành các cuộc hành quân bí mật.
    Vào cuối năm 1963. các nhà lập kế hoạch tại nhóm đặc biệt của Hội đồng An ninh quốc gia, các nhân viên cơ quan Trợ lư đặc biệt Chống nổi dậy và Các hoạt động đặc biệt (SACSA) ở văn pḥng Bộ Quốc pḥng (OSD) tại Lầu Năm góc, các nhân viên CIA đáng ra phải nhận thức được khái niệm các toán biệt kích người Việt giống như các toán biệt kích của tướng Lansdale ở CuBa trong suốt mùa hè năm 1962 không mang lại kết quả ǵ. Từ những kỳ vọng của Hà Nội, những vấn đề tồn tại chính là thời điểm và điều kiện sẽ thúc đẩy Washington tiến hành tấn công ra Bắc Việt. Đối với Washington, câu trả lời sẽ được t́m thấy ở "kế hoạch 34A". Bộ chỉ huy ở Thái B́nh Dương đă thúc đẩy mạnh mẽ các chiến dịch ném bom trong giai đoạn 2 của "Kế hoạch 34A!”. Trợ lư An ninh Quốc gia của Tổng thống Mỹ là ông Mc George Bundy đă tích cực nghiên cứu kịch bản “Kế hoạch 34A" để chiến dịch ném bom đă được chấp thuận sớm trợ giúp cho "Kế hoạch 34A".
    Last edited by alamit; 21-10-2012 at 01:31 AM.

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    G


    Phần II. CÁI GIÁ CỦA SỰ KHÔNG HIỂU BIẾT

    Phần II.
    CÁI GIÁ CỦA SỰ KHÔNG HIỂU BIẾT
    (1964-1965)
    5. GIẢI PHÁP MC NAMARA
    Việc thực hiện chương tŕnh bí mật của giới lănh đạo chóp bu trong chính quyền Diệm do Trần Kim Tuyến chỉ đạo đă loại bỏ được một trở ngại chính trị mà từ lâu làm cho một số quan chức Washington phải lúng túng. Sự dàn xếp những vấn đề trong giới lănh đạo sau cuộc đảo chính làm phức tạp thêm những biểu hiện của tinh thầu chống Diệm được một số người Việt Nam sử dụng để thanh toán các mối hận thù xưa, cho dù mối thù đó là có thật, hoặc do người ta tưởng tượng ra. Các nhân vật lần lượt bị thanh lọc, bị vạch mặt chỉ tên và bị buộc tội là làm mật vụ cho Diệm. Những người phụ trách các chương tŕnh miền Bắc và miền Nam đều sống sót, nhiều người trong số họ đă tham gia tích cực vào các hoạt động an ninh nội bộ cho chính quyền Diệm, trong khi đó th́ dường như CIA đang chuẩn bị cho giai đoạn cuối cùng để bàn giao hoạt động gián điệp biệt kích sang cho Lầu Năm góc.
    Ở Huế, Ngô Đ́nh Cẩn và 7 người khác kể cả Phan Quang Đông đều bị xử tử. Cố đại tá Tung đă bị một nhân vật tham gia vào vụ đảo chính là chuẩn tướng Lê Văn Nghiêm thay thế làm tư lệnh các lực lượng đặc biệt. Nghiêm chỉ giữ chức vụ này trong mấy tháng th́ bị đại tá Lam Sơn thay thế. Cả hai người đều nhậu được rất ít sự tín nhiệm của các nhân viên cấp dưới, những người mà cuối cùng kế hoạch 34A phải dựa vào họ để thực thi. Trần Khắc Kính, là cấp phó lâu năm của Tung cũng đă bị gạt bỏ trong cuộc đảo chính. Tổng hành dinh lực lượng đặc biệt miền Nam tiếp tục đường lối chỉ huy của Ngô Thế Linh, ông ta chỉ đạo các hoạt động quan trọng đánh ra miền Bắc của Pḥng 45 để giúp đỡ kế hoạch 34A. Trần Văn Minh người đă lâu năm chỉ huy các hoạt động t́nh báo ở Nam Việt Nam của pḥng 55, vẫn tiếp tục chỉ huy các hoạt động này nhưng phải đối phó với tinh thần tan ră của lực lượng an ńnh biên giới mà lâu nay CIA vẫn giúp đỡ và chỉ đạo. Khi đảo chính ông ta có bị bắt giam một tháng, nhưng sau đó Mỹ gây áp lực nên được thả ra.
    Đối với nhân viên các toán biệt kích bán quân sự vẫn c̣n trong các căn cứ an toàn của CIA ở Sài G̣n. Dấu hiệu đầu tiên cho thấy là họ sẽ được chuyển sang cho Lầu Năm góc quản lư vào giữa tháng 11/1963, khi các sĩ quan tác chiến bắt đầu di chuyển từng nhóm đến Cẩm Yên, đến trung tâm huấn luyện Quyết Thắng, phía Đông Sài G̣n gần Long Thành. Họ giải thích rằng việc chuyển đổi này là cần thiết để xác định xem bác sĩ Tuyến có bao nhiêu toán và làm rơ căn cước từng người trong mỗi toán.
    Tại Long Thành họ được bố trí ở trong một Trung tâm huấn luyện quân sự chính quy. Từ đầu năm đó các toán biệt kích khác đă được huấn luyện ở đây. Một cựu toán phó đă kể lại rằng người ta đă hứa hẹn với họ ở Long Thành như thế này:
    “… Chúng tôi được tuyển mộ để tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật chống Bắc Việt. Sự tồn tại của mỗi toán biệt kích và lai lịch từng toán viên đều phải được giữ bí mật, tránh mọi con mắt ṭ ṃ thậm chí phải bí mật với cả các toán khác. Đây là nhằm mục đích bảo vệ mọi người. Không một ai, ngoài toán trưởng và các sĩ quan huấn luyện biết về sự tồn tại của chúng tôi. Chúng tôi đều biết rơ là ḿnh rất có thể bị tóm, và cũng hiểu rằng càng biết ít bao nhiêu càng có lợi cho tất cả chúng tôi bấy nhiêu.
    Khi người ta đưa chúng tôi đến một trung tâm huấn luyện trung ương mà không đề cập đến lư do và các biện pháp giữ bí mật th́ điều đó đă vi phạm nguyên tắc cơ bản về bí mật ngăn cách chặt chẽ của loại h́nh hoạt động này rồi. Chẳng hạn như khi tới Long Thành, tôi thấy đă có hơn một chục toán ở đấy và tôi làm quen với họ. Nghe giọng địa phương của họ là tôi đoán biết họ sẽ được đánh đi đâu. Tôi cũng được biết rằng trong họ không có toán nào hoàn thành nhiệm vụ và từ miền Bắc trở về cả! Điều này chứng tỏ là tôi đă biết quá nhiều!
    Đáng lẽ không bao giờ được làm như vậy. Họ đă vô hiệu hoá chúng tôi bằng cách vi phạm những nguyên tắc cơ bản mà chính họ dậy chúng tôi. Hơn nữa, chính họ đă ủng hộ Tổng thống Diệm và khi Tổng thống Diệm bị giết, họ lại khoanh tay đứng yên. Với Tổng thống Nam Việt Nam mà họ c̣n đối xử như vậy th́ đối với bọn tôi họ có thể thanh toán một cách dễ dàng nhanh chóng.
    Người ta không thể tưởng tượng được việc chuyển đến Long Thành đă ảnh hưởng đến tinh thần chúng tôi như thế nào. Trước đây CIA đă phải t́m mọi cách mới giấu kín được việc không cho toán này biết toán khác, nhưng quân đội Mỹ th́ khác họ đă đem phô bày chúng tôi ra trước mọi người. Có thể chúng tôi chẳng thích thú ǵ cách làm của CIA khi họ giấu kín mỗi toán chúng tôi ở một nơi riêng biệt, nhưng chúng tôi chấp nhận sự bố trí ấy v́ đó là cách làm cần thiết cho loại h́nh hoạt động này.
    Đưa chúng tôi đến Long Thành có nghĩa là bảo chúng tôi rằng các anh không cần giữ bí mật nữa. Có lẽ người ta không muốn nói như thế nhưng điều ấy đối với chúng tôi lại có nghĩa thư vậy, và nếu người ta không cần quan tâm đến việc giữ bí mật nữa tức là người ta cũng chẳng quan tâm ǵ đến việc bảo vệ chúng tôi nữa.
    Điều ǵ đă xảy ra? Chúng tôi bắt đầu có đào ngũ. Trước khi đảo chính Diệm, không bao giờ xảy ra nhiều như thế, nhưng từ đầu năm 1964 việc đào ngũ bắt đầu xảy ra và cứ tăng dần. Tại sao chúng tôi phải làm việc cho người ta, mà rơ ràng là chẳng một ai quan tâm ǵ đến việc bảo vệ chúng tôi?
    Những nhận xét trên đă được sự đồng t́nh của viên cựu chỉ huy các hoạt động bán quân sự bí mật ở Nam Việt Nam. Ông nói:
    “…Tôi chắc bọn họ đều cảm thấy như thế và tôi cũng đồng ư với các kết luận của anh ta. Sau tháng 11/1963 là một thời kỳ hỗn loạn, không có những người lănh đạo có trách nhiệm. Không ai biết ai là người phụ trách, khó mà t́m được một người nào đó để đưa ra một quyết định về bất cứ một công việc ǵ. Tôi được dự kiến báo cáo với tướng Stilwell vào ngày 1/11 về các hoạt động t́nh báo ở miền Nam nhưng cuộc gặp ấy đă không bao giờ thực hiện được v́ xảy ra cuộc đảo chính. Măi đến hai tháng sau người ta vẫn chưa bố trí lại được cuộc gặp này tức là đến tháng 1/1964, sau ngày 1/1/1964 tướng Stilwell đến gặp tôi và tôi đă tŕnh bày với ông. Ông ấy yêu cầu tôi cứ ở lại, tôi báo cáo rằng tinh thần của các lực lượng pḥng vệ, dân vệ (CIDG) đang tan ră. Có thể là do chúng tôi đă mắc sai lầm giữ bí mật quá không cho họ biết ǵ cả. Không bao giờ chúng tôi tiết lộ cho họ điều ǵ. Chúng tôi làm thế cốt là để bảo vệ họ. Tôi cho là chúng tôi chưa bao giờ chuẩn bị cho họ đối phó với những ǵ có thể xảy ra nếu họ bị bắt.
    Ngày 20/11, lúc Sài G̣n đang hỗn loạn và hai ngày trước khi Tổng thống Kenedy bị ám sát các quan chức cao cấp của Washington đă
    họp với các quan chức Sài G̣n và Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương ở Honolulu. Nhiệm vụ cuộc họp này là đánh giá t́nh h́nh để t́m lối thoát khỏi t́nh trạng hỗn loạn sau chính phủ Diệm bị lật đổ và đề ra các chi tiết để chuyển giao chương tŕnh tăng cường các hoạt động biệt kích chống Bắc Việt.
    Cùng dự họp với giám đốc CIA là John. Mc. Cone, Colby biết rơ rằng: năm 1961, Tổng thống Kenedy đă chỉ đạo chuẩn bị chuyển giao các hoạt động bán quân sự của CIA sang cho Lầu Năm góc, và hai năm tiếp sau đó đă chứng kiến một quá tŕnh chuyển giao dần dần các hoạt động này.
    Colby nhớ lại quá tŕnh chuyển giao đó:
    Kết luận (năm 1961) là nếu một chiến dịch bán quân sự lớn th́ phải bàn giao sang quân đội. Khi nhận được lệnh bàn giao th́ chúng tôi bàn giao cả hoạt động ở miền Bắc lẫn ở miền Nam.
    Tuy nhiên hồi năm 1962, Colby đă có bằng chứng rơ ràng về các toán của ông ta bị miền Bắc bắt và một số trường hợp họ đă khống
    chế, điều khiển các buổi truyền tin của nhân viên điện đài. Người ta biết được việc này là do các nhân viên điện đài đă miễn cưỡng làm theo chỉ thị và đă báo động cho chỉ huy sở biết là họ đă buộc họ phải truyền đi các bức điện đó.
    "Việc ấy", Colby nhấn mạnh: "Tôi c̣n nhớ như in".
    Colby nhớ rằng các bức điện như vậy được đánh đi từ tận sâu trong miền Bắc , không nói rơ là các điện báo viên bị người miền Bắc khống chế. Các bức điện đố đă nhắn gửi Colby một nội dung đầy đủ hơn:
    Các bức điện cho tôi biết rằng công việc không có hiệu quả. V́ vậy phải ngừng lại. Nhưng viên phó trung tâm của tôi lại quan tâm đến nó và ông luôn nhắc như hét vào tai tôi điều đó. Viên phó của tôi, ông Bob Myers, mang đến cho tôi một báo cáo tóm tắt về những hoạt động không thành công của chúng tôi ở Liên Xô, Triều Tiên, Trung Quốc. Ông ta bảo là các hoạt động ở đây kết quả cũng chẳng hơn ǵ, thế th́ tại sao ông không sớm chấm dứt cái của nợ ấy đi? Đó là lúc tôi đă cho ngừng các hoạt động đó và chuyển sang hoạt động tâm lư chiến. Lúc ấy là đúng thời gian chuyển giao. Bên quân sự muốn chuyển giao th́ chuyển, không có vấn đề ǵ cả.
    Colby kể lại cuộc họp quyết định hồi tháng 11 ở Hawai khi ông ta đưa ra những lo lắng nghề nghiệp để làm cho Bộ trưởng Quốc pḥng Robert Mc.Namara phải chú ư: “…Tôi đứng dậy nói: Thưa ngài Bộ trưởng, chẳng có tác dụng ǵ đâu”.
    Tôi hỏi Colby:"Thế Mc Namara trả lời sao?". Colby trả lời không do dự:
    "Ông ta im lặng. Tôi nghĩ rằng ông ta vẫn đinh ninh là ḿnh đang hành động đúng. Chuyển nó sang cho quân đội để quân đội dùng sức mạnh hỗ trợ cho một chương tŕnh như thế này sẽ tạo ra một tác động về chiến lược. Anh biết ông ta rất coi trọng số lượng. Nếu anh có 3.000 anh sẽ thu hoạch được nhiều hơn là anh có 300. Điều đó thực ra không phải lúc nào cũng trở thành chân lư. Ông ta nghĩ rằng sức mạnh bổ sung mà Bộ Quốc pḥng đặt đằng sau kế hoạch Alpha 34A sẽ làm cho hoạt động này có hiệu quả. Tôi cho rằng đó chính là điều mà ông ta nghĩ. Thật đáng buồn cho anh chàng chiến lược Mc Namara. Anh thấy đấy, ảnh hưởng đă tác động mạnh đến con người ta như thế nào.
    Anh c̣n nhớ cuộc nói chuyện của ông ta với Des Fitz Gerald chứ? Một tay trứ danh, khi Des nói "Thưa ngài Bộ trưởng, công việc tiến triển không được tốt lắm". Ông ta nói: "Ô, có đấy chứ! Hăy nh́n vào tất cả các con số về những ǵ mà chúng ta đang bổ sung them, thêm nữa." và Des nói: "Thưa ngài Bộ trưởng, về mọi phương diện trong chiến tranh, có một thứ quan trọng hơn các con số rất nhiều, đó là tinh thần". Des nói:"Mc Namara nh́n ông ta chằm chằm và không hiểu ǵ cả. Đừng bao giờ nói với ông ta nữa".
    Nhà phân tích t́nh báo của CIA là George Carver đă đưa ra nhận xét về viễn cảnh riêng của ḿnh về bầu không khí trong buổi giao thời như sau:
    - Diệm đổ làm Cộng sản bất ngờ. Họ nhận thấy có hàng loạt vấn đề, nhưng không thấy chính xác vấn đề ǵ sắp xảy ra, họ không nhúng tay vào việc lật đổ Diệm. Thật ra, họ đă thận trọng đứng ngoài cuộc. Sau khi Diệm chết, Bắc Việt đứng trước một cơ hội lớu và một hiểm hoạ lớn. Mối hiểm hoạ là sau thời gian cải tổ không thể tránh khỏi, sẽ có một Chính phủ sau Diệm, với sức mạnh của Diệm mà không có những điểm yếu của ông ta. Đó chính là tai hoạ. C̣n cơ hội là "chớp lấy thời cơ" trước khi một Chính phủ kế tục được ổn định. Quả nhiên trong năm 1963 họ thực sự bắt đầu leo thang quân sự.
    Ngày 26/11, bốn ngày sau khi Tổng thống Kennedy chết và Lyndon B. Johnson tuyên thệ nhậm chức Tổng thống, Hội đồng An ninh Quốc gia đưa ra bản giác thư hành động v́ An ninh Quốc gia (NSAM) 273 tái khẳng định tiếp tục các chính sách của Mỹ do Chính quyền Kennedy vạch ra trước đó. Dựa vào một giai đoạn trước đó với các sự kiện chưa có ǵ đe doạ lớn, nên Chính quyền Johnson đă khẳng định lại sự ủng hộ một miền Nam Việt Nam độc lập và Mỹ sẽ rút 1000 quân vào cuối 1963. Mỹ cũng tuyên bố sẽ chấm dứt các cuộc nổi dậy tại 3 quân đoàn phía Bắc Nam Việt vào cuối 1964 và cuộc nổi dậy ở đồng bằng sông Cửu Long vào cuối 1965. C̣n đối với các hoạt động biệt kích chống miền Bắc: "kế hoạch đ̣i hỏi phải tiến hành các hoạt động bí mật chống Bắc Việt Nam và tiến sâu vào lănh thổ Lào tới 50 km".
    Mặc dầu NSAM 273 cung cấp một cơ chế chính thức để nhắc lại các mục tiêu hiện tại của Mỹ, tiếp theo sau sự thay đổi người đứng đầu hành pháp, những đánh giá của Hội đồng An ninh quốc gia đă bị coi là cổ lỗ, không hợp thời và bị công kích mạnh do những cố gắng ở hậu trường nhằm tăng cường sự can thiệp của Mỹ chứ không phải làm giảm dần sự can thiệp.
    Thế chiến lược quốc gia của Washington ở thời điểm đó là ǵ? Colby nói:
    "Dùng răng mà giữ chặt lấy. Trước hết toàn bộ tư tưởng chiến lược coi như bị trói chặt cho đến tận 1/11 về vấn đề để Diệm hay không
    có Diệm. Đây là chủ đề duy nhất được bàn đến ít nhất trong năm tháng trước. Sau đó, lập tức vấn đề lại trở thành thúc bách chúng ta phải làm ǵ bây giờ đây? Chúng ta phải làm sao ḥa trộn một vài hợp chất với nhau mà sự vật không biến đổi ?”
    Washington đă vươn tới đội quân hoạt động bí mật người Việt Nam (do nhóm đặc biệt kiểm soát thông qua Colby ở CIA), hiện đang ở giai đoạn cuối cùng của sự bàn giao chính thức từ CIA sang Lầu Năm góc, mà mỗi cấp trong bộ máy quân sự, trên giấy tờ đều lập luận là những hoạt động đó có thể gửi cho Hà Nội một bản thông điệp. George Carver không tán thành quan điểm chính thức của Lầu Năm góc về bất cứ một giá tŕ đặc biệt nào của kế hoạch này được đề ra trong các tài liệu lịch sử của nó:
    - Tôi không mong đợi ǵ nhiều vào kế hoạch 34 A (kế hoạch Alpha 34). Chủ yếu nó chỉ là một hoạt động bán quân sự nhằm mục đích phá hoại và một vài mục đích khác. C̣n thu thập tin tức t́nh báo chỉ là thứ yếu. Nhưng tôi cho là đáng làm. Tin tức t́nh báo nó thu lượm được ư? Tôi không nhớ rơ nó có thu lượm được mẫu tin tức t́nh báo nào có giá trị không, nhưng tôi nghĩ đó là một cố gắng đáng làm, mặc dầu người ta phải thừa nhận rằng nó sẽ không thành công lắm.
    Đầu tháng 12, những người lănh đạo các hoạt động t́nh báo của Lầu Năm góc bắt đầu chú ư nhiều đến các thủ tục cần thiết để tiếp quản các hoạt động bí mật của CIA đánh sang Nam Lào. Như sau này MACSOG đă làm thử ở Sài G̣n, Washington đă ngăn không cho chuyển các hoạt động ở Lào sang cho MACSOG (nhóm quan sát và nghiên cứu thuộc bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam Cộng hoà) mà vẫn giữ chúng dưới sự chỉ huy của CIA. Những bức điện của Washington gửi Bộ chỉ huy quân sự Sài G̣n đă nói bóng gió đến Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào và việc cấm các lực lượng nước ngoài có mặt ở Lào là cốt lơi của vấn đề c̣n đang được xem xét lại.
    Trong bối cảnh quyết định của Kennedy chuyển các hoạt động bán quân sự sang Lầu Năm góc. Nhóm đặc biệt không có khó khăn ǵ trong việc phê chuẩn các hoạt động của CIA vào Lào trong những năm 1962-1963. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1962 trong khi vẫn sử dụng các sĩ quan huấn luyện của các lực lượng đặc biệt quân đội Mỹ và các lực lượng đặc biệt Nam Việt Nam. Thế mà bây giờ Washington lại không cho chuyển giao cùng hoạt động bán quân sự đó sang Lầu Năm góc.
    Phải chăng Mỹ đợi cho đến khi Nam Việt Nam có mặt lănh đạo thống nhất rồi mới tiếp tục các hoạt động biệt kích? Phải chăng t́nh h́nh hỗn loạn ở Sài G̣n đă không cho phép Washington tiếp tục các hoạt động chống Bắc Việt Nam mà không cần sự đồng ư về chính trị của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà? Phải chăng v́ mất đại tá Lê Quang Tung và vắng bóng bác sĩ Tuyến đă làm tê hệt Sở khai thác địa h́nh cho nên các hoạt động biệt kích do Mỹ chỉ đạo không thể tiến hành được nếu không có sự chấp thuận của giới lănh đạo quốc gia Sài G̣n?
    Một phần câu trả lời cho những câu hỏi này có thể t́m thấy trong một thực tế là: trong khi các trưởng phái bộ quân sự và ngoại giao Mỹ than phiền về việc thay đổi liên tục trong chính trường Sài G̣n th́ lực lượng đặc biệt miền Nam Việt Nam và Ngô Thế Linh tiếp tục thỏa măn các yêu cầu của Mỹ sau khi Tổng thống Diệm chết và trước khi chính thức thực thi kế hoạch 34A. Như vậy, Mỹ vẫn tăng cường hoạt động mà không cần sự chấp thuận về chính trị của Sài G̣n thông qua sự dàn xếp riêng giữa các sĩ quan quân đội Mỹ và các quan chức CIA với những sĩ quan chủ chốt của Nam Việt Nam sống sót sau cuộc đảo chính, và vẫn có quyền ra lệnh tiếp tục triển khai các toán biệt kích đánh ra miền Bắc bằng đường biển và đường không.
    Vụ hoạt động biệt kích đầu tiên sau khi Diệm chết là vào ngày 5/12/1963 khi toán RUBY nhảy dù xuống vùng rừng núi thuộc Tuyên Hoá giáp biên giới Lào. Nhiệm vụ của toán này là lập ra một đường dây bí mật trong ḷng địch rồi đợi lệnh mới. Vài giờ sau khi đổ bộ họ đă bị lực lượng công an biên pḥng miền Bắc bao vây, và ngày 6/12 th́ bị bắt. Nhân viên điện đài chính v́ chống cự quyết liệt nên sau đó đă bị tử h́nh.
    Từ lúc đánh đi một toán biệt kích cho đến lúc đánh giá được nó thành công hay thất bại cũng phải mất một thời gian. Đối với lực lượng biệt hải có thể đánh giá nhanh hơn nhiều. Từ khái niệm ban đầu bộ phận biệt hải đă sớm nổi lên thành một lực lượng biệt kích đường biển của kế hoạch 34A. Một cựu biệt kích người nhái đă mô tả:
    - Tháng 11/1963, lực lượng biệt kích trên biển gồm các người nhái Việt Nam mới huấn luyện, thuộc đơn vị pḥng vệ duyên hải đă được đánh đi thực tập lần đầu tiên từ căn cứ hải quân Đà Nẵng. Mục tiêu của toán là căn cứ hải quân Nam Việt Nam tại Cửa Việt, một cửa sông phía nam Khu phi quân sự. Nhưng rủi thay v́ gió mạnh quá nên tàu của toán không thể đổ bộ được.
    Lần đánh đi tiếp theo, lần đầu tiên với sự có mặt đầy ư nghĩa của hải quân Mỹ là tấn công mục tiêu trên đất miền Bắc . Toán này được đánh đi vào tháng 12/1963 để tấn công các tàu miền Bắc tại cửa sông Gianh tỉnh Quảng B́nh. Chỉ huy sở của các lực lượng hải quân Bắc Việt thuộc nửa phía nam của Bắc Việt nằm trong tầm dễ tấn công của các hoạt động biệt hải từ căn cứ Đà Nẵng.
    Trước ngày được đánh đi vào tháng 12/1963, toán người nhái này bị cấm trại ở trong căn cứ. Các cố vấn Mỹ cho họ xem các ảnh chụp từ trên không các tầu của Bắc Việt và hướng dẫn mọi chi tiết về nhiệm vụ của họ. Phi vụ đầu tiên không thực hiện được v́ thời tiết xấu tại khu vực mục tiêu. Tàu đành quay về Đà Nẵng.

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    H


    Triển vọng mờ mịt và phi vụ đầu không thành công đă không làm người ta nản ḷng. Hội nghị cấp cao tháng 11 ở Honolulu đă khẳng định lại sự ủng hộ đối với quyết định leo thang hoạt động biệt kích chống Bắc Việt, thể hiện trong kế hoạch 34-63 là kế hoạch được Bộ Quốc pḥng hoàn toàn ủng hộ vào tháng 8 trước đó và biết chắc là các quan chức chủ chốt sẽ ra các lệnh cần thiết trong trường hợp này. Ngô Thế Linh sẽ ra các lệnh đó v́ ông ta là người phụ trách các hoạt động biệt kích đánh ra miền Bắc, cũng như sang Lào và Campuchia.
    Cuộc họp tháng 11 kết thúc với sự thỏa thuận của CIA và Bộ Quốc pḥng cùng phối hợp vạch một kế hoạch chung đẩy mạnh các hoạt động biệt kích chống Bắc Việt. Tuy nhiên những người thực hiện kế hoạch 34 và kế hoạch sau đó thừa nhận rằng muốn thành công phải có sự ủng hộ hoàn toàn của phía Nam Việt Nam, điều mà chưa hề có. Và một môi trường hoạt động như môi trường này đă thay đổi đến mức làm cho kế hoạch trở nên lạc hậu.
    Ngày 15/12, một đề nghị hỗn hợp về sửa đổi mà quân đội Sài G̣n gọi là kế hoạch OPLAN 34A-64 và CIA lấy bí danh là kế hoạch Mănh hổ (Tiger), được gửi lên Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương ở Hawai. Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương đă biết trước nội dung của kế hoạch, và những điểm cơ bản của kế hoạch đă được thông qua, biết chắc là ở Hawai hồi tháng trước, nên đă chuẩn y kế hoạch này với chương tŕnh hoạt động 12 tháng của nó rồi gửi cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân ngày 19/12.
    Cùng ngày hôm đó, để chứng tỏ mức độ sẵn sàng của Lầu Năm góc trong việc thực thi kế hoạch biệt kích đang trong quá tŕnh được chính thức phê duyệt, hải quân đă thành lập toán yểm trợ lưu động tại Đà Nẵng để tăng cường cho cơ quan t́nh báo hải quân: cho cơ quan t́nh báo thủy quân lục chiến biên chế cho các hoạt động biệt hải đă ở trong tư thế sẵn sàng. Biên chế mới thành lập này lấy từ các thuỷ thủ Mỹ, những người vừa đưa sang Đà Nẵng các tàu phóng ngư lôi động cơ mới (PTFS). Các thuỷ thủ đoàn này đă được một toán huấn luyện sừ dụng tầu và một toán chuyên về sửa chữa, bảo quản để huấn luyện quân Nam Việt Nam sử dụng loại tầu phóng ngư lôi NASTY-do Nauy chế tạo, để sử dụng cho các cuộc tấn công từ biển chống Bắc Việt. Sau khi đến Đà Nẵng, các thành viên của thủy thủ đoàn mới biết là họ sẽ phục vụ với tư cách là các cố vấn chứ không phải là những người vận hành tầu. Họ hoàn toàn không chuẩn bị tư ǵ về chức năng cố vấn. V́ lư do hải quân đang rất thiếu các toán huấn luyện cơ động và các toán SEAL, các thuỷ thủ đoàn này tới đây để làm nhiệm vụ tạm thời, sẽ có các nhóm khác thay thế khi họ măn hạn đợt công tác ngắn ngày này.
    Ngày 21/12, Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara đi kinh lư Việt Nam về và chính thức báo cáo Tổng thống Johnson về kế hoạch 34A-64. Lịch sử giai đoạn này cho thấy rằng giới lănh đạo quốc gia Nam Việt không được chính thức thông báo kế hoạch này.
    Thực tế, sự dính líu chính trị của Nam Việt và chương tŕnh biệt kích của Washington đă bị bác bỏ và Mc Namara tin rằng Nam Việt Nam sẽ tuân theo đề nghị lập ra Uỷ ban liên bộ bao gồm đại diện của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc pḥng, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và CIA. Uỷ ban này sẽ thẩm định kế hoạch 34A và đề xuất các hành động sẽ tiến hành.
    Bộ trưởng Mc Namara báo cáo với Tổng thống Johnson rằng 34A-64 là cơ chế "tuyệt vời", ông ta lập luận rằng bằng sự gia tăng hoạt động biệt kích chống lại Bắc Việt, Bắc Việt sẽ phải xét lại việc họ xâm nhập vào miền Nam. Như thể để củng cố thêm lập trường của ḿnh, Mc Namara đưa ra lời tiên đoán đen tối rằng cần phải tiến hành một biện pháp nào đó thật mạnh mẽ: "Chiều hướng hiện tại trừ phi đảo ngược được trong ṿng 2,3 tháng nếu không ít ra cũng sẽ dẫn đến một nền trung lập và rất có thể sẽ dẫn đến một nhà nước cộng sản kiểm soát".
    Một tuyên bố như vậy thực tế đă phủ nhận dự báo trong báo cáo số 273 NSAM đưa ra vào ngày 26/11, cụ thể là ư kiến cho rằng quân đội Mỹ có thể rút về nước và cuộc chiến có thể kiểm soát được trong ṿng một năm rưới nữa.
    Mặc dù ngay từ đầu Mc Namara có thể đă quá lạc quan về khả năng thắng lợi của kế hoạch 34A, thế nhưng những người như George Carver đều không đồng ư với phát biểu của ông ta:
    - Tôi biết Mc.Namara đưa ra loại tuyên bố bóng bẩy đó, nhưng tôi không cho rằng những người tham gia vào chương tŕnh này không coi đó là những kênh đáng tin cậy để đánh đi những bức thông điệp và cơ cấu tổ chức của các hoạt động này chỉ là hoạt động bán quân sự, cho nên chúng không phải là những kênh gửi thông điệp.
    Chính sách của chúng ta là tạo ra sự kiện để bó tay Hà Nội, không cho Việt cộng quyết định tương lai chính trị của Nam Việt trước mũi súng của họ. Các bức thông điệp của chúng ta chưa đủ nặng cân. Điều mà chúng ta muốn làm là khuyến khích Bắc Việt đàm phán bằng cách nhấn mạnh quyết tâm không ǵ lay chuyển nổi của chúng ta. Nhưng vấn đề là ở chỗ anh không thể cùng làm một lúc cả hai việc là trong khi các nhà thương lượng của anh đang đọc một bài diễn văn ở Pari th́ ở Dubuque bang Iowa chính bản thân anh lại đọc một bài diễn văn khác nói rằng anh đang lo lắng làm sao rút ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt, mà không hiểu rằng cùng một lúc nội dung cả 2 bài diễn văn trên đă nằm trên bàn của các nhà lănh đạo ở Hà Nội và cũng không thấy rằng người Bắc Việt Nam nhận ra bài diễn văn ở Dubuque là quan trọng hơn diễn văn ở Pari.
    Ư đồ của kế hoạch này là tiến hành các hoạt động biệt kích, quấy rối, khiêu khích, thu thập t́nh báo, nhưng vào lúc đó không có một niềm tin chính trị sâu sắc nào đối với những người tham gia vào các hoạt động này. Kế hoạch 34A, nếu đánh giá một cách đúng đắn nhất, chỉ là một hành động quấy rối nhất thời chứ không phải là một kế hoạch chiến lược lớn.
    Chưa bao giờ xuất hiện một nhóm chủ trương đàm phán nghiêm chỉnh (ở Bắc Việt). Đó là điều làm chúng ta lo lắng trong suốt cuộc
    chiến tranh. Chúng ta th́ quan tâm đến một thoả ước hoà giải. Bắc Việt th́ quan tâm đến chiến thắng. Giữa hai bên có một hố ngăn cách về tâm lư không thể nào vượt qua được.
    Sau này nh́n lại tiến sĩ Carver, thấy rằng cách giải quyết vấn đề của Washington vào lúc đó được áp dụng ngày càng tăng trong các giai đoạn sau này của cuộc chiến tranh là sai lầm về cơ bản.
    - Chúng ta không nhận ra rằng đây không phải là vấn đề điển h́nh giữa người lao động và ông chủ. Người lao động đ̣i 2 đôla/giờ, ông chủ chỉ đồng ư trả có 1 đôla/giờ. Cả hai đều biết sẽ cùng đi đến thoả thuận 1,5 đôla/giờ. Sự mặc cả như vậy hoàn toàn khác với t́nh h́nh ở Việt Nam, vả lại ở Bắc Việt Nam chưa bao giờ có một nhóm nghiêm chỉnh muốn đạt được "một giải pháp thông qua đàm phán". Họ muốn kiểm soát miền Nam về chính trị và quyết tâm đạt được điều đó.
    Colby đă mô tả một cách chi tiết hơn về bức tranh của chương tŕnh biệt kích do ông ta chuẩn bị và vẫn gián tiếp kiểm soát, cái mà Mc Namara lúc đó coi là có thể gửi một bức thông điệp cho chính quyền Hà Nội. Như Colby nhớ lại, cụm từ "gửi một bức thông điệp" là một cái mốt của lúc bấy giờ. Nếu đem áp dụng theo ngôn từ của kế hoạch 34A th́ điều đó là vô nghĩa. Colby giảng giải:
    - Những người dùng cụm từ "gửi một bức thông điệp" chẳng hiểu họ đang nói ǵ. Họ chẳng hiểu thông điệp là cái quái ǵ, trừ cái mà Mỹ rất quyết tâm.
    Thế nước Mỹ có một chiến lược hay không?
    Đối với Colby th́ câu trả lời là:
    Không! Anh biết đấy chúng ta vẫn tiếp tục các hoạt động biệt kích. Tôi muốn nói là, CIA sắp sửa huỷ bỏ các hoạt động đó vào năm 1965. Tôi đă đi đến quyết định ấy trong hồ sơ của các hoạt động này chẳng có ǵ thành công cả. Chẳng có bất cứ hoạt động nào thật sự thành công cả và phản ứng của bên quân đội đối với điều đó là: CIA các anh chỉ làm ăn c̣ con. Anh biết đấy, chúng tôi phải nghĩ đến làm ăn to hơn. Đó là một lập trường đáng tôn trọng. Tôi không tranh luận ǵ về điều đó.
    Một quan chức khác của CIA đồng ư với đánh giá của Colby và Carver, nhưng bằng cách nói thẳng thắn hơn. John Mc Cone, Giám đốc CIA thấy Lyndon Johnson là một kẻ thích màu mè thô bạo và độc đoán trong lĩnh vực t́nh báo… Càng ngày Tổng thống hầu như chỉ dựa vào tin tức t́nh báo do Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara và Bộ Quốc pḥng cung cấp. Lời khuyên của Mc Cone không c̣n được Tổng thống đón nhận một cách tích cực. Bộ trưởng Mc Namara ngày càng trở nên quyết đoán… Phương châm "có sao nói vậy" xuất phát từ các ảnh t́nh báo có từ thời chính quyền Kennedy đă thay đổi v́ Mc Namara cứ khăng khăng rằng Bộ Quốc pḥng với cơ quan t́nh báo của nó (DIA) sẽ chịu trách nhiệm chính về các báo cáo t́nh báo để ném trả cho quân đội ở chiến trường. Mc Namara và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân bắt đầu kiểm soát chặt chẽ các nguồn tin tức gửi đến Tổng thống… Một sĩ quan của DIA chuyên báo cáo tin với Tổng thống nói rằng Tổng thống rất bi quan và khó chịu mỗi khi nhận được tin tức xấu.
    V́ thế, cuối năm 1963 có một chương tŕnh mà Colby biết là đă bị thất bại vào năm 1962 và đă được báo cáo với Bộ trưởng quốc pḥng Mc Namara tháng 11/1963, đă bị biến đổi một cách thần kỳ trên giấy tờ, từ một hoạt động t́nh báo cấp thấp của CIA trở thành viên đạn thần để gửi đi một bức thông điệp mà chính những người thiết kế ra nó cũng không bao giờ có ư định như vậy. Đại bộ phận của CIA cũng thừa biết là nó chẳng có tác dụng ǵ đến mục tiêu cả. Tuy nhiên, các viên tư lệnh mới của quân đội đă được giao trách nhiệm thực hiện một nhiệm vụ không thể nào làm được với mật danh là kế hoạch hoạt động (OPLAN) 34A.
    6. Kế HOẠCH ANPHA 34.
    Ngày 2/1/1964, Uỷ ban liên bộ báo cáo, phân tích về kế hoạch 34A-64, những nét đại cương của kế hoạch đă được chấp thuận về bốn lực lượng MACSOG sẽ sử dụng (xem phụ lục 2).
    Lực lượng hoạt động bí mật của OPLAN 34A sẽ đảm nhiệm việc tăng cường quấy nhiễu về vật chất và tinh thần ở miền Bắc, bao gồm cả việc không kích các mục tiêu thích hợp của Bắc Việt. Kế hoạch 34A được chia thành 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 4 tháng. Mức độ và phạm vi hoạt động t́nh báo sẽ tăng dần từng giai đoạn theo phê duyệt của Washington. Mục đích công khai của kế hoạch là làm cho Hà Nội hiểu rơ họ phải trả giá cao nếu họ không giảm việc đưa người của họ xâm nhập vào miền Nam. Để đảm bảo kết quả cụ thể của từng bước, th́ sau khi đă phân tích, rút kinh nghiệm hoạt động trước, rồi mới tiến hành hoạt động tiếp.
    Ngày 16/1, Bộ Quốc pḥng đă quyết định trao cho Bộ chỉ huy của tướng Harkins tại Sài G̣n chịu trách nhiệm về các hoạt động gián điệp biệt kích chống miền Bắc và nhắc lại nhiệm vụ của các cơ quan tham gia vào hoạt động này như đề nghị của Hội nghị liên bộ ngày 2/1 đă đề ra.
    Ba ngày sau, ngày 19/1 một thông điệp của Liên bộ Ngoại giao, Bộ Quốc pḥng và CIA đă được gửi đến cấp dưới của ba cơ quan này tại Sài G̣n chỉ thị chính thức thực hiện kế hoạch 34A-64. Chỉ thị này nhấn mạnh rằng các hoạt động đă được chấp thuận là có tính khả thi nhất, đem lại hiệu quả nhất và ít mạo hiểm nhất. Washington c̣n chỉ rơ rằng yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hoà phải đứng ra chịu trách nhiệm đối với một số vụ hoạt động nhất định nếu các hoạt động đó bị lộ. Ngày 21/1, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân gửi kế hoạch chi tiết cho Phái bộ Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam Cộng hoà để thực hiện. Khi nhận được sự phê chuẩn về các hoạt động bí mật nó sẽ được thực hiện theo kế hoạch 34A như đă được phê chuẩn ở Washington. Chỉ thị này nêu rơ rằng hoạt động của Washington phải được Nam Việt Nam phê chuẩn, nhưng lại né tránh những vấn đề đang c̣n bất đồng trong chính sách và chiến lược. Và nếu c̣n tồn tại lại những bất đồng đó th́ cách giải quyết ra sao cho ổn thỏa.
    Như đă được vạch ra ở Washington, sẽ có một bản danh sách các mục tiêu được phê chuẩn cho từng giai đoạn. Từ bản danh sách mục tiêu được duyệt đó, tướng Harkins làm một danh sách báo cáo Lầu Năm góc về các hoạt động mà ông ta định thực hiện trong thời gian 30 ngày sau đó. Phụ tá Bộ trưởng Quốc pḥng về các vấn đề an ninh Quốc tế sẽ xem xét danh sách đó rồi đệ tŕnh lên Nhà trắng và Bộ Ngoại giao xin phê duyệt. Một khi các mục tiêu trong danh sách 30 ngày đă được phê chuẩn, tướng Harkins lại phải xin Washington chính thức phê chuẩn rồi mới được tấn công từng mục tiêu một. Cũng ngày 21/1, đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge mới giải thích được cho tướng Dương Văn Minh ở Sài G̣n về kế hoạch 34A. Ông ta nói với Minh rằng các cấp cao nhất của Chính phủ Mỹ đă phê chuẩn kế hoạch này và ông hy vọng nhà cầm quyền Việt Nam Cộng hoà cũng sớm nghiên cứu chuẩn y và thực hiện. Minh không trả lời. Mặc dù giữ thái độ im lặng nhưng nhóm hoạt động đặc biệt "Cheney" của Nam Việt Nam đă triển khai các toán ra miền Bắc.
    Ba ngày sau, MACV chính thức thành lập một tổ chức vũ trang để thực hiện kế hoạch 34A bằng lực lượng của nó ở miền Nam, đó là nhóm công tác đặc nhiệm (SOG) dưới quyền chỉ huy của đại tá lục quân Mỹ Clyde R. Rusell. Trong lịch sử chính thức của ḿnh SOG đă ghi lại các hoạt động ban đầu và tư tưởng chỉ đạo các hoạt động bí mật như sau: SOG được thành lập vào ngày 24/1/1964 là nhóm công tác đặc nhiệm dưới sự giám sát trực tiếp của Tham mưu trưởng MACV. Nó có nhiệm vụ tăng cường quấy rối, chia rẽ, gây áp lực chính trị, bắt tù binh, thu thập t́nh báo, phá hoại cơ sở vật chất, tuyên truyền tung tin giả chia rẽ chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Theo định hướng chính sách cho các hoạt động đặc biệt nhận được từ Washington trong tháng 3 th́ người ta đang mong đợi những hoạt động như thế. Ở MACV toàn bộ kế hoạch này được mang tên MACV OPLAN 34A. Nó được đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân nhằm tăng cường chương tŕnh hành động chống miền Bắc. Lúc đầu quân số của nó rất ít ỏi và hoạt động của nó chủ yếu dựa vào số lính động viên sang Việt Nam làm việc tạm thời trong một thời gian ngắn.
    Các hoạt động của SOG được chia cho 4 nhóm với những nhiệm vụ khác nhau: nhóm biệt kích vận chuyển bằng đường không, nhóm yểm trợ hàng không, nhóm biệt kích đường biển, và nhóm tâm lư chiến. Về số lượng mà nói nhóm biệt kích đường không là đông nhất, nó tiến hành các hoạt động phá hoại nhỏ, thu tập t́nh báo, phá giao thông, và tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lư với mức độ hạn chế. Để thực hiện các hoạt động này, CIA đă cung cấp cho SOG 169 biệt kích người Việt Nam hiện đang ở Trung tâm huấn luyện gián điệp biệt kích Long Thành. Về phía miền Nam Việt Nam, thiếu tá Ngô Thế Linh phụ trách hệ thống chỉ huy đến tận từng toán. Tất cả đều trực thuộc Tổng hành dinh lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hoà do đại tá Lam Sơn chỉ huy.
    Nhóm biệt kích đường biển nhằm các mục tiêu ven biển Bắc Việt Nam, bao gồm đánh phá các cơ sở ven biển, phá các công tŕnh ven biển và thu thập t́nh báo… bên ngoài người ta cho rằng lực lượng tiến hành hoạt động này thuộc phân đội cố vấn hải quân ở Đà Nẵng, nhưng thực tế bên trong MACSOG lực lượng này được gọi là "Đội biệt hải".
    Kế hoạch 34A h́nh như đă bị một cú thất bại vào ngày 28/1, khi tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh quân đoàn 1 ở phía Bắc của Nam Việt Nam mặc quần áo dân sự, trở về Sài G̣n liên kết với tướng Trần Thiện Khiêm, tư lệnh quân đoàn 3 bao vây Sài G̣n, làm đảo chính tướng Minh và tạm thời làm vô hiệu hoá Chính phủ Sài G̣n. Điều này có nghĩa rằng lại phải thuyết phục các nhà lănh đạo mới để họ phê chuẩn kế hoạch 34A. Mặc dầu chưa có sự phê chuẩn chính thức của Chính phủ Nam Việt Nam, Washington vẫn đơn phương thực hiện, ngày 1/2 tướng Harkins đă được thông báo thực hiện giai đoạn 1 của kế hoạch 34A, được Bộ Quốc pḥng phê chuẩn, gồm 1 danh sách 33 mục tiêu tấn công do Bộ Tư lệnh hành quân đặc biệt thi hành.
    Tháng 2, SOG bắt đầu thực hiện 6 phi vụ đầu tiên của giai đoạn 1 th́ 5 phi vụ là để cung cấp hậu cần cho các toán biệt kích mà CIA đă đánh đi trước đó, 4 phi vụ trong đó không thành công, phi vụ thứ 5 là thả dù tiếp tế cho 1 toán, phi vụ 6 là cuộc tấn công các tầu miền Bắc đang neo đậu ở cửa sông Gianh-Quảng B́nh cũng thất bại nốt. Sóng to làm đắm một tàu và gần như toàn bộ ḿn và vũ khí đều bị mất.
    Tháng 3, tức là chưa đầy 2 tháng sau khi chính thức nhận chức chỉ huy các hoạt động bán quân sự, tướng William C. Westmoreland, tư lệnh sau này của quân lực Hoa Kỳ ở Việt nam đă họp với Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara, tướng Taylor và đại sứ Mỹ Leonard Unger. Họ thống nhất tiếp tục thực hiện kế hoạch 34A và chuẩn bị ném lực lượng đặc biệt Nam Việt Nam sang Lào mà người ta biết đến dưới cái tên là cuộc hành quân Lena bất hạnh. Washington vẫn chưa nhận được dấu hiệu nào cho thấy sự chấp thuận về chính trị đối với kế hoạch 34A và hiện có những dấu hiệu cho thấy rằng niềm lạc quan ban đầu về một hoạt động được Sài G̣n ủng hộ đang được thay thế bằng nỗi bi quan.
    Lịch sử chính thức của SOG viết tiếp:
    Trong khi thực hiện OPLAN 34A chúng ta không nên ép Chính quyền Miền Nam phải đặt ưu tiên hàng đầu với các nguồn tài chính mà họ cần để tiếp tục cố gắng của họ chống phong trào nổi dậy một cách thắng lợi. Mỹ phải có các nguồn tài lực đó. Quan điểm của Washington bấy giờ đối với các hành động được phê chuẩn cho kế hoạch OPLAN là một chương tŕnh theo ư muốn chứ không phải là cơ bản. Sau cuộc viếng thăm, một bản báo cáo đă được đệ tŕnh lên Hội đồng An ninh quốc gia. Báo cáo này được Tổng thống xem xét và phê chuẩn tại cuộc họp Hội đồng này ngày 17/3.
    Bản thông điệp dày 32 trang của Hội đồng An ninh quốc gia là kết quả cuộc họp ngày 17/3 ở Washington cho phép MACSOG hành động như một quốc sách, dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao. Một bức thông điệp tiếp theo của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân gửi Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương và tướng Harkins thông báo rằng Trợ lư Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Viễn Đông đă được chỉ định là người phối hợp thực hiện các điều nêu trong bản báo cáo đó.
    Như đă được ghi lại trong lịch sử chính thức của SOG, sự lạc quan lúc đầu của Bộ trưởng Quốc pḥng vào tháng 12/1963 bây giờ đă thay thế bằng lập trường là SOG sẽ không có khả năng thực hiện được ǵ nhiều. Điều đó một phần cho thấy là quan niệm cho rằng các biện pháp leo thang từ từ chống Hà Nội để họ giảm xâm nhập quân vào Miền Nam được coi là không c̣n giá trị nữa. Mặc dù có sự thừa nhận như vậy, nhưng vẫn chưa có bằng chứng nào cho thấy người ta sẽ xét lại luận thuyết cơ bản của kế hoạch hoạt động này trong khi những người lănh đạo các hoạt động gián điệp biệt kích ở Nam Việt Nam vẫn được tiến hành mà vẫn chưa được Chính quyền Sài G̣n ủng hộ về mặt chính trị.
    Lịch sử chỉ huy của SOG cho thấy Washington đă phải xem xét lại, đó là kết quả từ quyết định của cuộc họp Hội đồng An ninh quốc gia vào tháng 3/1964.
    Chúng ta đang hành động chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bằng hoạt động biệt kích rất hạn chế, hầu như chẳng có hiệu quả ǵ (ảnh hưởng cả đến chính sách của Mỹ với Lào và Campuchia).
    Điều đó cho thấy rơ ràng hơn vào tháng 3, Washington thay đổi quan điểm về những giả thiết để vạch ra kế hoạch 34A-64 mà Mc Namara là người ủng hộ mạnh mẽ nhất vào tháng 12. Trước đó một sự thay đổi diễn ra trong khi kế hoạch 37 của Cincpac (Tư lệnh Thái B́nh Dương) đang nhanh chóng thông qua giai đoạn lập kế hoạch cụ thể. Kế hoạch 37 khi được thực hiện sẽ xảy ra các cuộc không kích trực tiếp miền Bắc, trong kế hoạch 34A các cuộc không kích được coi là nấc cao hơn của cuộc leo thang.
    Giai đoạn 1 của kế hoạch 34A được tiếp diễn đến tháng 3 bằng 8 phi vụ, 6 phi vụ đă thất bại, nhưng nhóm yểm trợ hàng không báo cáo một vụ rải truyền đơn trên miền Bắc thành công và nhóm hải quân báo cáo một vụ thành công trong một phi vụ tấn công một mục tiêu ven biển. Những người nhái Việt Nam tại Đà Nẵng lại đánh giá khác về khả nàng thành công các phi vụ đội biệt hải và ư nghĩa đích thực về các con số thống kê hàng tháng của MACSOG.
    Theo một người nhái kể lại phi vụ đầu tiên của anh ta hồi tháng 3, là đánh các tầu ở của Ṛn thuộc bờ biển Nghệ An. Khi những người nhái đến cửa Ṛn th́ các tàu miền Bắc đă di chuyển đi nơi khác và không c̣n đủ thời gian để hoàn thành nhiệm vụ nên họ phải quay lại tàu PTFS. Vũ Đức Gương, người sống sót trong phi vụ tiếp theo đă kể lại:
    - Sáng 12/3/1964, chúng tôi được giao nhiệm vụ đánh ḿn các tàu của hải quân Bắc Việt Nam tại 2 nơi ở cửa sông Gianh. Chúng tôi có 4 người. Khi chúng tôi đến hai địa điểm này th́ chẳng thấy tàu nào cả? Chúng tôi cảm thấy thất vọng sau gần 5 tháng chẳng phi vụ nào thành công, và tôi quyết định tiến lên nữa may ra t́m được một mục tiêu khác. Chúng tôi c̣n đang trong bụi rậm cách xa bờ, th́ tàu Bắc Việt đột ngột xuất hiện trên sông Gianh.
    Chúng tôi biết rằng không thể thoát ra khơi được và chúng tôi vẫn c̣n nghe thấy tiếng máy tàu PTFS ở ngoài khơi, trong khi đó người Bắc Việt đang la hét trên các tàu của họ, c̣n chúng tôi bắt đầu chuồn dọc theo bờ biển phía Nam. Tiếp theo đó là tiếng súng nổ. Giới và Ngũ chạy mỗi người một ngả và chắc Giới đă chết trong loạt đạn đầu tiên này c̣n Ngũ th́ bị bắt. Hai chúng tôi bị bắt khi đến gần giáp giới phía Nam Quảng B́nh. Rơ ràng là một cuộc truy lùng trên quy mô lớn bao gồm lực lượng dân quân tự vệ, Công an và bộ đội đang vây chặt chúng tôi. Chúng tôi bị bắt ngày 15/4/1964.
    Gương c̣n biết rằng sau phi vụ của anh ta ngày 12/3 một cuộc tấn công vào ngày 15/3 cũng bị thất bại khi Nguyễn Văn Sắc-một thành viên của lực lượng tấn công bờ biển rơ ràng đă bị bắt trên băi biển. Sắc đă phục vụ quân đội liên hiệp Pháp từ trước 1954 và đây lại them một vết đen nữa bất lợi cho anh ta. Gương nói tiếp:
    - Tôi nhớ có nghe thấy tin nhóm Sắc xuất phát vào ngày 15/3. Có tiếng súng trường không giật 57 mm từ ngoài bờ biển vọng vào và các anh công an nói đó là súng bắn từ một tầu của một toán biệt kích khác định giải vây cho chúng tôi. Tôi nhớ vào tháng 5/1964 tôi xác định được Sắc đang bị giam ở xà lim bên cạnh tôi. Anh ta bị kết án tử h́nh vào tháng 7/1964. Sau khi Toà xử anh ta bị đem bắn ngay tại nhà tù do một đội thi hành án thực hiện. Tôi bị đem ra xét xừ khoảng tháng 6 cùng với Nguyễn Văn Lê. Anh ta và một người nhái khác tên Gin là thành viên của một toán 7 người được phái đi do thám bờ biển Quảng B́nh, nhưng bị lực lượng miền Bắc bất ngờ tóm gọn. Cả hai đều là người Hoa và cùng học lớp người nhái với tôi, nhưng sau lại chuyển sang đội tấn công ven biển. Gin bị chết lúc Lê bị bắt. Lê bị kết án tử h́nh trong phiên toà cùng xét xử với tôi. Anh ta bị đưa đi bắn ngay.
    Tháng 9/1964 chúng tôi bị chuyển đến trại cải tạo Trung ương số 3. Vào thời điểm này, Mỹ đă ném bom miền Bắc, các tù nhân ở trại Trung ương 3 và trại Yên Thọ đều được chuyển đến các trại nằm rải rác gọi là trại sơ tán. Lúc đó tôi không để ư nhiều đến những việc này. Tôi là một tù binh và là một tù binh trong suốt 15 năm sau.
    Tổn thất về người nhái tại cửa sông Gianh xảy ra cùng một lúc với một phi vụ khác chống miền Bắc. Một toán t́m cách đánh cầu Kỳ Anh tại tỉnh Hà Tĩnh. Vọng A Cầu và Châu Hênh Xương bị bỏ lại dưới nước gần mục tiêu khi toán của họ bị phát hiện trước lúc tiếp cận mục tiêu. Ba ngày sau họ đă ở xà lim Công an tỉnh Hà Tĩnh.
    Kết quả các phi vụ đầu tiên của lực lượng biệt hải MACSOG đă được những người bên ngoài tổ chức SOG coi là bi đát. Sự đánh giá như thế đă chứng tỏ một thực tế rằng những cha đẻ của chúng đều thừa biết sự không tưởng, sự ép buộc và hiểm hoạ của cái kế hoạch cổ lỗ sĩ mang tên 34A.
    Ví dụ, đại tá Lodge đă báo cáo rằng các hoạt động của lực lượng biệt hải chẳng có tác dụng ǵ với Hà Nội. Sau đó đô đốc hải quân Mỹ Grant Sharp, tư lệnh hạm đội Thái B́nh Dương cũng báo cáo rằng Bắc Việt Nam "pḥng thủ ở những khu vực nóng tỏ ra mạnh mẽ và hiệu quả hơn người ta đánh giá ban đầu” và coi việc “thiếu tin tức t́nh báo" đă là nguyên nhân dẫn đến thất bại của các hoạt động biệt hải. Ở Nam Việt Nam tướng Westmoreland bắt đầu kêu gọi cung cấp thêm thông tin t́nh báo về các mục tiêu dọc bờ biển Bắc Việt Nam để có thể cứu văn thất bại của kế hoạch 34A, nhưng Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương trả lời rằng các mục tiêu phá hoại "khó tiếp cận hơn là người ta tưởng tượng khi vạch kế hoạch 34A".
    MACSOG phát hiện thấy số biệt kích các toán đào ngũ ngày càng tăng. Một số trường hợp các toán có biên chế từ 6 đến 10 người lúc đầu bây giờ chỉ c̣n một nửa. Để duy tŕ vẻ hoạt động bề ngoài, đơn vị phối hợp với MACSOG của quân đội Nam Việt Nam đă tuyển mộ thêm một số biệt kích để tăng cường và bắt đầu một chương tŕnh bổ sung các toán thiếu quân số thành các toán mới cho đủ số lượng để có thể tiếp tục những phi vụ đối với những mục tiêu đă được phê chuẩn theo kế hoạch 34A của Lầu Năm góc.
    Trong tháng 4 MACSOG gởi đi thêm 6 toán, th́ 5 toán được coi là thành công. Trên giấy tờ, người ta đă tạo ra cảm giác là mọi chuyến cuối cùng cũng đều ổn thoả.
    7. “HỌ" MUỐN CÓ KẾT QUẢ NGAY...
    Chưa hẳn là đă có sự nhất trí cao giữa Mỹ và đối tác Nam Việt Nam trong việc đánh giá t́nh h́nh các đội biệt kích từ miền Bắc quay về. Để kế hoạch 34A c̣n có được một chút tin cậy nào đó. Các toán biệt kích xâm nhập bằng đường không được đánh giá là "an toàn" không bị “vấy bẩn". "An toàn" là đă tới được miền Bắc c̣n nguyên vẹn để hoạt động mà không bị bắt và hiện vẫn tiếp tục có báo cáo về Sài G̣n.
    Nếu chúng được an toàn th́ dự án bán quân sự (gián điệp biệt kích) của CIA và chỗ dựa tinh thần của kế hoạch 34A mới đứng vững. Nó cũng hàm ư là CIA đă chuyển giao cho Lầu Năm góc một lực lượng có khả năng thực hiện kế hoạch 34A do Washington vạch ra.
    "Vấy bẩn" nghĩa là toán gián điệp bị bắt và đang phải hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bắc Việt. Nếu như vậy th́ khả năng thành công của kế hoạch 34A đă bị phá tan. Colby đă khuyến cáo ngay từ trước với Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng Mc Namara rằng dự án không tồn tại được, nhưng chẳng có điều ǵ cho thấy ông ta có một chút quản ngại rằng CIA đang chuyển giao cho Lầu Năm góc các toán đă bị Bắc Việt bắt và đánh trở lại.
    Nếu thật có khả năng là Lầu Năm góc đang thừa hưởng các toán bị "Vấy bẩn", th́ người ta đă phải rung chuông cảnh báo.
    Những cảnh báo như vậy lẽ ra đă phải có dựa trên kinh nghiệm về những chiến dịch hoạt động lừa bịp của giới lănh đạo CIA từ hơn một thập kỷ trước đó khi các điệp viên CIA thất bại ở Đông Âu, đặc biệt là ở BaLan. Mặc dù Colby công nhận đă được người phó nhắc lại bài học này trước khi có cuộc họp quyết định tháng 11/1963 tại Hawai, nhưng rơ ràng Colby đă không truyền đạt nổi những bài học đă lĩnh hội được của CIA.
    Chiến lược của Washington trong kế hoạch 34A chủ yếu là yêu cầu các toán từ miền Bắc đánh điện về v́ tháng 1/1964 vẫn được coi là an toàn. Áp lực đối với các nhà vạch kế hoạch ở Washington cũng không căng như áp lực đối với những kẻ ở chiến trường. Tuy nhiên, chính 6 toán an toàn trở về đă làm Mc Namara có đầy đủ lư do để tin vào ảo tưởng thành công của kế hoạch 34A.
    Đầu năm 1964, đại tá Trần Văn Hổ lên chỉ huy đơn vị người Việt phối hợp với bộ phận SOG của đại tá Russell, vẫn lấy tên là Sở đo đạc địa h́nh. Đại tá Hổ vẫn tỏ ra nghi ngờ đă đặt câu hỏi về tác dụng của các toán này và muốn sớm kết thúc hoạt động của các toán tầm xa ngay khi lên nắm quyền chỉ huy. Lời khẩn cầu của Hổ bị đại tá Russell bỏ ngoài tai, và các hoạt động vẫn tiếp tục.
    Một số quan chức Mỹ nghi ngờ về khả năng tồn tại của kế hoạch 34A và thực tế các sự việc xảy ra đă vượt quá lời tuyên truyền huyênh hoang. Nhưng trong báo cáo không có lời lẽ nào dám đi quá xa đến mức nói rằng các toán quay về đều là bị "vấy bẩn" cả.
    Một người biết rơ nguy cơ ở khu vực vĩ tuyến là Gilbert Layton-sỹ quan chỉ huy biệt kích giỏi của CIA từ 1960 đến 2/1964. Chương tŕnh CIDG của ông ta hiện đang được Lầu Năm góc điều khiển, với những quan điểm đă làm ông ta nổi tiếng ngay với tướng Stilwell.
    Layton biết lực lượng đối địch có thể len lỏi vào CIDG và các toán biệt kích vượt tuyến, nhưng ông ta tin vào tỷ lệ cạnh tranh 9 chọi 1, trừ khi lực lượng bên địch nhiều hơn dự tính của ông ta. Trong trường hợp các toán bị bắt và bị đối phương đánh trở lại, Layton đă có phương án đối phó với t́nh huống đó. Nhưng Bắc Việt khác xa với Lào. Layton và những người như ông ta sợ nhất là những toán bị đối phương Bắc Việt điều khiển hoàn toàn rồi đánh trở về. Điều này vượt ngoài kế hoạch 34A, v́ được coi như là ảo tưởng. Cái đó cũng có nghĩa là Hà Nội đang dùng "gậy ông đập lưng ông", “tương kế tựu kế" đánh lại chúng ta giống như trong thế chiến II, đang được ghi vào sử sách rằng Đồng minh đă thắng Đức vào đêm trước ngày D tháng 6/1944 nhờ cách đó. Lẽ ra quân đội và CIA, những người đă tổng kết chiến tranh thế giới thứ 2 phải áp dụng bài bản đó trong chiến tranh với miền Bắc, nhưng không có ǵ cho thấy là có điều đó.

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    I


    Samuel Halpern, một sĩ quan của CIA, đă đánh giá một cách tỉnh táo hơn về vấn đề cơ bản của chương tŕnh gián điệp biệt kích mà CIA đă chuyển cho Lầu Năm góc.
    Không có một ai, hiểu biết tốt nhất về bản thân ta hơn ta. Có một sự khác nhau về quan điểm giữa Jim Angleton và B. Colby. Angleton th́ phụ trách cơ quan phản gián ở Tổng hành dinh, c̣n Colby là trưởng trạm CIA từ năm 1961. Colby không quan tâm đến Nam Việt Nam, và ông ta không muốn mất th́ giờ, cũng như công sức vào đấy. Trạm Sài G̣n không có lấy một ai có đủ năng lực thực sự để điều hành cơ quan phản gián cho đến những năm 60 và cả sau này nữa. Quan điểm của Colby về Angleton và công tác phản gián đă không thay đổi sau khi ông ta rời Sài G̣n, để lên làm trưởng pḥng Viễn Đông. Quan điểm của ông ta hoàn toàn trái ngược với Angleton.
    Angleton đă có những quan điểm trái hẳn với cách suy nghĩ của mọi người, ví dụ Angleton đưa lời tiên đoán không có sự rạn nứt quan hệ Trung Quốc-Liên Xô 1959. Mặc dầu một số sỹ quan tỏ ra đồng t́nh với Angleton, nhưng cảm giác chung của đa số là sự rạn nứt đó không thể không xảy ra.
    Angleton chỉ biết khuyên người khác hăy kiểm tra vấn đề an ninh chung c̣n ông ta không thể dừng các hoạt động theo cách nghĩ riêng của ḿnh lại được. Trường hợp các hoạt động bán quân sự của Sài G̣n, theo tôi biết, đă không có một cố gắng nào để kiểm tra xem có sự xâm nhập của miền Bắc vào miền Nam không? Không xem xét miền Nam đă làm ǵ để điều phối trạm CIA. Tôi không nghĩ rằng ở Sài G̣n là biết hết mọi chuyện. Trạm CIA đă không thực sự quan tâm xem xét vấn đề xâm nhập, dù từ Hà Nội hay từ Sài G̣n và đó chính là vấn đề cơ bản. V́ Sài G̣n không chú ư đến vấn đề xâm nhập, nó chỉ được đề cập tới khi đă trở thành vấn đề trầm trọng khó phương cứu chữa.
    Rơ ràng Trạm CIA coi là không có vấn đề ǵ. Nếu biết các toán biệt kích đă bị địch khống chế, th́ Lầu Năm góc chắc đă chẳng để yên. Tôi không tin rằng Trạm của Sài G̣n biết hết điều này tôi xin nhắc lại, v́ không một ai để ư đến vấn đề này cả. Tôi nghĩ sẽ là một chuyện nực cười nếu như có một toán biệt kích nào đó từ miền Bắc truyền tin về sai quy ước an toàn mà lại không nghi ngờ là bị đối phương khống chế. Sao lại có thể dễ dàng tin rằng mọi việc diễn ra suôn sẻ được? Nếu biết rơ có toán bị đối phương khống chế rồi th́ người ta lại đoán rằng từ nay các chiến dịch bán quân sự phải xem xét thận trọng hơn.
    Nếu CIA biết các toán đă bị đối phương khống chế, CIA phải thông báo ngay cho Bộ Quốc pḥng, nhưng họ đă để tuỳ thuộc Bộ Quốc pḥng muốn làm ǵ th́ làm v́ đó là việc của Bộ Quốc pḥng mà CIA đă chuyển giao.
    Nh́n chung, mục tiêu của "Tṛ chơi điện đài" là bắt nhân viên t́nh báo phải tỉnh táo. Sỹ quan mặt trận cũng như tại chỉ huy sở. Nếu biết một người nào đă bị địch khống chế, th́ không được phổ biến lại những thông tin từ người này mà chỉ có thể sừ dụng các bức điện mà họ đă đánh về, đề đánh giá xem họ đă bị địch dùng ra sao và bên địch muốn chúng ta nghĩ ǵ?
    Bên ngoài th́ Hà Nội muốn Sài G̣n và Washington tin rằng các chiến dịch bán quân sự là có thể thực hiện được, và CIA không thể khẳng định nổi là có bao nhiêu toán hiện nay đă bị Hà Nội khống chế. Điều này cho thấy rằng Hà Nội đă biết những ǵ mà CIA và bên đồng minh biết.
    Lầu Năm góc được thừa hưởng 5 toán ARES, BELL, REMUS, TOURBLLON và EASY (toán thứ 6, EUROPA, bị địch khống chế điện đài, nhưng ngày hôm sau khi bị bắt đă ngừng truyền tín hiệu coi như toán bị xoá sổ). Mặc dầu, các toán đă bị địch khống chế nhưng sự tồn tại của nó vẫn là chỗ dựa sống c̣n của kế hoạch 34A. Nếu không có chúng, người ta tự hỏi kế hoạch c̣n giữ được độ tin cậy nào nữa không.
    Trên giấy tờ, lúc đầu 5 toán thừa kế này tổng số có 32 điệp viên. Qua vài năm, Hà Nội kêu là đă mất 4 người: một của TOURBILLON coi như chết lúc nhảy dù xuống miền Bắc Việt Nam ba người của BELL báo cáo là bị ốm chết. Hà Nội muốn Washington và Sài G̣n tin rằng 28 tên c̣n lại vẫn "an toàn". Khi chúng được chuyển giao chính thức cho đại tá Russel điều khiển tháng 1/1964. Cuối năm, Hà Nội báo cáo thêm 2 điệp viên của toán TOURBILLON chết trong trận phục kích 24 tháng 12. Báo cáo ấy của Hà Nội là hoàn toàn giả tạo.
    Đại tá Russel chuẩn bị lănh trách nhiệm Washington giao cho thêm 13 toán mới, với tổng số 80 điệp viên đă sẵn sàng. Theo Colby, đây cũng vẫn là một cố gắng c̣n khiêm tốn của Mc Namara muốn lấy số lượng bù chất lượng mà CIA bị mất ở miền Bắc năm 1963. Dùng các toán này để đối phó với các cuộc nổi dậy tăng dần ở miền Nam là c̣n ít, mà để đối phó với cuộc xâm nhập của miền Bắc vào miền Nam th́ lại càng ít hơn.
    Tám toán, 43 điệp viên, tăng cường cho bốn trong năm toán trước của CIA, được triển khai ở Đông Bắc Bắc Việt Nam. Tất cả đều ở phía bắc vĩ tuyến 20 tập trung phần lớn ở dải đất hẹp dọc vĩ tuyến 21, gần ŕa phía nam của khu vực Trung Quốc đóng căn cứ để máy bay, kỹ sư và lực lượng khác viện trợ cho miền Bắc vào thời điểm cuối năm 1960.
    Thêm bốn toán nữa vào Nghệ An hè năm ấy, án ngữ tuyến quốc lộ 7 là đường của Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn rót người, dụng cụ vũ khí vào cánh đồng Chum ở tỉnh Xiêng Khoảng- Bắc Lào. Theo lời những điệp viên sống sót và theo tài liệu về địa điểm triển khai th́ nhiệm vụ của họ là theo dơi hoạt động của lực lượng Bắc Việt vào Lào. Nếu thành công, là họ đă thực hiện một mảng thông tin t́nh báo về sự xâm nhập của Bắc Việt vào sâu phía bắc Lào để đối phó với lực lượng của tướng Vàng Pao người H'mông, họ đă đáp ứng được yêu cầu của Bộ Chỉ huy Thái B́nh Dương để cho Phi đoàn 7 và Hạm đội 7 chuẩn bị sẽ vào hoạt động ở vùng này.
    Việc triển khai các toán này tỏ rơ rằng người ta không c̣n coi trọng mục tiêu của kế bạch 34A là cảnh cáo miền Bắc phải giảm xâm nhập vào miền Nam. Thêm nữa, xem xét vị trí để nhảy dù và diện hoạt động của mười ba toán này chứng tỏ họ không c̣n ǵ phải làm với miền Nam Việt Nam nữa. Rơ ràng nhóm công tác đặc biệt của Bộ Ngoại giao, CIA và Lầu Năm góc đều biết.
    Kế hoạch 34A phải thay đổi, các đội của SOG đă trở thành tai mắt của CIA tại Bắc Lào, c̣n có ư nghĩa hơn cả những bức thông điệp gửi tới Hà Nội về việc Hà Nội đưa quân xâm nhập miền Nam.
    Mùa xuân 1964, Kế hoạch 34A bị coi như không dùng được nữa. Cái đó rơ v́ người ta đă dàn xếp bên lề Hội đồng An ninh quốc gia là sử dụng các đội thám báo tại Lào để giúp các hoạt động của Mỹ c̣n hơn là tại miền Nam Việt Nam.
    Một toán đă bị kết liễu, 28 điệp viên của toán CENTAUR bị chết khi chiếc máy bay C123 vừa cất cánh rơi ngay do trời đang mưa băo. Rơi xuống rừng rậm cạnh bán đảo Sơn Trà, ngoài thành phố Đà Nẵng. Các tài liệu về vụ tai nạn cho thấy rằng toán này được cử đi công tác huấn luyện, nhưng bộ tham mưu của MACSOG muốn hoăn chuyến bay v́ gió, băo mạnh. Sài G̣n ra lệnh phải cất cánh bằng bất cứ giá nào. Xác của một trung sỹ lực lượng đặc biệt Mỹ và của một phi công Mỹ mất tích.
    CIA c̣n giữ lại một trọng tâm của kế hoạch 34A, đó là nội dung tác động tâm lư chiến mà các toán bán quân sự của họ cần đến. MACSOG và CIA thống nhất như vậy và giao cả nhiệm vụ hoạt động tâm lư chiến cho từng toán. CIA nói thẳng đó cũng là lư do họ c̣n sử dụng các toán (xem phụ lục 4).
    Ở địa bàn khác, CIA xem xét lại, duyệt hay không duyệt các danh sách mục tiêu đề ra từng tháng và nắm quyền triển khai các toán. Mặc dầu đă dự kiến nhiều cuộc tấn công hơn con số 45 mục tiêu ban đầu của kế hoạch 34A giai đoạn I và II, ví dụ: vụ các toán lực lượng đặc biệt nhảy xuống dọc quốc lộ 7, CIA đă không duyệt các chiến dịch như thế, vào giai đoạn cuối cùng mới đem thực hiện.
    Nhiều toán mới cho ra Bắc cùng với những toán đă ở đấy sẵn đều được bố trí dọc màng lưới đường giao thông và các quốc lộ. Một vài toán đến bằng đường không hoặc đă triển khai năm 1964 được bố trí theo các tuyến đường sắt chính từ Trung Quốc sang Bắc Việt (xem h́nh 1-3). Triển khai như vậy có thể cung cấp thông tin cho Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương về các hoạt động của địch trên bộ, nếu như các toán được an toàn cả. Nhưng thực tế chúng không như thế. So sánh cách thức triển khai các toán năm 1963 và 1964 thấy rơ việc triển khai năm 1964 đang giảm dần về tŕnh độ và địa bàn hoạt động, điều đó phù hợp với suy nghĩ của Colby và ông ta đă từng nêu rơ cần chấm dứt chiến dịch vào năm 1965, hoạt động t́nh báo Mỹ nên giảm dần. Hè năm 1964 ở Hà Nội ai cũng thấy rơ điều này.
    Người chỉ huy thứ nhất của MACSOG đă phải thừa nhận rằng, ông ta phủ nhận tất cả tác động của các toán, cho rằng họ đang làm cái công việc mà họ không thể làm được.
    Điều hiển nhiên là năm 1969 đại tá Russell đă cay đắng thú nhận trước Hội đồng tham mưu liên quân với những lời lẽ phản ánh rơ những áp lực mà ông ta phải gánh chịu trong những năm 1964-1965 khi ông ta gửi 13 toán điệp viên ra miền Bắc và quyết định số phận của chúng. Nhận xét này cho thấy ông ta không hoàn toàn đồng ư với những ǵ đă xảy ra. Đại tá Russell nói: Một khi… giới quân sự nắm quyền th́ người ta dễ say chiến tích muốn có kết quả ngay. Sai lầm lớn nhất là luôn cho rằng họ phải thâu tóm và điều hành các lực lượng theo ư ḿnh. Chẳng hạn muốn thực hiện một phi vụ biệt kích đường biển việc đầu tiên là phải có thuyền tàu và 6 người nhái. C̣n khả năng, tinh thần và các điều kiện khác không quan trọng. Như vậy th́ tránh sao khỏi thất bại.
    Cần phải nói thêm, cơ sở vật chất của căn cứ Đà Nẵng chưa phải là lư tưởng để đào tạo và huấn luyện biệt kích đường biển hoàn chỉnh v́ bộ khung chắp vá, vật chất thiếu thốn, đội tàu SWIFT tốc độ và tính năng hạn chế nên kết quả tác chiến trên biển thấp. Hoạt động tác chiến trên không cũng chẳng hơn ǵ v́ các phi hành đoàn phần lớn là người Đài Loan, họ không muốn làm việc cho quân đội c̣n các toán viên th́ sợ chết, bị bắt nên các phi vụ thực hiện trầy trật.
    Đáng lẽ chúng ta phải biết lượng sức ḿnh khi tiến hành các công việc. Ở trên bộ, trên không và trên biển… đều phải tính toán khả năng không thể cứ làm rồi đến đâu hay đó.
    Tôi không cho rằng chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc tuyển dụng dân địa phương, khi tiến hành chiến tranh du kích ở những nơi ta đưa người đến và tuyển dân địa phương quấy phá nông thôn.
    Mặc dầu c̣n có những hạn chế khiến chúng ta khó tuyển được người. Thực tế là chúng ta không bao giờ cạnh tranh nổi vấn đề này ở nông thôn… Mặc dù bên quân đội cứ muốn đẩy tới, nhưng ngài Đại sứ đâu đă ủng hộ. Tôi nhớ có lần tại cuộc phổ biến chiến dịch người ta bảo cần nói rơ cho toán biệt kích biết là họ không phải tiếp xúc với dân chúng địa phương miền Bắc-thời kỳ đó, họ chỉ làm tâm lư chiến và thu thập tin tức t́nh báo. Nhưng thật là nghịch lư sẽ không thể thu thập được nhiều tin t́nh báo khi anh cứ phải ẩn náu măi trong rừng, v́ sợ chết. Tuy rằng, họ cũng chạy quanh rừng rải truyền đơn in tay. Chỉ có thế thôi th́ không thể chấp nhận được. Cần phải có chỉ đạo mạnh mẽ những điều chúng ta muốn họ làm.
    Xem xét kỹ, mới thấy có một số người gọi là nhân viên t́nh báo mà chẳng có tŕnh độ khả năng ǵ hết. Vẫn trong danh sách được trả lương nhiều năm, rất thích thú với tiền lương, nhưng khi giao nhiệm vụ, th́ họ liền thoái thác.
    Chúng ta giao nhiệm vụ cho nhưng người này mà chẳng có hứa hẹn ǵ nhiều khi ném họ xuống. Chúng ta cũng dừng chờ đợi họ trở lại, thậm chí có trường hợp, chúng ta biết rơ họ sẽ giơ tay đầu hàng ngay khi vừa tiếp đất. Và họ đă làm như thế. Đó là lư do thất bại ngay trận đổ bộ đường không đầu tiên. Họ là những tài sản ban đầu cho các hoạt động trên không của chúng ta, chúng ta cũng không thể để mặc họ tự do ở miền Nam được, v́ nhiệm vụ của họ là chiến đấu ở miền Bắc. Cách giải quyết của chúng ta là tung họ ra miền Bắc , nhiều người trong bọn họ đă bị bắt.
    Tôi cảm thấy rằng, một khi giao nhiệm vụ cho các toán, chúng ta phải làm tất cả để nâng đỡ tinh thần của họ, nếu chúng ta muốn thắng lợi.
    Chúng ta không thể bỏ rơi họ v́ không thể nào giữ kín với những người của các toán biệt kích c̣n lại. Đó là chân lư bất biến. Vậy, một khi quyết định bỏ không giúp đỡ họ nữa th́, tốt hơn là anh hăy hủy bỏ toàn bộ chiến dịch đi, v́ thực tế anh không c̣n nhiều cơ hội để thực hiên chiến dịch.
    Vào tháng 1/1964, khi Russell nhận 169 điệp viên, th́ CIA và Lầu Năm góc đă mất hơn 200 điệp viên ở miền Bắc trước và trong chiến dịch Switch back, mà không đạt được một tư thắng lợi nào. Và vẫn c̣n những lính mới được tuyển dụng. Tất cả họ đều muốn được tuyển và rất muốn ra Bắc để chiến đấu.
    Những toán điệp viên mà đại tá Russell kế thừa là những toán mạnh gồm các điệp viên đă được huấn luyện nhiều năm. Nhiều người t́nh nguyện hoạt động tại các địa bàn hợp với tiếng nói và hiểu biết của họ. Chiến dịch Switch back đă kết thúc dự định thận trọng đó. Tuy nhiên, những điệp viên đi ra miền Bắc giữa và sau năm 1963 không nhất thiết phải trở về vùng quê của họ để hoạt động. Cuối năm 1964, Russell đă giao nhiệm vụ cho nửa số nhân viên của 13 toán vượt quá con số trung b́nh của 15 toán có được trong năm 1964 (xem phụ lục 1-5).
    Các điệp viên mới tuyển được bổ sung để tái lập các toán mới của Russell. Tháng 1/1965 ông ta có 197 người, 115 người trong số họ sẵn sàng để được ném ra Bắc. Mùa xuân năm đó, một số điệp viên được lấy từ các toán hoạt động đường dài để thành lập các toán hoạt động qua biên giới, rồi được đào tạo để hoạt động ở Lào trong khuôn khổ kế hoạch 35A.
    Như vậy đến cuối 1965, hầu hết các điệp viên được chuyển giao vào tháng 1/1964 đă được tung ra Bắc. Điều đó chứng tỏ Russell đă làm đúng như ông ta nói với SCS là sẽ "tống khứ tất cả". Chỉ ít người c̣n lại "được thả lỏng".
    Đại tá Russell có vẻ thật sự tin rằng ông ta đă giao nhiệm vụ cho các toán người Việt mà ông ta vừa nhận lănh là giải pháp duy nhất đúng để giải thoát cho họ. Điều đó được một vài quan chức Mỹ gợi ư do bị thúc ép của cấp trên, nên hắn phải hành động như thế.
    Đại tướng Westmoreland nhấn mạnh sức ép không phải do ông ta. Ông ta coi những hoạt động này như là một cái ǵ đó do Washington đẻ ra và nuôi dưỡng. Nếu có sức ép nào, phải là do tướng Stelwell, tham mưu trưởng của ông ta, chịu trách nhiệm về MACSOG. Trước đây, Stelwell chịu trách nhiệm về hoạt động bán quân sự của CIA tại Viễn Đông.
    Russell biết rơ các toán ra hàng nhiều. Măi tận cuối 1969, hắn cũng không hiểu nổi tại sao hễ gửi toán nào ra cũng bị lực lượng địch chờ sẵn dưới đất để bắt ngay.
    Những tên sống sót đă cho biết là chỉ có toán BOONE thực tế đă đầu hàng. Tuy nhiên, đầu hàng là do trong t́nh huống ngặt nghèo ngay dưới mũi súng và trong các bối cảnh bất khả kháng. Do họ bất lực và hèn nhát đă dẫn đến chỗ chết hoặc bị bắt. Họ là kết quả đào tạo ṛng ră nhiều năm của lực lượng đặc biệt gồm phần lớn lính t́nh nguyện mũ nồi xanh đă hết ḷng dạy dỗ. Nếu thất bại không phải tại họ không cố gắng. Thất bại có thể là do thiếu sót cơ bản trong khái niệm và do thiếu nhất quán về phía các người đă tiếp tục vạch ra một kế hoạch lỗi thời, thiếu quan tâm thích đáng đến hậu quả lâu dài của việc làm của họ. Không thể đổ lỗi cho những người chết đă nỗ lực để thử đổi đen thành trắng.
    Ông ta nói tiếp:
    - Những ǵ mà đại tá Russell thấy là ít được dùng, loại lực lượng mà tướng Stewell đă quá quen thuộc ở cuộc chiến tranh khác nhưng thiếu mất bài học sâu sắc của CIA về sự xâm nhập của t́nh báo đối phương trong các cuộc chiến tranh ấy.
    Bộ trưởng quốc pḥng đă làm cho Tổng thống tin rằng các nhân viên t́nh báo có thể lấy được những thông tin mà đa số những người liên quan đều biết là Hà Nội sẽ lờ đi c̣n CIA vẫn im lặng về mức độ nguy hiểm đang tiềm ẩn và ngày một gia tăng.
    8. MÙA HÈ 1964.
    Tại hội nghị Chính trị đặc biệt ở Hà Nội vào hai ngày 27 và 28/3/1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh đă dự đoán rằng trong trường hợp xẩy ra một cuộc chiến tranh, nhân dân Việt Nam sẽ đoàn kết lại, và Việt Nam sẽ được tất cả các nước XHCN ủng hộ, c̣n Washington sẽ bị cả nhân dân Mỹ và các đồng minh của Mỹ chống lại. Ông Hồ đưa ra dự đoán này trong khi các sỹ quan của Bộ Công an, hoạt động thông qua các biệt kích bị bắt, tiếp tục đánh lừa Sài G̣n và Washington làm cho họ tin rằng các biệt kích đang tích cực hoạt động trong ḷng địch.
    Trong khi ông Hồ đưa ra dự đoán này th́ Bộ Công an đă sẵn sàng để loại trừ một nỗi lo lắng nhỏ đối với Bộ Chính trị bằng cách bắt ngay các nhân vật xét lại. Đến tháng tư đại bộ phận các nhân vật xét lại cao cấp đều bị bắt và bỏ tù tại một nhà tù An ninh quân đội gần nhà tù Bắt Bạt.
    Ở Hà Nội người ta giải thích rằng mối quan hệ của những người xét lại với Liên Xô là kết quả một âm mưu gián điệp nhằm lôi kéo những người Việt Nam phản bội làm gián điệp cho Matxcơva. Cô lập những người xét lại tại nhà tù Bất Bạt rơ ràng là nhằm mục đích loại trừ họ ra khỏi bối cảnh chính trị của Hà Nội trong thời kỳ Washington đang t́m cách gửi cho Bắc Việt Nam bức thông điệp bí mật của họ.
    Việc Hà Nội theo lập trường không thương lượng của Trung Quốc đă trở nên rơ ràng với Ngoại trưởng Dean Rusk vào thời điểm xẩy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Ông nhận thấy rằng Bắc Kinh không quan tâm tới việc giúp đỡ để dẫn tới một cuộc thương lượng t́m ra một giải pháp cho cuộc xung đột mới chớm nở, dù là song phương hay thông qua hoặc là Liên hợp quốc hoặc sự dàn xếp ở Giơnevơ. Thực tế này đă được các nhà phân tích t́nh báo Bộ Ngoại giao biết rơ. Người Trung Quốc không muốn đi ngược lại lập trường công bố chính thức của họ, do đó họ làm ra vẻ những người đứng ngoài cuộc như trước đây họ đă từng buộc tội Matxcơva.
    Việc Hà Nội miễn cưỡng theo lập trường của Trung Quốc là một sự chấp nhận thực tế nhu cầu buộc họ phải theo chính sách ngoại giao của Bắc Kinh, ít ra là một chiến lược ngắn hạn, mặc dù họ có mối hận thù lâu đời đối với Trung Quốc. Thí dụ, Hà Nội đă đề nghị Trung Quốc có thiện chí cho phép chở bằng đường sắt qua Trung Quốc các thiết bị quân sự của Liên Xô. Trung Quốc có thể đóng cửa bất cứ lúc nào họ muốn như họ đă làm vào mùa xuân 1964 khi Liên Xô t́m cách chở qua Trung Quốc sang Việt Nam các loại máy bay hiện đại. Hà Nội yêu cầu mở các con đường tiếp tế, mặc dù điều đó chỉ có nghĩa là t́nh bạn tạm thời với một kẻ thù truyền kiếp.
    Bộ Chính trị ở Hà Nội cũng đang bị thử thách. Uy tín chính trị đang bị lung lay v́ suốt trong ba thập kỷ qua họ vẫn cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam có thể bảo đảm sự xuất hiện một nước Việt Nam thống nhất. Chấp nhận một sự thoả hiệp với phương Tây sẽ làm cho Trung Quốc tức giận và tổn hại đến mục tiêu của Hà Nội ở miền Nam; do vậy, thương lượng với Washington không phải là một sự lựa chọn, mà là v́ thương lượng vào năm 1964 sẽ dẫn đến những bất lợi về chính trị buộc Hà Nội phải chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh đến gần mà không được sự ủng hộ của phe XHCN. Điều này Hà Nội biết là không thể được.
    Trong khi vạch các bước của giai đoạn hai kế hoạch 34A, Đô đốc Felt, tư lệnh Thái B́nh Dương đă tŕnh lên tham mưu trưởng liên quân những đề nghị về những mục tiêu phải đạt được trong giai đoạn tới.
    Đánh phá bằng không quân và thả ḿn bằng đường không là các hoạt động phá hoại về vật chất duy nhất trên đất Bắc Việt Nam có khả năng tác động mạnh để buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đánh giá lại các hoạt động của họ ở Việt Nam Cộng hoà và Lào… Tôi đề nghị các hoạt động của giai đoạn II tập trung vào việc thu thập tin tức t́nh báo, tâm lư chiến, phát triển phong trào kháng chiến và các mạng lưới t́nh báo, phá hoại vật chất bằng các cuộc oanh kích và rải ḿn của không lực.
    Trong lúc các nhân vật xét lại đang bị giam giữ ở Bất Bạt vào tháng 4 năm đó và Đô đốc Felt đang thúc đẩy các hoạt động ác liệt hơn chống lại Bắc Việt Nam, th́ MACSOG đă tiến hành sáu hoạt động biệt kích. Năm hoạt động được coi là thành công, kể cả vụ thả dù toán biệt kích 4 người vào ngày 23/4 để tăng cường lực lượng cho toán REMUS. Vụ thả dù kế tiếp của ATILLA được dự kiến thả xuống đất Nghệ An vào ngày 25/4.

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    J


    Sau khi các toán viên của toán ATILLA đă hoàn thành một chương tŕnh huấn luyện cơ bản về t́nh báo, cách sinh sống ở trong rừng, về vũ khí và nhảy dù, họ lại dự một khoá học đặc biệt kéo dài hai tuần trước khi nhảy dù xuống Bắc Việt Nam. Mục đích của khoá học này là nhằm truyền đạt cho họ biết mọi thay đổi đă xẩy ra kể từ khi Cộng sản chiếm quyền vào năm 1955. Những tin tức này là cần thiết để họ có thể sống sót sau pḥng tuyến của kẻ thù. Toán biệt kích này được đưa đến một trung tâm tiếp nhận người tỵ nạn ở B́nh Hoà, ngoại thành Sài G̣n. Ở đây tất cả những người từ Bắc Việt Nam mới đến đều được khai thác và sàng lọc trước khi định cư ở Nam Việt Nam.
    Khoá học do một sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hoà phụ trách. và được phụ tá bởi một cán bộ Việt cộng hồi chánh. Họ tŕnh bày về bộ máy hành chính hiện thời của Bắc Việt Nam từ Trung ương tới tận thôn xóm. Các lực lượng An ninh như dân quân tự vệ, công an vũ trang của Bộ Công an được giải thích một cách chi tiết, cặn kẽ. Các giảng viên c̣n mô tả cuộc sống hiện thời ở Bắc Việt Nam: nhân dân sống ra làm sao, việc đi lại trong các khu vực thành phố như thế nào, và những loài giấy tờ ǵ cần phải mang theo người trong cuộc sống hàng ngày. Lớp học c̣n đề cập đến cả chế độ phân phối hàng hoá, người ta phải xếp hàng để mua hàng hoá ra làm sao, các loại tem phiếu ǵ được phân phối và mỗi người được mua lượng hàng bao nhiêu.
    Các thành viên của toán ATILLA đều là người quê miền Bắc. Qua kinh nghiệm bản thân, họ thông thuộc giọng nói, phong tục tập quán và địa lư, tuy nhiên có một vài người ở các tỉnh có giọng nói khác và phong tục tập quán cũng hơi khác. Cả toán đều biết rằng một loạt từ ngữ mới đă xuất hiện mà mười năm trước đó chưa có. Một số ngôn từ cách đó một thập kỷ đôi lúc người ta có sử dụng th́ nay không c̣n được sử dụng nữa, và các ngôn từ khác vào năm 1954 người ta sử dụng thường xuyên th́ nay hiếm khi được nghe thấy. Điều đó giúp người ta dễ dàng nhận ra một con người đă từng sống ở đấy suốt từ năm 1955, bất cứ ai không thông thuộc các từ ngữ này và ư nghĩa của nó th́ sẽ bị lộ ngay.
    Sau khi hoàn thành khoá học, toán biệt kích này được đưa đi thực thi nhiệm vụ bằng một chiếc máy bay vận tải do các phi công Đài Loan lái. Trước hết, các truyền đơn tâm lư chiến được rải xuống rồi máy bay hạ thấp độ cao để các biệt kích nhảy dù. Trước khi nhảy dù, các thành viên của toán phát hiện có người ở khu vực nhảy dù nên họ không chịu nhảy. Tổ lái vô cùng tức giận chở họ trở về Sài G̣n, và họ báo cáo với các quan chức là toán biệt kích không chịu nhảy dù.
    Mấy tuần sau toán này lại được tập hợp lại để nghe phổ biến trước về nhiệm vụ sắp tới của toán nhằm tiến hành do thám các mục tiêu quân sự và kinh tế ở khu vực dự định hoạt động. Một mục tiêu cụ thể là đập nước nằm giữa huyện Thanh Chương và huyện Linh Cảm. Đập nước này là vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế địa phương, bởi v́ nó điều tiết nguồn nước thủy lợi cho tất cả nông dân trong vùng. Toán biệt kích đă được chuẩn bị tinh thần để phá đập này trong trường hợp xẩy ra xung đột công khai ở miền Bắc. Toán này cũng nhận được lệnh thu thập tin tức về giao thông đi lại trên quốc lộ 7 để xác định số lượng và các loại hàng ǵ được đưa sang Xiêng Khoảng của Lào. Rơ ràng các cuộc oanh kích bằng không lực là cần thiết bởi v́ các mục tiêu dự định là vượt quá khả năng của toán Bắc Việt này, cho nên họ không thể tấn công và phá huỷ được. Điều đó cho thấy rằng cuộc xung đột đang tiến hành một bước leo thang mới, với việc toán biệt kích ATILLA đang được sử dụng thu thập tin tức về các mục tiêu để yểm trợ cho các cuộc oanh kích bằng không lực khu vực quốc lộ 7.
    Toán biệt kích này có khả năng tiến hành các hoạt động phá hoại tại khu vực được phân công, thế nhưng nó không được tự ư làm bất cứ việc ǵ cho tới khi nhận được lệnh của Bộ chỉ huy. Viên sĩ quan huấn luyện nhấn mạnh rằng tuyệt đối không được làm bất cứ việc ǵ khi chưa có lệnh. Toán biệt kích ATILLA c̣n có nhiệm vụ tuyển mộ điệp viên, nhưng nó không được giao nhiệm vụ tiếp xúc với đầu mối nào ở địa phương. Các thành viên của toán phải tự ḿnh phát hiện những người có triển vọng và thu hút họ làm điệp viên. Vào một ngày sau đó họ sẽ nhận được tin tức về người mà họ tiếp xúc và tiếp xúc ở đâu. Toán biệt kích này sẽ thực thi nhiệm vụ của họ ở miền Bắc tối thiểu là trong thời gian 3 tháng, và tối đa là không quá 6 tháng.
    Như đă được thông báo, họ sẽ đổ bộ xuống một vùng núi của huyện Thanh Chương trên đất Bắc Việt Nam cách biên giới Lào khoảng 7 km, ở về phía Bắc huyện Linh Cảm của tỉnh Hà Tĩnh kế cận. Khu vực họ nhảy dù xuống không có dân cư từ đấy đến vùng dân cư phải đi bộ ít nhất mất một ngày đường. Toán biệt kích này sẽ phải di chuyển từ khu vực đổ bộ qua rừng núi ít nhất mất khoảng 3 ngày để đến địa điểm tập kết thứ nhất. Khi đă đến địa điểm tập kết thứ nhất và sau khi xác định ráng khu vực này là an toàn th́ toán sẽ liên lạc với Sài G̣n và nhận các chỉ thị hoạt động cụ thể. Viên sĩ quan thuyết tŕnh đưa ra cái mà ông ta gọi là “bức ảnh chụp từ trên không gần đây nhất” cho thấy rằng khu vực này không có một ngôi nhà nào cả.
    Viên sĩ quan thuyết tŕnh cảnh cáo rằng toán ATILLA có thể sẽ gặp phải các lực lượng công an vũ trang Bắc Việt Nam trong khi di chuyển. Ông ta nêu đích danh tên đơn vị và chỗ đóng quân của các lực lượng Công an vũ trang cỡ tiểu đoàn mà toán biệt kích có thể gặp phải. Ông ta nhấn mạnh rằng các lực lượng của địch ở khu vực này là các đơn vị cỡ tiểu đoàn và ở khu vực nhảy dù không có các đơn vị quân chính quy cỡ sư đoàn. Ông ta c̣n nói rằng các lực lượng cỡ tiểu đoàn không gây trở ngại cho cuộc đổ bộ của toán và các lực lượng của Công an vũ trang bị phân tán thành các nhóm cỡ trung đội, chứ không tập trung thành các tiểu đoàn. Theo viên sĩ quan thuyết tŕnh th́ không có khả năng các lực lượng an ninh Việt Nam biết được nơi đổ bộ. Sự chạm trán đầu tiên của toán có thể xảy ra trong lúc toán đang trên đường đổ bộ, hoặc đến địa điểm tập kết. Nếu một đơn vị tuần tra vũ trang t́m thấy dấu vết về sự hiển diện của họ th́ các thành viên của toán phải đặc biệt thận trọng và cảnh giác về khả năng này. Trong lớp học họ được chỉ dẫn phải làm ǵ nếu gặp phải một lực lượng như vậy: Nếu cả hai bên phát hiện ra nhau th́ biệt kích phải nổ súng trước để tiêu diệt lực lượng địch; nếu họ phát hiện thấy lực lượng địch trước và tin là địch chưa phát hiện ra ḿnh th́ không được nổ súng.
    Toán biệt kích ATILLA từ Sài G̣n đi Đà Nẵng vào 4 giờ sáng ngày 24/4. Cùng bay với họ ra Đà Nẵng có viên sĩ quan đặc trách về hành quân là đại úy An và một người Mỹ mặc thường phục. Sau mấy tiếng đồng hồ ở lại Đà Nẵng, cả toán được đưa lên chiếc máy bay vận tải C-123. Trong khi họ đang thắt dây an toàn vào ghế ngồi th́ mỗi người đều cảm thấy nỗi lo lắng của ḿnh tăng lên theo tiếng gầm rú của động cơ máy bay lúc cất cánh. Viên phi công, người phụ lái: một chuyên gia về nhảy dù và hai người phụ trách việc đẩy các biệt kích nhảy dù ra khỏi máy bay, tất cả đều là người Đài Loan. Trên máy bay c̣n có bảy kiện hàng thiết bị được thả dù. Ṿng thứ nhất nó thả dù xuống 6 kiện hang và kiện thứ 7 là điện đài phát tin cho toàn toán. Ṿng thứ hai 6 người nhẩy dù ra khỏi máy bay ở độ cao dưới 1000 feet. Họ nhảy dù xuống đất ở các vị trí tương đối gần nhau và sử dụng các đài bán dẫn của họ để phát tín hiệu bịp bịp của điện đài phát tin. Điều này chứng tỏ họ nhảy dù xuống khu vực cách đài phát tín trong ṿng 5 km, là tầm phát của đài phát tín, đài này là một loại dụng cụ vô cùng cần thiết cho cuộc nhảy dù, bởi v́ các biệt kích không thể nh́n thấy nhau sau khi nhảy dù xuống một địa h́nh khó khăn.
    Họ đi đến địa điểm tập kết và trong mấy ngày liền lùng sục khu vực kế cận một cách cẩn thận trước khi liên lạc bằng điện đài với chỉ huy sở của ḿnh, rồi t́m cách nguỵ trang che giấu và chờ đợi để liên lạc lần thứ hai bằng điện đài để nhận chỉ thị. Hai ngày sau khi liên lạc bằng điện đài lần thứ nhất, họ phát hiện thấy mấy người dân địa phương đi lại gần căn cứ tạm thời của họ. Tin rằng những người này không phát hiện ra họ nên họ vẫn ở nguyên tại chỗ.
    Một đêm vào đầu tháng 5, họ nghe thấy có tiếng người đi đến gần. Đinh Văn Lâm, toán trưởng, cử hai người ra theo dơi các vị “khách“. Họ vừa đi được vài trăm mét th́ gặp một tổ lính tuần tra khoảng 20 người được trang bị vũ khí đầy đủ đang dựng trại cạnh một con suối. Tổ tuần tra này của kẻ địch đang lùng sục một cách ráo riết và đang trên đường tiến thắng đến địa điểm tập kết toán biệt kích.
    Lâm quyết định rời bỏ căn cứ và lập tức quay trở lại địa điểm nhảy dù. Từ đó họ sẽ chuồn sang Lào và liên lạc với Bộ chỉ huy của họ bằng điện đài để chuẩn bị đưa họ trở về. Nguyễn Văn Hinh, nhân viên điện đài, vội vă đánh đi một bức điện báo cáo rằng v́ bị truy lùng rất ráo riết nên họ không thể tiếp tục hoạt động và sẽ rút lui như hướng kế hoạch đă vạch trước .
    Toán trưởng cùng với hai thành viên đi một hướng. Nguyễn Văn Thi, toán phó, và hai thành viên đi hướng khác. V́ các lực lượng Bắc Việt Nam tiến đến quá gần nhóm của Lâm, nên nhóm này đă nổ súng trong khi rút lui. Các biệt kích rất ngạc nhiên khi các lực lượng bao vây họ đă nổ súng bắn trả, đạn bay trên đầu, và rơ ràng là họ muốn bắt sống các biệt kích hơn là giết. Sau cuộc nổ súng ban đầu và bắt đầu cuộc lẩn trốn, nhóm trưởng của Thi đồng ư tách ra mạnh ai nấy trốn. Họ đă phá huỷ điện đài, mật mă và bỏ lại đại bộ phận trang thiết bị tại nơi chúng đă được cất giấu.
    Trong khi chạy trốn họ phát hiện các dấu hiệu chứng tỏ trước đó đă có các toán biệt kích hoạt động tại khu vực này. Một hôm trong khi đang di chuyển về phía Tây của căn cứ qua các bụi rậm, họ phát hiện thấy các mảnh dù c̣n lại của loại dù T10, là loại dù các toán biệt kích sử dụng vào thời gian đó. Họ cũng t́m thấy các vỏ đạn 9mm. Đây cũng là cỡ đạn do các toán biệt kích sử dụng; t́nh trạng các vỏ đạn cho thấy rằng có lẽ chúng đă được bắn trước đó khoảng 6 tháng.
    Nguyễn Văn H́nh kể lại việc anh ta bị bắt:
    - Ông có biết không, (cười) chắc trông tôi phải lạ lùng lắm đối với người lính Bắc Việt Nam đă t́m ra và bắt được tôi. Tôi bị kiệt sức và ngủ thiếp đi mấy giờ trước đó. Tôi có một khẩu súng lục tự động giắt trong thắt lưng, và tôi mặc một chiếc quần ḅ Mỹ do người Mỹ huấn luyện tôi ở Long Thành cho. Đột nhiên tôi cảm thấy một bàn chân đi giầy dẫm lên cánh tay tôi mà theo bản năng bàn tay đó đang t́m khẩu súng lục tự động của tôi. Tôi mở mắt và nh́n thấy người lính đang đứng sừng sững trước mặt và khẩu súng trường tấn công đang chĩa thẳng vào tôi Anh ta nh́n tôi trừng trừng và tôi cũng nh́n lại anh ta. V́ mặc chiếc quần ḅ Mỹ nên chắc là trông tôi phải lạ lùng lắm. Người ta khuyên tôi đừng mang theo chiếc quần ḅ, nhưng chẳng có lư do ǵ tôi lại phải bỏ nó lại cả. Sau đó, một trong các binh sỹ Bắc Việt Nam đă lấy chiếc quần ḅ của tôi.
    Nhân viên điện đài đă bị bắt trước đó vào rạng sáng ngày 10/5, phần lớn những người khác cũng bị bắt sau đó vài tuần. Hai người cuối cùng bị bắt vào ngày 29/5 do các lực lượng Cộng sản Lào bắt được họ trên đất Lào và trao cho Bắc Việt Nam. Suốt thời gian ấy, các biệt kích bị trói ngồi trong bụi rậm, và được canh giữ cẩn thận. Khi mà các lực lượng công an biên pḥng thu lại toàn bộ vũ khí, trang thiết bị và các thứ khác.
    Nghĩ lại hoàn cảnh lúc bị bắt, các biệt kích ngỡ rằng Công an biên pḥng đă phát hiện ra khu vực đổ bộ của họ bằng quan sát trực tiếp. Vào một đêm trời sáng trăng người ta có thể dễ dàng nh́n thấy những vật cách xa 2-3 km. Các lực lượng Công an biên pḥng chỉ cần phát hiện ra đường bay của một chiếc phi cơ bay dọc theo các điểm cao của các dăy núi, rồi phát hiện các điểm nhảy dù, thậm chí ở các khoảng cách xa hơn nữa người ta cũng có thể nh́n thấy các chiếc dù.
    Các lực lượng Công an biên pḥng được bố trí phân tán trong các dăy núi, nghe thấy tiếng động cơ của một chiếc máy bay vận tải bay thấp, phát hiện ra các đường bay, kiểm tra các điểm nhảy dù có thể dọc các đường bay đó. Nếu họ ở gần, thậm chí họ có thể thu được điện đài phát tín của toán biệt kích và sử dụng nó để xác định địa điểm nhảy dù.
    Nguyễn Văn Hinh giải thích:
    - Nên nhớ rằng toán của tôi được thả dù xuống miền Bắc có một lần. Thế nhưng trước và sau đó c̣n nhiều toán nữa. Các cuộc nhảy dù vào ban đêm này hầu như không có ǵ khác nhau, và qua một thời gian các lực lượng Công an biên pḥng Bắc Việt biết rơ họ phải t́m kiếm cái ǵ. Cũng giống như toán ATILLA, một trong những đặc điểm đó là một chiếc phi cơ bay ở độ thấp từ biển bay qua các đỉnh núi cao rồi tiếp tục bay sang Lào trước khi hạ cánh xuống Thái Lan.
    Chiếc phi cơ thả dù chúng tôi có lẽ sang Thái Lan ở lại một ngày rồi bay trở về Sài G̣n, măi đến 5-8-1964 mới có các cuộc không kích của Mỹ trên Bắc Việt Nam, do đó người ta dễ dàng nhận biết loại máy bay nào xâm nhập bầu trời miền Bắc Việt Nam là của Mỹ. Sau khi theo dơi hoạt động của chúng tôi trong ṿng khoảng một năm họ biết họ phải làm ǵ.
    Hinh bị hỏi cung ngay sau khi bị bắt. Họ hỏi tên anh ta, ngày và nơi sinh, đơn vị, cấp bậc và nhiệm vụ được giao cho toán. Người hỏi cung đặc biệt quan tâm đến số nhân viên trong toán, chức năng của mỗi người, ngày cụ thể toán anh ta nhảy dù xuống đất Bắc, con đường toán đă đi sau khi xuống đất, địa điểm chính xác các nơi toán dừng chân, và nhận dạng của các toán viên chưa bị bắt. Một phần công việc của người hỏi cung được tạo thuận lợi do bản đồ đặc biệt mà biệt kích sử dụng. Nó được in trên chất liệu mỏng như lụa để gấp nhỏ dễ đút vào túi quần. Thông tin về địa h́nh trên bản đồ có độ chính xác rất cao và trên bản đồ đó Hinh đă đánh dấu kỹ khu vực nhảy dù, điểm tập kết, con đường đi từ nơi nhảy dù đến điểm tập kết và hướng rút lui.
    Nhân viên điện đài bị hỏi kỹ về buổi giao nhiệm vụ trước khi lên đường, nhưng người ta không hỏi anh ta về các bức ảnh chụp từ trên không mà cả toán đă được xem tại căn cứ 10. Song, các tù binh khác lại bị hỏi khá cặn kẽ về các bức ảnh đó.
    Trong ṿng ba tiếng đồng hồ sau khi bị bắt Hinh dă phải đối mặt với một sỹ quan Công an có kinh nghiệm. Người này đi theo lực lượng truy bắt và chỉ quan tâm có mỗi một điều, ông ta muốn Hinh hợp tác, t́nh nguyện sử dụng điện đài của ḿnh cho Hà Nội, nhưng Hinh từ chối. Viên sĩ quan đó ngồi lại với Hinh, nhưng sau khi bị Hinh từ chối lần thứ Nhất, ông ta cũng không gây áp lực nêu lại vấn đề. Bây giờ th́ Hinh đă hiểu lư do tại sao lực lượng đuổi bắt chỉ bắn đạn qua đầu họ.
    Vào đầu tháng 6 toán ATILLA được đưa về thành phố Vinh. Ở đây mỗi người lại bị các sỹ quan cấp tỉnh hỏi cung một cách có phương pháp, ngoại trừ tin tức liên quan đến trang thiết bị thông tin liên lạc của toán, tín hiệu xin chỉ thị hoạt động và các vấn đề liên quan lại do một nhóm sĩ quan đặc biệt của Hà Nội tiến hành. Những người này bảo rằng họ là người của Bộ, hoặc “chúng tôi là các chuyên gia hỏi cung từ Hà Nội vào”.
    Sau này nhân viên điện đài của các toán khác nói rằng những người hỏi cung này đă có mặt ngay lúc các biệt kích vừa bị bắt, và chính họ là những người đầu tiên t́m cách mua chuộc các biệt kích. Các cố gắng nhằm thu phục sự hợp tác của các tù binh được đưa vào buồng hỏi cung. Đến lúc đó các chuyên gia này có thể biết người tù binh đó có sẵn sàng hợp tác hay không.
    Những người hỏi cung này biết rất rơ thủ tục làm việc bằng điện đài của toán biệt kích. Họ biết rằng buổi phát tin đầu tiên phải bao gồm tín hiệu an toàn, tín hiệu đó phải do nhân viên điện đài chính phát đi và viên trưởng toán phải cung cấp tín hiệu an toàn của cá nhân anh ta, tín hiệu đó chỉ riêng ḿnh anh ta biết, và các biệt kích khác cũng có thể bị hỏi tín hiệu riêng của họ nếu Sài G̣n có bất kỳ nghi vấn nào về toán đó có được an toàn không hay đă bị "nhiễm bẩn". Nếu Sài G̣n hỏi đến bất kỳ người nào mà không có mặt và không có sự giải thích rơ ràng th́ điều đó có nghĩa là toán biệt kích đă bị kẻ địch khống chế.
    Ngày 15/7, các thành viên của toán biệt kích ATILLA đă bị đưa ra xử công khai tại một phiên toà của Toà án Quân sự ở thành phố Vinh. Phiên toà kéo dài trong 3 ngày và các bản án đă được phán quyết. Tất cả bọn họ đều bị kết tội làm gián điệp và nhanh chóng bị chuyển đến nhà tù số 3 phía bắc huyện Con Cuông.
    Trong khi toán biệt kích ATILLA đang lẩn trốn trên đất Bắc Việt Nam, th́ với sự thoả thuận của hai Bộ Quốc pḥng và Ngoại giao, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân đă cho phép tướng Harkins vào ngày 5/5 bắt đầu cùng soạn thảo kế hoạch với Tổng tham mưu liên quân Việt Nam về việc triển khai vào tháng 6 các toàn biệt kích vượt biên giới vào Trung Lào giữa quốc lộ 9 và thành phố Sêpôn. Ngày 12/5 tướng Nguyễn Khánh, Tổng tham mưu trưởng liên quân, đă phê chuẩn kế hoạch hoạt động vượt biên giới và bắt đầu chính thức phối hợp vạch kế hoạch với Bộ Tổng tham mưu liên quân.
    Sau chuyến viếng thăm của Tướng Taylor và Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara, các máy bay của Mỹ thuộc lực lượng mang mật danh YANKEE TEAM bắt đầu bay trên bầu trời Lào. Trong khi ở Sài G̣n Taylor và Mc Namara đă nghe Tướng Harkins báo cáo rằng ông ta có thể b́nh định Nam Việt Nam trong ṿng 6 tháng và có thể đảo ngược t́nh thế nếu ông được trao trách nhiệm chỉ huy quân đội Nam Việt Nam.
    Trong nội bộ MACSOG, người ta đang thảo luận chi tiết với Bộ Tổng tham mưu liên quân để chuyển quyền sở hữu PTFS được sử dụng trong các hoạt động trên biển từ phía Mỹ sang chính phủ Việt Nam. Điều này được cho là cần thiết để Mỹ có thể phủ nhận các tin tức nói rằng các tầu đăng kư của Mỹ đang tấn công Bắc Việt Nam. Một câu chuyện nguỵ trang đă được chuẩn bị để cho phép người Nam Việt Nam sử dụng các tàu đó một cách độc lập đánh trả Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, tài liệu về sự chuyển giao chính thức đó đă không xảy ra như dự đoán.
    Tháng 5, tháng cuối cùng của giai đoạn I kế hoạch 34A đang sắp kết thúc. MACSOG (nhóm quan sát và nghiên cứu của Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam Cộng hoà) lại báo cáo thêm 2 toán bán vũ trang được triển khai thành công. Ngày 19/5 một nhóm 6 người mang biệt danh LOTUS đă được thả dù xuống vùng núi thuộc tỉnh Nghệ An giáp ranh tỉnh Thanh Hoá do Trần Ngọc B́nh làm toán trưởng. Nhiệm vụ của toán bao gồm tấn công phá hủy cầu Hàm Rồng ở thị xă Thanh Hoá và các cầu từ Thanh Hoá đến quốc lộ 7. Một kế hoạch quá ư tham vọng đối với một toán nhỏ như vậy. Toán LOTUS đă bị bắt ngay sau khi đặt chân xuống mặt đất. Viên toán phó là Nguyễn Văn Sinh đă bị tử h́nh. Số c̣n lại được đưa đến trại tạm giam ngoại ô thành phố Vinh, các thành viên c̣n lại của toán LOTUS đă gặp các thành viên của toán ATILLA.
    Toán SCOOTS được thả dù xuống gần Lai Châu để tăng cường lực lượng cho toán TOURBILLON vào ngày 27-5. Vừa đặt chân xuống đất toán này đă gặp các cán bộ công an cải trang và bị bắt ngay tại khu vực nhảy dù.
    Hồ sơ chính thức của giai đoạn I mà ban đầu Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara mô tả là một cỗ xe mang thông điệp đến cho Hà Nội, cho thấy rằng MACSOG chỉ hoàn thành được 11 trong tổng số 33 phi vụ được Washington phê chuẩn cho giai đoạn này, 22 phi vụ mới đă được phê chuẩn cho giai đoạn II bắt đầu từ 1/6 cho đến 30/9, chưa kể 22 phi vụ chưa thực hiện của giai đoạn I.
    Trong tháng 6, giai đoạn II được bắt đầu bằng 9 phi vụ theo kế hoạch. Tám phi vụ được báo cáo là thành công: ba cuộc tấn công bằng đường biển, hai bằng đường không và thả dù ba toán biệt kích. Một vụ không thành công đă bị thất bại ngay từ đầu nhằm cung cấp thêm hậu cần cho một trong các toán biệt kích mà người ta tin là được an toàn, nhưng thực tế là thêm một toán nữa đă bị bắt trước đó và đang bị Bắc Việt Nam khống chế.
    Cũng trong tháng đó, lực lượng Công an biên pḥng Bắc Việt Nam đă được lệnh kiểm soát chặt chẽ biên giới Lào, chuẩn bị chống trả các cuộc tấn công của địch bằng đường không, canh pḥng nghiêm ngặt bờ biển phía Đông của Bắc Việt Nam tại vùng 1 và 2, tuần tra của hải quân dọc khu phi quân sự. Những biện pháp này được tiến hành cùng một lúc với một Hội nghị quan trọng ở Bắc Việt Nam cứ 5 năm được tổ chức một lần để thảo luận về các hoạt động biên pḥng bao gồm cả sự hỗ trợ của Công an biên pḥng đối với chương tŕnh bắt và sử dụng các nhân viên điện đài đă bị bắt của biệt kích trong ván bài "chơi lại" của Bắc Việt Nam.
    Các phi vụ biệt kích trong tháng đầu của giai đoạn II bao gồm toán BUFFALO được thả dù xuống Quảng B́nh vào 19/6. Toán này đă nhanh chóng bị bắt và các nhân viên điện đài đă từ chối không hợp tác với đối phương. Sau đó, ngày 28/6 đến lượt toán EAGLE được thả dù xuống khu vực đường sắt quan trọng gần Uông Bí, khu vực hoạt động quan trọng của một gián điệp đôi hoạt động dưới mật danh toán ARES. Trong khi các thành viên của toán EAGLE đang t́m cách để bắt liên lạc với đặc t́nh ở địa phương, th́ họ bị các lực lượng an ninh địa phương tấn công và bắt giữ. Sau đó điện đài của họ bắt đầu truyền đi các tin tức dưới sự khống chế của Bộ Công an.
    Đêm 17/6 ở tỉnh Yên Bái về phía Tây Bắc Hà Nội, toán biệt kích SCORPION chuẩn bị nhảy dù xuống một khu vực mới thuộc bờ nam sông Hồng. Khu vực này ở về phía Đông Nam địa điểm toán BELL đă nhảy dù, toán này đă bị Bắc Việt Nam khống chế từ năm 1963. Viên phi công, phụ lái và người phụ trách về nhảy dù là người Đài Loan rơ ràng rất căng thẳng khi các thành viên của toán SCORPION chuẩn bị nhảy dù. Cánh cửa sau của chiếc máy bay vận tải C123 đang bay ở độ thấp được hạ xuống và các thành viên của nhóm có thể thấy ánh sáng đèn của thị xă Yên Bái trong khi họ bay xuống phía Nam qua sông Hồng.
    Mấy phút sau, người phụ trách nhảy dù đă phát tín hiệu của toán SCORPION và và các thùng đựng lương thực, hậu cần ra khỏi máy bay. Máy bay đột ngột ṿng lại và xoay một ṿng bay. Ṿng bay thứ hai toàn toán nhảy dù xuống các núi ở độ cao chưa đến 1000 feet. Khu vực nhảy dù được dự định ở về phía Nam thị xă Yên Bái vài chục km.
    Nhiệm vụ của nhóm SCORPION là tiến hành phá hoại dọc dường xe lửa Hà Nội-Yên Bái nhằm làm giảm lượng hàng tiếp tế từ Trung Quốc sang Bắc Việt Nam. Các nhiệm vụ khác của toán là rải truyền đơn chống Chính phủ, thu thập tin tức và thu hút dân địa phương xây dựng các mạng lưới đặc t́nh. Để hỗ trợ cho nhiệm vụ tâm lư chiến của họ, toán này được trang bị các quả bom đựng truyền đơn và một máy in đựng trong một ḥm riêng biệt để khi đặt chân xuống mặt đất là họ có thể in truyền đơn được ngay.
    Trong khi các dù đang lắc lư sắp rơi xuống mặt đất, th́ họ thấy đèn đuốc và người ta đi lại nháo nhác phía dưới. Ư nghĩ đầu tiên của Đặng Công Tŕnh là người Bắc Việt Nam đă biết cuộc nhảy dù của họ. Dường như không có một lời giải thích nào rơ ràng v́ sao lại có rất nhiều người ở khu vực nhảy dù. Sau đó mấy năm người ta cho rằng chiếc máy bay vận tải bay quá thấp nên đă làm lộ toán này. Bắc Việt Nam không có những chuyến bay thấp vào ban đêm và chiếc máy b ay vận tải C123 của nhóm biệt kích chắc chắn là đă làm cho người ta chú ư. Mặc dầu có khả năng là như vậy, nhưng người ta cũng không thể giải thích được tại sao lại có nhiều người đợi sẵn họ ở mặt đất như vậy.
    Dân quân tự vệ được các lực lượng Công an và bộ đội chính qui tăng cường hỗ trợ đă bắt đầu bủa vây khi toán này vừa đặt chân xuống đất Đinh Quư Mùi nổ súng lập tức bị bắn chết bởi hoả lực bắn trả rất mạnh. Đặng Công Tŕnh và Nguyễn Văn Khải rơi xuống cạnh nhau, lập tức mỗi người đi một ngả t́m cách vượt khỏi ṿng vây. Hai ngày sau th́ Tŕnh bị bắt và vài giờ sau đó Khải là thành viên cuối cùng của toán cũng bị bắt nốt. Trong cố gắng tuyệt vọng nhằm thoát khỏi ṿng vây Khải đă bắn chết mấy người đuổi bắt anh ta. V́ thế cho nên sau đó anh ta đă bị xử tử h́nh.
    Toán SCORPION bị đưa về nhà tù tỉnh Yên Bái, ở đây họ bị tách ra ở biệt lập mỗi người một pḥng và bị hỏi cung trong ṿng hơn 2 tháng. Cuối cùng, trước đám đông dân chúng địa phương tại sân vận động thị xă họ đă bị Toà án quân sự Quân khu Việt Bắc đưa ra xét xử. Tất cả đều bị buộc tội làm gián điệp và bị kết án đến mức cao nhất là tù chung thân. Sau đó họ bị tống lên xe tải chở thẳng đến trại Quyết Tiến, nơi dành cho những kẻ không chịu hợp tác với đối phương.
    Các toán Biệt kích bán vũ trang được đưa ra miền Bắc vào mùa xuân năm đó, như toán ATILLA được coi là các toán hoạt động chiến tranh tâm lư (xem phụ lục số 4 và số 6). ATILLA, BUFFALO, SCORPION và LOTUS đă nhảy dù xuống miền Bắc với những nhiệm vụ vượt quá khả năng của họ, và vào thời điểm tinh thần của một số toán đă bị sa sút nghiêm trọng. Liệu có một ai ở đâu đó nghĩ rằng các toán này sẽ bị bắt, các nhiệm vụ bị thất bại của họ là một bức thông điệp gián tiếp nhắn nhủ Hà Nội nói rằng Washington đang chuẩn bị leo thang xa hơn?
    Đối với một kế hoạch hoạt động tâm lư mang tính chiến lược như vậy, William Colby đă nhớ lại về thời kỳ đó: “Khi đưa một toán biệt kích đi th́ người lănh đạo phải t́m cách thuyết phục làm cho họ tin rằng họ sắp sửa thực hiện một nhiệm vụ rất quan trọng. Nếu không th́ tội ǵ họ phải liều mạng sống của ḿnh. Do đó khi giao cho người ta một sứ mạng như vậy rồi th́ lại phải kiểm soát được t́nh h́nh xấu nhất càng không thể cứ để cho người ta đi, rồi…lạy chúa tôi sáu tuần sau lại t́m cách ngăn cản họ. Họ sẽ vượt ra ngoài ṿng kiểm soát”.
    Nếu các toán hoạt động tâm lư đă được sử dụng như một con mồi, thế phải chăng vai tṛ hoạt động tâm lư của họ chỉ có tác dụng nếu họ bị bắt. Colby nói tiếp:
    - Theo tôi th́ ư tưởng về hoạt động tâm lư tức là ư tưởng làm cho nhân dân miền Bắc biết rằng từ miền Nam người ta đă đưa được các toán biệt kích ra các thành phố, thị xă của miền Bắc… Đấy là điều người ta muốn làm. Chỉ làm sao bắn được tin ra ngoài đó cho dân chúng nghe và hiểu được. Tôi không nghĩ, ít ra là tôi không nhớ chúng tôi đă đưa họ ra miền Bắc với mục tiêu rất tế nhị nào để thuyết phục kẻ thù rằng nó sẽ làm cho họ sợ đến chết khiếp. Như ông biết, tôi cho rằng ư tưởng đó chỉ là làm cho cả miền Bắc biết rằng những hoạt động đó chỉ là vô ích và cuộc hành quân vào Nam cũng chịu một thảm hoạ như vậy bao nhiêu con em bị chết và mất tích. Họ ra đi với một câu chào tạm biệt, đấy là những lời cuối cùng được nghe về họ, làm cho dân miền Bắc lo sợ về con em họ bị đưa vào Nam. Tôi cho rằng đấy là hoạt động tâm lư mà chúng tôi đă nghĩ ra.
    Những điều Colby kể lại có thể là chính xác. Tuy nhiên, theo những người biệt kích sống sót kể th́ lại không có một nhiệm vụ nào như vậy.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    K


    Ed Regan, một sĩ quan CIA đă tham gia vào việc phái các toán biệt kích từ Đà Nẵng ra miền Bắc vào mùa hè năm 1964 trở về Washington làm việc tại pḥng Lào của CIA, lại nh́n nhận vấn đề hơi khác: “Có thể nói một cách chính xác rằng các toán biệt kích được đưa ra miền Bắc đầu năm 1964… Được tập trung vào khu vực phía Bắc quốc lộ 7 và các vùng rừng núi lên đến tận vùng Tây Bắc. Chúng tôi đă tham gia phối hợp đưa các toán đó ra Bắc. Tại sao lại như vậy? Bởi v́ chúng tôi bị áp lực tiếp tục phái các toán đó đi. Chúng tôi biết rằng các toán đó không thể sống sót ở các vùng đồng bằng đông dân cư, do đó chúng tôi đă phái họ đến những nơi mà ít nhất một số người trong bọn họ, t́m được cơ hội nào đó để sống sót. Lúc đó chúng tôi không biết rằng các toán được phái đi sẽ gặp các toán đang bị đối phương khống chế. Một lần nữa tôi xin khẳng định rằng đó là do áp lực phải tiếp tục phái họ đi và áp lực đó là từ bên ngoài CIA. Không phải từ những người của chúng tôi thuộc Tổng cục vạch kế hoạch của CIA”.
    Bây giờ mới biết rằng các hoạt động bán quân sự của CIA đă bị xâm nhập nhiều hơn là chúng tôi tưởng và sự xâm nhập đó được thông qua các đồng nghiệp Việt Nam của chúng tôi. Không một ai trong chúng tôi trong ngành t́nh báo (CIA) lại chuyển cho Lầu Năm góc những thông tin một khi đă biết rơ là hoạt động đó đă bị xâm nhập, làm như vậy là một tội ác.
    Sự chuẩn bị của Bắc Việt Nam để "đón nhận" các toán biệt kích trong năm 1964 được bắt đầu từ đầu năm, bằng việc phổ biến chỉ thị số 57 của Bộ Công an. Chỉ thị này đă cảnh cáo về khả năng mở rộng các hoạt động biệt kích chống lại miền Bắc . Do vậy, theo tài liệu của họ, người Bắc Việt Nam đă phát hiện các hoạt động đường biển bao gồm hai người nhái ở cảng sông Gianh vào ngày 23-2, một cuộc đổ bộ tấn công và phá huỷ cầu Khe Nước ở tỉnh Quảng B́nh vào ngày 16-3, cuộc tấn công cầu Khe Lũy, tỉnh Hà Tĩnh ngày 17-3.
    Trong tháng 3, Bắc Việt Nam đă tổng hợp được tổng số tám cuộc biệt kích nhảy dù xuống các tỉnh Yên Bái, Hà Bắc, Quảng B́nh, Nghệ An và Sơn La. Thực tế chỉ có ba toán biệt kích nhảy dù. Tuy nhiên, các hoạt động biệt kích và một báo cáo về các chuyến bay do thám U-2 được tăng cường lên gấp đôi đă được Bắc Việt Nam coi là bằng chứng về cuộc chiến tranh đang leo thang. Đến cuối tháng 6, Bộ Chính trị ở Hà Nội đă báo động cho các lực lượng biên pḥng phải sẵn sàng để đối phó với các hành động của kẻ thù bao gồm các hoạt động tăng cường xâm nhập từ biển vào và các cuộc tấn công bằng không quân. Tiếp theo đó Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân ra lệnh báo động toàn quân. Trước t́nh h́nh phức tạp ấy mà ngày 30/6 các người nhái đă được phái ra tấn công các thiết bị ở Nhật Lệ thuộc bờ biển Quảng B́nh, tiếp theo đó là các hoạt động phá hoại các thiết bị ở Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh và cầu Hàng ở Thanh Hoá. Các hành động đó chẳng khác ǵ đổ thêm dầu vào lửa. Miền Bắc lúc đó đă phát động chiến dịch bắt những kẻ nghi vấn đi lao động khổ sai tại các nhà tù được canh pḥng hết sức nghiêm ngặt để pḥng ngừa, ngoài ra c̣n tăng cường theo dơi đối với tám loại đối tượng bất măn về chính trị mà các đối tượng biệt kích có thể t́m cách liên lạc.
    Bộ Công an đồng thời cũng tăng cường các hoạt động vừa công khai vừa bí mật bằng mạng lưới đặc t́nh cơ sở để chống lại hoạt động của biệt kích. Hoạt động này nhằm tăng cường an ninh, đánh giá chính xác và đúng đắn thái độ của dân chúng, phát hiện ra các điểm yếu của toàn bộ hoạt động phản gián và t́m cách ngăn chặn sự xuất hiện của một Đội quân thứ năm. Đây không phải là một hoạt động mới, mà chỉ là những cố gắng nhằm tăng cường các hoạt động đang diễn ra trong suốt thập kỷ trước đó.
    Cuối tháng 6, Tư lệnh các lực lượng đặc biệt Mỹ ở Nha Trang đă phái năm toán, mỗi toán gồm tám người Việt Nam qua giới tuyến dọc theo quốc lộ 9 trong kế hoạch mang mật danh Leaping Lena, lực lượng này được lấy từ các nhóm 77 và 31 của Nam Việt Nam. Chỉ có 5 người sống sót trở về Nam Việt Nam. Đại tá Lam Sơn sau đó đă bị cách chức Tư lệnh các lực lượng đặc biệt do hậu quả tại hại gây ra đối với các toán này trong một phi vụ mà hai tháng trước đó Mc Namara đă hối thúc phải tiến hành.
    Hai tháng đầu của giai đoạn II là một thời kỳ chuyển tiếp. Tướng Maxwell Taylor đến Nam Việt Nam vào tháng 7 để làm Đại sứ tại Việt Nam Cộng hoà thay thế Henry Cabot Lodge trở về Mỹ để tham gia ṿng bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hoà. Tướng Harkins cũng ra đi trao chức Tư lệnh phái bộ viện trợ Mỹ tại Việt Nam Cộng hoà cho vị phó của ông ta (từ tháng 2) là Tướng Westmoreland. Ở Hawaii, đô đốc Felt được thay thế bởi viên tư lệnh hạm đội Thái B́nh Dương cứng rắn của ông ta là đô đốc Sharp. Những thay đổi này đă tạo ra một nhóm chỉ huy mới cho chiến trường Thái B́nh Dương và chỉ trong ṿng một tháng sau th́ xây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ .
    Viên đại sứ mới, vị tướng đă xin về hưu khỏi lục quân dưới thời chính quyền Eisenhower sau khi có những bất đồng về vấn đề trả đũa ào ạt bằng vũ khí hạt nhân, là người ủng hộ sự phản ứng bằng các lực lượng mặt đất thông thường. Theo cách nh́n của Hà Nội th́ có thể tin rằng vị đại sứ Mỹ mới này sẽ đáp ứng những đề nghị đ̣i trả đũa một cách mạnh mẽ bằng vũ khí thông thường các hành động khiêu khích của Hà Nội.
    Sau khi đảm nhận vai tṛ Tư lệnh chiến trường, Westmoreland thấy rằng MACSOG chỉ là một đơn vị bị "các loại t́nh báo" ở Washington kiểm soát, chẳng giúp ích được ǵ mấy cho nhiệm vụ trước mắt của ông ta là t́m cách xây dựng quân đội Nam Việt Nam và đối phó hũu hiệu các lực lượng thù địch ở Nam Việt Nam. Điều đó không có nghĩa rằng ông ta không quan tâm đến các lực lượng của Bắc Việt Nam đang tiến vào Nam Việt Nam, nhưng ông tin rằng đấy là trách nhiệm của Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương và Bộ chỉ huy này có khả năng đối phó với sự xâm nhập của Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam.
    Sự thay đổi về chính sách của Mỹ ở Lào rơ ràng đă được Hà Nội đặc biệt quan tâm theo dơi và coi đó là thước đo về ư đồ của Mỹ. Thí dụ, trong khi các lực lượng quân đội Mỹ bị cấm không được vào đất Lào bằng đường bộ, các máy bay Mỹ bây giờ được phép đánh trả các hoả lực thù địch trên đất Lào bắn vào các máy bay do thám Mỹ bay trên không phận Lào. Giới lănh đạo ở Hà Nội hiện cùng chung thái độ không thương lượng với Bắc Kinh, rơ ràng là vui mừng trước sự can thiệp công khai của Mỹ, sự can thiệp này mang tính trực tiếp hơn là những phản ứng hạn chế bằng cách phái các toán bán vũ trang vào Lào bằng đường bộ. Hành động tăng cường này của Mỹ có nghĩa là Hà Nội có thể đưa ra những bằng chứng rơ ràng hơn về sự can thiệp của nước ngoài để tập hợp quần chúng phần lớn vẫn c̣n dửng dưng. Do đó đă chứng minh cho lời kêu gọi của Bộ Chính trị rằng Mỹ là lực lượng nước ngoài đang xâm lược Việt Nam và tấn công những người Pathét Lào anh em của họ, mưu đồ đó cần phải bị đánh bại. Tuy nhiên, các lực lượng trên biển của MACSOG cùng với các tầu tuần tiễu đă đẩy sự can thiệp của Mỹ lên một mức độ ngày càng công khai hơn.
    9. TOÁN BOONE ĐẦU HÀNG.
    Các quan chức cao cấp nhất của chính quyền Washington, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương và Sài G̣n gặp nhau tại Honolulu để thảo luận trong tháng 6/1964. Các hoạt động bí mật được tăng cường vào tháng 7, và mức độ thành công mà người ta tưởng tượng ra bây giờ là số lượng toán biệt kích được đánh đi chứ không phải là kết quả thực tế được gắn liền với mục tiêu của kế hoạch 34A . (Xem phụ lục số 7).
    Mười một phi vụ bí mật được dự định tiến hành trong tháng 7, trong đó 9 phi vụ được MACSOG coi là thành công. Tám trong chín phi vụ đó mà người ta được biết là: một cuộc tấn công an toàn từ xa của lực lượng trên biển PTFS, một phi vụ do thám vượt qua băi cát của lực lượng trên biển, hai phi vụ đánh lừa đối phương của lực lượng trên biển, một phi vụ tiếp tế cho toán BELL ở tỉnh Yên Bái và thả dù thêm ba toán biệt kích mới. Các toán mới bao gồm 6 thành viên của toán PISCE được đánh đi vào ngày 13/7 để tăng cường lực lượng cho toán EASY, bảy thành viên của toán PERSEUR được thả dù vào ngày 24/7 để tăng cường cho toán TOURBILLON, và chín thành viên của toán BOONE được thả dù xuống tỉnh Nghệ An. Các toán PISCES, PERSEUS và phi vụ tiếp tế cho toán BELL đều bị Bắc Việt Nam bắt giữ, (phi vụ thứ 9 có lẽ là một phi vụ hoạt động tâm lư chiến).
    Toán BOONE được thả dù xuống miền Bắc ngày 29/7. Khu vực nó được phân công hoạt động là phía bắc quốc lộ 7 gần thị trấn Con Cuông. Từ đấy, các thành viên của nhóm có thể dễ dàng theo dơi số hàng hoá chở sang tỉnh Xiêng Khoảng của nước Lào láng giềng.
    Một phần của toán BOONE là những người của toán LANCE và một phần là các thành viên ban đầu của toán BOONE. Toán BOONE đă được giao một số nhiệm vụ trên đất Bắc nhưng đột nhiên lại bị hoăn. Số nhân viên của toán này dần dần giảm xuống c̣n lại có bốn hoặc năm người so với ban đầu. Để phục vụ cho nhiệm vụ cuối cùng của nó, toán này đă được bổ sung đầy đủ biên chế bằng cách sát nhập thành viên của các toán BOONE, toán LANCE và thành viên của một toán thứ 3 chưa đủ biên chế. Tuy nhiên, các toán viên đều trung thành với toán trưởng ban đầu của họ, và việc sát nhập toán viên của các toán khác lại với nhau từ đầu đă thiếu sự đoàn kết.
    Sau khi được thả dù xuống đất vào lúc nửa đêm, các toán viên sử dụng các đài bán dẫn nhỏ của ḿnh để tập hợp nhau lại tại điểm rơi của chiếc điện đài phát tín. Họ đă nhảy dù xuống bên trong lănh thổ Bắc Việt Nam khoảng 10 km dọc quốc lộ 7.
    Dấu hiệu tai hoạ đầu tiên là hai toán viên không thấy xuất hiện. Sau một cuộc t́m kiếm đă phát hiện ra nhân viên điện đài chính là Hồng Tôn Khải do dù anh ta không mở hết nên đă rơi xuống đất và chết. Điều bất hạnh là Khải, nhân viên điện đài chính được đào tạo tốt và có nhiều kinh nghiệm lại bị chết, cho nên toán phải dựa vào nhân viên điện đài phụ là Nguyễn Gia Thỏa.
    Dấu vết duy nhất c̣n để lại của toán viên thứ 2 bị mất tích là chiếc dù và vũ khí của anh ta. Có thể anh ta đă bị lạc hướng và đi sang Lào. Hoặc anh ta đă nộp ḿnh cho công an biên pḥng Bắc Việt Nam? Ai mà biết được. Mặc dầu có sự mất mát, nhưng hầu hết các toán viên của toán BOONE đều cho là ḿnh may mắn đă nhảy dù xuống một khu vực an toàn.
    Ngày hôm sau họ bắt đầu lên đường đi đến địa điểm tập kết cách đấy khoảng 10 km. Ở đấy họ xây dựng căn cứ hoạt động trong rừng rậm. Ảnh chụp của máy bay do thám xác định là họ ở xa các khu vực dân cư, họ sẽ được an toàn. Bây giờ viên trưởng toán biết rằng Thoả không thể sử dụng được các thiết bị điện đài của toán. Điều đó có nghĩa rằng BOONE đă bị cắt liên lạc với chỉ huy sở và không có kế hoạch nào có thể cứu thoát họ.
    Như sau này họ đă kể lại trong nhà giam. Các toán viên ngày càng cảm thấy thất vọng. Một số muốn đầu hàng, số khác lại muốn ở lại và thực hiện nhiệm vụ của ḿnh. Cuối cùng họ chính thức bỏ phiếu xin hàng. Sự đầu hàng xảy ra ngày 2/8, ngày 3 chiếc trục hạm của Bắc Việt Nam tiến công chiến hạm MADDOX của Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ.
    Trong suốt những năm ngồi tù, các toán viên BOONE thường nhắc đến quyết định của họ. Một số người nói rằng họ đă ở trong rừng Con Cuông mấy tuần rồi mới quyết định đầu hàng. Những người nghe họ kể chuyện đều phát hiện thấy sự không nhất quán trong các câu chuyện kể của họ, thực tế là toán BOONE đă đầu hàng 5 ngày sau khi nhảy dù xuống mặt đất. Không một thành viên nào của toán BOONE thừa nhận ai là người đă đưa ra quyết định đầu hàng, thế nhưng hầu hết các biệt kích đều biết rằng một quyết định như vậy phải do toán trưởng đưa ra.
    Toán BOONE bỏ lại toàn bộ vũ khí và trang thiết bị của họ rồi kéo nhau ra đầu hàng dân chúng của một hợp tác xă gần nhất với một lá cờ trắng, người ta nói rằng hợp tác xă này cách căn cứ của họ 10 km. Một toán viên với khẩu tiểu liên Schmeisser 9mm đă ở lại căn cứ để bảo vệ các vũ khí và trang thiết bị. Một số toán viên lại nói rằng anh ta mang theo vũ khí duy nhất không bị bỏ lại là để tâng công lúc đầu hàng.
    Những người này được đưa về trại giam ở tỉnh Nghệ An và nhập với các toán viên của ATILLA. Họ chỉ ở lại đó một thời gian ngắn rồi bị đưa ra Hà Nội, ở đấy họ bị hỏi cung một lần nữa và bị đưa ra xừ tại một toà án quân sự đặc biệt. Cuộc xử án họ được tuyên truyền khá rùm beng. Trong lúc đang chuẩn bị để ra toà tại Hà Nội th́ nhân viên điện đài phụ Nguyễn Gia Thỏa có một người không rơ danh tích đến thăm. Một số người nói là người nhà của anh ta ở thị xă Hà Đông. Từ giờ phút đó Thoả được tha ra khỏi nhà tù và người ta nói là anh ta đi theo người "bà con bí hiểm" từ thị xă Hà Đông tới, và cũng từ đó các thành viên khác của toán không bao giờ gặp lại anh ta nữa.
    Trong khi toán BOONE đang đầu hàng ở gần Con Cuông th́ một mệnh lệnh từ Bộ Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam được phát đến đài thu trên đảo Cát Bà chuyển cho đội khu trục hạm số 135 đặt căn cứ tại Vạn Hoa; tấn công kẻ thù xâm nhập lănh hải.
    Những phác hoạ đầu tiên của hành động cuối cùng sắp sửa được thực hiện trên một vùng biển mà người ta gọi là Vịnh Bắc Bộ .
    10. SỰ KIỆN VỊNH BẮC BỘ.
    Đêm ngày 1/8/64, tàu Maddox của Mỹ đă tiến vào vùng biển Bắc Việt Nam để quan sát và thu thập t́nh báo điện đài. Hành động này chỉ xảy ra sau cuộc đột nhập bí mật đường biển của lực lượng thuộc Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG), được thực hiện theo giai đoạn II của kế hoạch OPLAN 34A, nhằm vào mục tiêu ven bờ nằm trong tầm nghe trộm tốt của tàu khu trục Mỹ (xem phụ lục số 7).
    Chiều hôm sau, theo báo cáo lại, tàu Maddox ở cách bờ biển Bắc Việt Nam 25 hải lư đang tiến ra ngoài theo hướng Nam với tốc độ 27 hải lư th́ bị ba tàu ngư lôi của hải quân Bắc Việt Nam truy đuổi với tốc độ cao. Theo bức điện mà Mỹ thu được th́ ba tàu này được lệnh "tấn công kẻ thù”. Theo hồ sơ chính thống của Hải quân trong giai đoạn đó th́ có ít nhất một tàu ngư lôi đă bị đánh ch́m bởi cuộc không kích bằng máy bay f8 của tàu Mỹ Ticonderoga tấn công những tàu này để hỗ trợ cho tàu Maddox.
    Trong thời gian tấn công, Tổng thống Johnson đă gặp gỡ các quan chức cao cấp của chính quyền Mỹ. Mặc dù không có sự phản ứng về quân sự đối với cuộc tấn công tàu Maddox ngày 2/8, nhưng chính quyền Mỹ cũng đă gián tiếp nhắc nhở Bắc Việt rằng Mỹ sẽ tiếp tục tuần tra kiểm soát trên vùng biển quốc tế và cảnh cáo rằng Bắc Việt Nam sẽ phải chịu "những hậu quả thích đáng" nếu tiếp tục có hành động tấn công khiêu khích bằng quân sự chống lại lực lượng của Mỹ.
    Khả năng của lực lượng hải quân Mỹ đi lại tự do trên vùng biển quốc tế là một vấn đề đang được Washington đặt ra và là một phần chiến lược trong giai đoạn đối đầu với Liên Xô do việc chuyển tên lửa tiến công vào Cu Ba. Nhóm đặc biệt và những nhà hoạch định chính sách quốc gia biết rất rơ rằng những chiến dịch tấn công của tàu Maddox có thể khiêu khích rất thành công hành động quân sự của Bắc Việt Nam (xem phụ lục số 3).
    Sau trận tấn công ngày 2/8, tàu Maddox được lệnh tiếp tục hoàn thành cuộc tuần tra Desoto theo hành tŕnh mới. Tàu Maddox bây giờ được lệnh không tiến gần quá 12 hải lư so với bờ biển Bắc Việt Nam. Bộ Ngoại giao tŕnh bày rằng điều đó sẽ giữ tàu Maddox bên ngoài giới hạn 3 hải lư mà các quan chức Mỹ kết luận rằng nó đă tồn tại từ khi kết thúc chế độ thuộc địa Pháp trong năm 1954.
    Vào tối ngày 4/8, sau khi thực hiện cuộc trinh sát điện tử ven bờ trong tầm 16 hải lư, tàu Maddox và tàu hộ tống Turner Joy của Mỹ đang tiến xa bờ biển Bắc Việt Nam ra giữa Vịnh Bắc Bộ. Một giờ đầu, một cuộc tập kích bí mật đường biển khác lại xảy ra theo giai đoạn II và một lần nữa lại đụng phải mục tiêu Bắc Việt Nam trong tầm nghe điện tử của tàu khu trục (xem phụ lục số 7).
    Thuyền trưởng tàu Maddox chống lại khả năng hành động quân sự của Bắc Việt Nam. Đầu buổi chiều hôm đó, Bộ chỉ huy hải quân Bắc Việt Nam ở Hải Pḥng đă ra lệnh cho các tàu ngư lôi Tl42 và T146 chuẩn bị chiến đấu tối hôm đó và liên lạc với tàu ngư lôi 833 đang bị hỏng máy. Hồ sơ chính thống hải quân Hoa Kỳ kể lại rằng sự kiện này được coi như là bằng chứng đầu tiên chứng tỏ Hải quân Bắc Việt Nam đang chuẩn bị đánh trả, mà hành động đó chẳng gây ngạc nhiên chút nào đối với những người đă hiểu rơ kế hoạch 34A và những hậu quả tất yếu kéo theo của nó (xem phụ lục số 3).
    Khoảng 10 giờ 15 phút tối, tàu Maddox và tàu Turner Joy ít nhất cũng đă vượt qua được nửa đường Vịnh Bắc Bộ, gần Trung Quốc hơn là Bắc Việt Nam. Họ đă ở sâu trong vùng biển quốc tế theo hướng Đông Nam ban đầu tiếp tục ra khỏi Bắc Việt Nam. Hướng đó có thể được xem như là đang tiến ra ngoài, hoặc là theo hướng Tây Nam của đảo Hải Nam, Trung Quốc. Những tàu khu trục của Mỹ khẳng định rằng họ đă thu được 3 hoặc 4 cuộc liên lạc điện đài ở phía sau họ, cùng với một số liên lạc lẻ tẻ tới hướng Đông theo đảo Hải Nam. Mặc dù hồ sơ chính thống của những tàu này, những tàu ngư lôi có lẽ là của kẻ thù, cách tàu Maddox gần 50 hải lư không phải đang tiến đến từ hướng Bắc Việt Nam. Nó tiến đến từ một hướng lân cận đảo Hải Nam, theo hướng Đông và hướng Đông Bắc so với vị trí của tàu khu trục. Trong bốn tiếng tiếp theo, tàu Maddox và tàu Turner Joy đă báo cáo về nhiều cuộc liên lạc và nghi ngờ ngư lôi được phóng từ tàu tuần tiễu và những tàu này xuất hiện để điều khiển nó trong khi lực lượng không quân chiến đấu của Mỹ đang bay kiểm soát trên đầu. Hồ sơ chính thống Hải quân Mỹ ghi lại có một số tàu tuần tiễu đă bị đánh ch́m trong bốn tiếng đó. Một số quan chức Mỹ cho rằng sự kiện này không chính xác tuy nhiên một số quan chức khác thậm chí lại đặt câu hỏi liệu cuộc tấn công trong thực tế có xảy ra hay không?
    Không khí ở Washington trở nên rất căng thẳng khi các nhà hoạch định chính sách cấp cao gặp nhau để quyết định thái độ phản ứng đối với hành động được báo cáo lại là cuộc tấn công đó. Trong khi Tư lệnh lực lượng liên quân đề nghị phải có phản ứng bằng quân sự th́ các quan chức của Bộ Ngoại giao đă gặp thượng nghị sĩ William Fulbright, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện để tŕnh bày tuyên bố công khai của Tổng thống Johnson đối với toàn quốc nhằm khuyên nhân dân Mỹ ủng hộ quyết định phản ứng của Chính quyền Mỹ chống lại Bắc Việt Nam.
    Cuộc thảo luận qua điện thoại giữa Bộ trưởng Mc.Namara và Tổng thống đă nêu lên vấn đề cần phải có căn cứ vững chắc hơn về những hành động được báo cáo lại là cuộc tấn công. Cả Tổng thống và Bộ trưởng Quốc pḥng đều biết rất rơ phạm vi của kế hoạch 34A. Tổng thống đă thông qua nó theo đề nghị của Bộ trưởng Quốc pḥng tháng 12 năm ngoái. Trong khi Washington đang chờ thêm chi tiết và những bức điện mật mà nói là tàu Maddox đă thu được để giải mă và phân tích lại ở Mỹ, th́ một nhóm nghiên cứu đă gặp nhau để xem xét và lựa chọn các mục tiêu oanh tạc bằng không quân chống Bắc Việt Nam.
    Trợ lư Tổng thống về vấn đề An ninh Quốc gia Mc George Bundy, được chỉ định giúp Bộ Ngoại giao về mặt chính sách đối ngoại của kế hoạch 34A đang đánh giá những bức điện thu được và liên hệ tiếp xúc với Bộ Ngoại Giao. Sau đó ông ta đă gặp thượng nghị sĩ Fulbright. Khi đề cập đến cuộc tập kích trước của lực lượng thuộc Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG) theo kế hoạch 34A, Fulbright đă hỏi Bundy rằng liệu những chiến dịch tấn công bí mật bằng đường biển có liên quan ǵ với những hoạt động của 2 tàu khu trục không? Theo thượng nghị sĩ th́ Bundy trả lời rằng "nó không có liên quan với nhau theo một chiến dịch". Điều đó theo tin tức báo cáo lại là đă làm yên ḷng Thượng nghị sĩ Fulbright, một người ủng hộ rất tích cực những cố gắng của Tổng thống để giành được sự tái cử và điều đó đă chỉ ra rằng h́nh như có lư do rất hợp lư cho những quyết định phản ứng của Chính quyền Mỹ. Sau đó Fulbright đă cùng với Bundy soạn thảo một bản thông điệp của chính quyền mà Tổng thống sẽ loan báo qua truyền h́nh toàn quốc. Sau này Thượng nghị sĩ Fulbright thừa nhận rằng ông ta bị nhầm về những ǵ đă xảy ra trong thời gian đó.
    Nếu thượng nghị sĩ Fulbright nghe nói về mối quan hệ được nhận thức rơ ràng của Hải quân Mỹ giữa chiến dịch đường biển 34A và những tàu khu trục th́ có lẽ ông ta và nhiều quan chức khác của Quốc hội và Chính quyền sẽ thông qua những quyết định phản ứng thận trọng hơn. Tuy nhiên, không thấy dấu hiệu chứng tỏ ông ta đă hỏi hoặc được cung cấp những thông tin về những chiến dịch rộng hơn của kế hoạch 34A mà nó bao gồm những chiến dịch ngày càng tăng của những nhóm điệp viên bán vũ trang và những chuyến bay trinh sát trên không của Mỹ kể từ đầu thập kỷ (xem phụ lục số 2, 3 và 7).
    Trong suốt 5 tiếng của sự kiện được báo cáo có liên quan đến tàu Maddox và Turner Joy, đă nhận được một bức điện do Bộ Tổng tham mưu nơi đang chỉ đạo cuộc oanh kích không quân phá hoại các kho xăng dầu và bốn khu liên hợp vùng ven biển của Bắc Việt Nam. Những cuộc oanh kích này là sự giáng trả những hành động được báo cáo là trả đũa cuộc tấn công của Bắc Việt Nam chống lại 2 tàu khu trục Mỹ ngày 4/8.
    Bộ chỉ huy ở Sài G̣n đóng vai tṛ ǵ trong quá tŕnh vạch ra quyết định này. Tướng Westmoreland đă nhấn mạnh rằng ông ta không đóng vai tṛ ǵ: “Tôi không có liên quan ǵ đến nó, Quyết định đă được thông qua ở Washington trước khi tôi biết được nó".
    Ngày 5/8, không quân Mỹ đă oanh tạc vùng Đông Bắc Ḥn Gai và tỉnh Thanh Hóa, Mỹ cũng tiến hành đánh phá một số khu công nghiệp ở Vinh, bến đỗ tàu thuyền ở cửa sông Gianh những mục tiêu và lực lượng bí mật của CIA phát hiện về những thuyền máy và tàu ngư lôi mới đến của lực lượng biệt kích Hải quân SOG.
    Ngày 5/8, Tổng thống Johnson tuyên bố trên truyền h́nh toàn quốc rằng các cuộc không kích đă sẵn sàng đang trên đường đi đến giáng trả những hành động được tŕnh bày lại với Quốc hội và nhân dân Mỹ là những hành động tấn công khiêu khích tàu chiến của Mỹ trên vùng biển quốc tế ở Vịnh Bắc Bộ. Thực tế Tổng thống Johnson đă phát biểu trước khi xẩy ra các cuộc không kích.
    Nguyên nhân dễ nhận thấy sự rối loạn này là do sự tính toán sai về sự chênh lệch thời gian giữa giờ Việt Nam và giờ Washington, tính sai một giờ có nghĩa rằng thực tế Tổng thống Mỹ đă báo trước cho Bắc Việt Nam rằng trong một giờ nữa sẽ bắt đầu cuộc không kích.
    Ngày 7/8 Quốc hội Mỹ đă thông qua giải pháp của Tổng thống về sự kiện Vịnh Bắc Bộ cho phép sử dụng lực lượng của Mỹ để hỗ trợ cho mọi thành viên của Hiệp ước pḥng thủ chung Đông Nam Á. Một trong những thành viên của Hiệp ước này là Việt Nam Cộng hoà, đây là giải pháp được coi như là Cơ sở pháp lư cho Mỹ tham chiến ở Đông Nam Á. Họ đă ra lệnh tiến hành các cuộc oanh tạc không gần quá 50 hải lư so với lănh thổ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trong 5 ngày đại sứ Taylor đă kêu gọi thực hiện các cuộc ném bom liên tục.
    Cũng trong ngày 7/8, Bộ Tổng tham mưu liên quân đă thông qua kế hoạch hành động 37-65 của Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương để "ổn định t́nh h́nh ở Nam Việt Nam và Lào"…Kế hoạch này có quan hệ chặt chẽ với những kế hoạch 33 và 37-64 trước đây. Nó cũng có liên quan đến những kế hoạch 34A như là tiếp tục chiến dịch bí mật. Kế hoạch 34A bao gồm những chiến dịch được tiến hành trong vùng biên giới Việt Lào để chống hoạt động xâm nhập của Bắc Việt và nhiều cuộc oanh kích của lực lượng không quân nhằm huỷ diệt các mục tiêu quân sự và kinh tế của Bắc Việt Nam.
    Tham mưu trưởng liên quân rất thoả măn rằng Tổng thống Johnson đă nghe và chấp nhận đề nghị của họ về sự phản ứng cứng rắn đối với Bắc Việt Nam. Uy tín của Johnson được tăng lên nhanh chóng từ 42% đến 72%. Đại đa số người Mỹ hiểu rằng Tổng thống đă có thái độ phản ứng thích hợp và có sự cân nhắc đối với hành động được mô tả là khiêu khích quân sự ở vùng biển quốc tế. Ba tháng tới trước khi cuộc tổng tuyển cử tháng 11/64. Điều đó đă đem lại cho nhân dân Mỹ có một h́nh ảnh về người lănh đạo cứng rắn và thái độ phản ứng của ông ta là có giới hạn, và v́ vậy dễ chấp nhận hơn h́nh ảnh đối thủ cạnh tranh của ông ta thuộc Đảng Cộng hoà là Barry Goldwater, khi là Tổng thống ông ta có thể đưa nước Mỹ vào cuộc chiến tranh.
    Cuộc điều tra t́m hiểu sau đó của Quốc hội về sự kiện Vịnh Bắc Bộ đă tiết lộ rằng Mỹ có thể thu được những bức điện tín mật mă và mệnh lệnh của Bộ chỉ huy cấp cao hải quân Bắc Việt Nam nơi đă hạ lệnh tấn công tàu Maddox ngày 2/8. Đó là những bức điện được mă hoá ở mức độ cao gửi cho đội tàu ngư lôi Torpedo số 135 có nhiệm vụ thực hiện cuộc tấn công và gửi cho Bộ chỉ huy hải quân khu vực phía Nam đang điều khiển những thiết bị Swatows mà hải quân Bắc Việt Nam sử dụng để hướng dẫn các tàu ngư lôi chiến đấu.
    Thực tế này cũng có thể lập luận rằng, nếu các lực lượng t́nh báo viễn thông của Mỹ có khả năng thu được các bức điện, th́ Washington cũng có thể biết rằng Hà Nội đă đặt tất cả các lực lượng của họ vào vị trí sẵn sàng cho cuộc chiến tranh toàn diện. Những bức điện thu được cũng đă tiết lộ rằng Hà Nội đă theo dơi chặt chẽ như thế nào các cuộc tập kích của lực lượng thuộc Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG). Hơn nữa Washington cũng có thể biết rằng Hà Nội đang theo dơi chặt chẽ sự phối hợp liên hệ cao giữa những hoạt động t́nh báo thông tin điện tử của Hạm đội 7 để hỗ trợ cho kế hoạch 34A và hàng loạt những chiến dịch chiến tranh tâm lư, tập kích bí mật đường biển và thả gián điệp ra Bắc Việt Nam do lực lượng thuộc Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư Chỉ huy quân sự (MACSOG) và CIA tiến hành (xem phụ lục số 2). Mặc dù ngày càng có nhiều câu hỏi về cuộc chiến tranh mở rộng, những thông tin về những hành động này được bảo vệ rất chặt chẽ bằng một nhóm được lựa chọn ở Ban điều hành gồm những người rất cần biết đến.
    Trong suốt cả giai đoạn này người ta không nhắc đến quốc tịch của con tàu tấn công đó. Hồ sơ chính thống của Hải quân Mỹ ám chỉ rằng đó là tàu của Bắc Việt Nam nhưng chỉ dừng lại như thế. Hồ sơ Hải quân nhân dân Việt Nam có ghi lại mệnh lệnh tấn công của Hải đoàn 3 vào ngày 2/8 và sau đó có thừa nhận rằng Washington đă lợi dụng những cuộc tấn công đó để biện hộ cho cuộc không kích ngày 5/8. Nhưng lại không nói ǵ đến sự kiện ngày 4/8.
    V́ vậy về lịch sử mà nói, vẫn c̣n nghi ngờ nếu rằng thực tế cuộc tấn công ngày 4/8 có xẩy ra hay không, nếu có th́ do ai tiến hành. Ngày 4/7/66, một người có thể trả lời câu hỏi này đă lên boong tàu Cavalier của Mỹ đang neo đậu tại Đà Nẵng, Nam Việt Nam. Chính sự tồn tại câu trả lời này cũng được giữ bí mật không kém sự tồn tại của những chiến dịch do CIA và lực lượng Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG) tiến hành.
    Tôi hỏi đại úy Trần Bảo rằng "Tại sao các anh lại tấn công hai tàu khu trục Mỹ vào tháng 8 năm 1964?". Anh Bảo là một sĩ quan cao cấp chỉ huy tàu ngư lôi của Bắc Việt Nam, người được tàu khu trục Mỹ đang đi trên vùng biển quốc tế đă cứu vớt từ một trong 2 tàu bị đánh ch́m.
    Anh Bảo kể lại, ngày 2/8/64 anh ta là Tham mưu trưởng đại đội 135 và là sỹ quan đại đội trong ban chỉ huy Hải đoàn 3 chỉ huy tàu 333 được lệnh tấn công tàu Maddox. Anh thừa nhận rằng cuộc tấn công ngày 2/8 được thực hiện một phần v́ Hà Nội mong muốn gửi thông báo về những cuộc tấn công bí mật do lực lượng Hải quân Mỹ tiến hành trong một chiến dịch với vụ trinh sát điện tử của tàu khu trục Mỹ. Hai tàu ngư lôi của Bảo đă bị đánh ch́m, sau đó một tàu đă được đẩy vào gần bờ. Bảo trên boong tàu chỉ huy của hải đoàn 333 đă trôi dạt trở lại bờ biển Thanh Hoá, tàu được giấu kín ở đây trong thời gian chờ sửa chữa máy. Bảo chuyển sang mô tả lại bản báo cáo sau trận đánh mà anh ta đă viết về sự kiện ngày 2/8. Anh ta đă kể chi tiết bức điện trước khi có cuộc tấn công được gửi đi từ Hải Pḥng cho bộ chỉ huy tiền phương ở đảo Cát Bà, sau đó cho Bộ chỉ huy khu vực I ở Vạn Hoa, và cuối cùng là đại đội của anh ta.
    Giống như với cuộc tấn công ngày 2/8, các tàu của Bảo đă trở về Vịnh Bắc Bộ theo kế hoạch tấn công của họ vào ngày 1/7/66 chỉ trong 2 ngày sau cuộc tấn công bí mật bằng đường biển của lực lượng thuộc Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG) nhằm vào các mục tiêu ven bờ ở phía Bắc Vịnh và phá hủy hoàn toàn các kho nhiên liệu.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    L


    Câu trả lời của đại uư Bảo trực tiếp như sau:
    - Chúng tôi đă báo cho các ông mùa hè năm đó một tháng trước khi xây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ rằng chúng tôi mở rộng biên giới lănh thổ của chúng tôi. Chúng tôi cho rằng sự lưu ư trước đó sẽ đảm bảo giữ cho tàu của nước ngoài ở Hải phận Quốc tế. Nhưng các ông đă không thực hiện như vậy. Đó là lư do tại sao chúng tôi tấn công… Tôi đă chỉ huy cuộc tấn công ngày 2/8… Đó là khi tàu chỉ huy của tôi bị bắn và đă được đưa trở về một trong những sông ở Thanh Hoá. Chúng tôi đă giấu nó cho đến khi chúng tôi sửa chữa xong tàu…Tôi là tác giả bản báo cáo sau chiến sự cuộc tấn công ngày 2/8…
    Tôi hỏi: "Thế c̣n cuộc tấn công ngày 4/8 th́ sao?"
    Bảo tiếp tục:
    - Chẳng có cuộc tấn công nào nữa, tôi hoàn toàn không biết. Hơn nữa lực lượng của chúng tôi trong khu vực đó chỉ hoạt động đến kinh độ 106 độ 30 phút, chúng tôi không thể ra xa hơn v́ vấn đề nhiên liệu. Chúng tôi c̣n gặp phải vấn đề khác nữa. Rađa trên tàu của chúng tôi chỉ có hiệu lực trong phạm vi cách mục tiêu 10 hải lư và chỉ có thể hữu ích trong khoảng dài nhất 5000m. Đó là lư do tại sao chúng tôi sử dụng Swatows để hướng chúng tôi tới gần mục tiêu bằng cách này chúng tôi có thể t́m thấy mục tiêu.
    Chúng tôi có một vấn đề nữa. Tàu P4 không hoạt động tốt ở vùng biển động, ở những nơi đó chúng tôi phải đi với tốc độ rất hạn chế. Ngoài ra, đa số thời gian chúng tôi thường đậu trong băi chứ không phải ở ngoài vịnh.
    Hải đoàn của chúng tôi hoạt động theo biên chế 3 tàu cho một Hải đoàn và chúng tôi chỉ có 1 tàu P4. Mặt khác Trung Quốc vừa có cả tàu P4 lại vừa có cả tàu ngư lôi hoạt động với tầm dài hơn như là P6. Tàu P6 thích hợp cho tàu ngư lôi hoạt động với tầm dài hơn và có thể hoạt động tốt bên ngoài tầm của tàu P4.
    Hồ sơ chính thống về sự kiện Vịnh Bắc Bộ cũng ghi lại rằng cuộc tấn công tàu khu trục Maddox và tàu Turner Joy xẩy ra ở vị trí khoảng 107 độ 30 phút. Những cuộc tấn công đó do 3 hoặc 4 tàu tiến hành theo từng đợt ít nhất là trong 6 tiếng. Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có 4 tàu cho một Hải đoàn, giống như đa số các tàu ngư lôi khác của Hải quân nước ngoài. Bắc Việt Nam chỉ có 3 tàu trong Hải đoàn.
    Hồ sơ chính thống của Hải quân Mỹ trong thời kỳ đó không nói ǵ tới việc di chuyển của Hải quân Bắc Việt Nam theo hướng Tây trong Vịnh Bắc Bộ ngày 4/8 giữa thời kỳ hoạt động điện đài, thông tin liên lạc và chụp ảnh t́nh báo của hải quân Bắc Việt Nam. Những hồ sơ này cũng không nói ǵ đến vai tṛ của Hải quân Trung Quốc, một vấn đề rất đáng t́m hiểu v́ sự xuất hiện tàu tuần tịễu Trung Quốc. Ở khu vực II trước khi xẩy ra cuộc tấn công ngày 2/8 và thực tế là những tàu khu trục khác của Mỹ cũng đă thực hiện những phi vụ tương tự như phi vụ của tàu Maddox nhằm vào Trung Quốc.
    Grady Stewart, một thẩm vấn quân sự khác, và tôi đă xem xét lại toàn bộ thống kê hành tŕnh những tàu tuần tiễu của đại đội 135 Hải quân Bắc Việt Nam cùng với Trần Bảo. Bảo đă kể lại từng bản thống kê một. Anh mô tả quá tŕnh từng tàu bị ch́m và những tàu nào được trục vớt lên ở vị trí nào. Chúng tôi cũng xem bản theo dơi thống kê ngư lôi của đơn vị hải quân của anh ta với khoảng 60 ngư lôi kể cả 3 ngư lôi đă phóng để đánh tàu Maddox ngày 2/8. Số c̣n lại, theo tính toán của anh ta, Hải quân Bắc Việt Nam với 57 ngư lôi, Hải đoàn 3 đă sử dụng vào cuộc tấn công ngày 1/7/66.
    Bảo nói:
    - Có cách kiểm tra rất dễ nếu người ta muốn, hăy xem bản theo dơi ngư lôi của chúng tôi ở kho Vạn Hoa, th́ sẽ thấy hồ sơ tài liệu chính xác về t́nh trạng và vị trí của từng ngư lôi mà chúng tôi có. Bởi tôi là Tham mưu trưởng và mọi bản báo cáo đều qua tôi.
    Ngày 6/7/66 nhóm quân sự của chúng tôi đă gửi bức điện đầu tiên báo cáo rằng một nhóm gồm 19 thủy thủ hải quân Bắc Việt Nam đang trên đường trở về Nam hai ngày đầu, Thuyền trưởng tàu Cavalier đă ra lệnh cho chúng tôi không được phỏng vấn bất cứ tù nhân nào cho đến khi những người thẩm vấn của lực lượng hải quân Mỹ đến tàu Cavalier, thật là một sự lăng phí thời gian vô cùng quư báu c̣n làm tiêu hao nhân lực. Và cứ như thế trong 3 ngày, trong thời gian chờ đợi các nhà thẩm vấn Hải quân Mỹ đến, chúng tôi chỉ tán gẫu. Thuyền trưởng tàu Cavalier đă không để ư đến điều đó và đă hiểu sai vấn đề thẩm vấn.
    Thuyền trưởng nói: "không được phỏng vấn, đó là mệnh lệnh của Hạm đội 7".
    Tôi hỏi:"ít nhất th́ chúng tôi cũng có thể nói chuyện với anh ta được chứ? Anh biết đấy, chỉ tán gẫu thôi?"
    "Ồ!.. Được, điều đó th́ được. Nhưng nhớ rằng không được thẩm vấn họ đâu”.
    V́ vậy chúng tôi chỉ tán gẫu.
    Chúng tôi đă nhận được một bức điện khẩn ở tàu Cavalier chỉ 1 hay 2 ngày sau khi hoạt động chính thức của đội thẩm vấn Hạm đội 7 ngày 6/7 và đă gửi điện bản báo cáo của họ dày 120 trang. Chúng tôi hiểu rằng đây là báo cáo làm hoang mang đối với những hiểu biết ban đầu của chúng tôi v́ nó trích dẫn những lời khai của Bảo và những tù nhân khác. Báo cáo bao gồm toàn bộ tổ chức và việc triển khai thế trận của Hải quân nhân dân Việt Nam vị trí hiện nay của nó, về sự khẳng định của Bảo không có sự kiện 4/8. Người
    chỉ huy William K. Quisenberry, một sĩ quan Hạm đội 7 đang chỉ huy cuộc khai thác 19 tù nhân Hải quân Bắc Việt Nam đă thông báo ngay tin này cho nhóm 2 người chúng tôi.
    Bức điện viết: "Các anh sẽ không nhắc lại là không được t́m hiểu chi tiết hơn nữa về những ǵ có liên quan đến sự kiện Vịnh Bắc Bộ…"
    Rơ ràng là đến tháng 7/66 vẫn c̣n có câu hỏi về cuộc tấn công mà đă không được bảo vệ bí mật.
    Hồ sơ chính thống hải quân Mỹ trong giai đoạn này của cuộc chiến tranh Việt Nam đă nói rằng Bắc Việt không tuyên bố công khai đ̣i giới hạn lănh thổ 12 hải lư tận đến sau khi có cuộc tấn công tháng 8. Lịch sử Hải quân của Mỹ cũng thấy điều đó thật "khôi hài". V́ những sự kiện tháng 8/64 mà nó đă thúc đẩy đến việc mở rộng cuộc chiến tranh, đă làm lộ kế hoạch 34A. Trong thực tế những tác giả của kế hoạch này nhận thấy rằng điều đó rất có thể xảy ra và những tác giả của Lịch sử Hải quân Mỹ có bản tài liệu của cả Cơ quan nghiên cứu tài liệu lực lượng thuộc Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG) và báo cáo của đội khai thác Hạm đội 7 (xem phụ lục số 3).
    Những chiến dịch đường biển của kế hoạch 34A đă leo thang tới mức cao hơn vào cuối mùa Thu năm 1964 sau khi ngừng tạm thời các hoạt động hiện tại theo kế hoạch (xem phụ lục số 4). Nh́n bề ngoài sự ủng hộ những cố gắng đó, Tham mưu trưởng quân đội Mỹ, tướng Harold Johnson sau này đă đưa ra kết luận có tính chuyên môn rằng những chiến dịch đường biển của kế hoạch 34A là có giá trị. Nhưng dù sao chăng nữa hồ sơ chính thống về những chiến dịch của lực lượng thuộc Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG) trong năm đó (qua tháng 12) cũng chỉ ra một cách chính xác mặt trái của nó.
    Tiếp theo sự kiện Vịnh Bắc Bộ, tướng Westmoreland đă đề nghị rằng những chiến dịch đường biển cần phải được tăng cường. Thứ trưởng quốc pḥng Cyrus Vance đă thông qua sự tăng cường đó với một số điều chỉnh biến đổi. Mc George Bundy cũng đồng ư và đến tháng giêng năm 1965, một số sự kiểm soát trước đây đă được giải toả.
    Thật là khôi hài, một chương tŕnh bí mật đă bị thất bại trong 4 năm lại bất ngờ được mở rộng. Kế hoạch này lúc đầu chỉ nhằm mục đích gửi bức thông điệp ngăn chặn chiến tranh mà bây giờ lại trở thành động lực thúc đẩy chiến tranh tiến xa hơn và một chiến dịch đường biển không có hiệu quả rộng nay lại được coi là đáng khen ngợi.
    Khi Hà Nội tiến hành cuộc tấn công mới ở Nam Việt Nam vào mùa Thu năm đó và kéo sang mùa Xuân năm 1965, Washington đă chuẩn bị những hành động đầy tham vọng hơn để chống Bắc Việt Nam với ư đồ của Chính quyền Mỹ muốn trả đũa. Điều đó thể hiện rơ ở t́nh trạng Nhóm quan sát nghiên cứu trợ lư chỉ huy quân sự (MACSOG) tiếp tục tung điệp viên vào Bắc Việt Nam, nhưng chẳng bao lâu đă hết tất cả lực lượng mà đại tá Russell đă kế thừa vào tháng giêng năm ngoái (xem phụ lục 5 và 6).

    Phần III SỰ NGỤY TRANG

    Phần III
    SỰ NGỤY TRANG
    (1965-1967)
    11. “ROMEO BỊ BẮT… "
    Ngày 22/10/1964, bốn biệt kích thuộc toán ALTER nhảy dù xuống Lai Châu để tăng cường cho toán REMUS. Toán trưởng được chỉ định lúc đầu là Quách Rang đang bị mắc kẹt ở Buôn Mê Thuột, v́ phải đối phó với cuộc nổi dậy của người thiểu số nên không đi cùng toán như đă dự kiến. Ngày 14/11, Rang với cương vị là chỉ huy phó đă cùng toán GRECO thực hiện việc tăng cường. Tháng 5, năm biệt kích nữa thuộc toán HORSE, dưới sự chỉ huy của Quách Nhung, được thả dù xuống Sơn La tăng viện cho toán TOURBILLON. Tất cả đều được Bộ Công an "đón tiếp".
    Lúc này, nhiều sư đoàn quân Mỹ đang kéo vào Nam Việt Nam. Cuộc leo thang với số lượng lớn bộ binh Mỹ dẫn đến việc quân Mỹ vào tham chiến ngày càng trở nên công khai. Các hoạt động biệt kích bí mật của MACSOG đang được thay thế bằng cuộc chiến tranh mở rộng. Với sự hỗ trợ của Cục t́nh báo quân đội (DIA), MACSOG bắt đầu chuyển hướng từ hoạt động biệt kích sang hoạt động do thám để hỗ trợ cho một màng lướt t́nh báo có thể thông báo tin tức một cách mau lẹ hơn.
    Mùa xuân năm đó, MACSOG được thông báo tiếp quản các phi vụ vượt biên giới sang Nam Lào. Căn cứ huấn luyện quân sự Long Thành đầy ắp lính mới tuyển để phá đường ṃn Hồ Chí Minh vừa mới phôi thai. Một số học viên là nhân viên cũ của Sở chỉ huy kỹ thuật chiến lược nhưng phần lớn bọn họ đều được tuyển từ 1962 cùng tham gia xây dựng căn cứ với các lính mới.
    Mùa thu 1965, chín biệt kích của toán DOG và ba của toán GECKO nhảy dù xuống Sơn La tăng cường cho toán EASY. Ngày 7 tháng 11, 8 biệt kích toán VERSE nhảy dù xuống Sơn La tăng cường cho toán TOURBILLON. Tất cả đều đă bị Công an nhân dân vũ trang đón bắt hết.
    Cũng tháng đó, toán ROMEO đă sẵn sàng xuất phát, mười một thành viên của toán biết rằng nhiều biệt kích đă nhảy dù xuống trước họ tại một khu vực hạn chế trong năm 1965 chính họ là những người thay thế cho các toán mà họ bị đánh lừa và nghĩ rằng đang hoạt động sâu trong ḷng miền Bắc. Không một người nào từ miền Bắc trở về, thế nhưng điều đó đă được sỹ quan huấn luyện giải thích rằng họ c̣n hoạt động ở miền Bắc. Mọi người đều hăng hái và muốn được đi. Các sỹ quan huấn luyện lực lượng đặc biệt Mỹ-Việt đều phấn khởi, không có một lời bóng gió, ám chỉ nào cho rằng đă có một điều ǵ đó sai lầm.
    Toán ROMEO bắt đầu nhận lệnh tung vào miền Bắc, tới địa điểm tập kết, đợi lệnh và chuẩn bị nằm vùng chờ đợi 2 năm. Ngoài ra, nó cũng chẳng nhận được lệnh phải làm ǵ sau khi tới miền Bắc. Cả toán nghiên cứu bản đồ chỉ rơ địa điểm nhảy dù và nơi tập kết, tất cả đều có vẻ rơ ràng, không có ǵ rắc rối: Ra miền Bắc rồi sẽ biết phải làm ǵ. Đó là cách làm việc của quân đội Mỹ.
    Chỉ thị hoạt động trong khu vực hạn chế này nhấn mạnh rằng đây là một hoạt động chống cộng, bảo vệ thế giới tự do. Trong toán ai cũng biết điều đó, họ tin vào điều đó và sẵn sàng chiến đấu v́ nó.
    Sau này, các toán viên của toán ROMEO nhớ lại lời nhận xét của một huấn luyện viên nói khi gần hết khoá học:
    - Cứ một ngàn người tung ra Bắc, chúng tôi chỉ cần một người hoạt động thành công là may mắn rồi. Tôi nói điều này v́ không muốn các anh nghĩ rằng mọi người chúng tôi tung đi đều hoạt động thành công cả. Nói tóm lại càng có nhiều người hoạt động thành công càng tốt. Chỉ có vậy thôi. Anh hoạt động thành công hay không, điều đó không thành vấn đề. Tất cả các anh đều được coi là thành công cả. Điều quan trọng nhất của toàn bộ hoạt động là ư chí, các anh sẵn sàng trở lại miền Bắc để chống cộng.
    Sáng 19 tháng 11, toán ROMEO cất cánh từ Long Thành trên chiếc máy bay vận tải cùng với tổ lái người Mỹ, bay đến căn cứ trung chuyển Khe Sanh, đến chiều các biệt kích được đưa lên hai trực thăng để đến địa bàn tác chiến. Chiếc thứ ba chở các sĩ quan tác chiến Mỹ và Việt đă đi theo họ từ Long Thành để chứng kiến cuộc đổ bộ xuống khu vực đă định.
    Ba chiếc cùng cất cánh một lúc và bay rất thấp qua không phận Lào. Vào lúc 4 đến 5 giờ, họ hạ cánh gần đường ṃn Hồ Chí Minh tại khu vực Vitulu gần biên giới Lào, thuộc huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng B́nh. Toàn toán nhanh chóng dỡ hành lư và rời xa nơi đổ bộ.
    Toán ROMEO liên lạc bằng điện đài với Sở chỉ huy để báo họ đă đổ bộ an toàn và đang hành quân đến điểm tập kết đă định. Thế nhưng quăng đường 10 km tưởng như là cuộc dạo chơi đă trở thành một cuộc hành tŕnh 5 ngày ḅ lê ḅ càng. V́ địa h́nh trên mặt đất không phải như mô tả trong bản đồ.
    Toàn toán kết luận rằng họ đă theo đúng chỉ dẫn để đi đến nơi tập kết, và việc họ không đến được nơi tập kết không phải do họ không biết sử dụng la bàn, bản đồ. Rơ ràng là họ đă được thả xuống sai địa điểm. Họ bị lạc hoàn toàn, không c̣n biết ḿnh đang ở đâu hoặc thậm chí đă đổ bộ xuống đâu? Họ đă dựa vào những điểm giống nhau nhất định giữa địa h́nh và mô tả trong bản đồ để di chuyển, phần lớn các điểm này rất giống nhau. Họ bị lạc nhau hoàn toàn, thậm chí không c̣n nghĩ được ḿnh đang ở đâu hoặc xác định được nơi ḿnh đổ bộ xuống.
    Họ điện báo khẩn cho Sở chỉ huy và được trả lời đúng là họ đă bị đổ bộ sai địa điểm, cách giải quyết là Sở chỉ huy phải xác định vị trí xem toán đang ở đâu mà hướng dẫn họ đến đúng điểm tập kết.
    Ngày lại ngày, lương thực sắp cạn kiệt. Sáu tuần lễ lặn lội trong rừng lạ, chỉ có Sở chỉ huy biết rơ là họ đang ở đâu và đang đi về hướng nào. Thế rồi tai hoạ xảy đến. Cuối cùng, Sở chỉ huy báo đă xác định được chỗ họ đang ở và thông báo cho họ chuẩn bị nhận tiếp tế bằng thả dù.
    Toàn toán dọn sạch chỗ đậu máy bay, trải một tấm pa-nen h́nh chữ Ttrên mặt đất để đánh dấu chỗ cho máy bay thả dù mà họ có thể nh́n thấy máy bay tới từ xa. Họ kinh hoàng khi thấy máy bay thả đồ tiếp tế cách đấy 4 đến 5 km mà nếu đường tốt cũng phải mất nhiều ngày mới đi tới được.
    Trong khi đang suy nghĩ về lũ ngu xuẩn trên không th́ họ nghe thấy tiếng động lạ, tiếng cười nói và té nước ở con suối gần đó. Ḍ la cẩn thận th́ ra 5 lính miền Bắc đang đùa cười, chất bếp, đun nấu, ăn chiều và cuối cùng họ mắc vơng để ngủ qua đêm mà không hề biết có một toán biệt kích với đầy đủ vũ khí đang giám sát họ chặt chẽ .
    Toán ROMEO rơi vào thế lúng túng nên phải bàn bạc cách xử trí. V́ chưa đến thời điểm liên lạc điện đài nên không thể mở máy liên lạc với chỉ huy sở lúc này hay gọi máy bay bắn phá được. Bị mất đồ tiếp tế cho nên cần được tiếp tế lại ngay, thế nhưng thả dù xuống th́ đội tuần tra của địch sẽ biết. Họ đi đến nhất trí và nhanh chóng vây bắt không khó khăn ǵ đối với 5 người lính tuần tra miền Bắc đang ngủ say.
    Năm người này là lính Biên pḥng tỉnh Quảng B́nh. Qua khai thác, họ biết là lực lượng Công an biên pḥng đang lùng sục toán này, v́ có lẽ là do những người chăn súc vật trên đỉnh núi báo rằng có mấy trực thăng thả biệt kích xuống khu vực này.
    Trong khi khai báo, rơ ràng những người bị bắt đă không khoe khoang khi họ nói rằng suốt dọc biên giới được canh pḥng cẩn mật, không ǵ có thể lọt qua được. Một hệ thống báo cáo tin tức từ xóm, làng đến tận Sở chỉ huy Công an Biên pḥng tỉnh.
    Toán ROMEO không biết xử lư ra sao. Theo bài học ở Long Thành th́ phải giết ngay 5 người này. Đó là cách duy nhất để các biệt kích có thể bảo đảm rằng các lực lượng miền Bắc không thể biết được địa điểm chính xác của toán, thế nhưng rơ ràng là người Bắc Việt đă biết họ đang ở khu vực này và đang lùng sục họ.
    Lư thuyết đă đi ngược lại bản chất con người. Bài học ở trường là một việc, nhưng bây giờ đối mặt với kẻ thù, họ lại lưỡng lự. Sau ba ngày đấu tranh khốn khổ, viên toán trưởng đă ra lệnh thả những người bị bắt. Toán chuyển ngay đi chỗ khác để tránh khỏi bị bắt và cũng không đánh điện báo cáo Sở chỉ huy những ǵ đă xẩy ra. Một tuần sau, ngày 14/1/1966, toán ROMEO bị bao vây giữa ṿng hoả lực phục kích được chuẩn bị kỹ của lực lượng phối hợp giữa quân đội nhân dân, công an biên pḥng và dân quân. Hẳn là năm người bị bắt, được thả về đă báo cáo đơn vị về việc họ bị toán biệt kích bắt.
    Sau khi bị bắt, các toán viên bị trói bằng dây điện thoại và bị lục soát, đồ đạc của họ được thống kê cẩn thận. Một cuộc hỏi cung chớp nhoáng họ đă phát hiện ra hai nhân viên điện đài. Cả hai đều bị bắt cùng với radio và mật mă. Cả hai bị tách riêng và đem đi nơi khác.
    Số c̣n lại bị đưa đi qua đường núi mất gần một tuần lễ th́ đến phía tây thị trấn Đồng Hới, và bị tống vào nhà giam là dăy nhà lá thay cho nhà tù mọi khi của Đồng Hỡi v́ sợ bị oanh kích. Họ bị giam ở đấy gần sáu tháng.
    "Ông thượng uư công an cầm súng dí vào đầu tôi", một trong hai nhân viên điện đài của toán ROMEO nói.
    Lúc bấy giờ là mùa thu năm 1973. Bảy năm rưỡi sau anh ta mới gặp lại đồng đội tại trại giam Quyết Tiến ở tỉnh Hà Giang. C̣n một người khác trong toán vẫn bị giam giữ ở đâu đó cho măi đến cuối năm 1979 mới gặp lại đồng đội, khi hầu như tất cả các biệt kích c̣n sống sót đều tập trung lại tại trại giam Thanh Phong, tỉnh Thanh Hóa.
    "Tôi biết ông ta sắp sửa bắn tôi nhưng v́ lư do ǵ đấy, lại thôi. Tôi nói tôi có thể cộng tác với họ đánh điện đài, nhưng tôi nói rơ là tôi chỉ đồng ư chuyển các bức điện xin tiếp tế chứ không xin thay người".
    Nhiều năm sau, trong lúc nói chuyện, người đồng đội ngày trước có hỏi anh ta điều ǵ đă xảy ra. Sau 14 năm trời, nhiều nỗi tức giận ban đầu cũng đă tiêu tan.
    Nhân viên điện đài nói: "Bộ Công an có một đơn vị đặc biệt thuộc tổng cục an ninh quốc gia và họ..."
    Anh ta mô tả đơn vị đặc biệt quản lư các nhân viên điện đài được các sỹ quan An ninh Quốc gia tuyển dụng và làm việc dưới sự chỉ huy của Cục phản gián thuộc Tổng cục An ninh Quốc gia. Họ hoàn toàn không có liên lạc với bất cứ người nào khác và có đường dây thông tin riêng biệt. Viên thượng uư từ đơn vị đặc biệt này của Bộ được cử xuống để quản lư các nhân viên điện đài của toán ROMEO.
    "Anh biết đấy", anh ta nói tiếp: "Tôi có ám hiệu riêng chỉ có tôi mới biết dùng một cách riêng để báo trong bức điện về Sở chỉ huy điều ǵ đă xảy ra. Tôi h́nh dung họ có thể gửi tiếp tế lại nhưng nếu họ biết chúng tôi đang bị áp lực phải đánh điện th́ họ sẽ không dám gửi quân tiếp viện v́ sợ bị giết".
    Sau khi bức điện được giải mă, người điện báo viên này biết rằng chỉ huy Sở sẽ gửi thêm người để tăng viện. Trong trường hợp này anh ta biết cần phải làm ǵ và quyết định liều mạng đánh điện rơ ràng, không dùng mật mă.
    "Tôi đánh điện đi hai lần trước khi viên thượng uư phát hiện điều ǵ đă xảy ra. Tôi đánh hai lần, rất nhanh: "toán ROMEO đă bị bắt", "toán ROMEO đă bị bắt".
    Ông ta đứng cạnh tôi, rút súng lục ra giám sát tôi đánh điện và khi phát hiện ra điều tôi đă làm ông ta đẩy tôi ra, dí súng vào đầu tôi. Tôi biết ông ta muốn bắn tôi chết tại chỗ, nhưng ông ta đă không bắn.
    Nhân viên điện đài này được giữ lại đó thêm hai ngày và sau đó nhận thêm được một bức điện nữa của Sài G̣n gửi ra. Lúc đó một nhân viên an ninh khác được cử đến để thu bức điện. Bức điện nói rằng bức điện hôm trước Hanh, điệp báo viên, đánh đi là sai. Hanh bị đẩy khỏi máy, bị đánh đập, bị tống vào nhà tù.
    Người bạn cùng toán với nhân viên điện đài này quay mặt đi. Phải chăng những điều anh ta nói là sự thật?
    Ngay từ đầu, hai điện báo viên đă bị cách ly khỏi đồng đội và đem đi, không ai biết họ bị đem đi đâu. Ngoài ra, người ta tin là bọn nhân viên điện đài đă nói láo, bịa chuyện về những ǵ xảy ra sau khi họ bị bắt. Vậy tại sao phải tin vào chuyện này? Câu chuyện này chẳng có ǵ đáng tin cả.
    Các tù nhân khác nói rằng họ nghe nói là một số nhân viên điện đài đă chuyển tin đi từ Hà Nội, chúng ở một nơi nhưng đánh điện về báo cáo lại nói là ở nơi khác. Hơn nữa họ không bao giờ được tham gia vào việc mă hoá và giải mă bất cứ bức điện nào, nên họ không thể nào biết nội dung các bức điện họ đánh đi. Công việc duy nhất của họ là chuyển các bức điện đi, đảm bảo cho chỉ huy ở Sài G̣n hài ḷng là điện báo viên không bị thay đổi. Sỹ quan Công an làm công việc mă hoá và giải mă. Người bạn cùng toán với nhân viên điện đài này chắc chắn rằng anh ta đă nói dối.
    Mỗi điện báo viên có cách đánh điện riêng của ḿnh. Chỉ huy Sở Sài G̣n có một băng cátset ghi lại đặc điểm của từng người để bảo đảm rằng nếu người Bắc Việt Nam thay thế người của họ vào sẽ bị phát hiện ngay. Hơn nữa, Sài G̣n c̣n có máy ḍ hướng xuất phát các bức điện để giúp họ phát hiện ra địa điểm điện báo viên phát đi các bức điện. Do đó Công an miền Bắc không thể điều khiển một điện báo viên bị bắt trong một thời gian dài nếu họ không giữ cố định nơi phát đi các bức điện. Chỉ huy Sở Sài G̣n chắc là phải biết rằng các điện báo viên của họ đang bị đối phương khống chế và đă quyết định cứ cho hoạt động này tiếp tục để biết ư đồ của miền Bắc muốn ǵ.
    Khi anh ta nghĩ về điều này và nhớ lại những ǵ Sở chỉ huy đă làm và những người đă cử ra Bắc, anh ta càng thấy rơ là họ không bao giờ cử một nhân vật quan trọng nào trong các phi vụ ra Bắc. Phải chăng đấy là chứng cứ cho thấy rằng họ đă biết hoạt động này đă bị vô hiệu hoá? Phải chăng họ đang chơi lại miền Bắc bằng cách tiếp tục gửi các toán biệt kích ra Bắc để phát hiện ư đồ và kế hoạch của họ?
    Ít ra cũng có một điều an ủi. Tất cả các toán viên đều đă kư hợp đồng khi họ tham gia chương tŕnh bí mật trong đó có các điều khoản đảm bảo quyền lợi nếu họ bị bắt hoặc coi là mất tích. Một ngày nào đấy họ sẽ được trở về và một cái ǵ đó đang chờ đợi họ, hy vọng là như vậy.
    Những tuần lễ đầu bị giam ở phía Tây Thị xă Đồng Hới, toán ROMEO bị thẩm vấn hết ngày này sang ngày khác. Những người thẩm vấn của Ty Công an Quảng B́nh và ở Công an ở Hà Nội cử vào. Có các cuộc không kích, nhưng không rơ ai ném bom và mục tiêu nào đang bị đánh phá.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Chuyện Biệt Kích
    M


    Một ngày tháng 3/1966, một tù binh mới đến "Anh là ai?”, một biệt kích hỏi nhỏ anh ta.
    “Tên tôi là Nguyễn Quốc Đạt" - Anh ta trả lời khẽ.
    "Tại sao bị bắt?"
    "Tôi là phi công. Tôi đang thực hiện một phi vụ không kích th́ bị trúng đạn, nhảy dù, bị bắt vào đây".
    Đạt thuộc không lực Việt Nam Cộng hoà, chỉ bị giữ mấy ngày ở đây rồi được chuyển từ Quảng B́nh ra Hoả Ḷ Hà Nội. Đạt đă trở thành nhân vật cho cánh tù biệt kích x́ xào bàn tán. Câu chuyện của anh ta lan truyền từ người này sang người khác. Đạt là tù binh của miền Bắc, nhưng anh ta đă chiến đấu chống lại họ. Đấy là điều mà tất cả bọn họ đă muốn làm. Bằng cách riêng, họ đă hoan hô anh ta và có một chút ghen tị với anh ta.
    Cũng như các toán đi trước và các toán sau này, các toán viên ROMEO đều kư hợp đồng lao động với Sở kỹ thuật chiến lược theo yêu cầu của MACSOG và điều lệ nhân viên dân sự được áp dụng cho cả các t́nh báo viên cũng như những người không phải t́nh báo viên. Việc kư hợp đồng này được thực hiện mỗi khi có người mới tuyển cho chương tŕnh hoạt động bí mật này.
    MACSOG không trực tiếp kư hợp đồng v́ theo chính sách của Mỹ phải sử dụng tổ chức của chính phủ Nam Việt Nam và thay mặt Mỹ kư hợp đồng tiến hành các hoạt động biệt kích chống Bắc Việt Nam. Điều này nhằm mục đích làm cho Mỹ dễ dàng chối bỏ, và cho phép Mỹ có thể rêu rao rằng đó là các hoạt động không phải do Mỹ chỉ huy. Các hợp đồng đó cũng cần để đảm bảo có đủ số lượng điệp viên trong biên chế v́ Miền Nam thường thay chính phủ luôn luôn. Đại tá Clyde Russell-Tư lệnh đầu tiên của MACSOG đă nói:
    - Đại tá Hổ về quân sự mà nói là người rất kém… là một cựu chủ nhà băng… là người có thể chấp nhận được về chính trị, đă sống sót qua các cuộc đảo chính… Tôi thấy thương hại cho ông ta khi bắt chính phủ của ông ta đi theo hướng của chúng ta. Một tháng sau chúng ta lại làm lại, lại phải bắt đầu từ đầu và lại bắt chính phủ ông ta đi theo hướng của chúng ta. Khi tôi ở đấy chúng tôi đă phải làm đi làm lại 4-5 lần như vậy. V́ bản chất yếu đuối, nói như vậy về ông ta có thể không đúng lắm, nhưng tôi thấy rằng tôi có thể bảo ông ta làm bất cứ ǵ mà Mỹ muốn họ làm… Có những lúc ông ta muốn giải thể chương tŕnh biệt kích không vận v́ ông ta cảm thấy rằng chúng ta không thể đưa những người đó ra miền Bắc, nhưng lại v́ bản chất yếu đuối nên chúng tôi gây áp lực buộc ông ta đồng ư và thế là … chúng tôi quay lại tổ chức các toán biệt kích không vận như từ đầu.
    Các quyết định về các toán viên toán ROMEO cũng như các toán biệt kích khác về các nhiệm vụ biệt kích ở miền Bắc đă bị thay đổi về tinh thần và ư đồ trong việc dàn xếp kư hợp đồng với các điệp viên khi tuyển dụng họ. Khốn thay, chẳng ai nói cho họ biết cả. Sự thay đổi này áp dụng cho cả các hợp đồng đă kư với những người c̣n ở tù ngoài Bắc, những người đang huấn luyện ở Miền Nam và cho cả những người mới tuyển vào chương tŕnh bí mật này. Theo lệnh đại tá Donald Blackburn, Tư lệnh MACSOG, nhiều điều khoản cụ thể đă bị thay đổi Sự thay đổi này được thực hiện mà không đếm xỉa ǵ đến các thoả thuận trước khi tuyển dụng, và nó cũng không bao giờ được thực hiện bằng lời văn trong giấy uỷ quyền do mỗi điệp viên làm vài tháng trước khi được đưa ra Bắc. Tóm lại, MACSOG vẫn hứa một số quyền lợi nhất định đối với các điệp viên và người nhà của họ trong khi đó lại cố t́nh phớt lờ các cam kết làm cho các biệt kích phải mạo hiểm cuộc sống của ḿnh để phục vụ cho lợi ích chính sách đối ngoại của Mỹ.
    Theo đại tá John.J. Windsor, thuộc Bộ tư lệnh quân đội Mỹ USMC, trưởng ban tác chiến của MACSOG, đến MACSOG vào tháng 6 năm 1965, trước khi toán ROMEO được đánh đi th́ thay đổi này xây ra từ năm 1966. Năm 1969, ông ta đă mô tả sự thay đổi này trong các hợp đồng của biệt kích với Hội đồng tham mưu trưởng liên quân.
    Mối liên hệ chính của tôi với đối tác Việt Nam là đại tá Hổ, một đối tác Nam Việt Nam của đại tá Blackburn… Chúng tôi quan hệ với nhau chẳng có vấn đề ǵ. Tôi xin dẫn chứng một ví dụ.
    Như anh biết, chúng tôi đă mất khá nhiều điệp viên (người Việt) ở miền Bắc, theo chính sách th́ chúng ta vẫn tiếp tục phải trả lương như thể là họ chưa bị chết. Sau 6 hoặc 8 tháng ở đấy danh sách thân nhân của họ mà chúng ta phải trả lương tháng lên đến con số lớn. Đại tá Blackburn bàn với tôi rằng ông ta muốn trả cho họ một khoản tiền tử tuất và cắt khoản lương tháng phải trả cho gia đ́nh. Tất nhiên đây làmột vấn đề gay cấn, tôi đến gặp đại tá Hổ để giải thích cho ông ta. Trước tiên tôi hỏi ông ta có bao nhiêu điệp viên thuộc dạng này. Tôi biết câu trả lời của ông ta trước khi đặt câu hỏi. Hổ phải hỏi ư kiến ban tham mưu của ông ta. Khi tôi nói với ông ta điều chúng ta muốn làm, họ đă hợp tác hoàn toàn với tôi…Chúng tôi giảm số người chết dần dần bằng cách công bố số người chết hàng tháng rất nhiều, cho đến lúc tất cả đều chết hết (để trả tử tuất) và xoá tên trong số lương trả hàng tháng. Chúng tôi làm thế để tránh bị phê b́nh là số tiền này đă biến đi đâu mất. Phản ứng đầu tiên của đại tá Hổ là ông ta không muốn để các biệt kích và người thân của họ biết là chúng ta đă mất nhiều người như thế. Đấy là lư do tại sao bản thân ông ta đă không làm như vậy nhưng tuy nhiên ông ta cũng đă đồng ư với đề nghị nói trên của chúng tôi.
    Tôi nghe rất nhiều lời chỉ trích của đại tá Hổ và thiếu tá B́nh và nhiều người Việt khác nữa; bởi v́ họ có cách nh́n khác về cuộc sống. Bọn họ thường nói: "Các ông chỉ ở đây một năm rồi về Mỹ, bọn tôi đă đánh nhau trong chiến tranh này 15 năm rồi và không biết c̣n phải đánh nhau bao nhiêu nữa". Bọn họ có cách nh́n khác và tôi thấy không phải họ thiếu trách nhiệm hay thiếu năng lực thực thi nhiệm vụ của ḿnh. Điều tôi muốn nói là họ không tham vọng một cách tích cực và không năng động như người Mỹ, nhưng tôi cảm thấy rằng nói chung họ đều có khả năng cả.
    Đại tá Windsor chắc phải biết rằng đa số biệt kích đều bị bắt. Việc họ bị bắt thường được miền Bắc làm rùm beng và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, EIA Và Macsog đều biết quá rơ. Tại sao, ông ta lại có thể khẳng định các biệt kích đều chết trong khi hồ sơ của ông ta cho thấy th́ việc họ c̣n sống hay chết vẫn chưa rơ ràng.
    Nhiều trường hợp các điện báo viên vẫn đánh điện báo cáo thường lệ về Sài G̣n, một đài thu ở Philippin đă thu được các bức điện này. Những thông tin đó cũng nằm trong tập hồ sơ riêng của từng toán biệt kích lấy từ các buổi phát thanh bằng tiếng Việt, tiếng Anh của đài Hà Nội nói về các toán biệt kích bị bắt không chịu hợp tác với Bắc Việt Nam. Các buổi phát thanh đă được bộ phận thu tin nước ngoài của CIA ghi lại hết.
    Mặc dầu biết vậy, nhưng Sở Chỉ huy kỹ thuật chiến lược (STD) Nam Việt Nam-là đối tác của MACSOG theo nguyện vọng đại tá Blackburn, đă thông báo trực tiếp hay gián tiếp cho thân nhân của họ rằng người thân của họ đă bị mất tích trong khi đang hoạt động ở Nam Việt Nam. Gia đ́nh họ đă không được thông báo sự thật, rằng thực tế họ đă bị bắt. Tin họ bị bắt được lan truyền rơ ràng là không có lợi cho Nam Việt Nam nên đă bị giữ kín không cho thân nhân họ biết.
    Một sĩ quan cao cấp thuộc lực lượng đặc biệt Miền Nam đặc trách việc tạo vỏ bọc nguỵ trang cho việc sử dụng biệt kích với Nhóm quan sát số một, và sau này là Sở kỹ thuật, đă giải thích theo quan điểm của ông ta về những ǵ đă xảy ra:
    "…Đa số những người được đưa ra Bắc lúc đầu đều là các trung sĩ của các đơn vị sư đoàn 22. Tôi biết là mỗi người trước khi đi đều kư giấy ủy quyền gồm các điều khoản giao ước trả tiền cho vợ họ ở nhà, thậm chí người ta c̣n hứa hẹn là các khoản lương đó được tiếp tục trả cho đến ngày họ trở về. Điều đó đă không xảy ra, không đúng như điều người ta đă làm cho họ tin.Thực tế là chúng tôi không có quỹ nào để trả măi tiền cho họ, chúng tôi phụ thuộc vào tiền của Mỹ. Khi các ông quyết định ngừng trả, chúng tôi chẳng có ngân quỹ nào cả và cuối cùng th́ các ông cũng ngừng nốt việc trả lương cho chúng tôi.
    Một khía cạnh khác, mặc dầu các biệt kích quân đội chúng tôi được cử ra miền Bắc hoạt động do Mỹ chỉ huy, phía Nam Việt Nam chúng tôi phải áp dụng điều lệ riêng của quân đội chúng tôi với họ, nếu họ không trở về. Điều đó có nghĩa là một khi họ không trở về, chúng tôi sẽ tuyên bố là họ đă mất tích trong khi làm nhiệm vụ, một năm sau ngày mất tích. Tôi biết là người ta nói với các biệt kích rằng gia đ́nh họ sẽ được chăm sóc cho đến khi họ trở về, thế nhưng quy định này các ông đă lờ đi. Chúng tôi nghĩ rằng nếu họ trở về chúng tôi sẽ đối xử như lính của chúng tôi bị bắt làm tù binh trong các cuộc hành quân quân sự thông thường. Họ sẽ được truy lĩnh từ ngày thôi trả lương cho gia đ́nh họ đến ngày họ trở về. Khốn thay, chẳng có ai nghĩ là chúng tôi sẽ thua trận. Dĩ nhiên, không bao giờ chúng tôi nói là họ đă chết, chỉ mất tích thôi…"
    "Nhưng", tôi hỏi: "Đối với các nhân viên đang làm cho CIA của chúng tôi và ở Quốc pḥng th́ sao? Chúng tôi đă kư hợp đồng với họ, chúng tôi đồng ư đền bù cho họ đến khi họ trở về. Thậm chí chúng tôi c̣n hứa trả tiền cho gia đ́nh họ trong trường hợp họ bị bắt. Có phải đúng như vậy không, nếu đúng th́ điều ǵ đă xẩy ra?".
    Viên cựu đại tá im lặng một lúc, rồi nói: "Tất cả những ǵ tôi có thể nói với ông là Sở chỉ huy kỹ thuật chiến lược sẽ gửi cho tôi thông báo rằng các ông này, ông này… thuộc nhóm 77 lực lượng đặc biệt đă được công bố là mất tích và tôi phải bảo đảm rằng sau một năm gia đ́nh họ sẽ chính thức được thông báo là gia đ́nh được lĩnh tiền tử tuất".
    Tôi không nghi ngờ những ǵ ông ta đă nói với tôi vả lại nó cũng chẳng ảnh hưởng ǵ đến quyết định của chúng ta. Chúng ta đều làm thế cả ngay trường hợp đối với những người chúng ta biết là họ bị bắt làm tù binh. Một năm sau tất cả họ đều bị coi như mất tích. Như tôi đă nói chúng tôi không có tiền để trả lương cho một người nào đó vô hạn định. Nếu họ trở về, họ sẽ được trả tiếp. Tôi chắc mọi người đều biết rơ điều đó.
    "Vâng" tôi hỏi lại: "Thế c̣n đối với các biệt kích dân sự th́ sao?”
    "Ồ, đấy lại là chuyện khác, điều đó không dính dáng ǵ đến tôi, đấy là việc mà người Mỹ các ông làm với đại tá Trần Văn Hổ, ông đi mà hỏi ông ấy".
    Tin tức từ các biệt kích c̣n sống sót và từ gia đ́nh họ cho thấy việc ngừng trả lương tháng cho gia đ́nh họ xảy ra khá lâu trước khi một người bị coi là mất tích, khá lâu trước khi MACSOG ngừng trả hương cho Nha kỹ thuật. Cũng giống như hoạt động biệt kích, những người nắm giữ những khoản tiền không bao giờ được trao đến tay các gia đ́nh biệt kích đều muốn vấn đề này được khép lại.
    Thế th́ trách nhiệm của Mỹ đối với các hoạt động biệt kích là ǵ và những yếu tố nào làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các trách nhiệm đó? Tham mưu liên quân đă đánh giá về hoạt động biệt kích một cách rơ ràng và không chút mập mờ.
    Một vấn đề có ư nghĩa đối với cả hai mặt. Hiệu quả hoạt động và quản lư về chức năng của chương tŕnh MACSOG ngay từ lúc khởi đầu, đó là hệ thống trả tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng công tác tuyển dụng và tài trợ cho các nhân viên t́nh nguyện người Việt. Thủ tục cơ bản do CAS đưa ra từ trước năm 1964. Quyết định ban đầu tiền thưởng thường bị đưa ra bàn căi, nhưng nhất thiết không thể rút bỏ, v́ phải tính đến khả năng đào ngũ của các biệt kích đă được huấn luyện, cũng như phản ứng chính trị từ phía các đại diện của ở tổng tham mưu liên quân Chính phủ Việt Nam Cộng hoà (JGS), những người đă ủng hộ chương tŕnh này. Các nhân viên Mỹ của MACSOG luôn nhấn mạnh rằng phải khuyến khích ḷng yêu nước, làm tăng động lực cho lính đánh thuê, nhưng trong thực tế triết lư này không có hiệu quả đối với việc tuyển dụng biệt kích.
    Những người Việt t́nh nguyện được tuyển dụng, lúc đầu kư hợp đồng cá nhân với viên Tư lệnh Sở kỹ thuật chiến lược (STD) hay người đại diện được ông ta chỉ định, chẳng hạn như Tư lệnh cơ quan an ninh bờ biển (CSS) với tư cách là nhà thầu của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Lương cơ bản, tiền thưởng khi măn hạn, tiền thưởng và định kỳ tăng lương đều ghi trong hợp đồng... Rắc rối là do thủ tục tài chính của MACSOG (SOPS) để kiểm toán trước khi giao quĩ cho sĩ quan tài chính STD... Các yêu cầu về tiền thưởng công tác được chuyển trực tiếp cho thủ trưởng MACSOG. Một sỹ quan MACSOG và chỉ huy trưởng STD xem lại và kư trước khi chuyển ngân quĩ cho sỹ quan tài chính STD để phát tiền. Tất cả các giao dịch đều được ghi vào báo cáo thống kê tài chính của các đơn vị của cả STD và MACSOG và do kiểm soát viên của MACSOG kiểm toán.
    MACSOG, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương, Bộ Quốc Pḥng triển khai lực lượng thi hành các nhiệm vụ này, nhưng lại thiếu kiểm soát viên của MACSOG để kiểm tra tài chính về các chi phí này. Kế hoạch này đă không hoàn hảo ngay từ đầu, về sau Tham mưu trưởng liên quân xem xét lại càng thấy rơ như thế.
    Yểm trợ về mặt hậu cần cho COMUSMACV (Tư lệnh, Bộ tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam), kế hoạch 34A, khi vạch ra hồi tháng 11/1963chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí trong nước, chương tŕnh dự định hạn chế trong ṿng 12 tháng. Theo kế hoạch ban đầu các nguồn kinh phí trong nước được ước tính là đủ.
    Tháng 4/1964, trong khi hoạt động biệt kích đang tiến triển th́ Trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng lại định vạch kế hoạch chi phí cho tổ chức và các hoạt động biệt kích đang ở giai đoạn 1 của kế hoạch 34A. Ông ta báo cáo như sau: Trước khi tổ chức lại COMUSMACV/MAAG (Nhóm cố vấn viện trợ quân sự Mỹ) COMUSMACV là cấp trực thuộc Tổng hành dinh thống nhất (CINCPAC) được ở Hải quân tài trợ, sử dụng hoạt động duy tu bảo tŕ, ngân sách, dịch vụ bằng cách lấy ngân quĩ trực tiếp từ văn pḥng tư lệnh hoạt động hải quân và nhóm cố vấn viện trợ quân sự Mỹ do ở Hải quân tài trợ, bằng cách sử dụng ngân quĩ của MAP, bằng ngân quĩ trực tiếp từ Bộ Hải quân cung cấp cho CINCPAC và MAAGV… Phần c̣n lại của 1964 tài trợ…sẽ vẫn giữ nguyên không thay đổi trừ khi COMUSMACV sẽ đảm nhận trách nhiệm và quyền sử dụng của quĩ MAP dành cho MAAGV.
    Măi đến tháng 9/1964, Bộ tư lệnh tham mưu liên quân mới đưa ra chi tiết về các tài trợ này.
    Tham mưu trưởng liên quân giao trách nhiệm cho Tư lệnh các hoạt động hải quân cung cấp mật quĩ cho MACSOG. Các thủ tục cấp kinh phí phải thoả măn các yêu cầu về an ninh và bảo đảm không thể qui trách nhiệm cho Mỹ và không có những hạn chế về hoạt động và sử dụng ngân quĩ. Các kênh cấp ngân quĩ của Bộ Quốc pḥng chỉ định (CIA) và sau đó là đến MACV. Theo MACSOG ước tính th́ các yêu cầu về ngân sách hàng năm được gửi lên Tham mưu trưởng liên quân, qua MAVC và CINCPAC. Sau khi Tham mưu trưởng liên quân duyệt y, CNO với tư cách là người thừa hành sẽ lập kế hoạch cấp ngân quĩ và thương lượng với Quốc hội để được phê chuẩn trên cơ sở giữ bí mật một cách thích hợp. Sau đó ngân quĩ được chuyển hàng quí do sĩ quan phụ trách về tài chính của Tư lệnh hoạt động hải quân đặc trách…
    Hạm trưởng hải quân Mỹ Bruce B. Dunning, sỹ quan tham mưu sau đó là Cục trưởng Cục tác chiến đặc biệt của Bộ Quốc pḥng trong thời gian 1966-1967 mô tả các hoạt động cấp Washington và các vấn đề liên quan, để yểm trợ các hoạt động biệt kích bí mật của MACSOG như sau.
    Kinh phí phải được cấp trực tiếp từ Bộ trưởng Quốc pḥng chứ không phải từ các Sở, từ quĩ dự pḥng các chi tiêu đột xuất... CIA đă và đang làm trong nhiều năm nay. Cách làm thông thường hiện nay về việc cho phép một chương tŕnh bí mật chỉ đạo một nhiệm Sở đảm trách ngân quĩ và tài trợ kinh phí cho chương tŕnh đó là không thoả măn… Một ngày tháng 3/1966, một tù binh mới đến "Anh là ai?”, một biệt kích hỏi nhỏ anh ta.
    “Tên tôi là Nguyễn Quốc Đạt" - Anh ta trả lời khẽ.
    "Tại sao bị bắt?"
    "Tôi là phi công. Tôi đang thực hiện một phi vụ không kích th́ bị trúng đạn, nhảy dù, bị bắt vào đây".
    Đạt thuộc không lực Việt Nam Cộng hoà, chỉ bị giữ mấy ngày ở đây rồi được chuyển từ Quảng B́nh ra Hoả Ḷ Hà Nội. Đạt đă trở thành nhân vật cho cánh tù biệt kích x́ xào bàn tán. Câu chuyện của anh ta lan truyền từ người này sang người khác. Đạt là tù binh của miền Bắc, nhưng anh ta đă chiến đấu chống lại họ. Đấy là điều mà tất cả bọn họ đă muốn làm. Bằng cách riêng, họ đă hoan hô anh ta và có một chút ghen tị với anh ta.
    Cũng như các toán đi trước và các toán sau này, các toán viên ROMEO đều kư hợp đồng lao động với Sở kỹ thuật chiến lược theo yêu cầu của MACSOG và điều lệ nhân viên dân sự được áp dụng cho cả các t́nh báo viên cũng như những người không phải t́nh báo viên. Việc kư hợp đồng này được thực hiện mỗi khi có người mới tuyển cho chương tŕnh hoạt động bí mật này.
    MACSOG không trực tiếp kư hợp đồng v́ theo chính sách của Mỹ phải sử dụng tổ chức của chính phủ Nam Việt Nam và thay mặt Mỹ kư hợp đồng tiến hành các hoạt động biệt kích chống Bắc Việt Nam. Điều này nhằm mục đích làm cho Mỹ dễ dàng chối bỏ, và cho phép Mỹ có thể rêu rao rằng đó là các hoạt động không phải do Mỹ chỉ huy. Các hợp đồng đó cũng cần để đảm bảo có đủ số lượng điệp viên trong biên chế v́ Miền Nam thường thay chính phủ luôn luôn. Đại tá Clyde Russell-Tư lệnh đầu tiên của MACSOG đă nói:
    - Đại tá Hổ về quân sự mà nói là người rất kém… là một cựu chủ nhà băng… là người có thể chấp nhận được về chính trị, đă sống sót qua các cuộc đảo chính… Tôi thấy thương hại cho ông ta khi bắt chính phủ của ông ta đi theo hướng của chúng ta. Một tháng sau chúng ta lại làm lại, lại phải bắt đầu từ đầu và lại bắt chính phủ ông ta đi theo hướng của chúng ta. Khi tôi ở đấy chúng tôi đă phải làm đi làm lại 4-5 lần như vậy. V́ bản chất yếu đuối, nói như vậy về ông ta có thể không đúng lắm, nhưng tôi thấy rằng tôi có thể bảo ông ta làm bất cứ ǵ mà Mỹ muốn họ làm… Có những lúc ông ta muốn giải thể chương tŕnh biệt kích không vận v́ ông ta cảm thấy rằng chúng ta không thể đưa những người đó ra miền Bắc, nhưng lại v́ bản chất yếu đuối nên chúng tôi gây áp lực buộc ông ta đồng ư và thế là … chúng tôi quay lại tổ chức các toán biệt kích không vận như từ đầu.
    Các quyết định về các toán viên toán ROMEO cũng như các toán biệt kích khác về các nhiệm vụ biệt kích ở miền Bắc đă bị thay đổi về tinh thần và ư đồ trong việc dàn xếp kư hợp đồng với các điệp viên khi tuyển dụng họ. Khốn thay, chẳng ai nói cho họ biết cả. Sự thay đổi này áp dụng cho cả các hợp đồng đă kư với những người c̣n ở tù ngoài Bắc, những người đang huấn luyện ở Miền Nam và cho cả những người mới tuyển vào chương tŕnh bí mật này. Theo lệnh đại tá Donald Blackburn, Tư lệnh MACSOG, nhiều điều khoản cụ thể đă bị thay đổi Sự thay đổi này được thực hiện mà không đếm xỉa ǵ đến các thoả thuận trước khi tuyển dụng, và nó cũng không bao giờ được thực hiện bằng lời văn trong giấy uỷ quyền do mỗi điệp viên làm vài tháng trước khi được đưa ra Bắc. Tóm lại, MACSOG vẫn hứa một số quyền lợi nhất định đối với các điệp viên và người nhà của họ trong khi đó lại cố t́nh phớt lờ các cam kết làm cho các biệt kích phải mạo hiểm cuộc sống của ḿnh để phục vụ cho lợi ích chính sách đối ngoại của Mỹ.
    Theo đại tá John.J. Windsor, thuộc Bộ tư lệnh quân đội Mỹ USMC, trưởng ban tác chiến của MACSOG, đến MACSOG vào tháng 6 năm 1965, trước khi toán ROMEO được đánh đi th́ thay đổi này xây ra từ năm 1966. Năm 1969, ông ta đă mô tả sự thay đổi này trong các hợp đồng của biệt kích với Hội đồng tham mưu trưởng liên quân.
    Mối liên hệ chính của tôi với đối tác Việt Nam là đại tá Hổ, một đối tác Nam Việt Nam của đại tá Blackburn… Chúng tôi quan hệ với nhau chẳng có vấn đề ǵ. Tôi xin dẫn chứng một ví dụ.
    Như anh biết, chúng tôi đă mất khá nhiều điệp viên (người Việt) ở miền Bắc, theo chính sách th́ chúng ta vẫn tiếp tục phải trả lương như thể là họ chưa bị chết. Sau 6 hoặc 8 tháng ở đấy danh sách thân nhân của họ mà chúng ta phải trả lương tháng lên đến con số lớn. Đại tá Blackburn bàn với tôi rằng ông ta muốn trả cho họ một khoản tiền tử tuất và cắt khoản lương tháng phải trả cho gia đ́nh. Tất nhiên đây làmột vấn đề gay cấn, tôi đến gặp đại tá Hổ để giải thích cho ông ta. Trước tiên tôi hỏi ông ta có bao nhiêu điệp viên thuộc dạng này. Tôi biết câu trả lời của ông ta trước khi đặt câu hỏi. Hổ phải hỏi ư kiến ban tham mưu của ông ta. Khi tôi nói với ông ta điều chúng ta muốn làm, họ đă hợp tác hoàn toàn với tôi…Chúng tôi giảm số người chết dần dần bằng cách công bố số người chết hàng tháng rất nhiều, cho đến lúc tất cả đều chết hết (để trả tử tuất) và xoá tên trong số lương trả hàng tháng. Chúng tôi làm thế để tránh bị phê b́nh là số tiền này đă biến đi đâu mất. Phản ứng đầu tiên của đại tá Hổ là ông ta không muốn để các biệt kích và người thân của họ biết là chúng ta đă mất nhiều người như thế. Đấy là lư do tại sao bản thân ông ta đă không làm như vậy nhưng tuy nhiên ông ta cũng đă đồng ư với đề nghị nói trên của chúng tôi.
    Tôi nghe rất nhiều lời chỉ trích của đại tá Hổ và thiếu tá B́nh và nhiều người Việt khác nữa; bởi v́ họ có cách nh́n khác về cuộc sống. Bọn họ thường nói: "Các ông chỉ ở đây một năm rồi về Mỹ, bọn tôi đă đánh nhau trong chiến tranh này 15 năm rồi và không biết c̣n phải đánh nhau bao nhiêu nữa". Bọn họ có cách nh́n khác và tôi thấy không phải họ thiếu trách nhiệm hay thiếu năng lực thực thi nhiệm vụ của ḿnh. Điều tôi muốn nói là họ không tham vọng một cách tích cực và không năng động như người Mỹ, nhưng tôi cảm thấy rằng nói chung họ đều có khả năng cả.
    Đại tá Windsor chắc phải biết rằng đa số biệt kích đều bị bắt. Việc họ bị bắt thường được miền Bắc làm rùm beng và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, EIA Và Macsog đều biết quá rơ. Tại sao, ông ta lại có thể khẳng định các biệt kích đều chết trong khi hồ sơ của ông ta cho thấy th́ việc họ c̣n sống hay chết vẫn chưa rơ ràng.
    Nhiều trường hợp các điện báo viên vẫn đánh điện báo cáo thường lệ về Sài G̣n, một đài thu ở Philippin đă thu được các bức điện này. Những thông tin đó cũng nằm trong tập hồ sơ riêng của từng toán biệt kích lấy từ các buổi phát thanh bằng tiếng Việt, tiếng Anh của đài Hà Nội nói về các toán biệt kích bị bắt không chịu hợp tác với Bắc Việt Nam. Các buổi phát thanh đă được bộ phận thu tin nước ngoài của CIA ghi lại hết.
    Mặc dầu biết vậy, nhưng Sở Chỉ huy kỹ thuật chiến lược (STD) Nam Việt Nam-là đối tác của MACSOG theo nguyện vọng đại tá Blackburn, đă thông báo trực tiếp hay gián tiếp cho thân nhân của họ rằng người thân của họ đă bị mất tích trong khi đang hoạt động ở Nam Việt Nam. Gia đ́nh họ đă không được thông báo sự thật, rằng thực tế họ đă bị bắt. Tin họ bị bắt được lan truyền rơ ràng là không có lợi cho Nam Việt Nam nên đă bị giữ kín không cho thân nhân họ biết.
    Một sĩ quan cao cấp thuộc lực lượng đặc biệt Miền Nam đặc trách việc tạo vỏ bọc nguỵ trang cho việc sử dụng biệt kích với Nhóm quan sát số một, và sau này là Sở kỹ thuật, đă giải thích theo quan điểm của ông ta về những ǵ đă xảy ra:
    "…Đa số những người được đưa ra Bắc lúc đầu đều là các trung sĩ của các đơn vị sư đoàn 22. Tôi biết là mỗi người trước khi đi đều kư giấy ủy quyền gồm các điều khoản giao ước trả tiền cho vợ họ ở nhà, thậm chí người ta c̣n hứa hẹn là các khoản lương đó được tiếp tục trả cho đến ngày họ trở về. Điều đó đă không xảy ra, không đúng như điều người ta đă làm cho họ tin.Thực tế là chúng tôi không có quỹ nào để trả măi tiền cho họ, chúng tôi phụ thuộc vào tiền của Mỹ. Khi các ông quyết định ngừng trả, chúng tôi chẳng có ngân quỹ nào cả và cuối cùng th́ các ông cũng ngừng nốt việc trả lương cho chúng tôi.
    Một khía cạnh khác, mặc dầu các biệt kích quân đội chúng tôi được cử ra miền Bắc hoạt động do Mỹ chỉ huy, phía Nam Việt Nam chúng tôi phải áp dụng điều lệ riêng của quân đội chúng tôi với họ, nếu họ không trở về. Điều đó có nghĩa là một khi họ không trở về, chúng tôi sẽ tuyên bố là họ đă mất tích trong khi làm nhiệm vụ, một năm sau ngày mất tích. Tôi biết là người ta nói với các biệt kích rằng gia đ́nh họ sẽ được chăm sóc cho đến khi họ trở về, thế nhưng quy định này các ông đă lờ đi. Chúng tôi nghĩ rằng nếu họ trở về chúng tôi sẽ đối xử như lính của chúng tôi bị bắt làm tù binh trong các cuộc hành quân quân sự thông thường. Họ sẽ được truy lĩnh từ ngày thôi trả lương cho gia đ́nh họ đến ngày họ trở về. Khốn thay, chẳng có ai nghĩ là chúng tôi sẽ thua trận. Dĩ nhiên, không bao giờ chúng tôi nói là họ đă chết, chỉ mất tích thôi…"
    "Nhưng", tôi hỏi: "Đối với các nhân viên đang làm cho CIA của chúng tôi và ở Quốc pḥng th́ sao? Chúng tôi đă kư hợp đồng với họ, chúng tôi đồng ư đền bù cho họ đến khi họ trở về. Thậm chí chúng tôi c̣n hứa trả tiền cho gia đ́nh họ trong trường hợp họ bị bắt. Có phải đúng như vậy không, nếu đúng th́ điều ǵ đă xẩy ra?".
    Viên cựu đại tá im lặng một lúc, rồi nói: "Tất cả những ǵ tôi có thể nói với ông là Sở chỉ huy kỹ thuật chiến lược sẽ gửi cho tôi thông báo rằng các ông này, ông này… thuộc nhóm 77 lực lượng đặc biệt đă được công bố là mất tích và tôi phải bảo đảm rằng sau một năm gia đ́nh họ sẽ chính thức được thông báo là gia đ́nh được lĩnh tiền tử tuất".
    Tôi không nghi ngờ những ǵ ông ta đă nói với tôi vả lại nó cũng chẳng ảnh hưởng ǵ đến quyết định của chúng ta. Chúng ta đều làm thế cả ngay trường hợp đối với những người chúng ta biết là họ bị bắt làm tù binh. Một năm sau tất cả họ đều bị coi như mất tích. Như tôi đă nói chúng tôi không có tiền để trả lương cho một người nào đó vô hạn định. Nếu họ trở về, họ sẽ được trả tiếp. Tôi chắc mọi người đều biết rơ điều đó.
    "Vâng" tôi hỏi lại: "Thế c̣n đối với các biệt kích dân sự th́ sao?”
    "Ồ, đấy lại là chuyện khác, điều đó không dính dáng ǵ đến tôi, đấy là việc mà người Mỹ các ông làm với đại tá Trần Văn Hổ, ông đi mà hỏi ông ấy".
    Tin tức từ các biệt kích c̣n sống sót và từ gia đ́nh họ cho thấy việc ngừng trả lương tháng cho gia đ́nh họ xảy ra khá lâu trước khi một người bị coi là mất tích, khá lâu trước khi MACSOG ngừng trả hương cho Nha kỹ thuật. Cũng giống như hoạt động biệt kích, những người nắm giữ những khoản tiền không bao giờ được trao đến tay các gia đ́nh biệt kích đều muốn vấn đề này được khép lại.
    Thế th́ trách nhiệm của Mỹ đối với các hoạt động biệt kích là ǵ và những yếu tố nào làm ảnh hưởng đến việc thực hiện các trách nhiệm đó? Tham mưu liên quân đă đánh giá về hoạt động biệt kích một cách rơ ràng và không chút mập mờ.
    Một vấn đề có ư nghĩa đối với cả hai mặt. Hiệu quả hoạt động và quản lư về chức năng của chương tŕnh MACSOG ngay từ lúc khởi đầu, đó là hệ thống trả tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng công tác tuyển dụng và tài trợ cho các nhân viên t́nh nguyện người Việt. Thủ tục cơ bản do CAS đưa ra từ trước năm 1964. Quyết định ban đầu tiền thưởng thường bị đưa ra bàn căi, nhưng nhất thiết không thể rút bỏ, v́ phải tính đến khả năng đào ngũ của các biệt kích đă được huấn luyện, cũng như phản ứng chính trị từ phía các đại diện của ở tổng tham mưu liên quân Chính phủ Việt Nam Cộng hoà (JGS), những người đă ủng hộ chương tŕnh này. Các nhân viên Mỹ của MACSOG luôn nhấn mạnh rằng phải khuyến khích ḷng yêu nước, làm tăng động lực cho lính đánh thuê, nhưng trong thực tế triết lư này không có hiệu quả đối với việc tuyển dụng biệt kích.
    Những người Việt t́nh nguyện được tuyển dụng, lúc đầu kư hợp đồng cá nhân với viên Tư lệnh Sở kỹ thuật chiến lược (STD) hay người đại diện được ông ta chỉ định, chẳng hạn như Tư lệnh cơ quan an ninh bờ biển (CSS) với tư cách là nhà thầu của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Lương cơ bản, tiền thưởng khi măn hạn, tiền thưởng và định kỳ tăng lương đều ghi trong hợp đồng... Rắc rối là do thủ tục tài chính của MACSOG (SOPS) để kiểm toán trước khi giao quĩ cho sĩ quan tài chính STD... Các yêu cầu về tiền thưởng công tác được chuyển trực tiếp cho thủ trưởng MACSOG. Một sỹ quan MACSOG và chỉ huy trưởng STD xem lại và kư trước khi chuyển ngân quĩ cho sỹ quan tài chính STD để phát tiền. Tất cả các giao dịch đều được ghi vào báo cáo thống kê tài chính của các đơn vị của cả STD và MACSOG và do kiểm soát viên của MACSOG kiểm toán.
    MACSOG, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương, Bộ Quốc Pḥng triển khai lực lượng thi hành các nhiệm vụ này, nhưng lại thiếu kiểm soát viên của MACSOG để kiểm tra tài chính về các chi phí này. Kế hoạch này đă không hoàn hảo ngay từ đầu, về sau Tham mưu trưởng liên quân xem xét lại càng thấy rơ như thế.
    Yểm trợ về mặt hậu cần cho COMUSMACV (Tư lệnh, Bộ tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam), kế hoạch 34A, khi vạch ra hồi tháng 11/1963chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí trong nước, chương tŕnh dự định hạn chế trong ṿng 12 tháng. Theo kế hoạch ban đầu các nguồn kinh phí trong nước được ước tính là đủ.
    Tháng 4/1964, trong khi hoạt động biệt kích đang tiến triển th́ Trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng lại định vạch kế hoạch chi phí cho tổ chức và các hoạt động biệt kích đang ở giai đoạn 1 của kế hoạch 34A. Ông ta báo cáo như sau: Trước khi tổ chức lại COMUSMACV/MAAG (Nhóm cố vấn viện trợ quân sự Mỹ) COMUSMACV là cấp trực thuộc Tổng hành dinh thống nhất (CINCPAC) được ở Hải quân tài trợ, sử dụng hoạt động duy tu bảo tŕ, ngân sách, dịch vụ bằng cách lấy ngân quĩ trực tiếp từ văn pḥng tư lệnh hoạt động hải quân và nhóm cố vấn viện trợ quân sự Mỹ do ở Hải quân tài trợ, bằng cách sử dụng ngân quĩ của MAP, bằng ngân quĩ trực tiếp từ Bộ Hải quân cung cấp cho CINCPAC và MAAGV… Phần c̣n lại của 1964 tài trợ…sẽ vẫn giữ nguyên không thay đổi trừ khi COMUSMACV sẽ đảm nhận trách nhiệm và quyền sử dụng của quĩ MAP dành cho MAAGV.
    Măi đến tháng 9/1964, Bộ tư lệnh tham mưu liên quân mới đưa ra chi tiết về các tài trợ này.
    Tham mưu trưởng liên quân giao trách nhiệm cho Tư lệnh các hoạt động hải quân cung cấp mật quĩ cho MACSOG. Các thủ tục cấp kinh phí phải thoả măn các yêu cầu về an ninh và bảo đảm không thể qui trách nhiệm cho Mỹ và không có những hạn chế về hoạt động và sử dụng ngân quĩ. Các kênh cấp ngân quĩ của Bộ Quốc pḥng chỉ định (CIA) và sau đó là đến MACV. Theo MACSOG ước tính th́ các yêu cầu về ngân sách hàng năm được gửi lên Tham mưu trưởng liên quân, qua MAVC và CINCPAC. Sau khi Tham mưu trưởng liên quân duyệt y, CNO với tư cách là người thừa hành sẽ lập kế hoạch cấp ngân quĩ và thương lượng với Quốc hội để được phê chuẩn trên cơ sở giữ bí mật một cách thích hợp. Sau đó ngân quĩ được chuyển hàng quí do sĩ quan phụ trách về tài chính của Tư lệnh hoạt động hải quân đặc trách…
    Hạm trưởng hải quân Mỹ Bruce B. Dunning, sỹ quan tham mưu sau đó là Cục trưởng Cục tác chiến đặc biệt của Bộ Quốc pḥng trong thời gian 1966-1967 mô tả các hoạt động cấp Washington và các vấn đề liên quan, để yểm trợ các hoạt động biệt kích bí mật của MACSOG như sau.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 27-07-2012, 08:09 PM
  2. Replies: 3
    Last Post: 11-03-2012, 01:31 PM
  3. Replies: 21
    Last Post: 03-12-2011, 06:42 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 06-04-2011, 09:00 AM
  5. Replies: 1
    Last Post: 26-02-2011, 03:58 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •