Page 1 of 6 12345 ... LastLast
Results 1 to 10 of 54

Thread: LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

    Cuộc Chiến Bí Mật
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P1



    1. Lời giới thiệu

    Từ năm 1957, đă có quân của Lực lượng đặc biệt (biệt kích) Mỹ hoạt động trên lănh thổ Việt Nam. Vào thời điểm đó, họ mới chỉ đảm nhiệm việc huấn luyện trên cương vị cố vấn, mang tính chất nâng đỡ cho Quân đội Sài G̣n.

    Thông thường những biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ phải t́nh nguyện tới hai lần. Lần đầu học nhảy dù và sau đó học về chiến, kỹ thuật của Lực lượng đặc biệt (từ đây gọi là biệt kích).


    Daklak 1966

    Ngày 24/6/1957, Liên đoàn biệt kích 1 được thành lập tại Okinawa và lập tức cử một bộ phận sang Nam Việt Nam huấn luyện cho 58 biệt kích quân của Quân đội Sài G̣n tại Trung tâm huấn luyện Biệt động đội ở Nha Trang. Những sĩ quan Sài G̣n tham dự khóa huấn luyện này về sau đều trở thành huấn luyện viên hoặc chỉ huy ṇng cốt cho các đơn vị biệt kích đầu tiên của Quân đội Sài G̣n. Mười năm sau (1967), lực lượng biệt kích Mỹ với vai tṛ cố vấn đă yểm trợ cho trên 40.000 dân sự chiến đấu, hoạt động trên khắp lănh thổ miền Nam Việt Nam.

    2. Bước phát triển

    Trong những năm từ 1959-1960, với sự gia tăng cả về quân số cũng như hoạt động hiệu quả của Việt cộng trên chiến trường miền Nam, làm tăng thêm sự bất ổn đối với chính quyền Sài G̣n, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Để cải thiện t́nh h́nh, Quân đội Mỹ buộc phải gửi thêm 30 huấn luyện viên biệt kích Mũ Nồi Xanh từ căn cứ Fort Bragg sang Nam Việt Nam để xây dựng một chương tŕnh huấn luyện cho Quân đội Sài G̣n.

    Ngày 21/9/1961, Tổng thống thứ 35 của nước Mỹ là John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân sách viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài G̣n. V́ Chính phủ Mỹ lo ngại về sự gia tăng chi viện người và vũ khí của Cộng sản vào miền Nam, do đó phải t́m cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán biệt kích Mũ Nồi Xanh được giao trách nhiệm tổ chức và huấn luyện những đơn vị chiến đấu là người dân tộc thiểu số để phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của qâun đội Bắc Việt từ Bắc vào Nam. Về sau những đơn vị chiến đấu này được gọi là “Lực lượng Dân sự chiến đấu” (CIDG - Civilian Irregular Defense Group).


    CIDG, biên giới Việt Nam - Campuchia 11/11/1969

    Bước vào những năm 60 của thế kỷ XX, dường như cộng sản miền Nam có sự trỗi dậy mạnh mẽ. Chính phủ Mỹ quy hết nguyên nhân đều do sự gia tăng chi viện của Bắc Việt. Do đó càng quyết tâm ngăn chặn và phá hoại bằng được con đường tiếp tế chiến lược - đường ṃn Hồ Chí Minh.

    Trước hết, Chính phủ Mỹ gửi Liên đoàn biệt kích số 5 sang Nam Việt Nam, chuyên trách đảm nhiệm các hoạt động, các cuộc hành quân đặc biệt trên chiến trường miền Nam. Để thích ứng với vai tṛ mới này, Bộ Tham mưu liên quân Mỹ quyết định tổ chức lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh sao cho thích ứng với các cuộc hành quân ngoại lệ, mà giới khoa học quân sự Mỹ đưa ra khái niệm mới là “ba khía cạnh liên hệ mật thiết trong du kích chiến tranh gồm trốn tránh, đào tẩu và gậy ông lại đập lưng ông, chống lại đối phương”. C̣n chiến tranh ngoại lệ được định nghĩa là: “Hoạt động ngay trong ḷng đối phương hoặc những nơi đối phương kiểm soát”.

    Theo đó, cơ cấu tổ chức cơ bản của Liên đoàn biệt kích số 5 gồm: Bộ chỉ huy trung tâm, Ban chỉ huy các đại đội gồm 3 đại đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi đoàn không quân yểm trợ. Từ Bộ chỉ huy trung tâm cho đến Ban chỉ huy các đại đội đều có đủ các Ban tham mưu để chỉ huy và theo dơi t́nh h́nh hai bên. Ngoài ra c̣n có các đơn vị bảo đảm như quân y, tiếp tế thả dù. Mỗi đại đội biệt kích thường do một sỹ quan cấp bậc trung tá chỉ huy. Thông thường gồm có một Ban Tham mưu và một Bộ chỉ huy hành quân (C), Bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba ban chỉ huy hành quân (B), mỗi ban chỉ huy hành quân sẽ chỉ huy bốn toán biệt kích (A). Toán biệt kích hay phân đội được biên chế 12 biệt kích quân.

    3. Lực lượng dân sự chiến đấu

    Có hai lư do thúc đẩy việc tổ chức lực lượng “Dân sự chiến đấu”. Một là Chính phủ Mỹ cho rằng nên vũ trang nhóm người dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của cộng sản. Lư do thứ 2 là người Thượng và các dân tộc thiểu số nói chung là đối tượng chính cho việc tuyên truyền của cộng sản, họ bất b́nh với chính quyền Sài G̣n, lại dễ bị cộng sản lợi dụng, lôi kéo, tuyển mộ.

    Với quan điểm trên, tháng 9/1962, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt (biệt kích Mỹ tại Việt Nam) được thành lập, trực thuộc bộ Tư lệnh phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài G̣n (MACV). Tính đến tháng 10/1962 có tất cả 24 toán biệt kích Mỹ hoạt động trên lănh thổ miền Nam Việt Nam. Tháng 11/1963, lực lượng biệt kích Mỹ tại Việt Nam được tổ chức gồm Bộ chỉ huy (C), ba Ban chỉ huy (C) và 26 toán (A). Ngoài ra c̣n có Bộ chỉ huy Trung tâm đặt tại Sài G̣n. Bộ chỉ huy không đơn thuần chỉ huy, điều hành mà làm chức năng như là Bộ tư lệnh binh chủng của lực lượng đặc biệt ở chiến trường Việt Nam.

    Từ tháng 12/1962 đến 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Mỹ đảm đương hoàn toàn việc chỉ huy mọi hoạt động của các toán biệt kích tại Việt Nam. Vào thời điểm đó các toán biệt kích Mỹ đă thiết lập những trại Dân sự chiến đấu trên khắp bốn vùng chiến thuật của Quân đội Sài G̣n. Những Ban chỉ huy khu vực (B) được thành lập tại mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của Quân đội Sài G̣n và trực tiếp chỉ huy các toán biệt kích. Các toán biệt kích được lâm thời tổ chức trên cơ sở tạm thời điều động quân của Liên đoàn 1 từ Okinawa và 2 Liên đoàn 5, 7 biệt kích từ Fort Bragg, Bắc Carolina.

    Đến tháng 12/1963, các toán biệt kích Mỹ phối hợp với lực lượng biệt kích của quân đội Sài G̣n đă được huấn luyện và trang bị, gồm 18.000 quân thuộc lực lượng xung kích; 43.000 quân thuộc lực lượng “Pḥng vệ dân sự”. Tháng 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt Mỹ từ Sài G̣n rời đi Nha Trang, với 2 lư do: thứ nhất, Nha Trang nằm ở khoảng giữa từ vĩ tuyến 17 đến Nam bộ, rất thuận tiện cho việc điều hành các toán biệt kích nằm rải rác khắp miền Nam Việt Nam. Thứ 2, Nha Trang nằm bên bờ biển, thuận lợi cho việc tiếp nhận vũ khí, trang thiết bị viện trợ đến từ Okinawa, lại có sân bay và hệ thống đường bộ rất tiện cho việc vận chuyển, tiếp tế hậu cần.

    Cuối năm 1964, lực lượng Dân sự chiến đấu không c̣n là vấn đề phát triển số lượng nữa. V́ mục đích và nhiệm vụ của nó cũng thay đổi. Ngoài chức năng pḥng vệ tại chỗ là giữ địa bàn nông thôn, miền núi th́ các trại Dân sự chiến đấu đều được sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc hành quân tấn công vào căn cứ của Việt Cộng. Với sự điều chỉnh chức năng trên, sẽ làm tăng phần hiệu quả cho việc kiểm soát khu vực biên giới, thông qua việc lực lượng biệt kích Mỹ triển khai thêm một số đồn, trạm biên pḥng.


    Chi Lăng, An Giang 23/9/1969

    Cuộc hành quân Switchback từ 11/1962 đến 7/1963 gồm các hoạt động tấn công của lực lượng xung kích Dân sự chiến đấu như phục kích, tuần tiễu, thám sát tại địa bàn phụ trách của mỗi trại. Ngoài ra c̣n có những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị của Quân đội Sài G̣n, bao gồm lực lượng Dân sự chiến đấu của các trại. Chỉ tính riêng tháng 6/1963 đă có 4 đại đội xung kích Dân sự chiến đấu được tuyển từ các trại Dakto, Plei M’rong và Plei K’rong phối hợp hành quân lùng sục quân đội Cộng sản.

    Lực lượng vũ trang Cộng sản phản ứng lại bằng pháo kích, quấy rối các đồn trại biên pḥng. Trong lúc các lực lượng biệt kích Mỹ mở cuộc hành quân Switchback th́ các hoạt động của cộng sản ngày càng gia tăng, hầu hết các trại biệt kích đều bị tập kích hoặc uy hiếp, quấy rối.

    Ngày 3/1/1963, lực lượng Đặc công cùng 2 đại đội Quân Giải phóng tấn công và tràn ngập trại Plei M’rong. Sau vụ tấn công của cộng sản Bắc Việt, vấn đề pḥng thủ của các đồn trại biên pḥng được xem xét lại. Bộ Tư lệnh Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài G̣n đă ra lệnh cho các toán biệt kích thiết lập thêm tuyến pḥng thủ thứ hai cho tất cả các đồn trạm của lực lượng biệt kích Mỹ, đồng thời tăng cường thêm 2 tiểu đoàn công binh hải quân Seebee để hỗ trợ trong việc xây cất các công tŕnh quân sự.


    Căn cứ LLĐB tại Ea Yang bị tấn công 1966

    Việc sử dụng Lực lượng dân dự chiến đấu trong các hoạt động tuần tiễu, lục soát những địa bàn ngoài phạm vi trách nhiệm của đồn trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng ứng cứu.

    Sau đó lực lượng xung kích với 20.000 quân được thành lập vào tháng 11/1963, đến tháng 7/1964 được biên chế, tổ chức hoàn chỉnh. Mỗi đại đội dân dự chiến đấu có quân số 150 người, bao gồm Bộ chỉ huy 10 người, ba trung đội thực binh 35 người, trung đội hỏa lực 35 người. Mỗi trại được biên chế đủ 4 đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài trại tại các căn cứ tiền phương, thường tung các trung đội cùng các toán trinh sát 5 người ra hoạt động trên địa bàn được phân công.

    Đến tháng 1/19695, trước khi chính phủ Mỹ đem quân vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Bộ Tư lệnh binh chủng biệt kích Mỹ đă hoạch định “Kế hoạch chống xâm nhập”, gửi đến Bộ chỉ huy Liên đoàn biệt kích số 5 và các Ban chỉ huy vùng cùng các toán biệt kích, trong đó xác định rơ: “Kế hoạch chống xâm nhập của lực lượng biệt kích là một chương tŕnh hỗn hợp, phối hợp giữa quân sự với dân sự nhằm thực hiện 3 mục tiêu cơ bản sau: một là loại trừ Việt cộng, thiết lập an ninh trên địa bàn được giao. Hai là bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền Sài G̣n đối với dân chúng trong vùng. Ba là huy động được dân chúng tham gia vào các chương tŕnh của chính quyền Sài G̣n”.

    Những mục tiêu trên chỉ có thể đạt được khi thực thi một trong ba nhiệm vụ sau: Một, kiểm soát và quản lư chặt khu vực biên giới. Hai, hoạt động ngăn chặn hiệu quả tại các tuyến đường Bắc Việt thường xâm nhập. Ba, tổ chức tốt các cuộc hành quân đánh phá các chiến khu, căn cứ của Việt cộng.

    Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1965, Bắc Việt cũng thay đổi chiến thuật từ “Chiến tranh du kích” sang “Chiến tranh nhân dân”. Trước thực tế trên, mọi hoạt động của lực lượng biệt kích Mỹ được phân làm 3 loại. Một, thiết lập thêm trại dân sự chiến đấu nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp tế của Bắc Việt; đồng thời bỏ một số trại do áp lực quá nặng của cộng sản. Mặt khác tổ chức pḥng thủ tốt các trại dọc theo biên giới như A Sầu, Làng Vây, Cồn Thiên, Lộc Ninh, Bù Đốp...


    Căn cứ Làng Vây, 14/4/1968

    Hai là thành lập các sở chỉ huy hành quân ngoại biên như: Sở chỉ huy hành quân Delta ở Vùng I chiến thuật; Sở chỉ huy hành quân Black Jack 33 ở vùng III chiến thuật. Cả 2 sở chỉ huy hành quan đều nằm trong “Kế hoạch hành quân Sigma”. Đây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn vị xung kích cơ động và đơn vị xung kích tiếp ứng. Trong cuộc hành quân Black Jack 41, có 2 đại đội xung kích cơ động nhảy dù xuống tấn công căn cứ của Việt cộng tại vùng núi Thất Sơn, thuộc vùng IV chiến thuật. Cuộc hành quân Attleboro do một đơn vị xung kích đánh phá căn cứ Suối Đá, Tây Ninh của Việt cộng ở vùng III chiến thuật, loại khỏi ṿng chiến đấu 1 tiểu đoàn chủ lực quân Giải Phóng.

    Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp giữa các đơn vị dân sự chiến đấu với các đơn vị của Liên quân Mỹ như cuộc hành quân Nathan Hale, phối hợp giữa lực lượng dân sự chiến đấu với Sư đoàn 1 kỵ binh bay và Sư đoàn dù 101 của Mỹ. Cuộc hành quân Henry Clay và Thayer, hay cuộc hành quân Rio Blanco ở vùng I chiến thuật, bao gồm các đơn vị dân sự chiến đấu, địa phương quân, biệt động quân của quân đội Sài G̣n với thủy quân lục chiến Hàn Quốc và thủy quân lục chiến Mỹ. Cuộc hành quân Sam Houston ở vùng II, có sự phối hợp giữa Sư đoàn bộ binh 4 của Mỹ với lực lượng dân sự chiến đấu.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

    Cuộc Chiến Bí Mật
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P2





    4. Hành quân ngoại biên

    Đồng thời với việc thành lập các đơn vị xung kích cơ động và các sở chỉ huy hành quân Sigma, Omega (được thành lập từ 8-10/1966), tŕnh độ tác chiến trong chiến tranh ngoại biên của biệt kích Mỹ theo giới quân sự đánh giá được nâng lên. Một trong những khả năng của lực lượng biệt kích là mở các cuộc hành quân càn quét ngắn hoặc dài ngày ở những vùng do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát.

    Lực lượng xung kích cơ động được thành lập vào mùa khô 1966-1967, trên cơ sở các đơn vị xung kích cơ động, được tổ chức, huấn luyện và trang bị để chuyên hoạt động ở những vùng xa xôi hẻo lánh, vùng căn cứ được xem là “đất thánh” của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và quân Bắc Việt. Với chức năng trên, lực lượng xung kích cơ động thực chất là lực lượng “thám báo”, được trang bị gọn nhẹ, làm nhiệm vụ thâm nhập vào các vùng căn cứ, vùng giải phóng để tiến hành do thám các tuyến đường hành lang vận chuyển, t́m kiếm dấu vết căn cứ, thu thập tin tức t́nh báo về những cuộc chuyển quân của đối phương. Khi phát hiện được vị trí đóng quân của đối phương, các toán thám báo sẽ theo dơi mọi hoạt động của đối phương để tổ chức các trận phục kích nhỏ lẻ, hoặc quấy rối, gài ḿn, mật phục... Trường hợp phát hiện được kho hậu cần, sẽ t́m mọi cách phá hủy hoặc chỉ điểm cho máy bay oanh tạc.


    Phi trường Liên Khương,1968

    Mỗi đơn vị thám báo thường được cơ động đến địa bàn hoạt động bằng tất cả các loại phương tiện có sẵn. Khi đă đến địa bàn hoạt động, các đơn vị thám báo thực hiện vai tṛ của các toán biệt kích quân. Đồ tiếp tế được chuyển đến bằng máy bay. Những đơn vị biệt kích, thám báo này thường hoạt động trong ḷng đối phương từ 30-60 ngày. Họ trở thành những “chủ nhân ông” trên địa bàn hoạt động; được toàn quyền hành động, kể cả yêu cầu yểm trợ bằng không quân để đạt được mục tiêu đánh phá. Nhằm tránh để lộ hành tung, đôi khi phải giấu đồ tiếp tế vào những quả bom Napalm giả, do máy bay khu trục A1E Skyraider thả xuống trong những phi vụ oanh tạc giả.

    Ngoài việc phát triển đơn vị thám báo cho các vùng chiến thuật, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ c̣n tổ chức thêm những sở chỉ huy hành quân ngoại biên như Sở chỉ huy hành quân Omega và Sigma. Hai sở chỉ huy hành quân trên có vẻ như làm tăng thêm khả năng trinh sát, thu lượm tin tức t́nh báo cho liên đoàn, ngoài Sở chỉ huy hành quân Delta đă có sẵn. Mỗi Sở chỉ huy có quân số khoảng 600 quân, gồm 1 đơn vị trinh sát, 1 đơn vị xung kích ứng cứu và một đoàn cố vấn, được tổ chức tương đương với Ban chỉ huy vùng của lực lượng biệt kích.


    Trụ sở MACV ở Bến Tre

    Sở chỉ huy hành quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy của Liên quân biệt kích Việt – Mỹ; nhận lệnh trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài G̣n và Bộ Tư lệnh phái bộ viện trợ quân sự Mỹ (MACV). Các toán thám báo thuộc Sở chỉ huy hành quân Delta được Tiểu đoàn 9, Biệt kích dù sẵn sàng làm lực lượng tiếp ứng, yểm trợ. Những toán thuộc Sở chỉ huy hành quân Omega và Sigma được lực lượng biệt kích dù trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và vùng II chiến thuật. Những toán thám báo được các đơn vị biệt kích cơ động thuộc lực lượng dân sự chiến đấu yểm trợ.

    5. Huấn luyện về không trợ

    Chương tŕnh huấn luyện cho các sở chỉ huy hành quân thám báo, trước hết là phần huấn luyện về bộ binh, kỹ thuật tác chiến tại địa h́nh khu vực Đông Nam Á. Những quân nhân được tuyển chọn về sở chỉ huy hành quân thám báo, thường đă trải qua thời gian phục vụ trong lực lượng dân sự chiến đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân thám báo bắt đầu từ giai đoạn huấn luyện bộ binh. Trước tiên phải trải qua huấn luyện nhảy dù. Sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di chuyển lặng lẽ, bí mật; phương pháp t́m dấu vết; theo dơi; cách sử dụng bản đồ, la bàn, dụng cụ làm dấu; những kỹ thuật xâm nhập, rút lui khỏi khu vực do thám, địa bàn hoạt động; sử dụng các loại vũ khí đặc biệt; cứu thương; kỹ thuật tập kích, phục kích.


    Chương tŕnh huấn luyện kéo dài khoảng 5 hoặc 6 tuần, với 6 ngày 1 tuần và khoảng 10h mỗi ngày. Các buổi huấn luyện được tiến hành trong căn cứ và thực tập ngoài thực địa.

    Hoạt động của lực lượng thám báo rất cần sự yểm trợ của không quân. Phi đoàn không quân yểm trợ của Liên quân Mỹ biệt phái cho Liên đoàn biệt kích số 5 đă yểm trợ trực tiếp bằng những phi đội trực thăng vũ trang và trực thăng vận tải. Ngoài ra, không quân Mỹ c̣n cung cấp phương tiện vận chuyển, cơ động quân và tiếp tế. Không quân Mỹ và Quân đội Sài G̣n c̣n yểm trợ thêm bằng các cuộc oanh tạc hoặc chuyển tiếp công điện qua hệ thống truyền tin. Tại vùng I chiến thuật, máy bay của Thủy quân lục chiến Mỹ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự như trên.

    6. Soạn thảo kế hoạch hành quân

    Chiến tranh ngoại biên giữ một vai tṛ rất quan trọng của lực lượng biệt kích Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên rất kỹ lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham chiến được cơ động đến căn cứ tiền phương trước khi mở các cuộc hành quân. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tùy theo tính chất mỗi cuộc hành quân và mức độ khẩn thiết của cuộc hành quân.


    Đèo MangYang

    Lệnh hành quân được soạn thảo với đầy đủ chi tiết tin tức t́nh báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về địa thế, thời tiết và những nơi t́nh nghi có đối phương đều được thu thập và phân tích tỉ mỉ. Tất cả những chi tiết, động thái đó đều được ghi trên bản đồ; cùng những lộ tŕnh chính và phụ cho nhiệm vụ trinh sát đều được lựa chọn và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về t́nh báo, không ảnh, thẩm vấn tù binh và những bản báo cáo của các đơn vị bạn từng hành quân qua trước đó. Nếu cần, Ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân hay những phi vụ thám thính trước khu vực sẽ hoạt động. Những chuyến không thám này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn địa điểm xâm nhập, lui quân chính và phụ.

    Khi việc soạn thảo, điều nghiên đă hoàn tất, lệnh hành quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân. Trường hợp cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương, đă có máy bay yểm trợ. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít trang bị hậu cần th́ máy bay trực thăng của Lục quân và Thủy quân lục chiến Mỹ hay phi cơ nhỏ được sử dụng. Nếu cuộc hành quân với quân số cấp đại đội trở lên, sẽ được Không quân Mỹ cung cấp loại máy bay C7A hoặc C130.

    Khi đến căn cứ hành quân tiền phương, người ta sẽ tiến hành kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị. Những sĩ quan thuộc quyền Sở chỉ huy hành quân sẽ được nghe thuyết tŕnh về mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc hành quân, cùng với mệnh lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu đội hoặc phân đội (toán).

    Trong số những nhiệm vụ trinh sát, các phương pháp, thủ đoạn cho từng hoạt động sẽ được tŕnh bày chi tiết tùy theo mỗi cuộc hành quân. Khi xâm nhập vùng đối phương kiểm soát, hay lúc ra khỏi máy bay; hoặc di chuyển trong khu vực hành quân; trường hợp chạm trán đối phương, cũng như giờ giấc cho việc lui quân.

    Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố bất ngờ. Thêm vào phần an ninh của toán biệt kích, nhiều lúc cần phải t́m cách đánh lừa đối phương. Việc đánh lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong kế hoạch hành quân. Tùy theo t́nh h́nh thời tiết, địa h́nh và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, đường không hoặc đường thủy. Tuy nhiên, trên chiến trường Việt Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, rút lui đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.


  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

    Cuộc Chiến Bí Mật
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P3


    Qua các cuộc hành quân, kinh nghiệm cho thấy, thời gian tốt nhất để các toán xâm nhập là vào lúc trời sắp tối, đủ thời gian cho các toán thám báo lẫn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đêm. Tuy nhiên, đối phương vẫn khám phá ra các cách thức thả những toán thám báo và t́m cách đối phó. Do đó rất cần phải t́m cách đánh lừa đối phương về địa điểm thả quân. Cụ thể trực thăng sẽ đáp xuống ba hoặc 4 chỗ, hoặc nhiều hơn nữa, trước khi trực thăng thả các toán thám báo. Điều đó sẽ làm cho đối phương phân vân không biết chính xác đâu là điểm thả quân. Một thủ đoạn khác là đoàn trực thăng 3 chiếc bay thấp nối đuôi nhau. Chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt kích trong chớp nhoáng, rồi bốc lên thật nhanh nối đuôi 2 chiếc kia, kết thành h́nh phi đội 3 chiếc như ban đầu.



    Trong trường hợp cơ động các toán thám báo bằng đường bộ, hay các toán “Chạy đường ṃn” (Roadrunner), nhằm trinh sát, xâm nhập vùng đối phương kiểm soát một cách dễ dàng, tốt nhất chọn lúc trời tối hoặc giữa ban ngày. Đối với trường hợp địa bàn, vẫn thường tung các toán thám báo ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một quy luật nhất định. Trong trường hợp khác, toán thám báo đi lẫn vào trong đội h́nh một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán sẽ lặng lẽ di chuyển đến địa bàn đă được phân công.

    Tất cả mọi sự di chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống c̣n của một toán thám báo nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán, sự hiểu biết về nhiệm vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời gian biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân, đôi khi phải lưu ư thêm trường hợp các toán thám báo phải phân tán tạm thời trước áp lực của đối phương, phải tuân thủ thời gian, vị trí và điểm hẹn tập hợp.

    Bí mật là đ̣i hỏi cơ bản trong vấn đề di chuyển của các đơn vị thám báo trong các cuộc hành quân ngoại biên. Mặc dù đối phương có đề pḥng về sự xâm nhập của lực lượng biệt kích, thám báo nhưng đối phương không thể biết rơ vị trí xâm nhập một cách chính xác của các toán. Do đó đ̣i hỏi mỗi động thái khi di chuyển phải giữ được im lặng, thủ ngữ và thủ hiệu được sử dụng để truyền tin và ra lệnh thay cho lời nói; kết hợp với việc ít sử dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu; vũ khí, trang bị gọn gàng không để phát ra tiếng động khi chạm vào cây lá hoặc đá, và tuyệt đối phải giữ im lặng khi di chuyển.

    Vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra nghiêm ngặt. Có một thực tế là các quân nhân biệt kích, thám báo trong chiến tranh ngoại biên không thể mang theo lương thực, đạn dược và trang bị quá 5 ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân đều đề cập đến vấn đề tái tiếp tế trong ṿng từ 3-5 ngày tại một địa điểm định trước. Yêu cầu đặt ra là sự an toàn, không để lộ vị trí của các toán biệt kích, thám báo. Nếu thả dù tiếp tế giữa ban ngày sẽ khiến cho đối phương báo động, đề pḥng. C̣n thả ban đêm, ở vùng rừng núi th́ cơ hội thu hồi kiện hàng rất ít.

    Rút lui theo đúng kỳ hạn hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lực lượng thám báo có vẻ thành công trong vấn đề rút lui vào thời điểm bắt đầu thành lập lực lượng cho đến giữa năm 1967. Phần lớn các toán biệt kích, thám báo đều thực thi phi vụ đúng theo kế hoạch, hết thời gian là ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về.



    Những toán “xâm nhập đường ṃn”, trinh sát rất dễ bị đối phương phát hiện và tiêu diệt. Do đó các nhân viên trong Sở chỉ huy hành quân có nhiệm vụ theo dơi hoạt động của các toán biệt kích, thám báo; phải chuẩn bị sẵn sàng tư thế lập tức rút quân ra khỏi vùng đối phương kiểm soát ngay khi nhận được báo các khẩn cấp.

    7. Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt

    + Sở chỉ huy hành quân Omega:

    Trên cơ sở kết quả hoạt động thực tiễn và yêu cầu của chiến trường, Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt đă thành lập các sở chỉ huy hành quân. Trước tiên là Sở chỉ huy hành quân Omega (viết tắt là B50) của lực lượng biệt kích Mỹ, được thành lập vào tháng 7/1966, đặt trụ sở tại Nha Trang. Sở chỉ huy hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân thăm ḍ, thu thập tin tức t́nh báo tác chiến. Tuy nhiên, Sở chỉ huy hành quân Omega không giống như sở chỉ huy hành quân Delta (thành lập ngày 1/9/1967), trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam (thành lập ngày 8/2/1962, với tên gọi ban đầu là Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam, viết tắt là MACV. Đến tháng 6/1964, đổi tên thành Cơ quan tùy viên quân sự Mỹ tại Việt Nam, viết tắt DAO).

    B50 tuyển mộ thanh niên là dân tộc người thiểu số như Jah, Rhade, Sedang, Chăm, Khmer, Hoa. Lúc đầu biên chế thành 8 toán do thám và 4 toán “xâm nhập đường ṃn”, sau đó tăng lên 16 toán viễn thám và 8 toán “xâm nhập đường ṃn”. Đến năm 1968, những toán “xâm nhập đường ṃn” chuyển về trực thuộc Sở chỉ huy B57, lực lượng chuyên về các hoạt động tuần tiễu, thu thập tin tức.

    Sở chỉ huy hành quân Omega có 3 đại đội xung kích, làm thành phần tiếp ứng, dự bị. B50 kết thúc vai tṛ tại Nam Việt Nam vào tháng 6/1972.

    + Sở chỉ huy Trung tâm huấn luyện Động Ba Th́n (gọi tắt là B51):

    Động Ba Th́n là căn cứ huấn luyện của Quân đội Sài G̣n. Năm 1964, Sở chỉ huy Trung tâm huấn luyện cho Quân đội Mỹ tại Việt Nam bắt đầu đảm nhiệm vai tṛ cố vấn cho căn cứ huấn luyện Động Ba Th́n. Theo đó, nhiều chương tŕnh huấn luyện dần được cải tiến, với các khóa huấn luyện cơ bản, nhảy dù cho lực lượng biệt kích Sài G̣n; huấn luyện cho lực lượng dân sự chiến đấu, huấn luyện vơ Teakwondo Hàn Quốc, huấn luyện truyền tin cùng nhiều khóa huấn luyện khác.



    Năm 1968, B51 chuyển các khóa huấn luyện đến căn cứ An Khê, nhưng đến 10/1969 th́ chuyển trở lại Động Ba Th́n, và căn cứ được đổi tên là Trung tâm huấn luyện Quốc gia. Sau đó B51 được Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam giao cho nhiệm vụ huấn luyện cho Quân đội Hoàng gia Campuchia. Sở chỉ huy B51 rời Việt Nam vào tháng 3/1971.

    + Sở chỉ huy hành quân Delta (B52):

    Tháng 5/1964, cơ quan t́nh báo Trung ương Mỹ (CIA) triển khai chương tŕnh Leaping Lena, sử dụng lực lượng biệt kích Mỹ huấn luyện cho biệt kích Sài G̣n và lực lượng dân sự chiến đấu về những kỹ năng trinh sát, thu thập tin tức. Khi chương tŕnh phát triển, nhu cầu về nhân lực của lực lượng biệt kích Mỹ không ngừng tăng lên. Đến tháng 6/1965, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ được giao phó thêm trách nhiệm và Sở chỉ huy hành quân Delta (B52) được thành lập để chỉ huy và theo dơi các hoạt động do thám. Sở chỉ huy hành quân Delta tổ chức mỗi toán thường có 2 biệt kích quân Mỹ, trừ các toán “xâm nhập đường ṃn”, có từ 4-6 biệt kích quân Sài G̣n và thường ăn mặc, trang bị giống quân Giải phóng để dễ trà trộn, hoạt động trong vùng giải phóng, hay các căn cứ địa.


    Sở chỉ huy B52 vẫn thường thay đổi cách thức làm việc, tổ chức lực lượng tùy theo nhu cầu chiến trường đ̣i hỏi. Khi mới thành lập, chỉ có 12 toán trinh sát biệt kích Việt - Mỹ và 12 toán thám báo “xâm nhập đường ṃn”, 1 đại đội pḥng thủ người Nùng và Tiểu đoàn 81 biệt kích dù, gồm 5 đại đội là lực lượng xung kích ứng cứu.

    Sở chỉ huy hành quân Delta có chức năng: xác định vị trí đóng quân của các đơn vị đối phương; thu thập tin tức t́nh báo chiến lược; giám sát kết quả các trận oanh kích của không quân Mỹ nhằm triệt phá các căn cứ, vùng giải phóng của đối phương; tổ chức các cuộc tập kích, phá hoại các cơ sở hậu cần của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sở chỉ huy hành quân Delta rất nổi tiếng trong các phi vụ phá hoại.


    1 trong những "mối t́nh" thời chiến

    Từ 1966, Sở chỉ huy hành quân Delta trực tiếp đặt dưới quyền của Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam (MACV), chịu trách nhiệm về mọi hoạt động quân sự Mỹ trên khắp miền Nam Việt Nam. Cùng thời điểm năm 1966, hai sở chỉ huy hành quân Sigma và Omega được thành lập với nhiệm vụ tương tự Sở chỉ huy hành quân Delta, hoạt động trên lănh thổ vùng I và vùng II. Ngoài ra, Sở chỉ huy hành quân Delta c̣n được Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam giao nhiệm vụ huấn luyện cho biệt kích Mỹ về kỹ thuật trinh sát.
    52 đóng căn cứ tại Nha Trang cho đến tháng 6/1970, khi chương tŕnh Delta chấm dứt.

    + Sở chỉ huy Đoàn cố vấn hành quân đặc biệt (B53):

    Sở chỉ huy Đoàn cố vấn hành quân đặc biệt (B53) được chính thức thành lập tại Việt Nam vào tháng 2/1964. Lúc đầu đặt sở chỉ huy đoàn tại căn cứ huấn luyện lực lượng đặc biệt ở Trung tâm huấn luyện Long Thành, Biên Ḥa, đặt dưới sự điều hành của Cơ quan nghiên cứu, quan sát thuộc Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV-SOG).

    Khi Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ rời khỏi Việt Nam vào năm 1971, vấn đề huấn luyện cho quân đội Sài G̣n về chiến tranh ngoại lệ vẫn rất cần thiết th́ Sở chỉ huy đoàn cố vấn hành quân đặc biệt trở thành hạt nhân cho chương tŕnh huấn luyện. Tháng 1/1971, Sở chỉ huy hành quân đặc biệt đổi tên là “Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt” (SMAG). Sau khi thành lập đoàn, căn cứ được đặt tại Trường huấn luyện trinh sát (MACV RECONDO). Đến tháng 3/1971, đoàn lấy căn cứ Bộ chỉ huy Liên đoàn biệt kích số 5 làm căn cứ Sở chỉ huy.

    Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt (SMAG) có nhiệm vụ huấn luyến, cố vấn và cung cấp cho Liên đoàn biệt kích số 5 những dịch vụ chuyên môn đặc biệt (Special Mission Service – SMS). Đơn vị được Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt huấn luyện sau này trở thành tiền thân của lực lượng biệt kích Sài G̣n trong chiến tranh ngoại lệ. Tháng 9/1971, SMS được lệnh phối hợp với một đơn vị thuộc Sở thông tin liên lạc của Quân đội Sài G̣n, đóng căn cứ tại Đà Nẵng. Sau này đổi thành Bộ chỉ huy Bắc (Sở Bắc) của Đoàn Nghiên cứu, Quan sát của Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV-SOG). Tính đến tháng 3/1972, trong ṿng 11 tháng, Đoàn cố vấn sứ mạng đặc biệt (SMAG) đă huấn luyện cho 27 toán biệt kích và 15 toán trinh sát. SMAG chấm dứt hoạt động vào tháng 4/1972, Sở chỉ huy Đoàn cố vấn (B53) cũng rời Việt Nam.


    + Ban liên lạc B55 hay Trung tâm hành quân chiến thuật (TOC):

    Với sự có mặt của lực lượng biệt kích Mỹ từ năm 1962, đă đặt ra nhu cầu phải có một ban liên lạc gần Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Sài G̣n của Nam Việt Nam để thuận lợi trong việc soạn thảo kế hoạch, huấn luyện và chuyển những tin tức t́nh báo. Đó là nhiệm vụ của Ban liên lạc B55, hay Trung tâm hành quân chiến thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơ quan này làm nhiệm vụ giải mă những tin t́nh báo. TOC được Ban cố vấn kỹ thuật hỗ hợp (JTAD) huấn luyện, kết hợp với Ban nghiên cứu hỗn hợp (CDS) hướng dẫn. Sau khi Sở nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG) đi vào hoạt động, B55 làm nhiệm vụ phối hợp giữa hai tổ chức Ban cố vấn kỹ thuật và Ban nghiên cứu hỗn hợp tại Việt Nam.

    Với chức năng là cơ quan liên lạc tại Sài G̣n, B55 phải lo thủ tục giấy tờ cho các quân nhân biệt kích Mỹ tại Việt Nam; tham dự các buổi họp, thuyết tŕnh giữa các bộ chỉ huy; thuyển mộ lính đánh thuê. Ngày 23/5/1968, Trung tâm hành quân chiến thuật đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy lực lượng 5 xung kích cơ động (Mike Force). B55 thực thi nhiệm vụ này cho đến ngày lên đường về Mỹ vào năm 1970.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

    Cuộc Chiến Bí Mật
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P4



    + Sở chỉ huy hành quân Sigma (B56):

    Khi nhịp độ chiến trường ngày càng leo thang th́ nhu cầu t́nh báo tác chiến đ̣i hỏi ngày càng cao, đặt trách nhiệm nặng nề cho chương tŕnh Delta. Tháng 8/1966, Liên đoàn biệt kích số 5 của Mỹ thành lập bộ chỉ huy 56, phụ trách chương tŕnh hành quân Sigma, đặt căn cứ trong trại Hồ Ngọc Tảo. Sở chỉ huy hành quân Sigma được tổ chức tương tự như những sở chỉ huy do thám trinh sát khác, bao gồm có 8 toán viễn thám và 3 đại đội xung kích ứng cứu. B56 hiếm khi tuyển mộ người Thượng mà dùng lính đánh thuê người Nùng hoặc Khmer. Những toán biệt kích “đột nhập đường ṃn” của Sở chỉ huy hành quân Sigma được chuyển về sáp nhập với Bộ chỉ huy hành quân B57 vào năm 1967.

    Sở chỉ huy hành quân Sigma tham gia vào nhiều cuộc hành quân Blackjack trên địa bàn được phân công. B56 thường làm nhiệm vụ do thám cho các cuộc hành quân, đôi khi sử dụng lực lượng cơ động của Sigma phối hợp với lực lượng ứng cứu Mike Force.

    Đến tháng 11/1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B56 được đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam, trực tiếp thuộc quyền chỉ huy qua viên Tư lệnh Quân đoàn II.
    Đến năm 1969, B56 chuyển đến Buôn Mê Thuột và rút quân về Mỹ vào tháng 5/1971.


    Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có, Tư lệnh vùng II chiến thuật cùng các cố vấn thuộc Ban cố vấn Quân đoàn II, trong đó có Đại tá John Freund

    + Sở chỉ huy hành quân Gamma (B57):

    Từ khi hiện diện nhiều đơn vị trinh sát, do thám hoạt động trên chiến trường Việt Nam, nhu cầu giải mă những nguồn tin t́nh báo thu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên cấp bách. Vào tháng 6/1967, Sở chỉ huy hành quân Gamma (B57) được thành lập. Sở chỉ huy B57 đặt tại Sài G̣n nhưng có nhân viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III và IV. Sở chỉ huy hành quân Gamma đặc biệt tuyển mộ, điều hành những điệp viên (người lấy tin tức) hoạt động trong vùng đối phương kiểm soát. Nhằm hỗ trợ cho nhân viên t́nh báo của lực lượng biệt kích, Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Sài G̣n biệt phái một số chuyên viên t́nh báo, ngụy trang dưới tên “Nhóm cố vấn kỹ thuật hỗn hợp”. Khi tổ chức này hoạt động được hơn 1 năm th́ đă thiết lập được một hệ thống gián điệp nằm vùng, có sẵn những nguồn tin t́nh báo. B57 thiết lập được mối quan hệ mật thiết với các cơ quan, đơn vị khác của chính quyền Sài G̣n nhằm trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động t́nh báo.
    Sở chỉ huy hành quân Gamma chấm dứt hoạt động, rời Việt Nam về Mỹ vào tháng 3/1970.

    + Trường huấn luyện do thám (Recondo School):

    Khi Sở chỉ huy hành quân Delta tăng nhanh quân số th́ nhu cầu về huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu thám sát được đặt ra. Vào tháng 5/1964, Sở chỉ huy hành quân Delta bắt đầu huấn luyện trong phạm vi căn cứ ở Nha Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn vị được thông báo về khóa huấn luyện do thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam được báo cáo kết quả huấn luyện của Sở chỉ huy hành quân Delta, đă chỉ thị cho Liên đoàn biệt kích số 5 đảm trách về khóa huấn luyện.

    Ngày 15/9/1966, Trường huấn luyện biệt kích thám thính kết hợp với Trung tâm huấn luyện thuộc Sở chỉ huy hành quân Delta (B52) chính thức khai giảng khóa học đầu tiên. Khóa học kéo dài 3 tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần tiễu, trinh sát. Học viên đ̣i hỏi phải có đầy đủ sức khỏe, đă ở Việt Nam tối thiểu 1 tháng và c̣n 6 tháng phục vụ. Delta ưu tiên tuyển chọn những quân nhân từng là thành viên của toán biệt kích, các đại đội biệt động quân, các toán thám thính và những đơn vị trinh sát khác. Về sau, trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến đấu cho các biệt kích quân Mỹ mới đến Việt Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng 11/1970.

    + Lực lượng xung kích cơ động (Mobile Strike Force):

    Ư tưởng về tổ chức lực lượng xung kích cơ động dựa trên quan niệm cắm những đơn vị sâu vào vùng đối phương kểm soát trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm đánh phá các căn cứ, vừa ngăn chặn mọi hoạt động của cộng sản. Bắt đầu từ năm 1966, các đơn vị xung kích cơ động thường bao gồm có một toán biệt kích, cộng với 1 đại đội dân sự chiến đấu, có quân số khoảng 150 người, đă được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu dài ngày và 1 trung đội trinh sát, khoảng 34 người.

    Dưới danh nghĩa Blackjack, những đơn vị xung kích cơ động này được đưa sâu vào vùng căn cứ, vùng giải phóng của đối phương. Công việc tiếp tế cho các toán xung kích cơ động này được thực hiện bằng phương tiện thả dù. Trong cuộc hành quân Blackjack 21, SOG đă sử dụng đơn vị đặc nhiệm 777, gồm 15 biệt kích quân Mỹ và 249 quân nhân Thượng. Hành quân Blackjack 22 gồm có một đại đội xung kích Mike Force và 1 đại đội xung kích cơ động. Hành quân Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội xung kích 957.

    Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong mùa mưa 1966-1967, trong đó các đại đội xung kích cơ động kết hợp với các đại đội xung kích Mike Force thành tiểu đoàn xung kích cơ động.

    Mặc dù các trại biệt kích đều có lực lượng xung kích cơ động để đáp trả tức th́ những hoạt động của đối phương, nhưng vẫn cần phải có thêm lực lượng ứng cứu, đặt dưới quyền điều động trực tiếp của các lực lượng đặc biệt Mỹ trong những trường hợp khẩn cấp, để giải vây cho các trại biệt kích trước áp lực nặng nề của đối phương. Năm 1966, thành lập đơn vị dự bị cho mỗi quân khu và đặt trực thuộc Bộ Tư lệnh quân khu (Quân đoàn). Các tiểu đoàn ứng cứu được huấn luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa khô 1966-1967. Lúc đầu gọi là lực lượng dự bị cơ động, sau trở thành Mike Force (Mobile Reaction Forves-MRF). Đến 1967, tên gọi chính thức của các đơn vị trên là Lực lượng xung kích cơ động (Mobile Strike Force-MSF). Mỗi quân khu đều tổ chức 1 đơn vị xung kích cơ động. Đơn vị thứ 5 được thành lập, làm nhiệm vụ cơ động trên địa bàn của 4 quân khu.


    Đức Phong, Sông Bé, 11/11/1969

    Mặc dù theo quy chế tổ chức th́ các đơn vị xung kích cơ động là lực lượng dự bị đa dụng, nhưng thực tế những đơn vị này ngay khi thành lập đă được sử dụng như là lực lượng chuyên trách bảo vệ căn cứ. Mỗi đại đội xung kích cơ động được biên chế 184 người và tổ chức như đơn vị quân chính quy, được trang bị vũ khí cơ bản. Mỗi tiểu đoàn được biên chế 522 quân. Tiểu đoàn xung kích thường có thêm đại đội trinh sát, biên chế 153 quân và Ban chỉ huy. Riêng đại đội công vụ được biên chế 227 người. Nhiệm vụ chính của các đơn vị xung kích là giải vây cho các trại biệt kích.

    Trong năm 1966, lực lượng xung kích cơ động phối hợp với lực lượng dân sự chiến đấu trong nhiều cuộc hành quân. Về sau lực lượng xung kích cơ động thường được sử dụng ứng cứu cho các toán biệt kích của Đoàn nghiên cứu quan sát (MACV-SOG) trong trường hợp khẩn cấp. Đến năm 1967, lực lượng dân sự chiến đấu sáp nhập vào lực lượng xung kích cơ động, hoạt động cho đến khi lực lượng Mũ Nồi Xanh bàn giao lại cho Quân đội Sài G̣n.

    Tháng 2/1966, Chiến đoàn 1 xung kích được thành lập, trực thuộc B16 lực lượng biệt kích, đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Chỉ huy lực lượng biệt kích Vùng I chiến thuật tại Đà Nẵng. Trong 5 năm hoạt động trên chiến trường vùng I, Chiến đoàn 1 xung kích được tổ chức thành 2 tiểu đoàn, một đại đội trinh sát, Bộ Chỉ huy Chiến đoàn và đại đội bảo đảm.

    Chiến đoàn 2 xung kích trực thuộc B20 lực lượng biệt kích ở Pleiku; B23 ở Buôn Mê Thuột và B24 ở Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Vùng II, đảm nhiệm địa bàn thuộc vùng lănh thổ Quân khu II. Trong 5 năm hoạt động, chiến đoàn 2 xung kích được tổ chức thành 5 tiểu đoàn, 1 đại đội trinh sát, Bộ chỉ huy vùng và đại đội bảo đảm.

    Chiến đoàn 3 xung kích thành lập vào tháng 11/1967, đặt dưới quyền điều động của Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Vùng III, chịu trách nhiệm trên lănh thổ Quân khu III. Bộ chỉ huy B36 lực lượng biệt kích trực tiếp chỉ huy Chiến đoàn 3 xung kích; được tổ chức gồm 3 tiểu đoàn, đại đội trinh sát, Bộ chỉ huy vùng và đại đội bảo đảm. Đến cuối 1970, Chiến đoàn 3 được chuyển giao cho Quân đội Sài G̣n. Tháng 2/1971, B36 được lệnh gọi về Mỹ.

    Chiến đoàn xung kích 4 trực thuộc B40, Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích vùng IV chiến thuật; được tổ chức gồm 3 tiểu đoàn, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, Bộ chỉ huy vùng và đại đội bảo đảm. Khi mới thành lập, chiến đoàn chịu trách nhiệm trên địa bàn Vùng IV (Quân khu IV). Đến tháng 8/1969, Chiến đoàn đặt dưới quyền điều động của Biệt khu 44. Từ tháng 5/1970, chiến đoàn được bàn giao cho Quân đội Sài G̣n. Tháng 12/1970, B40 của lực lượng biệt kích Mỹ được lệnh triệu hồi về nước.


    Đồng Tâm, 1968

    + Liên đoàn nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG):

    Liên đoàn nghiên cứu, quan sát trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ (MACV-SOG) là cơ quan chỉ huy cao nhất đối với các cuộc hành quân đặc biệt. Ngay từ khi thành lập, chức danh Nghiên cứu, quan sát (đôi khi gọi là Hành quân đặc biệt) được triệt để sử dụng để che mắt đối phương trong các cuộc hành quân tối mật về lĩnh vực t́nh báo.


    Phù hiệu của Liên đoàn Nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG)

    Từ lâu, Cơ quan Trung ương t́nh báo CIA của Mỹ luôn yểm trợ cho các hoạt động bí mật của chính quyền Sài G̣n. Cho đến năm 1963 th́ CIA chính thức trở thành Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích ở Việt Nam và thực hiện các cuộc hành quân đặc biệt. Khi cường độ cuộc chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt động đều tăng lên, th́ lực lượng biệt kích Sài G̣n càng phát triển, trở thành Sở khai thác đặc biệt. Ngày 16/1/1964, Bộ chỉ huy Liên đoàn nghiên cứu, quan sát được thành lập ở Chợ Lớn, để chỉ huy các cuộc hành quân đặc biệt.

    Năm 1966, Bộ chỉ huy MACV-SOG dời từ Chợ Lớn ra Sài G̣n, bao gồm 1 bộ phận đóng tại phi trường Tân Sơn Nhất. Riêng bộ phận yểm trợ không quân dời ra Nha Trang và bộ phận yểm trợ hải quân dời ra Đà Nẵng.

    Mục tiêu hoạt động của MACV- SOG không chỉ trực tiếp nhắm vào những khu vực do đối phương kiểm soát trên lănh thổ miền Nam Việt Nam mà cả sang lănh thổ Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung Hoa. Những phi vụ đặc biệt của MACV-SOG bao gồm việc thu thập tin tức t́nh báo chiến lược, phá hoại đường giao liên, tiếp vận của đối phương; tiến hành chiến tranh tâm lư; giải cứu tù binh và phát triển chiến tranh phá hoại chống lại chính quyền đối phương... Những phi vụ thám sát của MACV-SOG được lựa chọn kỹ càng và những bản báo cáo sau mỗi chuyến xâm nhập thường được gửi về Lầu Năm Góc để đánh giá, phân tích và gửi tới những địa chỉ cần thiết.

    Năm 1967, cơ quan MACV-SOG được tổ chức lại thành 3 bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng; Trung (CCC) ở Kontum và Nam (CCS) ở Buôn Mê Thuột. Mỗi Bộ chỉ huy được tổ chức lại bằng cách gom một số căn cứ hành quân tiền phương (FOB), mà trước đây được thiết lập để yểm trợ, tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú Bài, Huế; Kontum; Khe Sanh; Non Nước; Buôn Mê Thuột và trại Hồ Ngọc Tảo. Các Bộ chỉ huy hành quân gồm trên 1.600 quân biệt kích Mỹ, chia ra hơn 70 toán thám báo và 8.000 biệt kích quân Sài G̣n.

    Cách thức tổ chức của Liên đoàn Nghiên cứu, quan sát cũng gần như song song với tổ chức của lực lượng biệt kích Mỹ, với các toán xâm nhập tương đương với các toán biệt kích Mỹ; Bộ chỉ huy hành quân tiền phương tương đương với Bộ chỉ huy Vùng; các Bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các Bộ chỉ huy Trung tâm lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh.

    Bộ chỉ huy Không Yểm bao gồm Phi đoàn 90 thuộc Trung tâm hành quân đặc biệt (SOS) của Không quân Mỹ, đóng tại Nha Trang, chuyên cung cấp máy bay C130 cho lực lượng biệt kích. Bộ chỉ huy Phi đoàn 20 (SOS) đóng ở vịnh Cam Ranh. Các đơn vị trực thuộc khác đóng tại Buôn Mê Thuột, Đức Lập và Tiêu Atar, chuyên cung cấp cho lực lượng biệt kích loại trực thăng yểm trợ. Ngoài ra, MACV-SOG c̣n có một đơn vị trực thuộc là Phi đoàn Đệ nhất, đóng căn cứ rải rác khắp miền Nam Việt Nam và cả Thái Lan.


    Sân bay Utapao, Thái Lan, 1966; nơi xuất phát những chuyến B52 đến Việt Nam

    Bộ phận yểm trợ Hải quân đóng căn cứ tại Đà Nẵng, gồm các đơn vị biệt kích (SEAL) của Hải quân Mỹ, các siêu tốc đỉnh cùng các toán người nhái, chuyên phá hoại trên biển, trực thuộc Hải quân Sài G̣n.

    MACV-SOG c̣n có một trung tâm huấn luyện và đơn vị xâm nhập bằng dù ở Long Thành, Biên Ḥa. Đơn vị này gồm các biệt kích quân người Việt Nam, được thả vào vùng đối phương bằng phương tiện nhảy dù.

    Ngày 30/4/1971, cơ quan MACV-SOG ngưng hoạt động và chương tŕnh được giao cho Trung tâm Yểm trợ, thuộc Nha Kỹ thuật 158 (STDAT). Một số biệt kích quân bộ đă chuyển sang nhóm cố vấn hành quân đặc biệt từ tháng 3/1971. Ngày 12/3/1972, STDAT cũng kết thúc sứ mệnh một trong những “huyền thoại” của lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh của Mỹ.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM

    Cuộc Chiến Bí Mật
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P5



    + Sở chỉ huy Bắc (CCN):

    Sở chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 1/11/1967 tại Đà Nẵng, với 3 bộ chỉ huy tiền phương: một, tại Phú Bài; hai, Bộ chỉ huy tiền phương số 3 tại Khe Sanh; ba là Bộ chỉ huy tiền phương số 4 tại Non Nước, cùng Liên đoàn biệt kích số 5 và Ban cố vấn hải quân Mỹ.

    Các phi vụ hành quân vượt biên do Sở chỉ huy Bắc tổ chức đều nhằm vào lănh thổ miền Bắc Việt Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng Nam Lào được biết đến với mật danh Shining Brass, bắt đầu triển khai từ năm 1965, nhằm phá hoại con đường tiếp tế, vận chuyển của Bắc Việt cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Sau đó, Sở chỉ huy Bắc đổi tên là Prairie Fire. Khi chuyển về trực thuộc Nha Kỹ thuật th́ lấy tên là Phù Dung.


    Trùm CIA Wiliam Colby thăm Sở Bắc tại Đà Nẵng

    Trong các cuộc hành quân của lực lượng thám báo, Sở chỉ huy Bắc c̣n có đơn vị tiếp ứng, gọi là đơn vị “Cảm tử đặc biệt”. Ngoài ra, CCN c̣n thiết lập những căn cứ hành quân bí mật trên lănh thổ Thái Lan. Tuy nhiên nhiệm vụ chính của CCN vẫn là trinh sát, thu thập tin tức t́nh báo chiến lược.

    + Sở chỉ huy Trung (CCC):

    Sở chỉ huy này đóng tại Kontum, gồm quân của Liên đoàn biệt kích số 5 Mỹ, có lúc được xem như là bộ phận mở rộng của Bộ chỉ huy liên đoàn biệt kích số 5. Địa bàn Bộ chỉ huy được phân công đảm trách là tam giác biên giới Việt-Lào-Campuchia. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại các căn cứ, kho dự trữ vật chất của cộng sản Bắc Việt; đặc biệt đối với những kho hậu cần ở vùng đông bắc Campuchia.

    Dưới quyền điều hành của Bộ chỉ huy trung tâm, có tất cả 30 toán thám báo, mỗi toán gồm 3 biệt kích Mỹ và 9 biệt kích quân Sài G̣n. Ngoài ra c̣n có 4 đại đội khai thác, sử dụng tin tức do những toán thám báo cung cấp trong các cuộc hành quân t́m và diệt.

    + Sở chỉ huy Nam (CCS):

    Sở chỉ huy Nam được thành lập vào tháng 11/1967, đóng căn cứ tại Buôn Mê Thuột. Đây là Sở chỉ huy nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của Liên đoàn nghiên cứu, quan sát (MACV-SOG). Địa bàn hoạt động chính là đồng bằng sông Cửu Long và Campuchia. Tổ chức của Sở chỉ huy gồm có 1 số toán thám báo, cộng với 4 đại đội khai thác. Do địa thế vùng đồng bằng sông Cửu Long là sông nước, nên các đại đội khai thác thường sử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các biệt kích quân Mỹ tại Sở chỉ huy này chấm dứt vào tháng 1/1973, khi tất cả các đơn vị của quân đội viễn chinh Mỹ phải rút quân trở về nước.


    Mộc Hóa, Long An ngày 13/7/1968

    Đoạn kết:

    Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phải có tới hàng núi tài liệu liên quan đến lực lượng biệt kích. Nhưng ít người được biết đến một cách tường tận, kể cả đến những biệt kích quân. Điều đó không có ǵ lạ, v́ bí mật chính là nguyên tắc căn bản, sống c̣n của sắc lính biệt kích. Nhiều đơn vị có tên nghe rất lạ như: Lôi Hổ, Thám Báo, Sở Công Tác, Sở Liên Lạc, Biệt Kích... Đối với lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh được quân đội Mỹ coi như “những chiến binh can trường”, v́ họ được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Ngay trong quân đội Sài G̣n, biệt kích quân cũng được xem là “những chiến binh can đảm, gan ĺ và bí hiểm”.
    Ai đó đă coi họ là “những bóng ma biên giới”. Tiếc thay, họ đă quay lưng lại với chính dân tộc của ḿnh, trở thành công cụ chiến tranh trong tay người Mỹ. Để rồi rút cuộc họ đă bị chính ông chủ của ḿnh bỏ rơi ngay khi họ đang thực thi những phi vụ phá hoại Bắc Việt Nam theo lệnh CIA.

    Theo tài liệu:
    - Harry Pugh, US Special, C&D Enterprises, Arlington, VA> 1993.
    - Francis J. Kelly, The Green Berets, Brassey Inc., New York, 1991.
    - Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA.





    B́a quyển Cuộc Chiến Bí Mật của Gs. Vũ Đ́nh Hiếu

    Ngoài lề. Lời giới thiệu khác về quyển sách:

    Hồ sơ biệt kích – góc nh́n khác của lịch sử

    Bằng những cứ liệu quan trọng trong hồ sơ của CIA, cuốn sách này chứng minh sự thất bại quan trọng nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đó là thất bại về t́nh báo. Đă có một sự thật phũ phàng nào nằm ở mảng tối của vấn đề, mà kéo theo sau đó là những hệ luỵ xương máu đối với nhiều người Việt?

    Từ năm 1957, lính biệt kích (lực lượng đặc biệt, gọi nôm na là lính Mũ nồi xanh) của Mỹ đă xuất hiện tại Việt Nam, với nhiệm vụ cố vấn, nâng đỡ cho chính quyền Sài G̣n. Nhưng về sau, đây chính là lực lượng huấn luyện biệt kích cho quân đội chính quyền Sài G̣n dưới sự điều khiển của CIA. Ư đồ sâu xa của chiến lược này, đó là dùng người Việt đánh người Việt, đỡ gây tổn thất xương máu cho quân đội Mỹ.

    Từ năm 1961, những trung tâm huấn luyện biệt kích: Thủ Đức, Long Thành (Sài G̣n), Hoà Cầm (Đà Nẵng)… được thành lập và hoạt động mạnh, cung cấp quân biệt kích dù, biệt kích thuỷ phục vụ cho chiến lược theo dơi, thám báo, đánh phá miền Bắc và ngăn chặn khả năng tiếp tế miền Nam qua tuyến đường chiến lược Hồ Chí Minh của Việt cộng.

    Từ tháng 2.1961 đến 10.1967 đă có 52 toán biệt kích được bung dù, đáp thuyền cài cắm vào các vùng Tây Bắc, Đông Bắc cho đến Nghệ Tĩnh, biển Quảng B́nh và cả Khe Sanh, Hạ Lào… để đột kích Bắc bộ. Nhưng một con số gây rùng ḿnh, có lẽ bất ngờ đối với cả những lính biệt kích người Việt từng đặt lư tưởng vào chiếc bánh vẽ “chủ nghĩa quốc gia” mà Mỹ đặt ra: có 500 lính biệt kích bị mất tích (chết, lạc trong rừng sâu do xác định sai toạ độ, hoặc bị bắt bỏ tù) mà thân nhân của họ chỉ được lực lượng chỉ huy quan sát (SOG) thông báo là đă chết, không có giải pháp ứng cứu, đem về…

    Mục tiêu cuốn sách là vẽ lại khá chi tiết bức tranh số phận của những toán biệt kích được CIA Mỹ đưa vào chiến trường miền Bắc từ 1961 đến 1968, được tôn vinh như những anh hùng can trường nhưng phải đón nhận một cái kết quá đỗi thất vọng. Phải đến 20 năm sau, khi trên 300 biệt kích quân được trả tự do từ những trại giam trên đất Bắc th́ sự “hai mặt” trong chiến tranh của Chính phủ Mỹ mới được đưa ra ánh sáng. Và cũng nhận ra rằng, có một sự thật tàn nhẫn đó là “các biệt kích quân Sài G̣n vẫn tiếp tục bị thả xuống lănh thổ Bắc Việt, rồi bỏ rơi, ngay cả khi chiến dịch phá hoại của CIA đă kết thúc”.

    Cuốn sách có một phần viết đầy cảm động về đời sống phẫn uất và đầy uất nghẹn, đầy ám ảnh của những biệt kích quân khi cảm nghiệm sự bỏ rơi lạnh lùng của người Mỹ đối với họ trong quá khứ và hiện tại. “Khi Tourison viết cuốn Đạo quân bí mật, trận chiến bí mật, th́ hơn 100 biệt kích quân đă đến định cư tại Mỹ (theo nhiều con đường, trong đó phần lớn là vượt biên – trước 1985 và diện HO – sau 1985 cho người đă cải tạo đủ thời hạn – NV) và gần 200 người khác vẫn ở Việt Nam, cùng hàng trăm cô nhi, quả phụ của những biệt kích quân đă bỏ mạng chỉ v́ cái bánh vẽ “chủ nghĩa quốc gia” mà CIA đă vẽ ra” (trang 74).



    Mỹ Tho, 5/4/1968

    Trang 76 cuốn sách viết: “Hầu hết các cựu biệt kích quân đă định cư ở Mỹ đều cố gắng xây dựng cho ḿnh một mái ấm gia đ́nh, có người được xem là thành công. Nhưng số đó không nhiều. Thỉnh thoảng, họ gặp lại nhau, bùi ngùi bên ly rượu mỗi khi nhớ về quá khứ nặng nề; về những người đă khuất. Và những người c̣n lại đều tin vào định mệnh. Khi họ lọt vào mắt CIA, được phong là “những người hùng”, rồi bị bắt ngồi nghiền ngẫm sự đời sau những song sắt trại giam trên đất Bắc, hầu hết lúc đó họ đều rất trẻ”. Và mục tiêu của cuốn sách đặt ra đầy tính nhân văn, cũng đầy chua chát, thuyết phục người đọc cần phải đọc nó với một tâm thế không phân biệt đúng sai phải trái hay chính kiến: “Người viết những trang sách này chẳng có tham vọng nào, chỉ mong khi đàn con cháu của họ lớn lên, đọc những trang viết này sẽ hiểu rơ thêm về cha, ông của chúng, những người được cho là may mắn hơn trong nhóm biệt kích”.

    Những biệt đội lừng danh của Lôi Hổ trong cuộc chiến đầy bí mật đă có một kết thúc kéo dài trong bi thương. Năm 2000, Mỹ công bố những tài liệu có tính “chú giải và phân tích” về cuộc chiến quan trọng của Lầu Năm Góc: SOG the secret war of Americas commanandos in Vietnam (John L. Plaster), How American lost the secret war in Vietnam và Why American loat the secret war in North Vietnam (Kenneth Conboy Dale Andrale)… Những tài liệu này được lược dịch khá đầy đủ trong cuốn sách này, đồng thời bổ sung gần 60 trang phụ lục của đoàn Chỉ huy quan sát trực thuộc bộ Chỉ huy quân viện Việt Nam (MACV/SOG) về “Kế hoạch 34A” chủ trương dùng biệt kích gây hậu quả cho Bắc Việt.

    Dịch giả của cuốn sách từng là một biệt kích quân Việt Nam Cộng hoà, đang là giáo sư công nghệ thông tin từng giảng dạy tại Mỹ, nay đang tham gia giảng dạy tại trường quốc tế RMIT – TP.HCM. Đây là một bộ tư liệu giá trị bên cạnh ḍng tư liệu điệp viên, t́nh báo được thừa nhận, có tính chính thống. Nó khai mở được cái phần ch́m đa nghĩa bên dưới những trang lịch sử khô khan, thiên kiến và hiềm khích mà ta vẫn thấy. Rất tiếc, có lẽ v́ nhiều lư do “lấn cấn” trong khâu kiểm duyệt, nó được gọi là bản “lược dịch” và từ “biệt quân nguỵ” vẫn được dùng ngay ở trang b́a. Một điều đáng tiếc nữa là cuốn sách c̣n mắc quá nhiều lỗi chính tả.

    Dù sao, những hồ sơ thế này rất cần đọc, để lịch sử được nh́n, thấu hiểu và cảm thông hơn là phân biệt.

    Nguyễn Vĩnh Nguyên

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Kế Hoạch Delta của Lực Lượng Đặc Biệt Việt-Mỹ
    Vương Hồng Anh




    Trong bài viết giới thiệu đơn vị đặc nhiệm Nghiên Cứu và Quan Sát (Studies and Observations Group, gọi tắt là SOG), chúng tôi đă lược tŕnh một số hoạt động của các toán biệt kích trong nhiệm vụ xâm nhập và tấn công một số vị trí của Công quân tại miền Bắc, tại Lào và Cam Bốt trong năm 1964. Cũng vào năm này, song song với các hoạt động của các toán thuộc SOG do các sĩ quan Hoa Kỳ điều hành và chỉ huy, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) đă phối hợp với Phái Bộ Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tại Việt Nam tổ chức các toán xâm nhập vào các khu vực hậu cứ của Cộng Sản từ phía nam Vĩ Tuyến 17 đến vùng tây-nam phần và khu vực dọc biên giới để thu thập tin tức t́nh báo, t́m các đơn vị và đường tiếp vận của địch quân. Thực hiện kế hoạch thử nghiệm này, ngày 15 tháng 4/1964, một toán Biệt Kích Việt Nam và Dân Sự Chiến đấu (Civil Irregular Defense Group, gọi tắt là CIDG) do Lực Lượng Đặc Biệt chỉ huy bắt đầu thực hiện các chuyến công tác thám sát dưới ám danh Leaping Lena.
    Hoạt động của toán nói trên đă làm nền tảng cho kế hoạch thành lập một đơn vị t́nh báo Viêt-Mỹ hỗn hợp có đủ khả năng thực hiện các công tác nguy hiểm nhưng góp phần vào quyết định thế trận trên chiến trường theo nhu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH và Bộ Tư Lệnh Quân-Viện Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV).
    Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, vào tháng 10/1964, Kế Hoạch Delta được chính thức khởi động, và đến tháng 6/1965, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ cho thành lập một đơn vị lấy tên là Toán Biệt phái B52 để phối hợp với Lực Lượng Đặc Biệt VNCH điều hành Bộ Chỉ Huy kế hoạch. Dựa theo tài liệu của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, hồi kư của Đại Tướng Williams Westmoreland và một số bài viết được phổ biến trong tạp chí KBC, tiến tŕnh hoạt động của Kế Hoạch Delta và vai tṛ của toán B52 được ghi nhận như sau.



    H́nh chụp vào năm 1965 với những người lính thuộc Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Nhảy Dù (sau này trở thành Liên Đoàn 81 BCND) trong bộ quân phục hoa rừng "đốm," khác hẳn với những bộ quân phục của Biệt Cách Nhảy Dù về sau này (theo kiểu "rằn ri" màu xanh cây rừng và đen).
    (H̀NH ẢNH: B52 Project Delta)

    Tháng 9/1965, toán B52 bắt đầu một chương tŕnh huấn luyện cho các quân nhân bổ sung cho toán về kỹ thuật thám báo. Một năm sau, toán B52 thành lập trường huấn luyện MACV Recondo dựa trên chương tŕnh nói trên. Kế hoạch thành lập trường này được thực hiện sau khi tướng Westmoreland ra lệnh cho Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ huấn luyện chiến binh thám kích cho các đơn vị thám báo Lục Quân. Ngoài ra, trường Recondo c̣n huấn luyện cho các quân nhân lực lượng đồng minh suốt cuộc chiến ở Việt Nam.
    Trở lại với Kế Hoạch Delta, từ khi h́nh thành cho đến năm 1965, lực lượng thực hiện kế hoạch này gồm 6 toán t́nh báo đặc nhiệm, mỗi toán gồm 8 chiến binh LLĐB Việt Nam và 2 LLĐB Mỹ. Sáu toán này được Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Nhảy Dù (BCND)[*] yểm trợ.
    [*] Sau năm 1968, đơn vị này cải danh thành Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Năm 1970, tiểu đoàn này sát nhập với Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta để trở thành Liên Đoàn 81 BCND

    TIẾN TR̀NH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TOÁN DELTA VÀO L̉NG ĐỊCH
    Trong giai đoạn đầu, Kế Hoạch Delta được h́nh thành như một trại hỏa-lực giống như kiểu mẫu của trại Pleime của Thiếu Tá Beckwith, sau này được giao cho các toán Biệt Kích Quân Tiếp Ứng (Mike Forces) tiếp ứng. Trong hai năm kế tiếp, Kế Hoạch Delta được mở rộng với nhiều nhiệm vụ đặc biệt, trong đó có cả phần thu thập t́nh báo.
    Các tin-tức t́nh báo của Kế Hoạch Delta được thu thập bởi các toán cảm tử quân. Họ được tổ chức thành 2 biệt đội khác nhau: Biệt Đội Đột Kích Recondo với 16 toán, mỗi toán có sáu người (gồm 3 chiến binh LLĐB Việt Nam và 3 LLĐB Mỹ). Các toán t́nh báo này chuyên xâm nhập vào căn cứ của quân Bắc Việt để thu thập tin tức, bắt tù binh, hướng dẫn Pháo Binh và Không Quân oanh tạc, hoặc hướng dẫn các đại đội Biệt Kích Quân Tiếp Ứng vào các mục tiêu khi cần thiết. Các chuyến công tác t́nh báo của các toán này thường kéo dài 5 ngày, sau đó họ rút ra điểm chọn trước để được bốc về và tin tức được báo lên bộ chỉ huy.
    Biệt đội thứ hai có 8 toán, mỗi toán có 4 người thuộc các sắc tộc Thượng, Nùng, hoặc người Miên ở các tỉnh Nam phần, phương thức hoạt động khác với các toán t́nh báo nói trên. Các toán này len lỏi hoạt động trong ḷng địch, ăn mặc, trang bị và mang theo giấy tờ trong người y như bộ đội Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) hay Việt Cộng (VC) hiện diện trong vùng. Các toán viên phải học thuộc tin tức và các câu chuyện của địch để không bị địch phát hiện khi chạm mặt. V́ phải hoạt động với các nhiệm vụ khó khăn nguy hiểm, nên các toán này thường được gọi là Road Runner Teams (tạm dịch là "Xông Pha Dă Chiến"). Trong thời gian các toán này hoạt động, máy truyền tin của họ được mở 24/24 giữ liên lạc với các toán viên trên cùng tần số kêu phi cơ khi cần yểm trợ.
    Các toán t́nh báo và các toán len-lỏi thường được các đơn vị hỏa lực và phản công của Kế Hoạch Delta yểm trợ tối đa. Các toán ứng chiến của đơn vị phản-công sẽ luôn luôn sẵn sàng để được bốc đi tiêu diệt các mục tiêu do các toán t́nh báo và len-lỏi t́m ra, giải cứu trong trường hợp khẩn cấp.
    Một nguồn yểm trợ khác được giao cho trung đội súng cối CIDG người Nùng và trung đội Đặt Bom Phá Hoại (BDA). Hai trung độ này được tăng cường gấp đôi để trở thành phản ứng cấp thời cho Kế Hoạch Delta. Kế Hoạch Delta có một bộ chỉ huy thường trực ở Nha Trang và các bộ chỉ huy tiền phương ở các chiến trường. Do tầm hoạt động rộng lớn, nên toán B52 (bộ phận điều hành kế hoạch Delta) có một nguồn nhân lực yểm trợ lớn gồm 200 nhân viên dân sự, từ thợ điện, thợ mộc, cho tới nữ thư kư và y tá.

    ĐỘI H̀NH ĐỔ BỘ CỦA CÁC TOÁN XÂM NHẬP


    Về điều kiện hoạt động, các toán t́nh báo và len lỏi của Kế Hoạch Delta được các trực thăng chở đi lúc trời chạng vạng để nhảy vào vùng địch, và thông thường được hai trực thăng vơ-trang hộ tống. Trên đường bay đến vùng xâm nhập, trực thăng chỉ-huy dẫn đầu đội h́nh, tiếp theo là một trực thăng đổ bộ (thả quân xuống đất), hai trực thăng thu hồi và sau cùng là hai trực thăng vơ trang xung kích. Trong khi hai trực thăng vơ trang bay ṿng vị trí xâm nhập, trực thăng đổ bộ và hai trực thăng thu hồi bay ở cao độ cao hơn. Kế đến, trực thăng đổ-bộ sẽ cho quân xuống ngay địa điểm sau khi sĩ quan trên trực thăng chỉ-huy xác định tọa độ.
    Trong rừng rậm, các toán t́nh-báo dùng thang giây để lên xuống trực thăng. Hai trực thăng phụ trách thu hồi chuẩn bị bốc quân và phi hành đoàn trong trường hợp trực thăng thả toán xâm nhập bị rớt hoặc gặp hỏa lực địch. Trong khi đó, một phi cơ thám thính bay trên vùng không phận khu vực để gọi phi cơ oanh kích khi cần. Toàn bộ đội h́nh nói trên được áp dụng trong các cuộc đổ bộ ngụy trang trước hoặc sau khi xâm nhập. Mọi biện pháp cứu nguy cũng quan trọng như xâm nhập tùy theo thời tiết và t́nh h́nh tác chiến. Đầu tiên phi cơ thám thính bay đến khu vực để xác định địa bàn đổ quân, tiếp đó là phi cơ chỉ huy xác định điểm đổ quân rồi ra lệnh cho trực thăng xâm nhập đổ quân.

    TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN VÀ HÀNH QUÂN DELTA
    Đầu năm 1966, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH phối trí lại Kế Hoạch Delta, cải danh bộ phận này thành Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Detla với sự yểm trợ trực tiếp của toán B52 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ về quân trang, quân dụng, vũ khí cũng như các phương tiện nhu cầu cho chương tŕnh huấn luyện thám sát và hành quân Delta.
    Đơn vị đặc nhiệm này có 12 toán thám sát Delta được đánh số từ 1 đến số 12, và 12 toán thám kích tiền phong, mỗi toán gồm 6 người. Thành viên của các toán Delta đều là những binh sĩ của Quân Lực VNCH. Toán trưởng là một sĩ quan cấp bậc ấn định theo bảng cấp-số là trung úy, toán phó là hạ sĩ quan và bốn toán viên thuộc hàng binh sĩ. Mười hai (12) toán Thám Kích Tiền Phong mà Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tại Việt Nam thường gọi là toán "Road Runner" như đă tŕnh bày ở phần trên, do chính Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tuyển mộ, huấn luyện và trả lương trực tiếp.
    Từ năm 1965 đến 1969, mỗi lần các toán Delta thi hành nhiệm vụ xâm nhập th́ vẫn có 2 cố vấn Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ nhảy theo toán để giúp về liên lạc không yểm. Riêng trong các toán Thám kích Tiền Phong cũng có 2 quân nhân Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ lănh nhiệm vụ chỉ huy thay v́ cố vấn như ở toán Delta.
    Về các cấp chỉ huy, từ năm 1966 đến cuối năm 1967, chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Delta là Thiếu Tá Phạm Duy Tất[*], rồi kế đến là Thiếu Tá Phan Văn Huấn giữ chức vụ này từ cuối năm 1967 đến tháng 7 năm 1970.
    [*] TÁC GIẢ GHI CHÚ: Tháng 3/1975, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất là của Biệt Động Quân tại Quân Khu 2, và cũng là người chỉ huy cuộc triệt thoái bằng đường bộ của lực lượng Quân Đoàn 2 từ Pleiku về Phú Yên.
    Theo hồi kư của cựu sĩ quan LLĐB Nguyễn Văn Khách, một trong những sĩ quan đầu tiên của Bộ Chỉ Huy Kế Hoạch Delta th́ khi mới thành lập, doanh trại của đơn vị này đặt tại Nha Trang và không có chỉ huy trưởng chính thức. Về phía Lực Lượng Đặc Biệt VNCH, sĩ quan có cấp bậc cao nhất là Thiếu Tá Huỳnh Văn Thơm, nhưng ông chỉ giữ chức vụ sĩ quan phối hợp giữa Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH và Toán LLĐB Hoa Kỳ trong trại. Ngoài Thiếu Tá Thơm có ông Nguyễn Văn Khách, lúc bấy giờ là đại úy đảm nhiệm công việc của một sĩ quan điều hành. Về phía LLĐB Hoa Kỳ tại doanh trại, sĩ quan có cấp bậc cao nhất là Đại Úy Richardson.
    Cũng theo lời của cựu sĩ quan LLĐB Nguyễn Văn Khách, trong giai đoạn đầu, Bộ Tư Lệnh Không Quân VNCH biệt phái dài hạn cho Kế Hoạch Delta hai vận-tải cơ và 4 trực thăng H-34 cùng với phi hành đoàn. Đến năm 1966, các phi cơ của Không Quân VNCH biệt phái được trả về đơn vị gốc, thay vào đó là một đại đội trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ.
    Về yểm trợ tác chiến trong các cuộc hành quân, trong giai đoạn đầu, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt VNCH đặt thuộc quyền sử dụng của Bộ Chỉ Huy Kế Hoạch Delta hai đại đội Biệt Cách Nhảy Dù để làm lực lượng ứng chiến. Hai đại đội này trong số 4 đại đội Biệt Cách Nhảy Dù của Lực Lượng Đặc Biệt được thành lập từ năm 1961 để yểm trợ cho chương tŕnh Lôi Vũ. Bốn đại đội này hoạt động độc-lập có hậu cứ tại Thủ Đức, sau được điều ra Nha Trang đồn trú tại Động Ba Th́n, kế đến được tập trung để thành lập Tiểu Đoàn 91 BCND. Đến năm 1968, như đă tŕnh bày ở phần trên, tiểu đoàn được cải danh thành Tiểu Đoàn 81 BCND, và đă cùng với Trung Tâm Huấn luyện và Hành Quân Delta tổ chức nhiều cuộc hành quân xâm nhập vào sào huyệt của Cộng quân.
    Vương Hồng Anh

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Xâm nhập bất thành của những Anh Hùng Biệt Kích Dù







    Biệt Kích DùNgười Tù Kiệt Xuất (viết về người tù Biệt kích Nguyễn Hữu Luyện)
    Phan Lạc Phúc

    Tôi đă nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà: những anh em Biệt Kích Dù, những người "từ trên trời rơi xuống," nhưng tôi cứ lần lựa măi. Lười biếng th́ chỉ có một phần. Lư do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một t́nh trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quư vẫn c̣n liên lạc được với gia đ́nh. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn c̣n có chút âm hao để mà theo dơi. Những anh em Biệt Kích Dù th́ đúng là "thượng diệt, hạ tuyệt" - không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng kư, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người ấy ở dưới tay. Không được liên lạc với ai, coi như không c̣n hiện diện trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Hoà, những anh em Biệt Kích Dù đă tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những người t́nh nguyện tham gia cuộc chiến này đă tự coi như ḿnh đă chết; nhảy xuống, t́m được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn dấu được là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết th́ "Anh tự lo liệu cho cái thân anh, không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh được".

    Những người tù "đứt dây rơi xuống này không được hưởng chút quyền lợi nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để can thiệp, v́ các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi được đăng kư hợp pháp ở một chính phủ nào. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, (thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm), nghe nói Đại Tá Lê Quang Tung, em là Thiếu Tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan t́nh báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan t́nh báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết. Nghe nói những người được tuyển chọn vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả năng đặc biệt về nghiệp vụ như t́nh báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng bằng, ẩn dấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bệnh tật, với thiên nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ c̣n phải là những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, vào lănh tụ "Sống không rời nhiệm vụ, chết không bỏ lập trường" đó là vũ khí chung của anh em Biệt Kích.

    Như mọi người đă biết, cuộc chính biến 1 tháng 11 năm 1963 đă làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hoà, anh em tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em Đại Tá Lê Quang Tung, Thiếu Tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị triệt hạ thẹo Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê Quang Tung - Lê Quang Triệu bị hạ sát, đă bị rơi vào t́nh trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện "vỡ kế hoạch" vô t́nh hay cố ư nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy bức, bị giết và bị bắt.

    Không ai biết rơ hay biết mà không ai dám nói ra, đă có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những ǵ? Bao nhiêu người sống, bao nhiêu người
    chểt Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc chơi quyết liệt và tàn nhẫn.

    Có nhiều người cho rằng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đă là viên thống soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển cả. Thời gian cũng như ḷng người, đều vô t́nh như nhau. Nào ai c̣n nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập niên 60 năm ấy, ai c̣n, ai mất?

    Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hoá, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu.Trước đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bặc Đây là một trại tù "ẩn giấu". Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là "ác ôn nợ máu" gồm thành phần An Ninh, Pḥng Nh́, Trung Ương T́nh Báo, Chiến Tranh Chính Trị, B́nh Định Nông Thôn, thành phần mà "Cách mạng" cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây th́ chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập niên 60 đă nhảy dù ra Bắc.

    Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mỗi người một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: "Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống?" Chúng tôi gật đầu đồng ư. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: "Chúng em là Biệt Kích Dù đây".

    Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết nói năng ǵ th́ một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: "Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong t́nh cảnh này, đau đớn quá".

    Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hoá, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đă trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại "Mục xương" Cao Bằng hay trại Sơn La "âm u núi khuất trong sương mù". Nếu quân "bành trướng Trung Hoa" không tấn công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, th́ có lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn c̣n quẩn quanh nơi rừng núi phía Bặc Ở đâu anh em cũng bị "cất giấu" chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi "Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với nhân dân nhiều nhất. Cũng v́ thế nên mới được gặp các anh hôm nay". Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 nặm "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại" chúng tôi đi cải tạo đă được 5 năm, đă thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này th́ thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn c̣n liên lạc được với gia đ́nh, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh c̣n được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa. Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đă lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đă có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù th́ từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người "bị bỏ quên" trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng c̣n thua xa anh em Biệt Kích Dù Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về - nhưng đó là "về với đất".

    * Khẩu lệnh biệt kích dù

    Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở cách K2 chừng một giờ đi bộ c̣n có K3 - nơi giam tù h́nh sự dữ nhất: cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đă rợn người Nhưng mà đường đến Hồi Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong th́ chưa đi đến đâu. Một người bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào. Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây số mà 2 ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái ǵ đă xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 kư quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống th́ là tai hoạ. Suối đang nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng không giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó làm ǵ có phương tiện sang sông nước đang lên cuồn cuộn Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn bà đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái cḥi vắng ven rừng. Đêm đến, những "con người thú" đă khai thác đến tận cùng thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đă muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng v́ không muốn bỏ rơi mấy đứa con nhỏ c̣n ở lại Sài G̣n, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải tạo Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc. Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành một nỗi âu lo âm ĩ trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp cọn Nhưng nếu vợ con ḿnh, thân nhân của ḿnh phải hứng chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi ḿnh th́ khốn nạn cho vợ con ḿnh quá.

    Nhưng lo th́ lo vậy, biết tính làm sao. Thân ḿnh c̣n chưa chắc là của ḿnh th́ c̣n lo cho ai được nữa. Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc, hiếp đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể. Anh em Biệt Kích Dù th́ ngược lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là "diện rộng" toả ra đi lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng trong thực tế, trại "nể" anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù v́ tác phong của họ, v́ sự trên dưới một ḷng của họ, nhưng lư do chính yếu nhất là v́ Biệt Kích Dù chính là cái "túi tiền" của ban giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu c̣n chấm mút được ǵ. Nhưng v́ ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm mưa làm gió. Tục ngữ có câu "Nhất phá sơn lâm, nh́ đâm Hà Bá". Chỉ cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này th́ không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quư thiếu ǵ, lại c̣n có quế. Quế Thanh Hoá xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông Phương. Bây giờ không c̣n bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng t́m quế cho trại trưởng Thuỳ "mồi", nhưng bên ngoài gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng th́ ít mà lấy gỗ súc đem ra Thanh Hoá bán chui th́ nhiều. Tôi được biết trại trưởng Thuỳ "mồi", phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mỗi người một số danh mộc (như lim, như sến, cán bộ vừa vừa th́ có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê nhà. Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù "thượng thừa" của trại Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan chỉ huy, Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả ḷng kính mến. Rất ít người được gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, v́ anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.

    Phản ứng trước sự mất an ninh con đường từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một "dịch vụ chuyên chở" từ huyện lỵ đến trại Thanh Phọng Lúc ấy đang có phong trào "hạch toán kinh tế". Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định Hoặc có thể dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được chấp thuận và sau đó gia đ́nh cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt chẹt về giá cả gồng gánh - quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ an toàn. Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù "diện rộng" đi "rỉ tai" khắp các vùng thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân "khẩu lệnh" của Biệt Kích Dụ Khẩu lệnh như sau: "Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân, là Biệt Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là "mất một đền mười". Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có ǵ để mất, đă nói là làm". Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đội' .

    * Gặp người chỉ huy biệt kích dù
    Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà c̣n là một đường dây giúp chúng tôi liên lạc với "thế giới bên ngoài"? Muốn "bắn" một cái thư khẩn cấp về Sài G̣n, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo chị cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trậu Chiều nào, vào khoảng ba, bốn giờ là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của đội mộc, đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đượng Biệt Kích Dù hầu như quen biết hết cán bộ coi tù . Anh em có "mánh" để giao thiệp với họ Bao giờ anh em cũng làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có cán, hay là tờ bạo Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít th́ nhiệu Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít ṿng mây buộc lại cái cổng, cái giàn hoạ Cán bộ có chức có quyền th́ như đă nói, anh em Biệt Kích Dù "đấm mơm" hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc th́ cũng gỗ súc hay đóng bàn đóng ghệ Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề, cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây - ở nhà th́ có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội chăn nuội anh em Biệt Kích Dù bao thầu hệt Tù thâm niên 20 năm có khạc Biết rơ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.

    Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá Công An Thuỳ "mồi", nhưng trên thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, đại uư Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, v́ anh không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến "ông thầy" của họ. Truyện về Đại Úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn c̣n tuyên bố: "Tôi Nguyễn Hữu Luyện, Đại Úy Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. tôi chưa thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này". - Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh nói: "Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà không cho phép tôi làm những công việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy". Anh đă bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều trại rùng rợn, dă man nổi tiếng, nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đă trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải chấp nhận. Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho "tổn" nhiều năm không có thuốc nên anh "về nước Chúa". Phần lớn các anh em Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói "anh em lănh tụ Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu chúng tôi chưa có chết. C̣n ẩn lánh đâu đó. Lănh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở vệ". Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi lạm Họ nói "được lệnh của đại uư Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa mới mất". Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều hành của trại Nguyễn Hữu Luyện trả lời: "Các anh tôn trọng đồng chí của các anh th́ chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tội Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm xuống". Sau điều đ́nh măi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hệt Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện kể về đại uư Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa buồn bạ Tự hào v́ đồng đội đă có những người kiệt xuất như vậy, buồn bă v́ nh́n lại bản thân, nh́n anh em xung quanh ḿnh thấy khá nhiều người bất xựng.

    Những năm tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, c̣n là một nơi nương tựa tinh thần.

    o0o

    Tết năm 1982. Một số lớn anh em trong trại K2 đă chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp dư của tụi tôi thiếu rất nhiều "nhân tài" nhưng vẫn phải tŕnh diễn cho anh em vui Tết. Thiếu người, thiếu tiết mục, chúng tôi nhập luôn đội múa lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ Không ngờ đội văn nghệ "què" như vậy, Tết lại phải đi "lưu diễn" trên K1 và K3. Mùng 2 chúng tôi lên K1 - đường dài 4 cây số chúng tôi đi gần hai tiếng đồng hồ, khoảng gần 9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt Kích Dù nói rằng: "Chẳng mấy khi được đón tiếp các anh bữa nay, anh em K1 chúng tôi xin hạ một con heo để đón mừng anh em văn nghệ". Tôi được biết sau này sự hậu đăi ấy là do ư kiến của đại uư Nguyễn Hữu Luyện đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ tù chúng tôi được tiếp đón long trọng và săn sóc chu đáo như vậy Theo chương tŕnh, đội văn nghệ tŕnh diễn buổi trưa, diễn xong ăn uống rồi về.

    Đang trông nom cho anh em dựng sân khấu ở hội trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: "Anh Luyện em mời anh vô trong lán uống trà". Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của tôi là được gặp người sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật và con người "huyền thoại" giống nhau, khác nhau ra sao.

    Tôi vội vàng theo người anh em Biệt Kích Dù đi vào trong lạn K1 cũng như K2, K3 lán tù thường tối và thấp. Đi qua hai ba căn nhà dài hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa bước chân vô chưa kịp định thần, tôi đă thấy một con người cao lớn, mắt sáng trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay chào đúng lễ nghi quân cách, miệng nói: "Mes respects, mon colonel!".

    Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra sao. Đi tù 5, 6 năm nay, ḿnh là giai cấp đang bị triệt tiêu, là tù nhân đứng hàng thứ bét của nấc thang xă hội, tại sao lại có người chào ḿnh trân trọng như vậy "Mes respects, mon colonel" đây là lễ nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe thấy, nh́n thấy kiểu chào này đâu. Ḿnh bây giờ, là tù khổ sai biệt xứ, đâu c̣n ǵ mà "kính chào Trung Tá".

    Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi: "Thưa anh, anh là Nguyễn Hữu Luyển" Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay xuống rồi nói tiếp: "Vâng thưa anh, tôi là Luyện", "Anh Luyện ơi, anh làm vậy tôi khó xử quá, thời buổi này, anh em ḿnh gặp nhau là quư". Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời bỏ tư thế đứng nghiêm, khẽ nói "Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm như vậy Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi". Nguyễn Hữu Luyện học khoá 4 phụ Thủ Đực Tôi học khoá 2 có ra trường trước anh vài khoá thật, nhưng 20 năm qua, nếu anh c̣n ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện chí ấy, không biết anh đă lên tới cấp nào, đâu có lẹt đẹt như tội Khoá 5 Thủ Đức đă có người lên tượng Nhưng đối với người như Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu, nhân cách mới là chính yệu Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh của đại uư Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giở.

    Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm răi nói nhỏ với tôi: "Có một " thằng ẹm vừa nhận được một cái tin rất lạ, rất mợi May là lại được gặp anh hôm nay ở đậy Được biết anh vốn là một nhà bạo Xin anh cho ư kiến về tin vừa mới nhận này". Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho một anh em nào đó đứng gần bên "Gọi Th. lên đây". Trước khi Th. tới, anh Luyện có cho tôi hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về truyền tịn Th. là một chuyên viên về địa hạt nạy Hai chục năm bị bắt nhưng Th. vẫn xử dụng được tay nghệ Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một người "phấn đấu tiến bộ" là đạt 3 Đ: xe đạp, đồng hồ và Đài rădio). Trong hàng ngũ cán bộ th́ công an vốn là một nơi an toàn mà "kiếm được". Chỉ có hàng ngũ bộ đội là phải đi chiến trường chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở những nơi đầu sóng ngọn gió nghèo mạt rệp mà thội Cán bộ Công an tương đối có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại xưa, khó xài, dễ họng V́ vậy nên chuyên viên truyền tin Th. luôn luôn có việc lạm Một lát sau, anh Th. lên gặp chúng tội Anh nói rằng: "Em sửa đài cho cán bộ quanh năm không lúc nào hết việc Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt rạo Lúc nào em cũng phải lấy cớ này, cớ kia để giữ lại bên ḿnh một cái đài "chạy được". Em giữ lại để đeo "ê-cút-tưa" vào nghe tin tức một mịnh Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai em nghe có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ được tên đang ở Việt Nam, nói chuyện với các nhà lănh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính trị Lần đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích nhảy dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng được xét đến trong dịp gặp gỡ nạy Thưa anh, vài chục năm nay nghe đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi ẹm Chúng em là những người bị bỏ quên, coi như đă chết rội Không số quân, không tên tuổi, không nơi nào nhận Chúng em là những người "đứt dây rơi xuống luôn luôn sống ở một xó rừng góc núi " trên không chằng, dưới không rệ , không c̣n liên hệ ǵ với xă hội loài ngượi Bây giờ em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến số phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ṛng rọng không biết là mơ hay thật đây". Tôi vội cầm lấy tay người thượng sĩ Biệt Kích Dù mà nói: "Đúng đấy bạn ơi, thời gian này ông tướng Vessey, đặc sứ (special envoy) của tổng thống Mỹ Reagan đang viếng thăm Hà Nội Các báo Việt Nam đều nhắc đến sự kiện nạy Tin mà bạn vừa nghe được rất đáng tin cậy". Nguyễn Hữu Luyện vội chen vào "Làm sao ḿnh tin được đài Hà Nội". Tôi nói tiếp "Đây là một sự kiện có tính cách quốc tế, truyền thông thế giới đều theo dơi sự viếng thăm của tướng Vessey, nên đài Hà Nội dù muốn dấu cũng khó lọng Vả chăng thông tin của khối Xă Hội Chủ Nghĩa xưa
    nay chỉ loan những tin nào có lợi cho họ Tin bất lợi, họ quên đi ngạy Việc tướng Vessey đến Việt Nam, ở bên trong chắc đă có một thoả thuận nào có lợi cho Hà Nội không mặt này th́ mặt kịa Ḿnh chưa biết được sự thoả thuận ấy đến đâu, chi tiết ra sao, nhưng việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ Vessey đến Hà Nội, nh́n chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt là đối với các anh, những người mà trên 20 năm nay họ cố ư hay vô t́nh quên lạng Nguyễn Hữu Luyện trầm ngâm "Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở đây đă từng rút kinh nghiệm không nên tin tưởng nhiều quá vào người Mỹ" - "Đồng ư trên nguyên tắc, nhưng trong số những người Mỹ c̣n nhớ đến đồng minh cũ, c̣n lưu ư đến số phận khốn khổ của chúng ta th́ ông Reagan này là số 1. Nếu năm ngoái cái tên Mỹ khùng nào nó bắn ông ấy chết th́ chúng ta c̣n vất vả hơn nhiệu Bây giờ đặc sứ của ông Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt Kích Dù th́ tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyệt Các bạn có thể được vệ". Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn Hữu Luyện Anh như nói một ḿnh "Được về, được về, mà về đậu"

    Lời b́nh Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm Đến giữa năm 1982, có hai lượt thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới 100 ngượi Chuyện không ai ngờ mà tợi Ông tướng Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan đă giở lại chồng hồ sơ mật đầu thập niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20
    năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài ngượi Cùng thời gian đó chương tŕnh "nước sông công tù" đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng rừng núi âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này) trở thành nông trường, lâm trường, rồi đem gia đ́nh cải tạo viên lên chỉ định cư trú ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp bỏ luộn Phần lớn anh em tù chính trị được chuyển về Nam hay đổi đi trại khạc Đến cuối năm 1982, trại Thanh Phong K2 chỉ c̣n lại trên 50 tù chính trị. C̣n lại toàn là tù "đui, què, mẻ sứt" già yếu, bịnh tật hay là thuộc loại "không tiện cho về Nam". Tôi thuộc số trên 50 người c̣n lại nạy Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại tù chính trị K2 giải thệ Những người tù c̣n lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ cùng anh em Biệt Kích Dù c̣n lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh: Trại Tân Kỳ. *

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Xâm nhập bất thành của những Anh Hùng Biệt Kích Dù
    P2



    Về trại Tân Kỳ
    Trại Tân Kỳ này là một trại "trung chuyển". Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc c̣n lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Nịnh Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù h́nh sự thứ dự Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Động Chúng tôi gọi là "Tây Đức" và "Đông Đức" v́ khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Động Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Vơ Tr. lănh tụ VNQD ở miền Trung, Quảng Ngăi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng "chính phủ trong bóng tối" và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lănh Biệt Kích Dụ Chính trong thời gian này, v́ chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ c̣n độ trên 50 ngượi V́ có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuội Riêng thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rạu Tôi xưa nay đi tù cũng có chút "chuyên môn" nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo "tay nghề": chuyên trị về phân và nước tiệu Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón nạy Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong Thănh Hoá) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng toạ nguyên giám đốc Nha Tuyên uư Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Toà án Quân sự, là giáo sư Trường Vơ Bị Quốc Gia v..v... Ở đây th́ đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu th́ 1 là biện lư, 1 là đại đức, 1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tội Sự tuyển dụng "trước sau như một" này là chấp hành đúng tinh thần "Mao-ít": "Chữ nghĩa không bằng cục phân". Tôi lại nhớ đến thái độ của đại uư Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đă trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi lạm Toán "nhà cầu" tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là công việc tạm xọng Phân, nước tiểu đă dọn sạch, chuyển cho đội rạu hà cầu đă quét tước, rắc vội Lúc bấy giờ là lo đi tắm v́ dù đă đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể ḿnh hôi hám quạ Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực hịnh Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể gầy c̣m, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suội Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tặm Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện Anh nói: "cứ ào một cái là xong". Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lư gị Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giạng Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bặng Ở miền cực bắc nước ta, cái lạnh c̣n ác liệt hơn nhiệu Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: "Cứ ào một cái là xong". Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sự Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng là ặn Ai cũng đói mờ ngượi Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tụ Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện h́nh như anh coi rất nhẹ vấn đề ặn Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nạo Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đọi H́nh như anh ở tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh đă quen đị Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có ḷng quư mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữu cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nạo Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối tự Tôi mới nói: "Chỗ anh em sao anh kỹ quá". Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: "Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đ̣i hỏi thật ịt Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi th́ lại khổ đấy anh ạ". Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận Nhận một cách hân hoạn Đó là xà bộng Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lụng Xà bông đối với anh thật là cần thiệt Như đă nói ở trên, chúng tôi dân "nhà cầu" làm việc xong, ḿnh mẩy hôi hám nên cực chẳng đă mùa rét mà phải đi tặm Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tội Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cợn Người đă cao anh lại c̣n đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khệnh Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hộng Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bỗng nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào: Ta van cát bụi trên đường Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này. Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đậy Tù đi tắm th́ cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rựa Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt th́ cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cụng Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp Màu men óng ả chói ngợi tương phản rơ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện: "Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vẩy" Nguyễn Hữu Luyện trả lời: "Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu nạy Của tên trại trưởng trại "mục xương" ở Cao Bằng tặng cho tôi đậy Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sạng Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhăn hiệu chỉ rọ Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lặm Nhất định nó bắt tôi đi lao động Tôi th́ nhất định không đị Nó liền cùm chận Cùm chán rồi đem xuống hầm tội Rồi bắt nhịn ặn Mùa lạnh nó c̣n đổ nước xuống hầm nựa Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nựa Nó ành tôi măi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn c̣n sộng Nhưng mà chết th́ thôi, tôi nhất định không đi lao động Không chịu thua chúng nó". - "Như vậy th́ tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu nảy"- "Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giạm Một bữa hắn cho gọi tôi lện Hắn nói: "Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải khổng Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này". Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế".

    * Về trại Tân Kỳ
    Trại Tân Kỳ này là một trại "trung chuyển". Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc c̣n lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Nịnh Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù h́nh sự thứ dự Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Động Chúng tôi gọi là "Tây Đức" và "Đông Đức" v́ khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Động Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Vơ Tr. lănh tụ VNQD ở miền Trung, Quảng Ngăi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng "chính phủ trong bóng tối" và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lănh Biệt Kích Dụ Chính trong thời gian này, v́ chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ c̣n độ trên 50 ngượi V́ có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuội Riêng thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rạu Tôi xưa nay đi tù cũng có chút "chuyên môn" nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo "tay nghề": chuyên trị về phân và nước tiệu Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón nạy Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong Thănh Hoá) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng toạ nguyên giám đốc Nha Tuyên uư Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Toà án Quân sự, là giáo sư Trường Vơ Bị Quốc Gia v..v... Ở đây th́ đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu th́ 1 là biện lư, 1 là đại đức, 1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tội Sự tuyển dụng "trước sau như một" này là chấp hành đúng tinh thần "Mao-ít": "Chữ nghĩa không bằng cục phân". Tôi lại nhớ đến thái độ của đại uư Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đă trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi lạm Toán "nhà cầu" tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là công việc tạm xọng Phân, nước tiểu đă dọn sạch, chuyển cho đội rạu hà cầu đă quét tước, rắc vội Lúc bấy giờ là lo đi tắm v́ dù đă đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể ḿnh hôi hám quạ Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực hịnh Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể gầy c̣m, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suội Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tặm Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện Anh nói: "cứ ào một cái là xong". Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lư gị Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giạng Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bặng Ở miền cực bắc nước ta, cái lạnh c̣n ác liệt hơn nhiệu Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: "Cứ ào một cái là xong". Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sự Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng là ặn Ai cũng đói mờ ngượi Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tụ Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện h́nh như anh coi rất nhẹ vấn đề ặn Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nạo Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đọi H́nh như anh ở tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh đă quen đị Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có ḷng quư mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữu cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nạo Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối tự Tôi mới nói: "Chỗ anh em sao anh kỹ quá". Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: "Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đ̣i hỏi thật ịt Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi th́ lại khổ đấy anh ạ". Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận Nhận một cách hân hoạn Đó là xà bộng Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lụng Xà bông đối với anh thật là cần thiệt Như đă nói ở trên, chúng tôi dân "nhà cầu" làm việc xong, ḿnh mẩy hôi hám nên cực chẳng đă mùa rét mà phải đi tặm Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tội Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cợn Người đă cao anh lại c̣n đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khệnh Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hộng Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bỗng nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào: Ta van cát bụi trên đường Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này. Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đậy Tù đi tắm th́ cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rựa Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt th́ cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cụng Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp Màu men óng ả chói ngợi tương phản rơ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện: "Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vẩy" Nguyễn Hữu Luyện trả lời: "Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu nạy Của tên trại trưởng trại "mục xương" ở Cao Bằng tặng cho tôi đậy Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sạng Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhăn hiệu chỉ rọ Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lặm Nhất định nó bắt tôi đi lao động Tôi th́ nhất định không đị Nó liền cùm chận Cùm chán rồi đem xuống hầm tội Rồi bắt nhịn ặn Mùa lạnh nó c̣n đổ nước xuống hầm nựa Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nựa Nó ành tôi măi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn c̣n sộng Nhưng mà chết th́ thôi, tôi nhất định không đi lao động Không chịu thua chúng nó". - "Như vậy th́ tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu nảy"- "Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giạm Một bữa hắn cho gọi tôi lện Hắn nói: "Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải khổng Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này". Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế".
    * Tấm h́nh nhận đêm cuối năm

    Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện là một người ít nói, ít giao thiệp Không đi làm, cả ngày tôi thường thấy anh ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền sư diện bích. Nhưng không phải anh ngồi thiền mà anh đọc sạch Một cuốn sách dày để trước mặt Anh người Công giáo, tôi tưởng anh ngày ngày đọc thánh kịnh Nhưng một hôm tôi biết là không phại Một buổi chiều anh mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ ạnh Anh hỏi về văn phạm, về cách đọc một vài chữ khọ Th́ ra cuốn sách dày anh luôn để trước mặt là một cuốn tự điển Anh Việt Bạn tôi hàng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điện Tôi mới hỏi: "Ông học Anh văn kiểu ấy th́ bao giờ cho xỏng" Luyện trả lời: "Được chữ nào hay chữ nấy mà cũng để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi". Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất khó mà tự học C̣n văn phạm c̣n cú pháp, c̣n cách đọc, cách nhận làm sao cho người ta hiệu Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi cùng dân "nhà cầu" nên ở gần nhạu Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù ŕ bàn chuyện tiếng Ạnh Ở trong trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng Anh nguyên tắc là cấm chị Nhưng dạo này ở Sài G̣n có phát hành tuần san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi là New Timẹ V́ nhu cầu đọc báo cũng như nhu cầu t́m học tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận được từ gia đ́nh gởi tới khá nhiệu Thấy sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho nhận Anh em đọc New Time với quan niệm "Nó nói ǵ, kệ cha nó - miễn là ḿnh có tài liệu học Anh văn". Nguyễn Hữu Luyện là người t́m đọc New Time kỹ nhất.

    o0o

    Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đă được gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù được tha về từ trại cũ Thanh Phong có lẽ cũng đă được trên dưới nửa năm. Đă gần tới Tết, sắp sang năm mới 1983. Anh em nhận được quà nhà gởi "đông" hơn dạo trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ Tân Kỳ nên thư từ, quà cáp tới mau hơn Thanh Phong nhiều. Tôi nhận thấy hằng ngày vào khoảng buổi chiều sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng có một vài anh em Biệt Kích Dù đến nói điều ǵ đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là "báo cáo" hằng ngày của anh em với chỉ huy trưởng. Vừa có một sự kiện đặc biệt xảy ra với anh em Biệt Kích Dù. Trên 20 năm nay, anh em Biệt Kích Dù không bao giờ nhận được thư, được quà. Anh em là những người bị bỏ quên trong xă hội loài người. Nhưng gần đến Tết năm 1983, có trên 10 gói quà gửi đến cho một số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em được về từ nửa năm trước đă họp nhau gửi quà cho những người c̣n ở lại. Trong một buổi tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, Luyện kể: Một số lớn anh em được về nhưng không c̣n liên lạc được với gia đ́nh nựa 20 năm qua gia đ́nh xiêu tán không c̣n nhận được âm hao. Có anh th́ vợ đă lấy chồng khác, đă an phận với một cuộc đời mới từ mười mấy năm qua. Ván đă đóng thuyền, người trở về không muốn gây phiền muộn cho cố nhân làm ǵ nựa Những anh em t́m lại được thân nhân, gia đ́nh phải nói là rất hiếm. V́ vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích Dù sau khi đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ họp cùng nhau, tuỳ nghề nghiệp, tuỳ hoàn cảnh mà quây quần bên nhau xây dựng một cuộc đời mới, trong một xă hội mới đầy khó khăn, thù hận. Cuộc sống mới của anh em hẳn là vất vả, gian nan, nhưng những món quà của anh em ở ngoài gửi vào cho anh em ở lại đều là những đồ gia dụng cả: gạo nếp, gạo tẻ, ḿ, trứng muối, thịt ướp, cá khô, cá hộp v.v... những thứ cần thiết cho một ngày Tết cổ truyền. Anh em được về như vậy đă không quên những người ở lại. Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một anh em Biệt Kích Dù "sẽ họp lại ăn chung". Một số anh em nhận được quà, được thư, nhưng bản thân Nguyễn Hữu Luyện th́ không. Anh là người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không tiện hỏi. Không biết gia đ́nh của anh bây giờ ra sao? Có thể bản tính anh kín đáo, hoặc là nghề nghiệp Biệt Kích, được huấn luyện về bảo mật quá kỹ nên anh không muốn nói về ḿnh; hay là những năm tù kiên giam trong hầm đá đă làm cho anh quen đi với bóng tối và im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi chợt nhớ đến chi tiết khi tôi gặp anh lần đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan, tướng Vessey can thiệp th́ các anh em Biệt Kích Dù có thể được về, Nguyễn Hữu Luyện đă âm thầm khẽ nói "Được về, được vệ mà về đâu?"

    Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ "về đâu?" của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có c̣n gia đ́nh, có c̣n người thân chờ đợi? Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc, không tin tực đâu phải người đàn bà nào cũng bền gan hoá đá vọng phu? Cái dấu hỏi sau 2 chữ "về đâu" của Nguyễn Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lư. Gần Tết năm nay, khi một số khá đông anh em Biệt Kích Dù đă có tin tức tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho t́nh trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng tư rất tế nhị, có khi thiêng liêng nữa, không nên vội vàng đề cập tới.

    Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như mọi khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm một số gói cho anh em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà gởi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số h́nh ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay lại, đưa h́nh cho chúng tôi coi. H́nh ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang đứng lạy trước bàn thờ khói hương nghi ngút. Trên bàn thờ có tấm h́nh phóng lớn của thân sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang cúi đầu trước người đă khuất. Tấm h́nh trên bàn thờ nh́n kỹ đâu phải ai xa lạ chính là h́nh Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước. Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động: "Khi tôi đi con gái đầu ḷng tôi mới có 4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đă lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng tôi đă chết". Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
    Xâm nhập bất thành của những Anh Hùng Biệt Kích Dù
    P3




    * Bạn tù Fulro
    Ở trại "Tây Đức" có 4 lán th́ 3 lán là tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán c̣n lại là tù h́nh sự Trại Tân Kỳ này, thời kỳ "phồn thịnh" chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam khá đông nên cả hai khu "Đông Đức - Tây Đức" chỉ c̣n lại chừng 500 tụ Chúng tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội "củ quả", chuyên trồng bí, trồng khoai, trồng tra, trồng mía. Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong "lư lịch trích ngang" đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá, thiếu tá v.v... nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe luôn luôn cười nhe hai hàm răng cà sát lợi Sự ngây thơ, chân thật hiện rơ trong từng dáng điệu, từng lời nọi Nghe, nh́n họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front unifié pour la liberatión des races opprimeés). Phong trào này đă phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đă gây phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nạm Sau tháng 4 đen 1975 khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận vơ trang chống đối cộng sản rất mạnh mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum-Pleiku bị bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng, tá Fulro bị bắt giữ. Chúng tôi tù nguỵ quân, nguỵ quyền, biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ vẻ "căm thù" ǵ hết. Nhiều khi anh em c̣n tiếp tế củ khoai, đẫn mía. Anh em đội rau th́ đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong t́nh cảnh "cùng một lứa bên trời lận đận".

    Nhưng một buổi tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một anh c̣n trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên "Hoàng Triều Cương Thổ". Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thượng Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất "chạy". Anh nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy nơi các ghetto ở Mỵ Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ lạ, cái thơ ngây man dă ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt . Anh có củ khoai, khúc sắn th́ anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị "tiền trao cháo múc". Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng phảng phất một nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của người da đen ở Hoa Kỵ Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữa ăn. Ăn không hết anh mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ sành nầy anh để dưới sàn, gần chỗ đầu năm. Lâu ngày mắm có mùi, anh th́ chịu được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với anh trực buộng Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của anh đi chỗ khác. Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất b́nh. Cái hũ mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống cũi. Đi làm buổi chiều về khi lán đă đóng cửa, anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không c̣n ở chỗ cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh trực buồng. Anh này chạy bay đến chỗ anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên: "Sao mày lấy của tao, I'm gonna to get you, to kill you." Tăo sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận, đẩy anh Fulro già ngă chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái kính cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú. Bỗng có một người cao lênh khênh bước tới, đó là tay thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện Không biết bằng một chiêu thức Judo hay cẩm nă thủ tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn đă bị khoá chặt Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát ra được Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng: "Đừng làm ồn". Tay Fulro hét lên: "I'ts none of your business" (không phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn nói tiếp: "Chuyện không đáng ǵ. Sáng mai chúng ta gặp nhau giải quyết". Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mănh lực ǵ mà sau đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng nguôi đi, nh́n xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng tay khoá, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói "Thôi đi nghỉ đi.".

    Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống cũi. Mối giao hảo giữa anh em tù chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại, nó tốt hơn lên, kiểu "đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em". Tay Fulro Biệt kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra "ông thầy", ở nơi thủ lănh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện ǵ để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện "accent".

    Có khi anh ta c̣n đem tới củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ. Sau khi những tấm h́nh của vợ con anh nhờ một anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữu mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện "Tại sao anh không có thư, có quà riêng của gia đỉnh" Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới nói: "Thực t́nh tôi không nghĩ là vợ con tôi c̣n đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo đi t́m hộ. Rất may là đă t́m rạ Vợ con tôi đă rời Sài G̣n, xuống Cần Thơ sinh sộng Tôi cũng đă dự pḥng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đă chết. Thôi cứ để như thế cho tiện, chết là hết, phải không ạnh Không phiền ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con tôi c̣n nghĩ đến tôi, c̣n chờ đợi tôi th́ đó là ơn riêng của Chúa đă ban cho. Nhưng tôi đă nói trước là vợ con tôi nếu c̣n đó, khi nhận được tin tôi th́ không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi là tôi phải trả lời. Làm sao mà ḿnh không thương vợ, thương con ḿnh cho được Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, ḿnh là thằng trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ không nắm ḿnh vào đâu được Bây giờ ḿnh thương vợ ḿnh, thương con ḿnh, họ đọc thư, họ biết như vậy, th́ ḿnh không sống được yên đâu anh ợi Họ không hành được ḿnh, bây giờ họ hành vợ con ḿnh để bắt ḿnh quy phục, th́ làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là v́ thế".
    * Đứng vững không lùi
    Có lẽ trại Tân Kỳ này trước đây đă xây dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại c̣n một số cây cổ thụ c̣n sót lại. Ở cuối sân "tập kết" bên "Tây Đức", trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn Du đă nói "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
    Ở đây không những người buồn, (một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây ǵ mà khẳng khiu, trơ trụi, không c̣n một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời. Xưa nay cây thường là một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây th́ ngược lại; cây đa già trơ lá trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đạ Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang ŕnh mồi, những hốc tối ṃ làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đă có hơn một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng b́nh dân gọi là "có hương". Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như ḿnh để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.

    Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm 1983. Trời dù đă cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn c̣n buốt giá. Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết, phía cây đa. Mọi người nh́n lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây đa trụi lá, vươn cổ ra ḥ hét: "Tộ cha bây. Bây hại dân hại nược Bây hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu". Cán bộ trực trại vội vàng đi lại gốc cây đa, giơ tay quát nạt "Anh kia, anh chửi ai?" - "Tao chửi bây, chưởi tộ cha tụi bây". Một công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo "cu lat" loạch xoạch "Anh kia, xuống ngay". Một phát súng nổ vang lên; mọi người giật ḿnh nhưng nh́n lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn doạ Người đứng trên cây, nh́n kỹ, cổ đă quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh đó. Người đó nói như thét: "Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt cổ". Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống. Người đứng trên cây tiếp tục chưởi bới, tiếp tục ḥ hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước sân tập kết, vội vă thổi c̣i ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kịa Anh em x́ xào "Ai đấy nhỉ" - "Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa phương quân người Huế hay Quảng B́nh, Quảng Trị" - "Đúng hắn rồi c̣n ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần".

    Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập kết trở lại vắng người, im vặng Tiếng chưởi rủa của Thiếu Tá Địa Phương quân Th. vẫn c̣n róng rả: "Tộ cha bây, bây giết con tao". Mấy tên làm việc trong trại như đội "nhà cầu" tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay "Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải đi " nghĩa vụ sang Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh mới chết; chết mà không mang được xác về. Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ nuôi con, làm ǵ có quà cáp cho chồng nựa Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại bị bệnh tâm thần ngớ ngẫn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con. Anh ta vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậy" Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, ḥ hét. Nhưng tiếng chửi bới, ḥ hét thưa dần v́ không c̣n "đối tượng". Vào khoảng 9 giờ sáng, trại trưởng Trung Tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa nói: "Anh Th., có chuyện ǵ xuống đây tôi giải quyết". - "Bắn cho tôi một phát đi, tôi không xuống". Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. H́nh như y đi t́m một người nào đọ Tôi được nghe nói là Trung Tá công an đi t́m Đại Úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Trời đă gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một ṿng dây thừng oan nghiệt. Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện ǵ với nhau không rơ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th. tháo bỏ cái ṿng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và d́u anh ta vào trong lán. Không biết người thủ lănh Biệt Kích Dù đă nói những ǵ, đă làm thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.

    o0o

    Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ nín thở theo dơi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương Quận Hậu quả đầu tiên là biên chế lại . Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán khác. Giản bớt khu "Tây Đức". Cho một số đội sang khu "Đông Đức". Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái thân quen vừa tạo lập đă mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù nhân ăn ở trong một t́nh trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.

    Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quẹn Tưởng bạn tù nào xa lạ, hoá ra toàn là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên uư Công giáo từ trại B́nh Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trụng Các bạn tù linh mục này năm ngoái tháng 4, 1982 đă từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T. Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói "Xă hội tù xoay chuyển ṿng tṛn. Ḿnh lại gặp nhau ở đây, mừng quá".

    Nhưng cái mừng của người bạn cũ không được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến xe GMC lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vă. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đă cùng tôi trải qua một thời kỳ gian khổ. Tôi nh́n thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát đă 12 năm rội Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại t́nh cờ đọc đến những ḍng này, nếu các anh được biết tin ǵ về người bạn tù khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa Phương Quân xin các anh vui ḷng cho tôi được biết. Đặc biệt về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa với anh mà tôi không giữ được tṛn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm h́nh con gái anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đă khuất lằ anh) tôi mới nói với anh rằng "Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện này". Anh nắm tay tôi mà nói: "Thôi đừng anh ạ, ḿnh xét ra cũng chỉ làm nhiệm vụ của một người lính t́nh nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy luật của nó là thế th́ ḿnh đành phải chịu, thưa anh". Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đă muốn lắm, muốn được kể chuyện người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại măi. Bây giờ tôi được biết rơ là anh đă tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại.

    Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng đă nằm im trong cát bụi lăng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên bữa nay tôi mới dám viết ít ḍng này với tư cách của một người bạn tù cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấy.

    Phan Lạc Phúc

  10. #10
    Member
    Join Date
    07-11-2011
    Posts
    613
    Bác xem lại tên tác giả "Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu"
    có lẽ là "Giáo sư Vũ Đ́nh Hiếu".

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 27-07-2012, 08:09 PM
  2. Replies: 3
    Last Post: 11-03-2012, 01:31 PM
  3. Replies: 21
    Last Post: 03-12-2011, 06:42 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 06-04-2011, 09:00 AM
  5. Replies: 1
    Last Post: 26-02-2011, 03:58 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •