Page 2 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 11 to 20 of 35

Thread: Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P11


    Trận đánh mở đầu của tên lửa phối hợp với cụm pháo cao xạ từ 24 đến 27-7-1965 là một cơ sở thực tiễn rất sinh động cho sự phát triển nghệ thuật tác chiến pḥng không trong chiến tranh. Trận đánh này để lại những kinh nghiệm quí giá, gợi mở những hướng phát triển mới trongnghệ thuật tác chiến lớn cho ta.

    Thứ nhất, việc đưa tên lửa ra chiến đấu đúng thời cơ là một quyết định đúng đắn, vừa tạo được hiệu quả chiến đấu cao vừa gây bất ngờ cho địch.

    Tháng 6-1965, địch đă đánh hơi thấy ta đang tổ chức huấn luyện bộ đội tên lửa. Nhưng theo tính toán của chúng, phải đến giữa năm 1966, tên lửa Việt Nam mới ra quân chiến đấu được. Do vậy, địch càng chủ quan và cho rằng chưa phải đối phó với tên lửa. Mặt khác,trong khi địch tập trung các thủ đoạn đối phó với không quân và cao xạ gây khó khăn lớn cho ta, th́ việc đưa tên lửa vào chiến đấu đă tạo sự thay đổi về "chất" của hệ thống hỏa lực pḥng không, tạo điều kiện thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng tiêu diệt lớn. Sự xuất hiện bất ngờ của tên lửa ngày 24-7 nằm ngoài sự tính toán của các nhà quân sự Mỹ, chẳng những đă gây hoảng sợ cho bọn giặc lái mà c̣n tác động mạnh mẽ Nhà Trắng, khiến cho Tổng thống Giôn-xơn phải cấp tốc triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia họp ngay trong đêm để xác minh và t́m cách đối phó. Trong khi chưa t́m được biện pháp đối phó, Giôn-xơn quyết định tổ chức trả đũa. Cả hai máy bay trinh sát chuẩn bị cho kế hoạch đều bị tên lửa bắn rơi, Giôn-xơn càng cay cú hơn. Chỉ sau khi trận đánh trả đũa vào hai trận địa "tên lửa cót" bị tổn thất nặng, Giôn-xơn mới chịu chấp nhận thất bại cay đắng, ra lệnh tạm dừng đánh phá các khu vực cách Hà Nội 60km và cố tránh khu vực nghi có tên lửa.

    Thứ hai, là bài học về việc chủ động t́m địch để đánh. Để chuẩn bị cho tên lửa ra quân, ta đă xây dựng 5 trận địa cơ bản ở khu vực Hà Nội. Trong thời gian này, mặc dù leo thang đánh phá miền Bắc, nhưng địch vẫn chưa đánh phá Hà Nội, c̣n thăm ḍ, c̣n để mặc cả và gây sức ép khi cần thiết. Với tư tưởng chủ động, tích cực tiến công, Quân chủng đă cho tên lửa cơ động triển khai ở các trận địa dă chiến, bí mật phục kích đánh địch ở khu vực Ba V́ , Hà Tây. Đây là một khu vực đánh địch thuận lợi trên hướng Tây Bắc - một hướng tiến công chủ yếu của không quân địch. Việc tổ chức thành công cho tên lửa cơ động, triển khai ở địa h́nh đồi núi Ba V́ là một tiền đề thực tiễn để h́nh thành chiến thuật cơ động phục kích đánh địch của bộ đội tên lửa. Đây là một chiến thuật độc đáo, sáng tạo của bộ đội tên lửa Việt Nam. Tên lửa pḥng không được thiết kế và chế tạo nhằm triển khai thành tuyến bảo vệ các yếu địa lớn, không có khái niệm "cơ động phục kích" đánh địch. Nhưng với tư tưởng chủ động, tích cực tiến công, bộ đội tên lửa Việt Nam đă vượt qua muôn vàn khó khăn để tạo lập và phát triển chiến thuật cơ động phục kích, tạo bí mật bất ngờ tiêu diệt địch. Sau trận đầu 24-7-1965, địch càng bất ngờ hơn khi thấy tên lửa xuất hiện đánh địch trên núi rừng Tây Bắc, trên những cánh rừng đại ngàn ở Tuyên Quang, Bắc Cạn, Lạng Sơn, trên tuyến đường Trường Sơn, trên tuyến lửa Vĩnh Linh. Chính những nhà thiết kế chế tạo cũng không thể ngờ được rằng với địa h́nh núi non hiểm trở như vậy, địch đánh phá ác liệt như vậy mà bộ đội tên lửa Việt Nam vẫn cơ động triển khai, vẫn bí mật trụ vững được để đánh địch. Có thể nói, chiến thuật cơ động phục kích là một sáng tạo độc đáo của bộ đội tên lửa Việt Nam, biểu hiện ư chí và trí tuệ xuất sắc của Việt Nam.

    Thứ ba, trận đầu đánh thắng là cơ sở để phát triển phương pháp chiến thuật "nhử địch" của bộ đội pḥng không Việt Nam lên đến đỉnh cao.

    Cuối tháng 3-1965, địch tập trung đợt đánh phá nhằm hủy diệt các trận địa ra-đa ở nam Khu 4. Ngay sau khi địch đánh trận địa ra-đa ở Vĩnh Linh, Quân chủng đă lệnh cho đại đội ra-đa Quảng B́nh cơ động sang vị trí mới, đồng thời cho làm ra-đa giả bằng tre ở trận địa cũ để thu hút địch đánh phá, bảo đảm an toàn cho ra-đa ở vị trí mới bí mật phát sóng. Từ thực tiễn nghi binh lừa địch thành công, chúng ta đă nâng lên thành một kế sách mới "nhử địch" đến để tiêu diệt. Đại đội ra-đa ở Rú Nài (Hà Tính) được lệnh chuyển sang vị trí mới. Tại vị trí cũ triển khai "ra-đa tre" để nhử địch. Một cụm pháo của Quân chủng và địa phương nhanh chóng h́nh thành triển khai chuẩn bị đánh địch. Ngày 26-7, khi địch tập trung đánh phá trận địa "ra-đa tre" ở Rú Nài, cụm pháo đă thực hiện trận đánh tập trung tiêu diệt lớn, 4 máy bay địch bị bắn rơi tại chỗ và bắt sống giặc lái.

    Từ thực tiễn chiến đấu và phân tích hoạt động trả đũa có tính quy luật của địch, Quân chủng chỉ đạo tổ chức "nhử địch” bằng "tên lửa cót". Trong khi tên lửa và pháo cao xạ đang cơ động triển khai, th́ Trường sĩ quan pháo cao xạ đă được lệnh sản xuất cấp tốc loại "tên lửa cót”. Biện pháp nhử địch của ta đă phát triển lên một bước mới, không chỉ nhử địch bằng trận địa giả mà c̣n sử dụng tên lửa đánh khêu ng̣i,
    tạo sự cay cú cho địch, không chỉ cho tên lửa đánh khêu ng̣i trận ngày 24-7 mà c̣n để 1 tiểu đoàn lên lửa ở lại tiếp tục đánh bồi trận ngày 26-7, làm cho địch cay cú đến tột độ.

    Sau đó, chúng ta c̣n thực hiện liên tiếp nhiều trận khêu ng̣i địch ở khu vực Đồng Giao (Ninh B́nh), Đồ Sơn (Hải Pḥng). Cơ động phục kích đánh địch ở "khu nhử địch" đă được bộ đội pḥng không Việt Nam phát triển đến đỉnh cao, đặc biệt là việc áp dụng thường xuyên trên tuyến vận tải Trường Sơn. Đó là một nét rất độc đáo trong chiến thuật pḥng không Việt Nam.

    Thứ tư, trận đánh thắng đầu tiên là cơ sở thực tiễn cho việc phát triển quy mô sư đoàn pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ của lực lượng pḥng không trong chiến tranh. Thực tiễn trận ra quân của tên lửa phối hợp với cao xạ đạt hiệu quả chiến đấu cao cho thấy, với cụm pḥng không hỗn hợp cả tên lửa và cao xạ sẽ tạo được hệ thống hỗn hợp nhiều tầng, nhiều hướng để thực hiện đánh địch ở mọi độ cao,đánh liên tục từ xa đến gần, vừa chi viện, bảo vệ lẫn nhau, vừa có điều kiện để thực hiện nhiều h́nh thức chiến thuật và biện pháp chiến đấu.

    Trên cơ sở đó, thời kỳ sau 1965, Quân chủng đă tổ chức các cụm pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ với quy mô 1-2 tiểu đoàn tên lửa và 2-3 trung đoàn cao xạ, thực hiện cơ động tác chiến đánh địch leo thang trên các hướng. Từ 1966, hàng loạt trung đoàn tên lửa ra quân. Trên cơ sở đó, chúng ta đă nhanh chóng tổ chức sư đoàn pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ với quy mô 2 - 4 trung đoàn tên lửa và 4-5 trung đoàn cao xạ bảo vệ yếu địa, bảo vệ các tuyến vận chuyển chiến lược và tham gia tác chiến chiến dịch quân binh chủng hợp thành. Sư đoàn pḥng không hỗn hợp tên lửa - cao xạ đă trở thành một binh đoàn chiến thuật - chiến dịch cơ bản của lực lượng pḥng không Việt Nam.

    Thứ năm, trận đầu ra quân của tên lửa là một biểu hiện sinh động của sự vận dụng quan điểm chiến tranh nhân dân trên mặt trận đối không.

    Trận đầu ra quân của tên lửa không phải là một trận đánh độc lập mà là một trận đánh hiệp đồng giữa tên lửa - cao xạ, giữa lực lượng pḥng không Quân chủng với lực lượng pḥng không địa phương để bảo vệ tên lửa và thực hiện phương pháp chiến thuật "nhử địch". Trận đánh đă thực sự phát huy tối đa khả năng chiến đấu của lực lượng pḥng không 3 thứ quân, tạo sức mạnh tổng hợp đạt hiệu quả chiến đấu cao. Lực lượng pḥng không Quân chủng bố trí thành cụm trung tâm, lực lượng pḥng không địa phương và dân quân tự vệ bố trí đón các đường bay thấp của địch, lúc bay vào cũng như hạ thấp độ cao thoát ra. Tên lửa đánh địch tầng cao, buộc địch phải hạ thấp độ cao bay vào đánh trận địa tên lửa, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại pháo cao xạ và súng pháo phát huy khả năng tác chiến.

    Để phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, bảo đảm cho trận đánh thắng lợi, Uỷ ban nhân dân và Sở Công an tỉnh Hà Tây đă cử đại diện bên cạnh Sở chỉ huy tiền phương của Quân chủng để huy động lực lượng công an bảo đảm an ninh địa bàn, bảo đảm an ninh trong hành quân cơ động, huy động lực lượng địa phương phục vụ cơ động triển khai, ngụy trang che giấu, tổ chức lực lượng pḥng không địa phương và dân quân phối hợp tác chiến, tổ chức lực lượng vây bắt giặc lái. Đặc biệt Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây và chính quyền địa phương đă phối hợp với Quân chủng huy động nhân dân tham gia làm trận địa dă chiến và đường cơ động trong địa bàn một cách bí mật, khẩn trương, đáp ứng yêu cầu tác chiến. Đó là một thực tiễn rất sinh động trong việc vận dụng quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng vào mặt trận đối không.

    Trận đánh mở đầu của tên lửa ngày 24-7-1965 trên vùng trời Hà Tây là điểm khởi đầu thành công, là một thực tiễn rất phong phú làm cơ sở cho sự phát triển nghệ thuật tác chiến pḥng không trong chiến tranh, nhất là đối với bộ đội tên lửa. Do vậy, ngày 24-7-1965 đă trở thành Ngày truyền thống của bộ đội tên lửa Việt Nam. Trận đánh mở đầu của tên lửa tuy đă cách đây mấy chục năm, nhưng măi măi vẫn là một mốc son chói sáng trong lịch sử chống chiến tranh phá hoại của quân dân miền Bắc. Những bài học kinh nghiệm của trận đánh sẽ c̣n được các thế hệ tiếp tục nghiên cứu khai thác ở nhiều góc độ để vận dụng trong điều kiện mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    (Nguyễn Ngọc Quư)

    Khi nhóm máy bay tham gia không kích bay đến khu vực biển Nam của Trung Quốc, mỗi phi công hô lên qua radio "tới biển rồi". Khi người cuối cùng hô lên, chỉ huy nhóm không kích thông báo lần cuối về cuộc tấn công vừa rồi "một chiếc bị mất tích - Super heat 3".

    Jim Nunn vẫn không nh́n Cal Swanson. Khi cậu ta bay đến bờ biển th́ nh́n thấy một chiếc F-8 đang bay một ḿnh. Đó là một chiếc F-8 từ một phi đội anh em của phi đội 162. Viên phi công này cũng lạc mất chỉ huy nhóm bay. Nunn nhập vào với chiếc F-8 này và họ đă khiêu khích lực lượng pḥng không của miền Bắc Việt; thế là họ phải lượn sang phải, quặt sang trái để tránh pháo pḥng không.

    Khi Swanson hạ cánh xuống tàu Oriskany th́ Nunn đă đưa máy bay vào đúng vị trí đỗ rồi. Cal hỏi ngay: "Chuyện ǵ đă xảy ra vậy?".

    Nunn nói "Tôi lượn vào khu vực mục tiêu và cắt bom. Lúc nh́n lên th́ anh đă bay đi đâu mất rồi”. Rơ ràng là Nunn cảm thấy có lỗi về việc bỏ bạn bay cùng là Swanson, v́ lo lắng cho sự mất tích của Dennison, đă vội vă đi nhanh vào pḥng chuẩn bị.

    Rick Adams nói đầu tiên: "Tôi chắc chắn rằng tôi đă nghe thấy tiếng Terry cố gắng gọi cho đồng đội nhưng họ không nghe thấy. V́ lúc đó có quá nhiều máy bay liên lạc điện đàm. Có lẽ hệ thống radio bị trục trặc và câm như đá. Anh ta đang gọi th́ phải. Chờ đă?".

    Một viên phi công khác cũng kêu lên: "A, tôi đă nghe thấy anh ấy. Chắc chắn là anh ấy đang gọi đó".

    Và một viên phi công ôm lấy mặt: "Vâng tôi cũng đă nghe thấy anh ấy gọi?".

    Thuyền trưởng Iarrobino bước vào pḥng chuẩn bị. Mọi người đứng yên và giăn ra nhường đường cho thuyền trưởng và lùi ra sau. Iarrobino tiến về phía b́nh cà phê nơi chỉ huy Bellinger đang đứng với hai bàn tay cầm chặt một cốc cà phê. Cal Swanson bước vào pḥng trước khi hai người đó có cơ hội trao đổi với nhau. Swanson nói: "Hôm nay chúng bắn ác quá. Tôi nh́n thấy 3 quả tên lửa lao về phía tôi. Và có quá nhiều tên lửa đến nỗi tôi không đếm được". Anh ta tḥ tay vào chiếc túi trên ống tay áo của bộ đồ bay và móc ra một bao thuốc hiệu Luckies. Hai bàn tay của anh ta rung rung. Bellinger nhanh nhẹn rút bật lửa từ trong túi ḿnh ra và bật lửa mời Swanson châm thuốc.

    Thuyền trưởng Iarrobino hỏi: "Phi đội của cậu mất một chiếc hả Cal?".

    "Vâng thưa thuyền trưởng. Anh ta trúng tên lửa”. Swanson vừa nói vừa cúi mặt nh́n xuống sàn nhà. "Sau một hồi tất cả máy bay đều lao xuống cắt bom và thoát ra khỏi đó càng nhanh càng tốt. Chúng tôi đă không phá sập được cây cầu đó". Giọng anh ta đanh lại: "Chúng ta đă sử dụng quá nhiều máy bay cho cuộc chơi này, có quá nhiều máy bay trên trời”.

    Bellinger cắt lời rất nhanh: "Thế vậy chúng ta nên làm ǵ?". Anh ấy nói to và mỉm cười: "Chẳng nhẽ là treo giải thưởng cho những gă phi công đó 5 triệu đô la để họ phá tan cái cây cầu quái quỉ đó hả?".

    Swanson và thuyền trưởng Iarrobino bước vào pḥng tác chiến để thực hiện cuộc phỏng vấn về những diễn biến cuộc không kích vừa qua. Rick Adams đứng bên cạnh Bellinger trước khi hai người đó bước ra khỏi cửa "Thuyền trưởng, tôi đă nghe thấy Terry gọi. Một số người khác cũng nghe thấy vậy". Anh nói.

    "Không đâu Rick ạ. Cậu ta đă bị bắn hạ rồi?" Bellinger nói và ôm lấy viên phi công trẻ này.

    Sau mấy tháng leo thang đánh phá đến vĩ tuyến 20 không đạt kết quả, giặc Mỹ mở rộng phạm vi đánh phá lên phía bắc, đánh các tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội, Lạng Sơn - Hà Nội, đường sắt Hải Pḥng - Hà Nội... nhằm cắt đứt các tuyến vận tải chiến lược của miền Bắc.

    Đường bộ số 5 từ Hà Nội đi Hải Pḥng về tuyến đường sắt chạy song song với nó dài trên 100 km là một trong những đường giao thông huyết mạch của miền Bắc. 60% khối lượng hàng hóa nhập qua cảng Hải pḥng được vận chuyển bằng tuyến đường bộ và đường sắt này lên Hà Nội, từ đó chuyển đi các địa phương và vào chiến trường đánh Mỹ.

    Ngày 5 tháng 11 năm 1965, địch huy động 15 máy bay thuộc lực lượng Hải quân, cất cánh từ tàu sân bay Oriskany đánh phá cầu Lai Vu trên đường số 5 và một số trận địa tên lửa, pháo cao xạ ở phía tây Hải Pḥng. Các lực lượng pḥng không bảo vệ cầu Lai Vu đă hiệp đồng chặt chẽ, nổ súng kịp thời và chính xác, bắn rơi tại chỗ một máy bay A 4. Tên giặc lái bị quân, dân huyện Thanh Hà (Hải Hưng) bắt sống. Cầu Lai Vu được bảo vệ nguyên vẹn.

    Ngày 9 tháng 11 , Thường vụ thành ủy Hải Pḥng họp; có đại diện Bộ Tư lệnh 350 , Bộ Tư lệnh sư đoàn pḥng không 363 tham dự, nghiên cứu rút kinh nghiệm trận đánh ngày 5 tháng 11 và phán đoán âm mưu thủ đoạn hoạt động của địch ở khu vực Hải Pḥng - đường số 5. Thường vụ Thành ủy nhận định: trong những ngày tới, địch sẽ tiếp tục đánh phá cầu Lai Vu, cầu Phú Lương. Có thể chúng sẽ chưa đánh vào trung tâm thành phố. Phân tích đường bay của địch, Hội nghị nhận thấy địch sử dụng máy bay của hải quân cất cánh từ các tàu sân bay ngoài biển Đông rà thấp theo triền sông Văn Úc, sông Thái B́nh để tránh sự phát hiện của các đài ra-đa của ta. Thường vụ Thành ủy giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh 350 và lực lượng pḥng không thuộc thành phố rút một bộ phận lực lượng bảo vệ yếu địa, tổ chức thành một cụm chiến đấu tương đối mạnh, xây dựng trận địa phục kích đón lơng đường bay của địch, quyết tâm bắn rơi từ 2 đến 4 máy bay, phối hợp với các lực lượng pḥng không bảo vệ đường số 5.

    Được Quân khu đồng ư, Bộ Tư lệnh 350 đă tập trung phần lớn các đơn vị pḥng không trực thuộc thành một cụm, gọi là cụm Thành Công, gồm 2 đại đội pháo cao xạ 37mm, 1 đại đội súng máy cao xạ 14 ly 5, 2 đội súng máy. Thiếu tá Đoàn Ngọc Cát, Chủ nhiệm cao xạ thuộc Bộ tư lệnh, được chỉ định làm chỉ huy trưởng cụm. Hỏa lực của cụm gồm 6 khẩu 37 ly, 6 khẩu 14 ly 5, 14 khẩu đại liên. Các trận địa bố trí ở hai bên bờ sông Mới, bên trái thuộc hai xă Tiên Cường, Đại Thắng (huyện Tiên Lăng), bên phải thuộc xă Giang Biên (huyện Vĩnh Bảo). Trận địa phục kích bố trí ở đây có thể cắt ngang đường bay của địch từ biển vào, tạo thế bí mật, bất ngờ đánh máy bay địch lúc chúng bay thấp dọc triền sông hoặc hất chúng lên cao, tạo điều kiện cho các đơn vị pháo cao xạ và tên lửa ở tầm trung và tầm cao tiêu diệt. Phốt hợp chiến đấu với cụm Thành Công có các tổ bắn máy bay của trung đoàn 50 bộ binh và dân quân thuộc 20 xă ven sông Văn Úc, sông Thái B́nh và ven biển các huyện Tiên Lăng, Vĩnh Bảo, An Thụy. Các tổ này chỉ được bắn máy bay khi chúng bay ra và những chiếc bay lẻ, tuyệt đối không nổ súng vào đội h́nh địch lúc chúng bay vào, nhằm bảo đảm bí mật. bất ngờ cho cụm Thành Công.

    Ngày 13 tháng 11 , sau khi vượt qua những đoạn đường trơn lầy sau các trận mưa to, các đơn vị đă chiếm lĩnh vị trí chiến đấu đúng thời gian qui định, bảo đảm bí mật, an toàn. Các chiến sĩ tranh thủ củng cố công sự. lấy phần tử bắn, tập bắt mục tiêu.

    10 giờ 45 phút ngày 17 tháng 11 năm 1965 , hai tốp máy bay địch gồm 8 chiếc bay ở cự ly khoảng 100 đến 300 mét dọc theo triền sông Văn Úc vào đánh phá đường số 5. Đường bay của địch qua khu vực trận địa phục kích của cụm Thành Công đúng như phương án tác chiến đă được chuẩn bị. Các trận địa đồng loạt nhả đạn và ngay từ loạt đầu đă bắn cháy 1 chiếc A-4.

    5 phút sau, tốp thứ hai cũng gồm 8 chiếc, theo đường bay của tốp trước qua khu vực phục kích của cụm. Một chiếc trúng đạn, rớt cách trận địa 1800 mét. Tên giặc lái nhảy dù xuống cánh đồng thôn An Bồ liền bị nhân dân bắt sống.

    Đúng 11 giờ, tốp thứ ba, cũng với đường bay và độ cao như tốp trước bay qua trận địa. Thêm một chiếc nữa trúng đạn, rơi tại chỗ. Cùng lúc, những tốp bay vào trước bị các đơn vị tên lửa, pháo cao xạ bảo vệ đường số 5 đánh trả quyết liệt, vội vă tháo chạy ra hướng biển Các trận địa lập tức quay ṇng pháo, chặn đường bay ra của chúng. Pháo đặt trên nền đất mới đắp, có chỗ bị sụt lún. Các pháo thủ ghé lưng, gồng pháo lên, kê lại chân. Trong giây phút khẩn trương, chiến sĩ Phạm Văn Ph́ dùng tay nắm ṇng khẩu súng máy cao xạ c̣n đang nóng bỏng, nhanh chóng đều chỉnh thăng bằng mặt súng, tranh thủ thời cơ diệt địch. Một chiếc A-4 trúng đạn bốc cháy, rơi xuống chân Ḥn Dáu. Tên giặc lái nhảy dù xuống băi phi lao nằm giữa địa giới hai xă Đại Hợp, Đoàn Xá.


    Trận địa trên đồi 72.

    Một phi đội cứu hộ của địch gồm máy bay đậu trên nước, máy bay trực thăng và máy bay phản lực cường kích yểm hộ từ ngoài biển bay vào ḥng cứu giặc lái. Chúng lùng sục dọc theo triền sông Văn Úc, bắn phá các băi cát ven biển và ở cửa sông thuộc các xă Đại Hợp, Đoàn Xá, Vinh Quang, nhằm ngăn chặn lực lượng bắt giặc lái của ta. Các tổ chiến đấu phối hợp với cụm Thành Công đặt trận địa dọc triền sông Văn Úc kịp thời nổ súng đánh địch. Tổ chiến đấu của nhân dân hai xă Thụy Hương, Thuận Thiên trang bị toàn súng trường đặt trận địa trên đỉnh núi Trà Phương, đón đúng ṿng lượn của một chiếc AD-6. Chiếc máy bay này trúng đạn, rơi xuống cồn cát xă Vinh Quang. Sau trận đánh, khi thu lượm mảnh xác máy bay, các chiến sĩ dân quân phát hiện, tên giặc lái bị một viên đạn súng trường xuyên qua gót chân lên ngực, chết ngay trong buồng lái. Đây là chiếc máy bay đầu tiên bị súng trường của dân quân bắn rơi trên vùng trời Hải Pḥng.

    Cuộc chiến đấu ở khu vực tên giặc lái nhảy dù diễn ra căng thẳng phức tạp. Tiểu đoàn 7 bộ binh điều ngay khẩu đội 12 ly 7 từ thôn Đại Lộc sang Quần Mục và đưa khẩu đội ĐKZ ra sát mép nước để tăng cường lực lượng đánh địch. Tốp máy bay AD-6 lồng lộn dữ dội. Chiếc cầu tre trên đường cơ động của khẩu đội 12 ly 7 bị địch bắn gẫy. Bốn chiến sĩ dân quân gái dùng vai nâng cầu cho khẩu đội vượt qua. Chị Phạm Thị Thuận, xă viên hợp tác xă Nam Hải dùng thuyền ghép thành cầu phao đưa khẩu đội ĐKZ nhanh chóng đến vị trí chiến đấu. Đại đội súng máy cao xạ thuộc trung đoàn 50 đặt trận địa trên đồi 72 (Đồ Sơn) bắn mănh liệt vào đội h́nh máy bay địch, hất chúng lên cao, bảo vệ cho các đơn vị bạn bắt giặc lái. Khi chiếc máy bay lên thẳng phát hiện được vị trí tên giặc lái bị rơi, đang hạ độ cao th́ khẩu đội ĐKZ cũng vừa ra đến cồn cát sát mép nước. Khẩu đội kịp thời nổ súng, buộc chiếc máy bay lên thẳng và toàn phi đội cứu hộ của địch phải bỏ chạy.

    Toàn bộ trận đánh diễn ra trong 30 phút. Sáu máy bay Mỹ bị diệt, trong đó cụm Thành Công bắn rơi 4 chiếc, dân quân hai xă Thụy Hương, Thuận Thiên bắn rơi 1 chiếc và tiểu đoàn 7 bộ binh (trung đoàn 50) bắn rơi 1 chiếc. Đây là một trận đánh có hiệu suất cao, do bộ đội ta nắm được quy luật hoạt động, phán đoán đúng đường bay của địch, bố trí trận địa , hỏa lực tập trung và thích hợp, chiến đấu dũng cảm, hiệp đồng chặt chẽ. Cùng với chiến công của bộ đội pháo cao xạ, tên lửa, của vũ khí tầm trung và tầm cao, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ với súng máy cao xạ và súng trường đă bắn rơi tại chỗ máy bay phản lực hiện đại. Trận đánh phi đội máy bay cứu hộ của địch diễn ra ở những phút chót thể hiện quyết tâm diệt địch đến cùng và có ư nghĩa như một trận tập dượt, mở đầu cho những chiến công bắt giặc lái sau này của quân và dân thành phố Cảng.

    Chiến thắng của cụm Thành Công ngày 17 tháng 11 năm 1965, là trận đầu ra quân thắng Mỹ tuyệt đẹp của quân, dân Hải Pḥng. Nó củng cố niềm tin đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch , mang lại nhiều kinh nghiệm quư và cổ vũ mạnh mẽ khí thế quyết đánh và quyết thắng của nhân dân và các lực lượng vũ trang thành phố Cảng.

    HỎA HOẠN TRÊN TÀU ORISKANY

    Ngày 26 tháng 10 năm 1966, khi tiếng c̣i báo cháy vang lên. Cal Swanson c̣n đang ngủ say sưa hơn cả vào buổi sáng diễn ra vụ tấn công Cổ Chai 3 tháng trước. Chiếc Oriskany phải rời bến sớm để tới San Diego, chuyến chinh chiến của nó sắp kết thúc. Cổ Chai hiện ra trong đầu Swanson là vụ tấn công tồi tệ nhất mà ông từng tham gia vụ duy nhất trong đó một phi công của hạm đội phải thiệt mạng. Butch Verich đă bị bắn rơi hồi tháng 8 nhưng đă được t́m thấy bởi 1 máy bay lên thẳng mà không có rắc rối ǵ. Ít tuần sau, vào ngày 9 tháng 10, Trung tá Bellinger hạ được 1 chiếc Mig. Đó là một trận oanh tạc kinh điển. Belly đă chiến đấu rất hay. Mọi người đều cho rằng lẽ dĩ nhiên anh đáng được phấn khởi dù sau đó anh có hành vi không hay khi đi quanh boong tàu nốc hết cốc này sang cốc khác mà điều đó theo một số thuỷ thủ đoàn đă gây khó chịu cho cấp dưới của anh ta. Rượu bị cấm trên tàu Mỹ chỉ trừ những dịp đặc biệt như sau vụ giải cứu ra khỏi lănh thổ của kẻ thù hay sau một chiến thắng quan trọng, khi đó cũng chỉ được uống một cốc rượu chiếu lệ. Rất nhiều đồ uống được đưa lên tàu nhưng được cất kín chứ chẳng ai lại phô ra như Bellinger. Đại tá Iarrobino đă bỏ qua hành vi sai trái đó của Belly và cho anh ta tới Sài G̣n để thuật lại thắng lợi của ḿnh cho phóng viên mục tin vắn hằng ngày tờ Five O'clock follies và rồi mọi người cũng được đọc báo viết về Oriskany và phi đội 162 . Chí khí của phi đội vốn đă cao lại được đẩy lên cao hơn và ai cũng cảm thấy ḿnh đóng vai tṛ quan trọng trong việc ngăn chặn miền Nam Việt Nam đến với Chủ nghĩa cộng sản.

    Khi tiếng c̣i báo cháy vang lên, Đại tá JohnIarrobino đang ngồi trên bàn giấy trong ca bin nhưng ông vẫn có thể vui mừng trước chuyến đi của Oriskany trên Yankee Station. Tất cả mọi người trên chuyến bay đă thực thí nhiệm vụ rất xuất sắc. Chưa có chiếc không hạm nào làm nhiệm vụ trên biển mà dũng cảm và quyết tâm đến thế, chưa thủy thủ đoàn của con tàu nào lại phải làm việc trong một thời gian dài dưới điều kiện khó khăn và nguy hiểm như vậy. V́ khiêm tốn, Iarrobino đă không nói rằng sự thành công của Oriskany một phần là nhờ công điều khiển con tàu của ông nhưng trên thực tế, con tàu đă lập một kỷ lục về tiếp tế quân trang mà không ai ở Yankee Station có thể vươn tới: trung b́nh 1 giờ 435.5 tấn đạn dược đă được vận chuyển từ tàu chở vũ khí USS Mt Ratmai ở ngay giữa biển. Iarrobino rất hài ḷng với phản ứng của thuỷ thủ đoàn khi ông nói rằng chiếc tàu sân bay Franklin D. Roosevelt sẽ thay thế Oriskany. Họ đă ném chiếc đinh vít đi để quay lại Nhật sửa chữa con tàu, đồng ư lại lâu hơn. Đă quá 2 tuần so với lịch tŕnh mà Oriskany chưa cập bến nên việc ghé lại Hồng Công theo dự kiến bị loại bỏ khiến mọi người rất buồn nhưng rồi họ vẫn tiếp nhận điều đó hết sức b́nh thường. Chí khí của họ vẫn c̣n cao.

    Ngoài sự thiệt mạng của các phi công dưới lưới lửa BắcViệt chỉ có 2 sự cố xảy ra trong suốt chuyến đi làm ông kém vui. Sự cố thứ nhất xảy ra vào ban đêm, dây dẫn bị đứt khi b́nh tiếp nhiên liệu được hạ xuống tàu. Một chiếc máy bay hạ cánh vướng đuôi vào một trong bốn dây cáp dăng trên sàn boong. Dây dẫn quấn vào đuôi máy bay, giật máy bay đi một đoạn rồi mới dừng. Khi tai nạn xảy ra, dây dẫn dứt, nó lướt nhanh trên boong như một lưỡi hái, xén đứt bất cứ thứ ǵ trong tầm hái của nó. Trong đêm đó, một binh nh́ và một hạ sĩ quan đă phải chịu nạn. Một phi công thuộc hạm đội 162 vừa mới từ buồng lái bước xuống đột nhiên cảm thấy có cái ǵ đó ướt và nhớp nháp giáng mạnh vào ngực. Đó là cái chân của anh hạ sĩ quan nằm trên sàn máy bay đang cố đứng dậy nhưng không hiểu sao lại không được và không nhận ra rằng cả hai chân ḿnh vừa bị cắt đứt. C̣n anh binh nh́ bị thương rất nặng.

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P12



    Đang cố t́m xem c̣n có người bị thương không th́ đội cứu nạn vấp phải hai thuỷ thủ trẻ đang ngồi tại nơi an toàn ở mép sàn máy bay cười rúc rích, mắt họ sáng một cách kỳ lạ. Phải một thời gian sau, Iarrobino và hạm đội của ông mới t́m ra nguyên nhân sự cố đối với 2 thuỷ thủ và cũng là lần đầu phát hiện việc sử dụng ma tuư trên Oriskany. Iarrobino rất giận dữ và bất b́nh trước sự việc đó. Ông thường khoan dung với người vi phạm lần đầu nhưng lần này ông trút cơn giận lên họ và sau đó công bố để mọi người biết rằng không được đưa ma tuư lên tàu. Trong giới hải quân, các hạm trưởng của tàu Mỹ hay có những luận điệu giống nhau mà cuối cùng cũng chẳng có tác dụng ǵ.

    Sự cố thứ hai không vui vẻ ǵ xảy ra 2 tuần trước vào tối ngày 12 và 13 tháng 10 khi 1 nhóm quan chức cấp cao dẫn đầu là Bộ trưởng Quốc pḥng Robert S.Mcnamara ghé thăm con tàu trên đường tới Đông Nam Á.

    Sau khi đưa họ đi một ṿng quanh tàu, Iarrobino hộ tống các quan chức vào pḥng ăn tập thể đă dọn sẵn một bữa tối đặc biệt kèm theo lễ mừng. Trung tá Bellinger sẽ được đề cử phù hiệu Bạc v́ có công hạ chiếc Mig Bắc Việt 3 ngày trước và Mc Namara sẽ gắn huy chương cho anh.

    Đại tá Iarrobino với bộ mặt cố nín cười đọc một bài diễn văn giới thiệu nhấn mạnh rằng trung tá Bellinger là một người khiêm tốn trên Oriskany. Lời b́nh phẩm làm thủy thủ đoàn cười rộ lên c̣n các vị quan chức trở nên bối rối. Sau đó Mc Namara có vài nhận xét chiếu lệ. Iarrobino cho rằng đó là v́ Mc Namara mệt và họ không gặp may. Ngài bộ trưởng trông xanh xao nhợt nhạt sau chuyến đi dài. Câu hỏi đầu tiên Mc Namara đưa ra liên quan đến b́nh quân số vụ hàng ngày của phi công thuộc Oriskany trên miền Bắc Việt Nam.

    "Hai", larrobino trả lời. McNamara đă lỗ măng hỏi tại sao đó không phải là 1,5 như chủ trương mà ông đă đề ra?

    "Bởi v́ phi công của chúng tôi quá ít mà nhiệm vụ th́ nhiều” Iarrobino đáp lại.

    Đúng ra Iarrobino có thể nói với Mc Namara rằng ông cũng phải gánh chịu việc mất đi nguồn nhân lực chủ chốt trong số binh nh́, đặc biệt là số lính thường nhỏ nhặt. Khi thời hạn nghĩa vụ trong hải quân kết thúc, thuỷ thủ được đưa xuống tàu, trừ trường hợp họ tiếp tục đăng kư nghĩa vụ và con số đó rất ít. Washington đang cố gắng thực hiện chiến tranh với cái giá rẻ mạt và thiếu đi sự nỗ lực của toàn quốc và điều đó được thể hiện rơ trong đội h́nh chiến đấu trên con tàu. Nhưng Iarrobino quyết định không đẩy vấn đề đó lên McNamara. Thay vào đó, khi ngồi cạnh ông ta trong bữa ăn, ông đă cố tỏ ra hài hước song không gây được sự chú ư của ngài Bộ trưởng. Trong lúc McNamara đọc diễn văn trước khi gắn sao cho Bellinger, Iarrobino lấy làm ngạc nhiên trước sự lúng túng của ông. Ông cầm chặt chiếc micro bằng những đốt ngón tay trắng bệch, rơ ràng đang rất bồn chồn. Có lẽ Bộ trưởng McNamara không ưa hải quân hay phi công hay không chiến mà cũng có thể là cả 3. Iarrobino không đoán biết được. Trầm trọng hơn nữa một trong những phi công của chiếc A-4, Frank Elkins đă bị bắn rơi khi nhóm quan chức lên tàu. Rút cục, đó chẳng phải là một đêm tốt lành.


    Nhưng chuyện đó đă hoàn toàn kết thúc. Vào lúc 7 giờ 21 ngày 26 tháng 10 năm 1966, khi tiếng c̣i báo cháy vang lên, thuyền trưởng John Iarrobino không những không phải lo lắng mà c̣n có thể vui là đằng khác. Vào ngày 9 tháng 10, ông đă tṛn 46 tuổi và cũng là ngày Bellinger hạ chiếc MiG, tiền đồ của ông dường như đă được đảm bảo. Việc đề cử chọn đô đốc hải quân mới sẽ được quyết định trong vài tháng tới. Việc điều khiển một tàu sân bay trong chiến đấu là một cái vé đảm bảo để có được 2 sao.

    Đại tá Iarrobino nhấc ống nghe và nhận báo cáo từ đài chỉ huy về vụ cháy. Lúc đó, nhân viên trực ban chỉ đưa ra được một thông tin duy nhất là nó xảy ra ở một băi đậu máy bay. Trung tâm pḥng chống sự cố trên tàu có một cái bảng với nhiều bóng đèn nhỏ màu vàng kết nối với điểm kiểm soát cháy trên tàu. Khi đám cháy nổ ra, 1 bóng đèn nhất định trên bảng sẽ nháy sáng. Trung b́nh mỗi ngày Oriskany báo cháy từ 1 đến 15 lần. Thường th́ đó là những vụ cháy nhỏ do chập điện và dễ dập tắt. Phản ứng chung đối với mỗi vụ báo cháy bất kể tính chất như thế nào đều như nhau. Thuỷ thủ trực ban tại trung tâm cầm ống nghe lên quay số 222 nói với đài chỉ huy, "tôi nhận được một vụ báo cháy” rồi cho biết địa điểm vụ cháy. Viên quản lư hạ neo tàu lúc đó mới đánh vào chiếc chuông báo cháy mạ crôm và giọng anh ta vang lên trong loa phóng thanh trên tàu:"Cháy, cháy, cháy. Đây không phải là một cuộc diễn tập cứu hoả. Không phải diễn tập".

    Iarrobino sẽ t́m ra vấn đề. Ông ta bỏ công việc trên bàn ra một bên và đi tới đài chỉ huy để quan sát rơ hơn toàn bộ con tàu. Khi ông đến nơi ông có thể thấy những cột khói xám xịt cuộn lên hướng về phía ông. Ông hiểu rằng đó không phải là một vụ cháy tầm thường.

    Cal Swanson đă học được cách ngủ trong tiếng ồn không ngớt của con tàu - tiếng nổ của máy phóng máy bay, tiếng quay của bánh lái, tiếng gào rít của không khí tiếng đánh chuông, tiếng thông báo trên loa – và chỉ dựa vào tiềm thức để nhận ra điều bất thường. Giọng nói của người quản lư hạ neo có ǵ đó kích động hơn b́nh thường làm Swanson choàng tỉnh. Swanson chắc rằng anh ta nghe rơ tiếng nói: "Đây là một buổi diễn tập" rồi lại "Đây không phải buổi diễn tập". Sự lẫn lộn thất thường đó báo hiệu có sự nguy hiểm thực sự. Anh ta vọt ra khỏi giường, kéo chiếc quần ka ki lên, xỏ chân không tất vào giày rồi ra khỏi pḥng.

    Lối đi phía ngoài dày đặc khói. Mùi cay nồng tựa mùi diêm cháy nhưng nặng hơn hàng trăm lần, khó chịu đến ngạt thở. Chỉ cần hít một ít khói cũng khiến người ta phải thở dốc. Swanson bắt đầu leo thang rồi ngừng lại khi trông thấy một quả cầu lửa lăn qua đầu. Anh ta nhận ra đó là một vụ cháy ma giê, loại tồi tệ nhất và đoán có lẽ bởi pháo sáng gây ra.


    Oriskany cháy!

    Swanson đă đoán đúng. Theo kế hoạch, việc hạ thủy con tàu phải được thực hiện vào đêm trước nhưng hoăn lại do điều kiện thời tiết. Thuỷ thủ đoàn đang chuẩn bị cho trận đánh đầu tiên vào buổi sáng hôm đó phải di chuyển pháo sáng ra khỏi máy bay và đưa trở lại kho chứa. Thế là tai nạn xảy ra: một quả pháo sáng bị rơi đă phát hỏa. Được đưa ra khỏi máy bay bằng dù, những quả pháo sáng dài 6 feet với đường kính 8 inch tạo ra ánh sáng sáng hơn ánh nến gấp 2 triệu lần, biến đêm thành ngày từ 2 – 3 phút.

    Không cần oxy, ma giê vẫn cháy được nên vấn đề ở đây là liệu nhân viên cứu hỏa có thể nhúng nước muối toàn bộ pháo sáng để làm dịu ma giê oxit xuống dưới điểm phát cháy được không. Trong lúc ṿi phun nước đang được gỡ ra, một tiếng nổ đă phát ra ở chốt khóa pháo sáng, kích hỏa sang 800 quả pháo sáng trong kho, một quả cầu lửa không lồ lướt đi trên toàn băi đậu máy bay khiến các nhân viên cứu hỏa phải nằm rạp xuống. Độ dày đặc của đám khói lớn nên nó bắt đầu qua vách ngăn không thấm nước của băi đậu, lan tới kho nhiên liệu và khu vực cất giữ bom.

    Thuyền trưởng Iarrobino vẫn chưa biết diễn biến sự việc. Ông nghĩ một chiếc máy bay vừa phát cháy. Tuy vậy với đám khói đó ông biết rằng chiếc công tơ con tàu có vấn đề nghiêm trọng nên ông ra lệnh cho hoa tiêu đứng cạnh người lái tàu gọi đội trưởng hoa tiêu. Người hoa tiêu nhảy tới loa phóng thanh. Để gây chú ư, anh hét tóang lên “Đội trưởng! Đội trưởng! Hăy canh chừng băi chiến trường của ḿnh”. Những đám khói lớn dâng lên cuồn cuộn phía trên sàn tàu. Iarrobino đưa ra một loạt mệnh lệnh để quay tàu sang mạn bên phải nhằm mục đích nhờ sức gió xua tan khói. Sĩ quan thừa hành của tàu tới băi đỗ máy bay để điện cho Iarrobino tŕnh bày sự việc.

    Địa thế bên trong Oriskany cũng như bất kỳ chiếc tàu sân bay nào đều hết sức phức tạp, một mớ hỗn độn gồm buồng ở, hầm, thang, pḥng chứa đồ, lối đi và các ngơ cụt. Kể cả lúc b́nh thường trên đó. Một số thuỷ thủ c̣n chẳng biết ǵ ngoài những lối đi đưa họ đến nơi làm việc ăn và nghỉ. Bây giờ khói ma giê đang được hút bằng hệ thống thông hơi của tàu làm mọi người mờ mắt, ngạt thở khi họ vấp ngă trong bóng tối liều mạng để t́m ra lối thoát.

    Cal Swanson rất tinh nhạy về phương hướng và thông thạo về ngơ ngách trên con tàu hơn cả. Nhưng mọi lối đi mà Swanson thử đều bị lửa bao vây. Một nhóm người lúc đó mà nhiều người trong số họ là các thủy thủ trẻ đă tụ lại phía sau anh. Anh là sĩ quan có cấp bậc cao nhất ở đó. Khói càng lúc càng dày. Anh sẽ phải làm ǵ đó trước khi tất cả họ phải bỏ mạng.

    Trong bóng tối lờ mờ, một sĩ quan cấp bậc trung tá ṃ mẫm về phía họ, máu tuôn ra từ vết thương trên đầu ông. Da ông cháy xém đen thui. Trông thấy nhóm người của Swanson, ông quay đầu chạy, vẻ đang hoảng hốt. Một thủy thủ nắm chặt tay để ḱm ông lại. Bàn tay thuỷ thủ đó bị bong da. "Tôi sắp chết rồi" Trung tá nói. Swanson nhẹ nhàng đưa ông vào nhóm của ḿnh.

    Một thuỷ thủ tiến về phía trước trong lối đi. Anh ta leo thang và mở nắp hầm dẫn tới sân đỗ máy bay. Một quả cầu lửa lướt qua đầu làm xém cổ anh ta. Anh ta quay lại và nói: "Thưa ngài, chỗ duy nhất chúng ta có thể đi bây giờ là đi xuống”.

    Cal cố suy nghĩ. Không thể tin nổi vào điều đang diễn ra, đột nhiên, đó là vấn đề sống c̣n chứ chẳng phải tṛ đùa. Anh nhận ra rằng đó là trạng thái của bộ năo không muốn đối mặt với thực tế, nó luôn xuất hiện khi có hiểm hoạ, do đó anh buộc phải tập trung để có thể nhớ lại mọi điều về bộ phận này của con tàu.

    Đồ tiếp tế. Mấy hôm trước, Swanson trông thấy các thuỷ thủ chuyển đồ tiếp tế xuống một căn hầm gần đó. Anh biết con tàu có 1 số ống thông bí mật rộng 6 feet vuông dẫn thẳng xuống lỗ hổng của con tàu, từ bong số 2 đến boong số 7, một chức năng trong thiết kế của con tàu. Có một chiếc thang đặt dọc một bên ống thông và những bậc thang nhỏ nhô ra ở từng nấc, ở đó có những pḥng chứa đồ dùng cất giữ đồ tiếp tế thông thường. Có phải các thuỷ thủ chuyển đồ tiếp tế xuống thông qua một ống thông? Swanson tiến lên và kiểm tra căn hầm. Cửa hầm mở ra. Đúng là nó dẫn tới ống thông.

    Anh đă quyết định. Nếu con tàu có nguy cơ bị ch́m mà anh dẫn các thuỷ thủ vào ống thông, họ có thể bị chết đuối. Nhưng nếu họ không thoát ra khỏi đám khói th́ đằng nào họ cũng chết. Swanson nh́n gương mặt 13 người đi theo anh. Sau đó anh ra lệnh trèo vào ống thông rồi bịt kín cửa hầm lại.

    Băi đỗ máy bay ngùn ngụt lửa. Ṿi phun nước treo phía trước con tàu đă cháy hết. Những cái ṿi khác được đưa từ dưới đuôi tàu lên. Đám cháy lan sang 2 chiếc máy bay lên thẳng. Một chiếc ghế ngồi bật nhảy dù của phi công trong một phi cơ đă bị nấu chảy và bắn lên trời. Đạn dược không nh́n thấy được trong khói lửa dày đặc đă bắt đầu nổ khi người ta di chuyển bom ra khỏi chiếc A-4. Sự nguy hiểm lại nảy sinh từ chỗ quân nhu đặt ở mạn phải phía trước tàu. Nhân viên chữa cháy đưa 2 ṿi phun nước từ trên sàn tàu bay xuống để tưới nước lên trên bom nhằm giữ cho chúng thoáng mát.


    "Đây không phải buổi diễn tập"

    Không cần nói th́ ai cũng hiểu Oriskany đang đấu tranh giành sự sống. Các báo cáo bắt đầu tuôn lên đài chỉ huy. Nhân viên y tế có thâm niên của tàu đă chết, cả cha tuyên uư cũng vậy. Thương vong ngày càng nhiều. Các thủy thủ bị kẹt trong pḥng nếu không được cứu sớm sẽ phải thiệt mạng. Thuyền trưởng Iarrobino đánh điện đài cho USS Constellation yêu cầu đưa tất cả các bác sĩ ở đó đến.

    Quan sát từ bệ kính tiềm vọng, thuyền trưởng Iarrobino thấy bom đang được ném sang phía bên kia. Ông nh́n như bị thôi miên. Nếu 1 quả bom nổ những quả c̣n lại sẽ bị kích nổ. Mọi việc sẽ chấm hết. Ông nh́n kỹ và nhận thấy 2 chàng thuỷ thủ nhỏ đang ráng sức nâng 1000 - có thể là 2000 pound bom- qua phía bên ḱa. 2 con người?

    Khi vụ cháy nổ ra, Jim Nunn đang mặc trang phục. Anh khoác áo đồng phục và đi ủng rồi ra khỏi pḥng. Nghe tiếng kêu cứu của 2 thuỷ thủ từ pḥng ăn, anh hét lên để họ đi theo và đưa họ tới pḥng của anh. Anh trao cho họ chiếc khăn ướt để lau mặt rồi dẫn họ tới chỗ an toàn. Anh nghe tiếng một thuỷ thủ bị kẹt tại bộ phận sâu nhất của con tàu, khoang bơm nước số 1 , nếu không có ai tới anh ta sẽ chết. Cùng với 2 người nữa t́m thấy mấy b́nh khí thợ lặn Nunn vượt qua ngăn tiếp nước để tới phần đáy tàu.

    Xuống ống thông, Cal Swanson cố gắng cầm máu cho cái đầu bị bỏng nặng của viên trung tá bằng cái khăn tay ướt anh vẫn dùng để thở. Ở từng nấc thang, 2 người thay phiên nhau để hít thở oxy. 2 thủy thủ t́m được một chiếc cờ lê nặng và đang vừa t́m đường xuống ống thông, vừa gơ xuống những cái khoá móc trên pḥng chứa đồ mở các cánh cửa để khí thải thoát ra ngoài. Những người c̣n sống sót khác nhập vào nhóm của họ. Một người trong nhóm, cũng như người đi trước anh ta bị trượt thang, bị thương và mắc kẹt giữa cái thang với vách ngăn nước ở đáy ống thông. Viên sĩ quan bị bỏng rên rỉ: "Đừng nắm tay tôi nữa".

    Thời gian qua đi, Swanson bắt đầu thấy nóng ruột v́ linh tính rằng thiếu oxy để thở. Họ phải nhanh chóng ra khỏi ống thông. Đă hơn 9 giờ sáng, gần 2 tiếng kể từ khi vụ cháy bắt đầu. Nếu không kiểm soát được đám cháy, con tàu sẽ tới hồi tận số. Một thuỷ thủ đă leo đến nấc thang cuối cùng, mở cửa hầm và trèo ra. Ít phút sau anh ta quay lại dẫn theo 2 nhân viên cứu nạn. Họ nói điều tồi tệ nhất của vụ cháy đă qua rồi. Bây giờ là lúc đưa các thuỷ thủ ra khỏi ống thông.

    "Ông phải giúp chúng tôi" Swanson nói với viên trung tá bị bỏng.

    "Được rồi, Cal, tôi sẽ giúp các bạn". - Ông ta nói.

    Viên sĩ quan đặt được một chân lên thang rồi bất tỉnh. Swanson giữ chặt ông và với ḷng kính trọng, anh nh́n vào lớp da cháy xém bị bong trên bàn tay ông. Cuối cùng họ cũng đưa được ông lên khỏi thang rồi thả ông xuống một chiếc cáng. Khi đă ở trên lối đi, họ gặp một khúc ngoặt mà phải mất mấy phút quư giá mới băng qua được. Sau đó Swanson quay lại ống thông bảo mọi người theo anh. Trong bóng tối đầy khói, anh vấp ngă nhưng vẫn dẫn mọi người tiến lên, cuối cùng anh nh́n thấy một vệt sáng lờ mờ phía trước rồi một lúc sau họ đến được chỗ an toàn có không khí khoáng đạt để thở.

    Đó là Swanson nghĩ vậy. Anh quay lại. Chẳng có ai theo anh cả. Họ đă lạc anh trong đám khói nên đă quay lại ống thông. Anh nh́n thấy hai người khiêng cáng và bắt đầu quay lại. Một thuỷ thủ đă bất tỉnh. Swanson có thể thấy rằng tất cả họ sắp gục ngă. Anh xếp họ thành một hàng người. Hai người khiêng cáng không thể vượt qua khúc ngoặt trên lối đi. Một viên đại uư phía sau Swanson đang lả đi. Swanson giữ lấy anh ta cùng lúc giúp hai người khiêng cáng. Họ đă vượt qua khúc ngoặt. Swanson đă lên tới sàn tàu lần thứ hai. Một lần nữa anh nh́n quanh chỉ để thấy rằng trừ viên đại uư mà anh đang d́u chẳng c̣n ai ở sau anh.

    Swanson quay lại lần thứ ba. Anh dẫn đoàn người đi và kéo họ về phía trước. Ở chỗ ngoặt trên lối đi, anh gặp những nhân viên cứu hộ đang ôm một xác chết.

    Anh thét lên: 'Tránh ra? Phải cứu những người c̣n bước đi được đây này”. Lần này mọi người mới đến được nơi an toàn. Lúc đó là 10 giờ sáng.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P13



    Jim Nunn và hai người đồng hành đi hết con tàu nhằm cứu người thủy thủ trẻ ở trong khoang bơm nước. Nhiều buồng đă bị ngập do nước xối từ ṿi phun của nhân viên cứu hoả. Nunn bật nắp hầm lên, hút khô nước rồi trèo xuống nấc thang tiếp theo. Pḥng công sự tuy tối nhưng Nunn vẫn nh́n thấy được một dăy 28 người c̣n nguyên quần áo trong tư thế chuẩn bị làm việc đă chết ngay trên ghế ngồi. Anh ta ngờ rằng lửa đă hút hết oxy ra ngoài trước khi họ kịp hiểu chuyện ǵ đang xảy ra. Nunn cùng hai bạn thay phiên nhau dùng cáng khiêng họ ra. Họ cho rằng nước chảy xuống trên lối đi có thể nhấn ch́m các thuỷ thủ. Nhưng chỉ 10 phút sau họ đă thấy anh chếnh choáng và buồn nôn. Họ phải để lại chiếc cáng cho nhân viên cứu hộ làm việc.

    Đám cháy được dập tắt sau 3 tiếng 7 phút. 43 phi công bị thiệt mạng. Số người bị thương c̣n nhiều hơn. Vị trung tá được Swanson cứu sau đó cũng chết, nâng tổng số người chết lên 44. Khi khói lửa đă tan đi, mọi người bắt đầu kể cho nhau nghe những câu chuyện anh hùng và việc thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Có câu chuyện về hai người bạn cùng pḥng như sau: Một người ra khỏi pḥng ngay khi nghe tiếng chuông báo cháy, người kia nói: "Chờ chút để tôi chải lại cái đầu đă”. Người nọ đă không làm như thế. Câu chuyện cũng giống thế với hai phi công khác, một người đă dừng lại để đi giày. Chuyện khiến mọi người gật gù là chuyện thoát chết khó tin của trung tá Bellinger nhờ một ô cửa sổ nhỏ bên mạn tàu với đường kính chỉ 18 inch mà người hoài nghi nhất cũng phải thừa nhận là toàn bộ không quá 20 inch. Bị kẹt trong đám cháy với lối thoát duy nhất là ô cửa sổ nhỏ, Bellinger đă cởi bỏ quần áo và vọt ra ngoài như một cái nút chai để đến nơi an toàn. Nhiều năm sau, đại tá Iarrobino c̣n phải thắc mắckhông hiểu bằng cách nào mà với bộ ngực to như cái thùng và tấm lưng rộng quá khổ, Bellinger lại có thể sống sót được. Đang cầm ṿi phun nước ở trên sàn tàu, Dick Wyman thấy Belly ở trần đang đi loanh quanh sau khi thoát chết và t́m quần áo để mặc.

    Bạn cùng pḥng với Dick Wyman - Lloyd - bác sĩ phẫu thuật của phi đội và thiếu uư Boggs, sĩ quan t́nh báo của phi đội không được may mắn như vậy. Cả hai đă chết trong đám cháy. Wyman trào lên t́nh thương đối với bạn của ḿnh. Người bác sĩ đến nói với anh rằng cuộc đời anh ta là một cuộc đấu tranh dai dẳng để qua được trường trung học và trường y rồi làm bác sĩ thực tập trên tàu. Đồng lương ít ỏi anh ta kiếm được sau đó lại ra đi khi anh ta tham gia hải quân thực hiện nghĩa vụ quân sự với tư cách là một bác sĩ phẫu thuật trên chuyến bay. Wyman biết bác sĩ có quan hệ với vợ một phi công đánh bom. Người phi công đó phải làm nhiệmvụ ở một tàu sân bay khác ở một vùng khác tại Yankee Station. Anh ta không nghĩ ḿnh được quyền đánh giá bác sĩ. Đôi khi anh ta quẳng pḥng lại cho đôi t́nh nhân khi Oriskany về đến cảng.

    Oriskany vẫn có thể hoạt động trở lại khu vực đỗ máy bay và doanh trại các sĩ quan ở phía trước là những nơi hứng chịu hầu như mọi thiệt hại. Các mạch điện đă bị ngắt, một chiếc thang máy bị hư hỏng; các máy phóng máy bay bị cong oằn đi. Cần sửa sang lại toàn bộ trước khi đưa mọi vật trở lại hoạt động. Bị bao trùm trong không khí ảm đạm con tàu thất thểu tới vịnh Subic. Tại đây thủy thủ đoàn đứng tập trung mặc niệm khi các nạn nhân của vụ cháy được chuyển vào các cỗ quan tài phủ cờ lên máy bay trở về Mỹ.



    Người ta đồn rằng lúc tai hoạ xảy đến, hai thuỷ thủ chuyển pháo sáng xuống đă ngớ ngẩn tung hứng chúng như trái bóng. Iarrobino cho rằng đó là câu chuyện được thêu dệt. Sau một cuộc điều tra nhanh chóng, ông được biết hai thuỷ thủ trẻ đă lăn pháo sáng vào cửa kho và xếp chúng lại như đống gỗ. Có lẽ bọn họ đă ném pháo sáng cho nhau, tung chúng đi một đoạn như tung gỗ, củi nên tai hoạ mới xảy ra. Nhưng có giả thiết cho rằng pháo sáng hoàn toàn an toàn, đạn dược có thể được vận chuyển hơi ẩu một tí, v́ vậy ông thấy khó xử khi biết nhân viên pháp lư bên hải quân đưa tới để điều tra sẽ đóng vai tṛ một công tố viên cố buộc thuỷ thủ đoàn phải thú nhận về sự sao nhăng đáng khiển trách để vụ cháy xảy ra của họ.

    Nhân viên pháp lư đó là một đại uư trẻ vừa thấp vừa béo lên Oriskany ở Philipines cùng với vị đô đốc phụ trách chính cuộc điều tra. Viên sĩ quan đó không phải một nhà hàng hải, một người hay chải chuốt chính điều đó làm thuỷ thủ đoàn không mảy may quư mến anh ta, lại thêm thái độ ra vẻ ta đây khiến họ càng xa lánh anh ta khi được phân pḥng, anh ta không nhận mà c̣n đ̣i pḥng khác rộng hơn mặc dù con tàu vốn đă đông đúc chật chội trước khi cháy bấy giờ lại càng ít chỗ hơn nhiều v́ nơi ở của các sĩ quan ở mặt trước đă bị cháy rụi. Các thuỷ thủ than phiền với Iarrobino rằng viên sĩ quan đó đang cố buộc họ nói điều mà anh ta muốn nghe. Iarrobino tŕnh bày lại với ngài đô đốc, một người đàn ông lịch thiệp và được ông ta nhiệt t́nh thông cảm bảo rằng ông cũng không đồng ư với chiến thuật đó của viên đại uư. Nhưng rồi chẳng có ǵ thay đổi việc điều tra vẫn tiếp diễn trong quá tŕnh đưa con tàu trở về San Diego.

    Mặc dù vậy, Đại tá Iarrobino không lo lắng. Có lẽ viên sĩ quan trẻ đang cố tạo tên tuổi cho ḿnh song anh ta chẳng nghĩ ra được điều ǵ nên Iarrobino cũng chẳng cần trả lời chính xác. Nếu anh ta muốn buộc tội, cần phải có người phân phát quân nhu giám sát việc di chuyển pháo sáng nhưng lại chẳng có ai như vậy. Việc giám sát đó lại càng tồi tệ hơn v́ trên tàu thiếu nguồn nhân lực. Vấn đề đó đang gia tăng ở mỗi đơn vị lực lượng vũ trang. Nguồn nhân lực chính của con tàu phải giám sát việc phóng chiếc phi cơ chiến đấu sẽ cất cánh lúc 7 giờ 30 sáng hôm đó.

    Ngoài ra c̣n có vấn đề: những quả pháo sáng có được cất nơi phù hợp không. Nhà kho đó phải là nơi chống lụt, không giống với kho đạn dược người ta có thể để nước chảy vào nhanh chóng nhằm không cho lửa bùng phát. Nhưng để ḥan thành nhiệm vụ, Oriskany phải mang nhiều quân nhu đến nỗi các phi công đúng là phải đi trên bom để đến máy bay c̣n việc không quy định nghiêm ngặt đối với kho cất pháo sáng đă được sự cho phép của Buships thuộc sở chỉ huy Hải quân Mỹ ở Washington.

    Mặc dù có dấu hiệu báo trước việc sắp xảy ra, thuyền trưởng Iarrobino vẫn ngạc nhiên trước kết quả điều tra do viên sĩ quan pháp lư viết và ông đô đốc kư. Về cơ bản, hai thuỷ thủ vận chuyển pháo sáng bị buộc tội theo điểm (buộc tội) 44 tội giết người, các sĩ quan ở băi đỗ máy bay và kho vũ khí sẽ bị đưa ra xét xử ở toà án quân sự, Iarrobino và sĩ quan điều hành của ông sẽ nhận được thư khiển trách. Điều làm Iarrobino ngạc nhiên là tất cả họ bị buộc tội về vụ cháy do pháo sáng trong khi chẳng có cuộc điều tra nào về pháo sáng.

    Một hội đồng hải quân ở San Diego đă viết lại biên bản điều tra với những lời buộc tội đanh chắc hơn. Iarrobino được yêu cầu phải đưa ra phản ứng trước khi có sự sắp đặt cuối cùng. Một hạm trưởng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước bất cứ việc ǵ xảy ra với con tàu của ḿnh, đó là truyền thống ngành Hải quân và Iarrobino cho rằng ông bị buộc tội do điều tra một phía bị đưa ra làm người giơ đầu chịu báng bởi một sỹ quan pháp lư c̣n trẻ không hiểu biết ǵ về chiến tranh và yêu cầu của nó. Ông quyết không để yên vụ này. Xét cho cùng, Iarrobino quen biết nhiều người trong hải quân, các sĩ quan cao cấp và họ cũng biết ông – John Iarrobino - với sự nghiệp không chê vào đâu được và sự cống hiến tận tuỵ của ông là điều miễn bàn.

    Tự thân hạm trưởng Iarrobino mở cuộc điều tra về pháo sáng mà với lư do nào đó không được chạm tới bởi viên sĩ quan trẻ hay bất kỳ người nào khác. Bạn bè tại kho chứa đạn dược hải quân ở Crane, Indiana, nơi sản xuất pháo sáng cho ông một bản phân tích bằng vi tính về sức chịu đựng của kíp nổ của pháo sáng. Bản phân tích cho thấy với thiết kế của nó 10/10000 quả pháo sáng có thể phát cháy bất kỳ lúc nào. Đó là một tỷ lệ cao đến mức đáng hổ thẹn đối với ngành quân nhu bởi pháo sáng cần được loại trừ mọi khả năng gây tai hoạ. Tuy vậy chẳng ai thay đổi bản thiết kế pháo sáng. Điều tra sâu hơn, Iarroblno phát hiện rằng ở những tàu khác trên Yankee Station pháo sáng cũng hay nổ bất th́nh ĺnh May mắn cho họ là tai hoạ chỉ xảy ra trên sàn máy bay nên có thể dập tắt dễ dàng.

    Với thông tin mới này, Iarrobino muốn có một cuộc hẹn với ngài đô đốc chỉ huy toàn bộ hàng không mẫu hạm của lực lượng hải quân ở Thái B́nh Dương. Ianobino nói: "Tôi đă làm việc cho đô đốc ba lần. ông ấy là chỉ huy Forrestal c̣n tôi lúc đó là sĩ quan phụ trách hành binh. Chúng tôi rất hiểu nhau và là bạn tốt của nhau. Tôi đă giúp ông ấy trở thành đô đốc bằng cách phục vụ hết ḿnh cho ông ấy. Vậy mà bây giờ ông từ chối không gặp tôi chỉ v́ ông cho rằng vấn đề mà tôi đang điều tra có thể gây ảnh hưởng không tốt cho ông.”

    Ngài đô đốc cử sĩ quan phụ trách quân nhu đến nói chuyện với Iarrobino. Hạm trưởng đặt lên bàn một nguyên mẫu kíp nổ pháo sáng, với cái gờ để chốt an toàn tạo nên một khoảng nhỏ vừa đủ cho các chi tiết kỹ thuật của pháo sáng. Việc chứng minh của ông đơn giản dễ hiểu ngay cả với học sinh đang đi học. Ông thả kíp nổ lên bàn. Chốt an toàn trượt khỏi gờ. Chỉ một cái rung nhẹ cũng đủ phát hoả pháo sáng với kíp nổ như thế và gây ra vụ cháy làm 44 người thiệt mạng.

    Ngày hôm sau một mệnh lệnh được truyền tới tất cả các hàng không mẫu hạm hướng dẫn họ chôn huỷ 40.000 quả pháo sáng xuống biển. Tuy nhiên ngài đô đốc vẫn không thay đổi biên bản buộc tội Iarrobino và thuỷ thủ đoàn của ông trong vụ cháy. Iarrobino nói: "Tôi có choáng váng trước cách xử lư của hải quân đối với tôi không? Có quá đi chứ. Tôi mong nhiều người hơn nữa đứng ra đấu tranh cho tôi, căn cứ vào hoàn cảnh thời chiến. Sau này họ sẽ đổi kiểu pháo sáng đồng thời chấn chỉnh thuỷ thủ đoàn trên tàu, do đó nếu bạn tới Yankee Station với một thuỷ thủ đoàn, tất cả các bạn sẽ trở về nguyên vẹn. Nhưng điều đó quá muộn đối với tôi”

    Công việc vẫn tiếp diễn. Hội đồng bầu chọn đô đốc mới họp trong lúc sắp có thư khiển trách đối với Iarrobino nên ông bị bỏ qua. Năm thành viên thuỷ thủ đoàn Oriskany bị đưa ra toà án quân sự nhưng được tha bổng. Sau cùng, Iarrobino phải nhận một lá thư cảnh cáo không trừng phạt thay cho thư khiển trách nên không bị ghi vào hồ sơ. Về lư thuyết, h́nh phạt đó không thể ảnh hưởng tới sự nghiệp một sĩ quan. Nhưng dĩ nhiên đó chỉ là lư thuyết, lúc đó Iarrobino được phân công tới Washington và bị bỏ qua đến lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng cho chức đô đốc.

    Ba chiếc hàng không mẫu hạm khác cũng bị cháy bất ngờ giữa biển. Một chiếc c̣n bị nặng hơn cả Oriskany với nhiều người thiệt mạng hơn. Nhưng cả ba hạm trưởng đều được thăng chức đô đốc. Điều đó không nằm ngoài sự để ư của hạm trưởng Iarrobino hay bất kỳ người nào khác quen với công việc của hải quân, đó là họ đều tốt nghiệp từ Học viện Hải quân Mỹ c̣n John Iarrobino th́ không.

    Ngày 19/12/1966, Cal Swanson đảm nhiệm quyền chỉ huy phi đội 162 trong một buổi lễ tổ chức ở SanDiego. Đối với Swanson, đó là giây phút mà anh hằng mong đợi kể từ lúc anh c̣n đứng trên cánh đồng thuộc trang trại của gia đ́nh quan sát chiếc DC-3 bay lần đầu giữa Denver và Cheyenne. Một chiếc máy bay bạc 2 động cơ bay qua nền trời xanh và dăy núi đầy tuyết, một h́nh ảnh Cal luôn ghi nhớ. Cả hai anh trai của anh đều là phi công trong chiến tranh thế giới thứ 2, ba chị đều lấy chồng phi công, với cái tên như Charles A Lindbergh Swanson rơ ràng anh sẽ sớm đặt ước nguyện trở thành bác sĩ thú y sang một bên để nắm lấy triển vọng tốt đẹp trở thành một phi công chiến đấu. Anh đă không phải ân hận v́ quyết định của ḿnh.

    Swanson định biến phi đội thành một đơn vị đánh bom. Đó sẽ thực sự là một điểm chiến đấu. Washington dường như đang nới lỏng các mục tiêu. Chỉ cách đó vài tuần, đô đốc Sharp đă đề nghị Washington cho phép thu hẹp phạm vi chiến đấu ở những vùng bao quanh Hà Nội và ông là người tiên phong thực hiện việc đó.

    Dĩ nhiên, sau khi các trận chiến diễn ra nhằm vào các mục tiêu quân sự gần ranh giới thành phố Hà Nội, vào ngày 13, 14 tháng 12, miền Bắc Việt Nam bắt đầu ca thán rằng máy bay Mỹ ném bom khu vực dân sự, Mỹ đang dấn thân vào chính sách diệt chủng. Swanson cho rằng phản ứng của họ là đúng. Kết cục, miền Bắc Việt Nam đang phát động cuộc chiến tranh tuyên truyền cùng với chiến tranh quân sự.

    Trên lư thuyết cả ba loại máy bay của không quân Mỹ hơn hẳn Mig17 ở vũ khí và tính năng. Chúng bay nhanh hơn âm thanh, trong khi Mig 17 bay dưới tốc độ âm thanh, dù có thể ngoặt tốt hơn. Mig 17 không có tên lửa không đối không, nên phải dựa vào can non: 2 súng23 mm và 1 súng 37mm. Hai loại này nặng hơn rất nhiều loại dùng trên máy bay Mỹ v́ được nhằm ñểø đánh chặn máy bay ném bom, và có tốc độ bắn chậm.

    Một loạt bắn 2 giây của Mig 17 chỉ có 69 viên đạn, trong khi US M-61 của F-105 có thể bắn tới 175 viên và Mark 12 của F-8 bắn 160 viên. Nhưng can non của Mig 17 có tầm rất xa, khoảng 5000 feet - và trọng lượng đạn rất nặng, khoảng 70,3 pound cho 2 giây bắn, trong khi con số đó là 38,6 và 35,2 cho F-105 và F-8. Phi công ở chiến tranh Triều Tiên cho rằng tốc độ bắn này quá chậm cho không chiến, nhưng nó lại cho phép Mig 17 có thể diệt mục tiêu bằng chỉ một khoảnh khắc may mắn. Tuy nhiên, Mig 17 chỉ có đủ đạn cho 5 giây, trong khi F-105 và F-8 có 10 giây.

    Dù có máy bay tốt hơn, không quân cho rằng kỹ năng không chiến chống lại mục tiêu nhỏ và cơ động như Mig 17 đă suy giảm đáng kể và gây lo lắng. Không lâu sau khi không chiến bắt đầu, không quân có chương tŕnh Feather Duster (Chổi quét bụi) để t́m chiến thuật hiệu quả cho F-105 và F-4 chống lại Mig 17. Họ dùng F-86, một loại tương tự Mig 17 để mô phỏng. Kết quả cho thấy máy bay Mỹ to và nặng hơn nhiều máy bay Liên Xô, có ưu thế ở tốc độ cao và độ cao thấp, trong khi Mig nhẹ và ngoặt tất ở tốc độ thấp và độ cao cao. Trừ phi F không ngoặt theo Mig, nó giữ ưu thế, c̣n khi đă ṿng tiếp cận, đặc biệt ở tốc độ thấp, ưu thế chuyển về Mig.

    Nói chung, chương tŕnh cho thấy cả hai loại Mig 17 và 21 đều có thể ngoặt tốt hơn F ở tốc độ dưới 9M, càng chậm càng lượn tốt hơn. Tính chất cơ bản của đánh quần ṿng khiến ưu thế lượn tốc độ thấp rất quan trọng. Khi máy bay lượn gấp, v́ lực trọng trường máy bay nặng hơn. Trong chiến đấu, ngoặt 6G là tiêu chuẩn, khi đó máy bay nặng gấp 6 lần khi nó bay ổn định và bằng. V́ động cơ thiết kế để bay ổn định, khi khối lượng tăng với G, máy bay không tránh được bị giảm tốc. Sức nâng của cánh là một yếu tố nữa, máy bay nặng hơn khi lượn khiến sức nâng giảm và lực đẩy tương đối giảm, nên không đủ duy tŕ tốc độ. Để duy tŕ tốc độ, máy bay phải giảm độ cao, do đó nó cứ dần xuống thấp và chậm hơn. Chương tŕnh kết luận phi công F không nên quần lượn với Mig, mà chỉ giữ tốc độ và tấn công theo kiểu bắn và chạy.

    Các phân tích giữa hè 1967 cho thấy: các lực lượng tham gia chiến dịch Sấm Rền đă có thể nh́n lại kết quả không chiến của nửa đầu năm 1967 với sự hài ḷng. Không quân Bắc Việt đă mất Mig trên trời và ở mặt đất. Chỉ tính riêng tháng 4 và 5, Không quân Bắc Việt mất 38 máy bay (số máy bay thiệt hại ở mặt đất có thể bao gồm cả máy bay giả do công binh ta đặt vào để nghi binh - BT) trong không chiến, trong khi thiệt hại của Mỹ vẫn thấp và Mig ít khi buộc được các máy bay ném bom phải bỏ vũ khí dọc đường (Khi Mig tấn công, để cho dễ cơ động tránh đạn, máy bay ném bom phải vứt bom đạn giữa đường, do đó phải quay về luôn v́ chẳng c̣n bom mà tấn công mục tiêu).

    Không quân thành công trong các chiến dịch nhờ 3 phát triển. Trước hết là việc sử dụng ECM pod (thùng treo trên cánh, có hệ thống gây nhiễu điện tử chống SAM-2 ngắm bắn ) cho F-4. Vào tháng 5, tất cả F-4 đă có ECM pod, cho phép chúng hộ tống đoàn cường kích đến mọi nơi. ECM cho phép F-4 thâm nhập vào khu vực có SAM, đội h́nh gắn chặt với cường kích; V́ Không quân Bắc Việt tránh không cho Mig đối đầu với các F-4 chuyên tuần pḥng chống Mig, F-4 sẽ có cơ hội tấn công nhiều hơn khi họ bay cùng với cường kích (Không quân ta chủ trương chỉ t́m diệt cường kích v́ nó ném bom phá hoại, và khó tự pḥng vệ. Tránh tiêm kích, v́ nó chẳng gây thiệt hại ǵ cho cơ sở vật chất, mà dây vào nó lại phiền hà).

    Thứ hai, với việc trang bị gun pod (súng không-không treo bên ngoài) cho F-4, F-4 có thể tấn công Mig ở khoảng gần, bổ sung cho tên lửa vẫn đang gặp vấn đề về hiệu quả, nhất là khi bắn vào Mig 17. Cuối cùng, việc trang bị mới bộ hỏi đáp QRC-248 (inter-rogator) trên EC121 cải thiện đáng kể khả năng phát hiện Mig và dẫn đường cho F tấn công chúng. Hải quân cũng "chơi" tốt, và tăng đáng kể hiệu quả sử dụng tên lửa với Aim- 9D.

    Phân tích vũ khí của Không quân Mỹ trong các trận không chiến giai đoạn tháng 4-6 cho thấy vấn đề tên lửa vẫn tồn tại. Trong 61 lần chạm trán, F-4 bắn 72 Aim-7, trúng 8 lần, tỷ lệ 11% thành công; và 59 Aim-9Bs, trúng 10 (17%). Thật ngạc nhiên, F-l05 bắn 11 lần Aim-9 th́ trúng 3 lần, đạt 27%, cao hơn nhiều so với F-4 (7 trúng trong 48 lần bắn, hay 14%). 10 Aim-4D đă được bắn, nhưng không trúng lần nào. Cho đến lúc đó, kết quả dùng súng cannon lại rất khích lệ. F-105 công kích 21 lần bằng súng và diệt 6 (hiệu quả 28%); F-4 công kích 9 lần bằng súng và diệt 5, đạt 55%. Thêm vào có 4 Mig bị thương do trúng đạn, đưa tỉ lệ trúng của cannon lên tới 50%. Kết quả tuyệt vời của dùng cannon bắt nguồn từ nhiều yếu tố. F-105 được sử dụng ngày càng nhiều để tuần pḥng chống Mig (Mig CAP) và rất nhiều trường hợp họ đă gặp Mig, do đó gunsight (kính ngắm của cannon) được điều chỉnh ở chế độ không đối không ( Mỹ biết là Không quân ta sẽ chọn F-105 thay v́ F-4, F-8 v́ đó là loại cường kích nặng nề, khả năng cơ động pḥng vệ và tấn công kém hơn hẳn so với Mig 17, 21, hơn nữa F- 105 mới là đối tượng phá hoại chính).


    F-105 hạ MiG-17 bằng cannon.

    Với F-4, v́ Mig cơ động chỉ để tránh tên lửa, và không nghĩ rằng bị tấn công bằng cannon. Việc cơ động tránh tên lửa này lại đưa Mig lại gần F-4 hơn, trong tầm hiệu quả của cannon (B́nh thường từ trước cho đến lúc đó F-4 không có cannon. Mig bay càng gần F-4 th́ F-4 càng không thể bắn tên lửa, do dùng tên lửa đ̣i hỏi phải có khoảng xa nhất định mới bắn được. Bay càng gần F-4 tức là phi công ta đă tự bảo vệ ḿnh).

    Mỹ biết là Không quân ta sẽ chọn F- 105 thay v́ F-4, F-8 do đó là loại cường kích năng nề, khả năng cơ động pḥng vệ và tấn công kém hơn hẳn so với Mig 17, 21, hơn nữa F- 105 mới là đối tượng phá hoại chính. Do đó họ huấn luyện và trang bị nhẹ cho một số phi đội F-105 để dụ Mig đến th́ sẽ bất ngờ dùng ưu thế số đông bố trí nhiều phi đội ṿng tṛn tạo thế thuận lợi quây Mig lại tiêu diệt. Mig bị bất ngờ, v́ nghĩ rằng F- 105 gặp Mig sẽ chạy, chứ không phản kích . Mặt khác phi công ta số giờ bay rất ít, và tŕnh độ tiếp thu các kỹ thuật c̣n hạn chế, nên dù máy bay có tính năng cơ động tốt hơn, nhưng phi công ta không tận dụng được ưu thế này, bị địch tấn công gây thiệt hại. (Kư sự Quân chủng Pḥng không - Không quân tập 2). Cuối cùng, khả năng cơ động và tŕnh độ phi công cũng là nhân tố quan trọng cho thành công của việc sử dụng súng.

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P14


    TUYÊN TRUYỀN

    Trong khi phi đội 162 vui vẻ uống sâm panh ở San Diego th́ Harrison E. Salisbury, phóng viên báo New York Times đang chuẩn bị lên máy bay ở sân bay Kenedy tới khu vực chỉ huy Cổ Chai. Salisbury sẽ viết về hậu quả các vụ đánh bom mà phi công của Oriskany có tham gia. Trong bản tường thuật gửi cho toà soạn sự việc đó sẽ được phơi bày và gây kinh ngạc trên trang nhất các tờ báo lớn trên thế giới.

    Harrison Salisbury đă nhận được lời mời tới thăm miền Bắc Việt Nam 48 tiếng sau khi máy bay Mỹ tấn công Hà Nội lần đầu. Seymour Topping biên tập viên người ngoại quốc của tờ Times, đặt bức điện hơi lộn xộn lên bàn Salisbury và hỏi: "Có phải điều này cũng là giả thiết của tôi?" Salisbury gật đầu và quyết định đề nghị Hà Nội đảm bảo lại rằng anh sẽ có visa ở Paris. Ngay sau đó anh nhận được phản hồi khẳng định. Cũng như các nhà báo khác, Salisbury đă nộp đơn xin visa nhiều tháng trước mà vẫn chưa có tin ǵ. "Đột nhiên lần này phía miền Bắc Việt Nam lại nóng ḷng muốn gặp tôi. Đồng hành với tôi tới Hà Nội qua Matxcơva là bốn phụ nữ người Mỹ đi theo lịch tŕnh với Da ve Dellinger - phóng viên tạp chí Liberation, ngoài ra, người được mời c̣n có Wilfred Burchett, nhà báo người Úc và tổ điều tra của Diễn đàn tội ác chiến tranh thế giới Bertrand Russell.

    Tới thời điểm này, nước Mỹ cộng hoà phải chờ ở miền Bắc Việt Nam cùng lời cảm thông của họ hay ở phát ngôn viên chính ở Washington và Sài G̣n về thông tin liên quan đến cuộc chiến trên không. Hầu hết các tin đó đều lấy từ Văn pḥng Công sự chung Hoa Kỳ đặt tại Sài G̣n. Tại đó, cứ vào lúc 5 giờ chiều hàng ngày, phát ngôn viên cho cuộc chiến - thường là một thiếu tá hoặc trung tá không quân - bắt đầu đứng lên bục và nhanh nhẹn chỉ ra trên bản đồ và phim đèn chiếu nơi mà máy bay Mỹ đă ném bom miền Bắc Việt Nam ngày hôm đó. Theo sau ông ta là một sĩ quan lục quân mô tả diễn biến chiến trường miền Nam Việt Nam.

    Những thông tin chi tiết về cuộc không chiến không có ǵ phải tranh căi. Các phóng viên theo dơi các hoạt động quân sự qua mô tả của người chỉ dẫn thuộc lục quân và họ sẵn sàng nếu không muốn nói là hăm hở, nghi ngờ anh ta về sự kiện thực tế và những ǵ anh ta kể khiến anh ta trở nên lúng túng. Nhưng do không có phóng viên nào được phép bay cùng phi công lúc làm nhiệm vụ trên không phận Bắc Việt nên buổi chỉ dẫn thông tin về cuộc không kích vẫn qua đi một cách suôn sẻ.

    Nếu không bị nghi ngờ, người chỉ dẫn đó có thể mô tả lại cuộc không kích theo chủ ư Lầu Năm Góc. Cầu Cổ Chai biến thànnh bộ phận của "Doanh trại quân đội Phủ Lư - Cổ Chai”, một chiếc thuyền câu thành "tàu chuyên chở hậu cần” , các mục tiêu bị tấn công với "độ chính xác như trong phẫu thuật" chứ không như những ǵ anh ta đă từng nói, "Hôm nay máy bay Mỹ t́nh cờ gặp phải hoả lực chống phi cơ hạng nặng nên phải thả bom xuống, c̣n xuống đâu chỉ có Chúa mới biết được và rồi chúng tôi ra khỏi đó nhanh hết mức có thể”. Thay vào đó anh ta lại trang nghiêm: "Hôm nay, máy bay Mỹ đánh bom mở đường tiến vào Cổ Chai. Các phóng viên sẽ theo đó mà nói: thường hay có những cảnh báo về các tuyến đường có hố bom".

    Trên thực tế, buổi chỉ dẫn về vụ không kích thật nhàm chán. Thỉnh thoảng khi có người như Trung tá Bellinger bắn hạ được một chiếc Mig hay khi có một vụ cứu hộ bất thường xảy ra, các phi công được đưa tới Sài G̣n để trực tiếp nghe nh́n làm cuộc họp sôi động lên. Nhưng thường th́ các phóng viên ngáp ngủ và trích nguyên từng chữ từ các bản sao thông báo báo chí màu xanh để viết nên các câu chuyện. Theo cánh nhà báo, áp lực không ngờ với vụ không kích bắt nguồn từ phương pháp chia nhỏ mục tiêu của Washington, từ việc cung cấp cho phóng viên những tin tức lởm khởm nhiều lần trong tuần, từ người viết đề mục cho báo chí trong nước, từ người đọc tin mở đầu trên ti vi. “Hôm nay, máy bay Mỹ mở đợt tấn công đầu tiên. . . " Theo mô tả được cường điệu hoá của Lầu Năm Góc th́ tưởng chừng như không phải Mỹ đang đánh bom một đất nước kém phát triển với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp mà là đang đánh bom Ruhr Valluy, trung tâm công nghiệp của Đức hồi chiến tranh thế giới II. Ít nhấtvề điểm này, báo cáo của Harrison Salisbury sẽ đính chính sự việc.

    Khi phóng viên tờ New York Times bắt đầu chuyến đi tới Hà Nội, cuộc tranh luận trong nội bộ chính quyền Johnson về vụ không kích đang gia tăng căng thẳng. Chiến thuật dùng bom đe doạ của McNamara nhằm làm miền Bắc Việt Nam phải nhân nhượng không thành, có dấu hiệu cho thấy McNamara và tay chân của ông đang thắc mắc về tác dụng của nó. Phải đối mặt với các nhà phê b́nh giữa một bên muốn kết thúc chiến tranh, một bên muốn mở rộng, bành trướng, Lyndon Johnson rơi vào t́nh huống phải đưa ra quyết định về vụ đánh bom tưởng như thất thường đối với người ngoài cuộc nhưng ít nhất trong con mắt của Johnson, nó cho phép ông thể hiện ḿnh là người có ư kiến ôn hoà về vấn đề đó, một vị Tổng thống bị bủa vây đă khôn ngoan chọn vị trí đứng giữa những người có lập trường cứng rắn muốn những người kém bản lĩnh sẵn sàng rút khỏi Việt Nam, làm mất đi danh dự của nước Mỹ. Đáng kinh ngạc là các phi công Mỹ không được phép đánh các mục tiêu chính đáng như căn cứ không quân Mig Phúc Yên v́ người ta nghe lỏm được Johnson nói mà ông cũng không giải thích lư do "Cũng không được tấn công cái đồ chết tiệt Phúc Yên".

    Đô đốc Grant Sharp tiến hành kín đáo nhưng không ngơi nghỉ với cuộc chiến về vấn đề đánh mục tiêu khi thấy rơ rằng Lyndon Johnson không hề có ư định thông qua đề xuất dốc toàn sức đánh trong 12 tuần của Tham mưu trưởng 15 ngày sau khi cuộc không kích bắt đầu, Sharp đổi chiến thuật nảy ra kế hoạch phá huỷ tàu phà và làm tắc nghẽn đường bộ và đường thuỷ. Đội quân của Sharp chọn ra những mục tiêu mà họ nghĩ khó đi qua. Ông ta cho rằng chia cắt các con đường sẽ tạo nên hàng loạt mục tiêu mới như các đoàn tàu thuyền có hậu thuẫn, nguyên vật liệu đang được bốc dỡ, các kho quân nhu tạm thời và các điểm dừng trên đường tàu xe chạy. Lầu Năm Góc nhắc lại nhận xét rằng ở Việt Nam chỉ có 94 mục tiêu quân sự quan trọng. Đến cuối năm 1965 số mục tiêu lên tới 236 và c̣n tăng nữa.

    Giới hạn phạm vi đánh bom được đo đạc thật sự cụ thể. Kể từ tháng 12/1966, các khu vực trong ṿng 10 dặm tính từ trung tâm Hà Nội và sau tháng 6/1967, 4 dặm tính từ trung tâm Hải Pḥng là những vùng cấm. Không được đánh vào mục tiêu nào trong những vùng này nếu không có sự phê duyệt khẩn cấp từ Washington - một điều khó xảy ra. Ngoài ra, những khu vực trong phạm vi bán kính 30 dặm của Hà Nội và 10 dặm của Hải Pḥng (trừ các vùng cấm) được đánh dấu là các khu vực thuộc quyền kiểm soát của Mỹ, tại đó có thể tiến hành các vụ tấn công. Hầu hết các mục tiêu trọng điểm trên nước này đều nằm trong 2 vùng này.

    Hơn thế nữa, Washington cũng rất quan tâm đến vấn đề thương vong đối với dân thường. Trước khi được phép đánh một mục tiêu ở Hà Nội - Hải Pḥng, ông ta được yêu cầu phải tính toán con số dân thường bị thương vong và phải có phương án giảm thiểu con số đó. Nhiều mục tiêu bị tấn công một lần sẽ không bị tấn công lần thứ 2 cho đến khi khắc phục được thiệt hại.

    Phương pháp tiến hành chiến tranh đối với nguồn cung cấp xăng dầu miền Bắc Việt Nam là dẫn chứng tốt nhất về cuộc tranh luận quanh vấn đề mục tiêu. Thật không hợp lư lắm khi cho rằng trữ lượng khí đốt và dầu lửa lại tự nhiên tăng gần đến đỉnh điểm của bất kỳ một cuộc tấn công nào đă xảy ra. Nhưng cuộc tranh luận chung quanh vấn đề tấn công các cơ sở cất giữ xăng dầu Việt Nam đă trở thành vấn đề chủ yếu trong đầu năm 1966. Những nguy cơ về chính trị, quân sự đă được bàn đi tính lại kỹ lưỡng, một số quan chức nói chỉ cần một cuộc tấn công, Nga và Trung Quốc có thể sẽ vào cuộc c̣n những người khác lại cảnh báo rằng ảnh hưởng chính trị trong nước sẽ trở nên nghiêm trọng. Cuộc tranh luận đó sẽ được phơi bày cho giới báo chí để rồi vẫn không thể hăm lại kế hoạch giải tán của miền Bắc Việt Nam .

    Rốt cục, Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara cũng đưa ra sự ủng hộ của ḿnh đối với cuộc tấn công. Tổng thống Johnson nhất trí theo ông. Sharp được ra lệnh chỉ sử dụng những phi công nhiều kinh nghiệm nhất, chọn ra mục tiêu tấn công không phải vùng đông dân cư, dùng vũ khí đánh mục tiêu với độ chính xác cao. Washington quá lo lắng nên đội quân của Sharp được hướng dẫn đánh điện từng phút để báo cáo về diễn b́ến của cuộc tấn công.

    Sau khi cuộc tấn công bắt đầu nổ ra cuối tháng 6 năm 1966 Pentagon đă phải lên tiếng phàn nàn về 70% số lượng dầu dự trữ của miền Bắc đă bị phá huỷ, vô số vụ nổ lần 2 đă xảy ra, lửa bốc cao lên tận trời, 6 tháng trước, đô đốc Sharp đă nói rằng việc phá huỷ các kho xăng hoặc sẽ mang lại các cuộc đàm phán hoà b́nh hoặc sẽ khiến sự nổi dậy ở miền Nam phải héo ṃn v́ không được hậu thuẫn. Tuy nhiên, sau một thời gian, những nỗ lực cho chiến tranh của miền Bắc Việt Nam dường như không bị giảm sút bởi cuộc tấn công đó. Xét trên mọi phương diện nó đă không thành và sự thất bại này sẽ được dùng để xem xét sự vỡ mộng của các quan chức trong nước, những người đă từng nghi ngờ về tác dụng của cuộc không kích. Tại sao họ thất bại? Có phải v́ McNamara và một số cộng sự của ông đang bắt đầu tín rằng cuộc không kích sẽ không bao giờ có thể đạt được mục tiêu và do đó mà không nên tiến thêm. Hay là v́ theo giới quân sự, việc chần chừ của Washington khi ra lệnh tấn công khiến miền Bắc Việt Nam có thêm thời gian để giải tán các nguồn cung cấp khí đốt? Chủ trương đă được vạch ra không ai dám cho rằng đó là do cả 2 nguyên nhân trên.

    Nếu Đô đốc Sharp có bẽ bàng v́ quá lạc quan với những dự đoán của ḿnh, ông vẫn không biểu hiện điều đó ông khẳng định kẻ địch đă được báo trước nên mất đi yếu tố bất ngờ. Cuối năm 1966, Sharp tiếp tục đề nghị được đánh bom. Ông chia mục tiêu miền Bắc Việt Nam làm 6 bộ phận cơ bản - bến cảng, phi trường, khu liên hiệp quân sự, mạng lưới giao thông vận tải, các nhà máy điện, các ngành hậu cần - yêu cầu Washington chấp thuận đề nghị đánh toàn diện các bộ phận chứ không chia nhỏ ra nửa, có như vậy mới có thể gây áp lực lên Hà Nội một cách hiệu quả.

    Dù quan điểm của Sharp về đánh mục tiêu có giá trị đến đâu đi nữa, sự tranh luận đó cũng nhằm che mờ một sự thực rằng cuộc không kích đó không phải được thực hiện với sự nỗ lực hết ḿnh của Lầu Năm Góc cũng như chính bản thân Sharp. Trước tiên, quân đội đưa ra quân lệnh và dựng nên hệ thống kiểm soát dị thường cả về tính phức tạp và kém năng lực của nó. Khi không quân và hải quân gặp nhau để giải quyết sự tranh luận về việc ai sẽ đánh vào mục tiêu nào ở miền Bắc Việt Nam, Tướng Westmoreland thuộc Bộ Chỉ huy quân sự ở Sài G̣n (MACV) nhảy vào và đ̣i được tham gia. MACV cho rằng các hoạt động trên không trong cuộc Tổng diễn tập lần 1 chỉ mới vượt qua đường phân định ranh giới kế cận miền Nam Việt Nam là nhằm mở rộng chiến trường trên đất liền vào miền Nam Việt Nam.Lập luận đó đă được thừa nhận, MACV được phép kiểm soát hoạt động Tổng diễn tập.

    Việc kiểm soát hoạt động của cuộc tấn công vào miền Bắc Việt Nam bị chia làm 3 hướng, lực lượng hải quân chiến đấu ở vịnh Bắc Bộ phải báo cáo lên Đô đốc Sharp ở Hawai thông qua hạm đội 7 trong khi đó không lực lại kiểm soát một kênh khác. Sau đó, sẽ lập nên hệ thống kiểm soát của riêng nó. Đó là c̣n chưa kể đến việc kiểm soát đánh bom của sứ quán Mỹ tại Lào và Campuchia. Tất cả là một tổ hợp gồm 5 hay 6 phân đội cùng các hệ thống kiểm soát riêng rẽ cần phải có sự phân bố hợp lư các lực lượng và một vị chỉ huy thống nhất th́ máy bay mới hoạt động hiệu quả được.

    Hệ thống đó đă gây ra sự căng thẳng giữa Đô đốc Sharp và Tướng Westmoreland. Westmoreland điều khiển các cuộc không kích ở miền Nam Việt Nam và liên tục vận động Lầu Năm Góc điều thêm quân và điều đó theo Sharp lại gây tổn hại đến cuộc chiến trên không ở miền Bắc Việt Nam. Ban tham mưu của Westmoreland cho rằng nên để họ chỉ huy toàn cuộc chiến. Đô đốc Sharp đă vẽ một biểu đồ phức tạp biểu thị tác dụng của hệ thống đó và thừa nhận rằng nó bị phê b́nh nhưng "thường là bởi người ta chưa hiểu nó hoặc đôi khi do họ có cái nh́n thiển cận". Sharp và Westomoreland lại quá nhạy cảm về chính trị nên không thể phơi bày sự tranh giành đó trước công chúng. Họ đă tỏ ra hết sức cố gắng để kiềm chế những mâu thuẫn cơ bản về chiến tranh, về chiến lược "t́m diệt" ở miền Nam và tấn công mục tiêu ở miền Bắc. Ngay cả những nhà lănh đạo cao cấp bên dân sự cũng chẳng hay biết về bộ máy của cuộc không kích. Năm 1972, Richard Nixon đă lịch thiệp hỏi han vị chỉ huy không lực mớí được bổ nhiệm ở Sài G̣n - Tướng John Vogt - xem ông c̣n yêu cầu ǵ không. Vogt đă làm Nixon kinh ngạc khi yêu cầu đơn giản hoá bộ máy chỉ huy và kiểm soát nhằm thống nhất đặt toàn quân dưới bàn tay của một vị chỉ huy duy nhất. Nixon cho rằng ông ta muốn nắm quyền chỉ huy toàn bộ cuộc chiến và ông dă mô tả lại cuộc gặp mặt theo lối này trong bản nháp đầu tiên của cuốn hồi kư được viết sau khi ông rời Nhà Trắng. Một trợ lư hoài nghi tiếp cận với Vogt và với sự phản đối của vị tướng,sự kiện đó đă bị xoá khỏi cuốn sách của Nixon.

    Hàng ngày vẫn xảy ra sự tranh đua giữa không lực với hải quân đôi khi dẫn tới việc sử dụng nhầm lẫn lực lượng cũng như trang thiết bị và nếu không muốn nói toạc ra là điều đó làm gia tăng lời cáo buộc về những tổn thất trong cuộc không kích. Một biểu hiện của sự tranh đua đó là ở số lần xuất kích - một lần xuất kích là một chiếc máy bay bay đi rồi bay về. Điều đó cho thấy mỗi quân chủng đă nỗ lực ra sao để giành thắng lợi trong chiến tranh.

    Tháng 8 năm 1967, Hội đồng Nghị sĩ về "Sự sẵn sàng của Quốc pḥng" đă tổ chức đối chất về cuộc chiến, trong đó Tướng William W. Momyer cựu tư lệnh Lực lượng Không quân số 7 (phụ trách các hoạt động trên lănh thổ Bắc Việt) b́nh luận về thành công trong mùa hè: "Chúng ta đă đuổi Mig khỏi bầu trời... ". Thật không may, giống như phần lớn các dự đoán của các tướng lĩnh Mỹ về cục diện chiến tranh Việt Nam đă sai. Lời b́nh luận sai v́:

    - QRC-248 Vẫn chưa được sử dụng hiệu quả nhất.

    - Hiệu quả sử dụng tên lửa nói chung vẫn tồi, và không có dấu hiệu cải thiện.

    - Aim-4D dùng riêng cho F-4D đặc biệt không hiệu dụng, trong khi đó là tên lửa t́m nhiệt duy nhất F-4D có thể sử dụng dẫn đến khả năng của F-4 mới không tăng nhiều.

    Mig 21 đă chứng tỏ rơ ràng ưu việt hơn F-105. Nửa đầu 1967, Mỹ có những phi công F-4 kinh nghiệm tốt nhất và lănh đạo tuyệt vời, trong khi Mig chỉ có phi công thiếu kinh nghiệm sử dụng chiến thuật kém cỏi. Vào tháng 8, do chính sách thay đổi đă có tác động tới không quân.

    - Phi công huấn luyện kém hơn so với trước. Do thời gian phục vụ ngắn (quay ṿng sau 100 phi vụ hoặc 1 năm phục vụ ở Việt Nam) nên phi công kém hiểu và gắn kết với nhau trong chiến đấu.

    - Nguồn phi công cạn kiệt.

    Thống kê vào tháng 6/1966, trung b́nh phi công tại Đông Nam Á bay 500 giờ chiến đấu. Tháng 6/1968 giảm xuống c̣n 240 giờ.

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P15


    Hầu như tất cả phi công tốt nghiệp trường bay đều ngồi sau ở F-4, vị trí mà kỹ năng của phi công không có ư nghĩa. Phi công thực sự (F-105 và phi công ngồi trước F-4) vốn được coi là có kỹ năng chiến thuật chỉ chiếm 30% giữa năm 1967 so với 65% trước đó.

    Các tàu sân bay tiến hành hai loại chiến dịch chính :
    - Chu kỳ: cứ mỗi 1,5 tiếng dùng khoảng 1/2 số máy bay (từ 25 - 40); hoặc là 8 chu kỳ trong ṿng 12 giờ. Tối đa 20 máy bay cho một mục tiêu (chủ yếu là mạng vận tải).

    - Alpha: khi cần tấn công tối đa. Toàn bộ máy bay của một tàu được tổ chức thành một lực lượng tấn công một mục tiêu chỉ định. Cần có phối hợp với các tàu và sân bay khác ở Thái Lan.

    Một sĩ quan liên lạc ghi nhận: Trong một trận tấn công trong ngày, trong ṿng 20 dặm hoặc ít hơn từ bờ biển Bắc Việt, lực lượng 8 máy bay tấn công (A-4 hoặc A6) + CAP (4 đến 6 F-4 + 2 đến 4 F-8 trang bị Aim-9b), 4 đến 6 A- 1 hoặc A-4 trấn áp cao xạ, hai máy bay tiếp dầu và tối thiểu 2 máy bay mang ECM. Đa phần chỉ A-4 và A6 ném bom.

    Giữa 1966, hải quân báo cáo thiếu phi công trầm trọng, có phi công phải bay 2 chuyến trong ṿng 12 giờ.

    Đầu năm 1966 khi thiếu bom, cả không quân và hải quân đều cho mỗi chuyến bay chỉ mang đi từ 1-2 quả bom nhằm giữ tỉ lệ số lần xuất kích cao và ngăn đối phương dẫn đầu trong tṛ chơi thống kê học. V́ luôn có áp lực để thể hiện kết quả về số mục tiêu bị tấn công cho nên nếu ai mà theo dơi bản tổng kết của Sài G̣n có thể cho rằng, số xe tải b́nh quân đầu người của miền Bắc Việt Nam lớn hơn bất kỳ nước nào trên thế giới.

    Chủ yếu sự vụ hàng ngày của không quân là tấn công Alpha vào Route Package V (khu vực được chia theo cách chia trên bản đồ miền Bắc của quân đội M&#7929..., khi thời tiết cho phép. Không quân tiếp tục nhận thùng ECM, đủ cho máy bay ném bom và hộ tống, vào giữa năm 1967.

    V́ đội h́nh 4 máy bay mang ECM rất hiệu quả, F-105 bắt đầu bay theo đội h́nh 4 hoặc 5 phi đội 4 chiếc, bay gần nhau để tăng tối đa hiệu quả che giấu của ECM. Đội h́nh có thể tiến vào Bắc Việt ở độ cao trên 10.000 feets, an toàn khỏi cao xạ (85% mất mát do cao xạ là ở dưới 6.000 feets). Tất cả máy bay cùng lao xuống bom một lúc, khiến cao xạ phải lựa chọn giữa hàng loạt mục tiêu. Hơn nữa, Phi đội F-105 đầu tiên bao giờ cũng mang bom chế áp cao xạ bằng bom.

    Các phi đội Iron hand và Mig Cap cũng hưởng lợi. Iron hand F-105 đến trước một vài phút, kiểm tra khí tượng và chế áp SAM, ở lại cho đến khi lực lượng ném bom cuối cùng rút đi. So với đội h́nh trải dài, đội h́nh lớn với các phi đội bay sít nhau tiến vào và thoát ly khu chiến rất nhanh, giảm thời gian Iron hand F-105 phải chờ.

    F-4 Mig Cap do bay gần F-105 nên cũng được chia sẻ độ bao phủ của ECM, và có ưu thế so với Mig 21 ở độ cao dưới 15,000 feets mà phi đội ném bom sử dụng.

    Chỉ cần 2 phi đội F-4, một ở sau biên đội ném bom dẫn đầu đội h́nh, và một ở sau biên đội đi cuối đội h́nh F-4 có thể bảo vệ toàn bộ lực lượng.

    Một sĩ quan nói: "Bây giờ F-4 sẽ bay chung với lực lượng ném bom 28-32 máy bay, tốc độ 520 - 560 knots cao độ 13-17,000 feets, ném bom một tới 3 mục tiêu trong khu vực cận kề trong 1 phút, rồi rút đi với tốc độ 600 knots ra khỏi vùng nguy hiểm.

    Nhưng hải quân coi đây là chiến thuật kém linh hoạt. Không quân chỉ trích chiến thuật của hải quân và ngược lại, hải quân chủ yếu sử dụng đội h́nh tấn công nhỏ và linh hoạt, được bảo vệ mạnh, không có ECM. Phóng từ tàu sân bay ở gần mục tiêu, đội h́nh hải quân đến và rời mục tiêu rất nhanh.

    Không quân tấn công khu số 6 chuẩn mực hoá phần lớn các chiến thuật. B́nh thường không quân lên lịch 4 đợt tấn công lớn, 2 vào buổi sáng gián cách 5-30 phút và 2 vào buổi chiều. Đội h́nh điển h́nh là 4 phi đội F-105 hoặc F-4 cường kích, 2 phi đội tuần pḥng Mig, 2 phi đội F-105 bàn tay sắt (Iron Hand). Mỗi đợt ném bom cần 8 KC135 tiếp dầu trên không. Cộng với EB-66 và EC-121, máy bay t́m kiếm cứu hộ, máy bay trợ chiến khác, tổng số máy bay liên quan lên tới 110 chiếc.

    Thường số phi đội cường kích được tăng gấp đôi lên 8. Nhóm 4 phi đội ném bom thứ 2 tiếp cận không cách xa đội h́nh để tăng cường khả năng gây nhiễu, tận dụng bảo vệ chống Mig. Nhóm 2 ném bom cùng mục tiêu với nhóm 1, rút ra cùng đường. Nó tăng số lượng bom ném xuống mục tiêu, nhưng làm nảy sinh vấn đề điều hành.

    Máy bay ném bom thường là F-105 mang 6 bom 750 pound Mark 117 ở giá treo dọc thân, 2 thùng nhiên liệu ở cánh, có thể 2 hoặc là 1 ECM và 1 Aim-9b ở giá treo phía ngoài cánh. Một lựa chọn khác là thùng dầu ở dọc thân (thay chỗ bom Mark 117) và 2 bom 2000 pound Mark 84 hoặc 3000 pound Mark 118 thay chỗ thùng dầu. Phi đội đầu sẽ trấn áp cao xạ, rải số lượng lớn bom nhỏ vào một khu vực rộng, thay cho bom thông thường. F-4 pḥng Mig và cũng dùng để ném bom.

    F-4 mang tên lửa t́m nhiệt - Aim-4d hoặc Aim-9b và một ECM ở mỗi giá treo phía trong ở trên cánh, 4 Aim-7e, và 2 thùng dầu ở cánh. Với F-4 chống Mig sẽ mang hoặc là thùng dầu, hoặc là thùng can non ở giá treo dọc thân. Với F-4 ném bom hoặc hộ tống ném bom sẽ mang hoặc là 6 bom 500 pound Mark 82 hoặc 5 bom 750 pound Mark 117 ở giá treo dọc thân. Trong phi vụ ném bom, ngay khi đă thả bom vào mục tiêu, F-4 có thể chống Mig.

    Tiến vào Bắc Việt từ phía đông (từ vịnh Bắc B&#7897... hay từ Lào phụ thuộc vào quỹ đạo của máy bay tiếp dầu, gọi là track. Track được chọn dựa theo nhiều yếu tố và tham mưu không quân đảm bảo track sẽ không gắn với bất cứ mục tiêu cụ thể nào, tránh để Bắc Việt có thể suy luận được. Tiếp dầu trước trận đánh thực hiện ở 14.000 và 22.000 feet, rồi cả đoàn rời máy bay tiếp dầu ở khoảng kinh độ 20.

    Nếu tiếp dầu ở Lào, đoàn bay đi qua một trạm dẫn đường radio bí mật, gọi là Tacan channel 97, rối vào tiếp phía tây Bắc Việt. Nếu đoàn bay được tiếp dầu ở trên vịnh Bắc bộ, th́ tiến vào Bắc Việt qua bờ biển ở đảo Cát Bà, đông Hải Pḥng, và tập hợp ở một dăy núi nhỏ được biết đến với tên gọi "Little thud ridge” hoặc"Phan tom ridge” (có lẽ là dăy Tràng Kênh) để rồi tiến tới mục tiêu.

    Với lượng lớn máy bay, giao tiếp radio, sự hiện diện của máy bay gây nhiễu radar cảnh báo, gần như không thể che giấu Bắc Việt lực lượng ném bom đang tiến đến.

    Gây nhiễu không cung cấp bảo vệ thực sự, nhưng làm giảm hiệu quả hệ thống dẫn đường mặt đất của Bắc Việt. Dù gây nhiễu có thể được xem chỉ có tác động nhỏ, tốc độ của lực lượng tấn công khiến thời gian từ lúc tiến vào Bắc Việt cho đến lúc ném bom mục tiêu chỉ trong ṿng 7- 10 phút. Điều này là quan trọng.

    ECM bảo vệ quan trọng chống lại SAM, nhưng cũng gây ra nhiều bất lợi cho các phi đội. Do sơ đồ gây nhiễu JP (Jamming pattern), lực lượng bị hạn chế chỉ được nghiêng cánh 15 độ trong khu vực có cao xạ và SAM, và 20 độ ngoài khu vực này, khiến cho phi đội chỉ có thể điều chỉnh hướng từng ít một cho nên đường bay hầu như thẳng khiến dẫn đường mặt đất của Bắc Việt có thể dự đoán được khu vực mục tiêu mà điều Mig đến hướng đó.

    Lực lượng tấn công tiến vào trên độ cao từ 11.000 đến 16.000 feets (18.000 feets là độ cao tối đa thực tế của một F-l05 mang tối đa vũ khí và dầu), và bay tốc độ cao, khoảng 540 knot khi vào khu vực được bảo vệ. Lực lượng được dẫn đường bởi 2 phi đội F- 105F đến trước đó vài phút. Mỗi phi đội chiếm một bên trong quỹ đạo và thực hiện 1 trong hai nhiệm vụ. Thứ nhất là Iron Hand: chế áp hay tấn công SAM và hệ radar cao xạ. Họ theo chiến thuật t́m-diệt, chủ động t́m radar và tấn công chúng.


    Tranh vẽ một phi đội MiG CAP.

    2 phi đội F-4 hộ tống mỗi cuộc tấn công. V́ radar của Bắc Việt có khả năng nhận diện được phi đội chuyên pḥng Mig (Mig Cap) và các phi đội pḥng vệ khác, chiến thuật này không hiệu quả. Do đó, thường một phi đội F-4 hộ tống sẽ đi gần với đội h́nh dẫn đầu, và phi đội thứ hai ở phía sau; hoặc cả hai sẽ được bố trí ở phía sau.

    Nếu Mig tấn công đội h́nh ném bom đang hướng tới mục tiêu, một phi đội Mig Cap sẽ tấn công Mig, trong khi phi đội c̣n lại sẽ ở lại với đội h́nh ném bom. Khi đă đuổi xong Mig, phi đội này quay về với đội h́nh. Nếu Mig tấn công tất cả các phi đội Mig Cap, các phi đội ném bom phải tự bảo vệ lấy ḿnh. Khi đó, họ bay theo đội h́nh Kim cương. Nếu Mig tấn công, phi đội dưới cùng gần nhất với Mig sẽ vứt bom và tiếp chiến Mig trong khi phần c̣n lại tiếp tục bay đến mục tiêu. Sau khi đánh trả Mig, các phi đội nhanh chóng tập hợp lại theo đội h́nh pod (pod formation: đội h́nh chống nhiễu). Các phi đội ném bom và Mig Cap dùng tần số radio khác nhau, nhưng F-4 có radio phụ để nghe F-105.

    Các phi đội F-4 nhanh chóng nhận ra vị trí sau đội h́nh ném bom của họ, F-4 phía sau nói chung không thể xua đuổi Mig. Nhưng Mig ít hoạt động trong quư 3/1967 nên F-4 chậm thay đổi đội h́nh.

    Khi đoàn đến mục tiêu, Mig CAP F-4 thường tách ra, một phi đội bay trước phi đội F-105, phi đội kia đợi ở đường rút rồi đi theo. Máy bay ném bom cùng lúc thực hiện bổ nhào ném bom theo đội h́nh pod, giảm thiểu thời gian trên mục tiêu.

    Sau khi tấn công, cả đoàn rút ra với tốc độ cao và thực hiện tiếp dầu trên không.

    Trong khi đội h́nh lớn, bay ở độ cao trung b́nh có nhiều ưu điểm, nó cũng có các nhược điểm chiến thuật, chủ yếu là do nó dễ bị phát hiện. Ngoài tín hiệu radar lớn của đoàn bay khi tiếp dầu và đường bay tương đối thẳng để tận dụng bảo vệ của ECM, đuôi khói dày đặc từ đoàn bay cũng khiến cho Mig dễ dàng nhận diện, dù tầm nh́n hạn chế. Phi công Mỹ có thể dễ dàng thờng xuyên nh́n thấy nhau từ 20-30 dặm.

    Trong thời gian thời tiết không thuận lợi, không quân dùng phương thức ném bom bay bằng, ở tốc độ ổn định, độ cao trung b́nh, đường bay thẳng, dẫn hướng bởi đài Tacan trên đất Lào. Ném bom qua mây dùng radar của hệ thống được thiết kế cho ném bom nguyên tử nên không đủ độ chính xác cho bom thông thường. Đường bay qua nhiều khu vực được pḥng ngự mạnh nên thường là mục tiêu cho SAM và Mig.

    Không lâu sau đó, người miền Bắc Việt cũng nhận ra giá trị của một loại vũ khí khác. H́nh ảnh quốc gia giàu nhất trên thế giới đánh bom một trong những nước nghèo nhất, dù có v́ xung đột đến đâu đi nữa, cũng làm nhiều người khó chịu kể cả bạn bè và các nước hậu thuẫn Mỹ. Sau chiến tranh, lănh đạo miền Bắc Việt Nam rất kiêu hănh về việc họ đă vận động phong trào phản đối chiến tranh đứng về phía họ. Tuyên truyền là một thứ vũ khí pháp lư trong chiến tranh và theo họ, v́ đă đấu tranh giành thắng lợi trước một thế lực mạnh hơn nhiều lần nên không thể quy trách nhiệm cho họ v́ họ đă bằng mọi cách tác động lên dư luận thế giới. Nếu một ngôi sao điện ảnh hay một giáo sư đại học do lương tâm hay tư tưởng hoặc cũng có thể do cả hai yếu tố đó thúc ép mà muốn giúp đỡ công bố về cái mà họ coi là hết sức bất công hoặc là tính ác ôn của chính sách Mỹ th́ Hà Nội sẽ sẵn sàng cấp visa cho họ. Các nhà báo phương Tây đă cam kết viết báo cáo khách quan lại là vấn đề khác. Trong con mắt Bắc Việt, chỉ tồn tại một quan điểm khách quan: Phía Mỹ có lỗi. Hà Nội cho rằng sẽ chẳng ích ǵ nếu một phóng viên đưa ra ư kiến ngược lại kể cả khi anh ta đưa vào câu chuyện của ḿnh những đặc tính trái ngược thường được dùng làm cơ sở cho đ̣i hỏi của anh ta về tính khách quan. Một phóng viên của hăng thông tấn Pháp (AFP) được phép vào Hà Nội nhưng các bài tường thuật của anh ta dù được kiểm duyệt chính thức hay tự kiểm duyệt đều không có một chút ǵ mang tính thăm ḍ đồng nghiệp AFP của ḿnh ở Sài G̣n. Nhà báo Anh James Cameron được phép tới thăm Việt Nam năm 1965 và ông đă viết một loạt các bài báo bày tỏ sự thông cảm đối với Việt Nam. Tuy thế măi tới Giáng sinh 1966 các phóng viên Mỹ mới được mời tới Việt Nam.

    Bản chất của người làm báo là không thắc mắc về động cơ của nguồn tin (người cung cấp thông tin) miễn là tin tức được cung cấp có tính chính xác và có giá trị, do đó không thể chỉ trích Harison E. Salisbury – phóng viên tờ New York Times v́ không hề nghĩ đến ngụ ư của Miền Bắc Việt Nam khi họ đột nhiên mời anh ta tới Hà Nội và có thể thoả măn yêu cầu của anh ta nhằm làm cho người ta ngỡ rằng khác với các phóng viên khác cùng xin được cấp visa, riêng có ḿnh anh ta khám phá ra , sự thực đơn thuần bằng nghiệp vụ báo chí. Đó thực sự là một trong những tin tức sốt dẻo gây được nhiều sự chú ư nhất về cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, xét nh́n vào bối cảnh lúc bấy giờ, không một ai thực sự biết miền Bắc Việt Nam dự tính cái ǵ, Salisbury đă vô t́nh để lộ về chuyến đi Hà Nội của ḿnh. Ngay cả những đồng nghiệp của anh cũng khó có thể tin được anh - tác giả của rất nhiều cuốn sách và cũng là một phóng viên kỳ cựu đă từng tạo dựng thanh thế cho bản thân bằng cách không ngần ngại báo cáo tin tức từ Nga và các nước cộng sản khác, nơi mà tin tức cũng đồng nghĩa với sự tuyên truyền.

    Ngồi trên bậc thềm sân bay Phnôm Pênh, Campuchia, uống Coca - Cola đợi chờ chuyến bay bị trễ ICC tới Hà Nội, Salisbury bắt chuyện với một số nhà ngoại giao Đông âu. Những người này nói rằng họ mong chuyến đi của anh sẽ là một bước đi tích cực hướng tới hoà b́nh. Họ c̣n kể với anh ta về một nhà báo trẻ châu Phi xin được cấp visa tới Hà Nội nhưng đă bị từ chối. Salisbury rất có ấn tượng về câu chuyện và xem nó như một dấu hiệu tiến triển mong manh. Nhưng đó không phải là một dấu hiệu kém quan trọng. Khi một nước cộng sản thừa nhận các quốc gia thù địch và loại ra một số quốc gia bạn bè và có thiện cảm, điều đó có nghĩa sắp diễn ra một sự kiện quan trọng. Đó là những ǵ Salisbury đă viết. Anh ta c̣n nói: "Dường như mong muốn của các nhà ngoại giao Đông Âu cũng là mong muốn của tôi. Chuyến đi của tôi rơ ràng là nhằm vào những ư định quan trọng”.

    Ư định đó nhanh chóng được Việt Nam làm rơ: Họ mong muốn được thông báo cho toàn thế gíới biết thông qua New York Times, rằng máy bay Mỹ không chỉ nhắm vào các mục tiêu quân sự mà c̣n nhằm vào cả các khu vực dân sự. Sau khi xem qua những thiệt hại đối với Việt Nam, Salisbury không c̣n chắc miền Bắc Việt Nam đúng hay sai. Dường như không thể đó là những thiệt hại do tên lửa SAM bắn nhầm, đó là do lỗi của chính miền Bắc Việt theo cáo buộc của Lầu Năm Góc, nhưng cũng không thể là máy bay Mỹ đă cố t́nh thả bom xuống khu vực dân sự. Khả năng dễ xảy ra nhất đó là do tai nạn. Đó cũng là ư nghĩ của các nhà ngoại giao ở Hà Nội đă tận mắt chứng kiến cuộc tấn công. Hơn nữa, chỉ mới biết đến các vụ tấn công sử dụng bom qua chiến tranh thế giới thứ hai, Salisbury đă phải kinh ngạc trước sự yếu ớt của những ngôi nhà chỉ là những căn lều được lợp cỏ. C̣n con số thương vong 4 người bị thiệt mạng, 10 người bị thương được xem là ít so với một mảng thiệt hại lớn.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P16



    Ngoại vi Hà Nội, tại làng Phúc Xá bé nhỏ, Salisbury nói chuyện với dân làng và được kể lại rằng: vào ngày 13/8/ 1966 lúc 12 giờ trưa, một quả bom đă phát nổ ngay phía trên chúng tôi, phá hoại 24 ngôi nhà,làm chết 24 người, bị thương 23 người. Theo họ (k&#7875..., lúc đầu, máy bay thả bom xuống một con đập gần đó rồi sau mới đến làng của họ. Phúc Xá đă được xây dựng lại trong một tháng với sự giúp ñôơ của các xă khác. Các mảnh bom được đặt trong một ngôi nhà ở trung tâm của làng, sau đó trở thành một kiểu nhà bảo tàng. Trên các mảnh bom có ghi tháng 7/1966. Dân làng thấy kinh ngạc v́ nước Mỹ đă chế tạo bom rồi ào ạt vận chuyển qua nửa ṿng trái đất không chỉ 4 tuần sau đă mang thả chúng xuống mục tiêu.

    Họ cho rằng máy bay cố t́nh ném bom họ. Salisbury cho là không thể như vậy. Ông viết: "Nhưng có ai thực sự biết mục tiêu của máy bay là ǵ không? Có lẽ nó nhắm vào các con đập nhằm cắt đứt vận chuyển bằng đường thuỷ trên sông Hồng hoặc cũng có thể nhắm vào một mục tiêu pḥng không dọc theo bờ sông. Cũng có thể máy bay ném bom nhằm tránh né và nhanh chóng thoát khỏi một điểm nóng”. Dù giải thích như thế nào đi nữa th́ mối nghi ngờ của Salisbury về độ chính xác của bom Mỹ ngày càng lớn.

    Anh c̣n thấy ngạc nhiên trước đặc điểm tưởng chừng tầm thường của các mục tiêu. Một bến đỗ xe tải ở ngoại ô Hà Nội được coi là mục tiêu lớn trong cuộc tấn công ngày 13/12 th́ đối với anh, nó chẳng có ǵ đáng gờm mà chỉ là các (nhà) xưởng để xe với khoảng 10 chiếc xe khi chúng bị đánh bom. Anh thắc mắc: "Loại mục tiêu này có đáng để huỷ hoại những chiếc máy bay trị giá hai triệu đô và mạng sống quư giá của các phi công Mỹ?". Không dừng lại ở đó, trường Hữu nghị Ba Lan ở cách đó hai dặm cũng bất ngờ bị tấn công vào thời điểm đó.


    F-105 ném bom Hà Nội.

    Buổi sáng Giáng sinh, từ Hà Nội lái xe theo hướng Nam tới khu vực đài chỉ huy Cổ Chai, mối nghi ngờ của Salisbury về vụ đánh bom càng lúc càng tăng. Cổ Chai ở ngay sát Phủ Lư - một xă nằm dọc trục đường 1 gần với tuyến đường sắt chính đi miền Nam. Ở Phủ Lư có một đường tránh tàu và một số đường ray để chuyển hướng và sắp xếp lại các toa hàng. Salisbury nhận ra rằng máy bay đă đến đây dội bom xuống đường tránh tàu và để được mục đích, đồng thời họ quét sạch luôn thị xă vốn có 10.000 dân mà lúc này đây chỉ c̣n lại một nhúm dù rằng thương vong không nhiều. Khi anh đi quanh đống đổ nát, một chiếc tàu hoả đang x́nh xịch đi trên đoạn đường ray vừa mới được sửa chữa. Cuối ngày hôm đó khi tới Nam Định - cách Hà Nội 65 dặm về phía Nam, anh t́m ra chất liệu để viết nên một câu chuyện trong đó hàm chứa sự ngờ vực ngày càng lớn trong anh. Theo chỉ định của Chính phủ, cùng với một hướng dẫn viên và một dịch giả, anh đi chiếc xe Volga màu đen của Liên Xô tới Nam Định và thấy rằng hầu như mọi con đường ở đây đều bị bom phá hoại. Anh dừng chân ở thị xă và được hai cán bộ địa phương mời uống chè tiếp chuyện. Họ nói Nam Định đă từng là một trung tâm dệt may với gần 90.000 dân, trước đó hầu hết dân chúng đă được sơ tán trong 50 cuộc oanh tạc của máy bay Mỹ.

    Xưởng dệt may thành phố có 13.000 nhân công và được xếp vào một trong 12 nhà máy chính yếu của đất nước. Thành phố c̣n có một xưởng dệt, một nhà máy đóng hộp rau quả, một nhà máy nông cụ, một nhà máy xay xát và một hợp tác xă sản xuất chỉ sợi. Salisbury nghĩ, tính tổng lại th́ con số đó cũng không nhiều. Anh viết: "Nam Định có lẽ là thành phố lớn thứ 3 miền Bắc Việt Nam nhưng nếu nó sản xuất chỉ vỏn vẹn được từng ấy th́ nghe có vẻ nó không có ǵ là một mục tiêu trọng yếu. Các cán bộ xă kể cả chủ tịch xă, một phụ nữ khá xinh đẹp tên là Trần Thị Doăn từng là công nhân nhà máy dệt - khẳng định rằng đă từ lâu họ biết thành phố không có bất kỳ vật dụng quân sự nào.

    Sau 50 cuộc oanh tạc, số dân thường bị thương vong trên thực tế thấp (89 người chết, 405 người bị thương). V́ lệnh sơ tán biến Nam Định thành một thành phố hoang vu. Nhưng Salisbury được biết 13% nhà cửa ở thành phố đă tan thành tro bụi. Xưởng dệt may bị suy yếu nghiêm trọng sau 19 lần bị tấn công, xưởng dệt tơ lụa bị xoá sổ tan tành. "Toàn bộ câu chuyện về Nam Định là không có thật. Đó chỉ là những giấc mộng kinh hoàng trong một bức tranh theo trường phái Da Dor, bất cứ ai cũng có thể h́nh dung được rằng máy bay ném bom của chúng ta cứ lũ lượt kéo đến, tấn công liên hồi vào những hồn ma tưởng tượng”.

    Liệu nhà máy dệt may Nam Định đă đủ lớn mạnh để được đánh giá là một thành phố công nghiệp lớn và đủ khả năng trang bị quân phục cho lính tráng? Với thực lực của thành phố, liệu có thể xem đó là một mục tiêu quân sự chính đáng? Lầu Năm Góc đồng t́nh với ư kiến đó và c̣n cho rằng thành phố chứa đựng cả các mục tiêu quan trọng. Tuy nhiên, nhà máy dệt may Nam Định không nằm trong danh sách mục tiêu chính, v́ thế Lầu Năm Góc không bị buộc phải tuyên bố rằng nó đă bị tấn công. Nhưng những tổn thất của nó không hề "xứng” với một mục tiêu phụ chút nào. Ở đó dường như chẳng có một căn cứ quân sự nguỵ trang nào đang hoạt động. Đó là vấn đề tranh căi giữa một bên là nhà báo và một bên là các chuyên gia quân sự. Khó ăn nói hơn nữa là tổng số thiệt hại được chính anh chứng kiến đối với các khu vực dân sự. Lầu Năm Góc đă mở một chiến dịch công khai nhằm hạ uy tín những báo cáo của Salisbury, trong đó phát ngôn viên Bộ Quốc pḥng - Arthur Sylvester - cáo buộc rằng các bài báo của anh được "phóng đại cực độ”. Các quan chức chính phủ khác tra khảo về ḷng yêu nước của anh. Một thượng nghị sĩ Mỹ c̣n nói: New York Times từ trước tới nay luôn phản đối chiến tranh.

    Tuy nhiên, rơ ràng rằng các nhà lănh đạo bên dân sự dưới áp lực của phong trào phản đối chiến tranh đă cổ vũ giới quân sự tạo ra một giai thoại mà bản thân họ phải trả giá quá đắt. Chính miền Bắc Việt Nam cung cấp cho Salisbury các con số 85/15.000 người ở Nam Định đă thiệt mạng trong 50 cuộc oanh tạc của Mỹ. V́ sự không minh bạch trong chi phí cho không quân trong chiến tranh nên không thể dựa vào con số đó để kết luận máy bay Mỹ ném bom bừa băi. Nhưng Đảng Cộng hoà Mỹ buộc phải tin rằng máy bay Mỹ đă đánh mục tiêu với độ chính xác đảm bảo không gây thươngvong cho một thường dân nào, do đó sự phát giác của Salisbury là về tính hiệu quả của một loại bom khác. Chẳng bao lâu sau khi bài báo của anh xuất hiện đă làm bùng lên cuộc tranh luận dữ dội về vụ không kích,một cuộc trưng cầu dân ư được tiến hành tại 14 trường đại học ở Washington D. C. cho thấy 66% sinh viên phản đối việc đánh bom miền Bắc Việt Nam trong số đó 80% không hề biết Việt Cộng là ai.

    Nếu như có người nào có biết dấu hiệu của việc ném bom bừa băi th́ đó là John Gerasri. Ông được cử tới Hà Nội với tư cách là một trong 5 thanh sát viên của Diễn đàn Tội phạm chiến tranh thế giới Bertranol Russel - một uỷ ban hoạt động trên cơ sở đạo đức chứ không phải pháp lư. Tác giả, nhà báo người Pháp Jean Paul Sartre là chủ tịch diễn đàn, cùng với Dave Dellinger -một người theo chủ nghĩa hoà b́nh và Storely Carnlichael - một nhà lănh đạo v́ quyền công dân, thành viên người Mỹ của diễn đàn. Theo diễn đàn, đó không phải là vấn đề người Mỹ có tội hay vô tội mà là vấn đề mức độ tội ác. Tuy nhiên, theo như Gerrassi đă thừa nhận, trái với mong chờ của ông, ông chẳng t́m đâu ra cái gọi là đánh bom Hà Nội theo hệ thống.Một thanh sát viên khác của diễn đàn - một giáo sư người Scottland nói với Harrison Salisbury rằng sau nhiều ngày kiểm tra những thiệt hại do bom gây ra ở nhiều vùng thuộc miền Bắc Việt Nam, ông ấy vô cùng hoang mang trước "yếu tố chủ ư”. Ông nói, những thiệt hại đối với vùng dân cư có lẽ nào chỉ mang tính t́nh cờ!

    Khi theo bước chân Harrison Salisbury tới khu vực đài chỉ huy Cổ Chai, rồi tới Nam Định, điều làm John Gerrasi bối rối là vấn đề mục tiêu. H́nh như ông không được trông thấy đường ray tránh tàu ở Phủ Lư mà Salisbury đă chỉ ra là một mục tiêu quân sự dễ nhận biết. Gerrassi bảo lái xe của ông đi quanh thị xă và ông đă nhận ra đài chỉ huy Cổ Chai nhỏ bé, cách ngoại vi thành phố nửa dặm. Đài chỉ huy đă bị đánh đổ và sửa chữa lại. Đối với ông, điều đó không quan trọng. Tại Nam Định, đường ray tránh tàu mà Lầu Năm Góc cho là một mục tiêu lớn hoá ra lại chẳng lớn hơn một sân ga ở ngoại ô New York. Phần lớn những thiệt hại về dân sự ở Nam Định xảy ra quanh nhà máy dệt may nhưng Gerrassi viết: "Tôi luôn tự hỏi, làm sao mà một nhà máy dệt may lại có thể là một mục tiêu quân sự quan trọng như vậy được"

    T́nh cờ hay không t́nh cờ th́ trên thực tế các khu vực dân sự cũng đă bị tấn công. Mà v́ loại mục tiêu ǵ ? Harrison Salisbury nói: "Giống như phần lớn các mục tiêu quân sự mà tôi được nh́n thấy ở miền Bắc Việt Nam, Nam Định chỉ là một mục tiêu do sự áp đặt của phát ngôn viên Lầu Năm Góc, thật khác xa so với khi quan sát trực tiếp". Nhưng có những mục tiêu rơ ràng đă được đặt ra mà lại không bị tấn công khiến Salisbury phải kinh ngạc. Cầu Paul Doumer mà ngày nay được gọi là cầu Long Biên, là một ví dụ. Salisbury chỉ ra: "Không những cầu Long Biên dễ nh́n thấy từ xa mà chắc chắn nó là mục tiêu quân sự quan trọng hàng đầu ở miền Bắc Việt Nam. Nếu không có cây cầu, hoạt động giao thông từ Bắc đến Nam sẽ hoàn toàn bị ngăn cản. Mất cây cầu không thể làm miền Bắc Việt Nam thất thế. Nhưng chắc chắn nó sẽ gây khó khăn cho Hà Nội... Cầu Long Biên không phải là mục tiêu quân sự quan trọng duy nhất ở Hà Nội. C̣n có nhiều mục tiêu khác nữa - ví dụ như nhà máy cung cấp điện chủ yếu của thành phố. Đây có lẽ cũng là mục tiêu được bảo vệ ngặt nghèo nhất. Nhưng, cũng giống như cây cầu, nó không bị tấn công. Nó lại c̣n nằm ở vùng khá xa các khu vực đông dân cư.”

    Đánh mục tiêu, sau gần 2 năm phát động cuộc không kích, Mỹ vẫn chưa ném bom được những mục tiêu quân sự rơ ràng nhất ở miền Bắc Việt Nam. Đối với Harrison Salisbury, điều đó không có nghĩa lư ǵ. Về điểm đó và riêng chỉ có điểm đó, phóng viên New York Times và ngài đô đốc điều khiển, chỉ huy cuộc không kích hoàn toàn nhất trí với nhau.

    Lúc Harrison Salisbury đang trên đường tới Hà Nội th́ đô đốc Grant Sharp đang chờ đợi lệnh được thả bom xuống các xưởng sửa chữa tàu và căn cứ hải quân ở Hải Pḥng. Tuy nhiên lời buộc tội của Hà Nội về việc Mỹ đă tấn công các khu vực dân sự khiến Washington phải tạm đ́nh chiến. Sharp được lệnh không được gây ra các hoạt động quân sự trên không đối với bất kỳ mục tiêu nào thuộc khu vực cấm ở Hà Nội và nếu có thể, không nên cho máy bay bay qua khu vực đó. Việc đó thật quá thể đối với Sharp. Ông ta bực tức viết một thông điệp gửi về Lầu Năm Góc và ông ta biết Robert McNamara sẽ đọc nó.

    Sharp viết: "Chúng ta vừa chỉ mới bắt đầu gây được vài áp lực thực sự đối với Hà Nội. Các cuộc tấn công của chúng ta vào nhà ga, bến xe đă thực sự làm địch bị tổn thương. Để rồi Hà Nội kêu ca về việc chúng ta đă làm thiệt mạng một vài thường dân với mong muốn nhận được sự ủng hộ từ công luận. Và trên thực tế họ đă đạt được điều đó thậm chí vượt lên trên sự mong đợi của họ. Không những chúng ta phải nói rằng chúng ta lấy làm tiếc về những thường dân đă thiệt mạng mà chúng ta c̣n phải cấm không cho phi công hoạt động trong phạm vi 10 dặm của Hà Nội. Lại một lần nữa Hà Nội thành công trong việc gỡ bỏ áp lực của chúng ta. Họ sẽ được cổ vũ để tiếp tục hung hăng với mong muốn sẽ đè bẹp chúng ta".

    Nhằm vào McNamara, Sharp viết: "Cuộc chiến tranh này cũng như bao cuộc chiến tranh khác, đều là việc làm bẩn thỉu. Chúng ta cần phải thiết thực hơn về vấn đề này”. Sharp tự hỏi, thay cho việc xin lỗi trước những đợt xung kích tuyên truyền của Hà Nội, liệu Washington có c̣n giải pháp nào khác hơn không. Khi Hà Nội than văn về những thường dân bị thiệt mạng, liệu có thể nói là "Có thể một số người đă bị chết, chúng tôi đă cố tránh đi nhưng v́ đây là một cuộc chiến tranh nên chắc một số người sẽ phải chịu như vậy”. Hà Nội có thể ngăn chặn việc đó bằng cách kêu gọi tinh thần chiến đấu của miền Nam Việt Nam.

    Ngoài ra, thông điệp của Sharp c̣n ngầm chứa một sự đe doạ. Ông ta nói, chính ông đă nghe ngóng công luận và đă nói chuyện với một số nghị sĩ Quốc hội. Ông ta cho rằng thời gian sắp hết. "Người dân Mỹ có thể sẽ ủng hộ hoặc phản đối cuộc chiến tranh này. Ở thời điểm này, v́ không nh́n thấy lối ra nên họ vẫn thiên về xu hướng phản đối. Nhiệm vụ của chúng ta là phải thuyết phục được người dân trong nước và cả Hà Nội rằng chiến tranh sẽ kết thúc và chắc chắn Hà Nội sẽ thất trận". Tuy không nói trực tiếp nhưng Sharp ngụ ư sẽ phải có một động thái chính trị nhằm giải quyết vấn đề mục tiêu.

    Tám tháng sau, vào tháng 8/1967, đô đốc Sharp và một số người đứng đầu giới quân sự đă vận động thành công những người truyền tin thuộc thượng viện Mỹ mở một cuộc thăm ḍ công khai trên quy mô rộng lớn về kế sách đánh bom, đặt Robert McNamara vào thế pḥng thủ. Thượng nghị sĩ John Stennis thuộc bang Missisippi và lực lượng vũ trang thuộc tiểu ban điều tra của ông đề nghị tăng cường không kích. Nhằm xoa dịu sự bất đồng về chính trị, Lyndon Johnson cho phép quân đội đánh vào một số mục tiêu mới trong đó có cầu Long Biên. Lần đầu tiên, sau 2 năm rưỡi đánh bom miền Bắc Việt Nam, cây cầu trở thành mục tiêu đánh phá. Mà trước đó, ngoại trừ Harrison Salisbury, không một thế lực ủng hộ không kích nào chịu thừa nhận cầu Long Biên là một mục tiêu quân sự quan trọng hàng đầu ở miền Bắc Việt Nam.

    DICK WYMAN

    Trở về sau mỗi trận đấu tôi lại bị sĩ quan t́nh báo không quân moi hỏi. Họ đă chuẩn bị sẵn một bản báo cáo về thiệt hại nhằm đưa ra một chuỗi các yêu cầu và cuối cùng là công bố nó để thể hiện kết quả chúng ta giành được ở miền Bắc Việt Nam. Chẳng hạn, một hôm tôi nói với họ tôi đă nh́n thấy 10 chiếc xe tải.

    "Anh nh́n thấy bao nhiêu cái” họ hỏi.

    "Tôi không biết, chỉ v́ khói bom bên dưới nên tôi không thấy rơ lắm. Chắc là tôi chỉ trông thấy 3 chiếc trong số đó."

    "Có thể ông c̣n thả nhiều bom hơn thể”

    "Có lẽ tôi đă gây thiệt hại cho một vài chiếc. Tôi không rơ".

    "Hẳn anh đă trông thấy 5-6 cái".

    "Tôi không chắc".

    "Ơ ḱa, Ban tham mưu của Đô đốc sẽ không chấp nhận sự mơ hồ này. Hăy nói là anh đă phá huỷ 5 chiếc và gây thiệt hại cho 3 chiếc".

    "Cứ nói những ǵ anh muốn nhưng đó không phải điều tôi nói với anh”.

    Ban tham mưu luôn giật dây để đưa ra những kết quả phản ánh tốt về phi đoàn, chiến hạm và hải quân. Điều đó không thể tránh khỏi. Một lúc sau, thái độ của anh sẽ . . . , à, không sao, tôi chỉ là một phi công, cứ mặc họ lo lắng về các con số. Mặt khác tôi không c̣n thấy ḿnh đánh bom bừa băi nữa hoặc nếu có cũng chỉ một ít thôi.

    Một căn cứ hoả lực pḥng không nằm ở cửa ngơ cảng Hải Pḥng trên một hoang đảo. Chúng tôi sẽ đánh vào những nơi có súng, họ sẽ quay lại ngay để lại dựng chúng lên. Ngay bên dưới căn cứ là một cụm 5 ngôi nhà. Tôi thấy rơ rằng những người kiểm soát căn cứ sống trong những ngôi nhà này, không c̣n có cái ǵ khác ở trên đảo. Một hôm, những quả bom của tôi t́nh cờ đáp xuống ngay giữa những ngôi nhà làm chúng biến mất. Chúng tôi trở về pḥng chờ, Black Mac cười nói: "Wyman, anh đă đánh tín hiệu, anh có biết anh ném bom xuống đâu không?"

    Tôi nói: "À, đúng nơi mà tôi muốn, Mac ạ"

    Đó là lần duy nhất tôi làm như vậy trong suốt 2 năm với gần 200 nhiệm vụ. Tôi không thấy cũng chẳng biết người nào khác có ném bom xuống vùng dân cư. Mà cũng thật tương phản là chúng tôi không bao giờ được chỉ dẫn để đánh bom một ngôi làng hay những căn nhà. Nhưng như người ta biết nếu bay ở tốc độ 500 dặm sẽ bị một số tên lửa đuổi theo, hoả lực pḥng không sẽ nổ khắp nơi và như thế chắc chắn không thể đánh trúng mục tiêu. Miền Bắc Việt Nam thường đặt các căn cứ pḥng không không quân gần trường học và các thiết bị dân sự khác. Họ hờ hững làm việc đó nhằm ngăn cản chúng tôi đánh bom vào các căn cứ hoả lực pḥng không.

    Một hôm tôi lượn qua lượn lại một căn cứ tên lửa đất đối không. Những chiếc tên lửa phóng lên. Một chiếc càng lúc càng lớn, tôi thề là tôi không thể thoát được và đă tiếp cận với nó. V́ quá kinh hoàng tôi đă kích nổ bom. 2/6 quả bom phát nổ và hạ xuống cách mục tiêu 400 yard. May là đó không phải vùng dân cư.

    Người ta thường có khái niệm lầm lẫn về việc đánh bom chính xác. Chính xác so với cái ǵ? với B52? Theo nghĩa đó chúng tôi đă làm đúng nghĩa vụ. Người ta có thể có một việc làm tốt đẹp và đáng trọng một khi họ có cảm giác và kỹ năng. Để được như vậy, cần phải có thời gian. Trên thực tế, nếu thả bom sớm hoặc ở trên cao th́ chỉ có lạc mục tiêu.

    Tôi đă đọc sách của Harrison Salisbury. Tôi đă tới Nam Định nhiều lần. Có một bức ảnh cho thấy một con đường hầu như đă bị huỷ hoại. Điều đó làm tôi ngạc nhiên. Tôi không hề cố t́nh thả bom xuống thành phố và tôi cũng chẳng thấy ai làm việc đó cả. C̣n có một bức ảnh khác chụp h́nh một em bé bị cụt một chân. Tôi yêu trẻ em. Tôi có ba đứa con và khi phải nh́n một đứa trẻ bị cắt cụt chân v́ lư do ǵ đi nữa - Lạy chúa, nó không c̣n có tương lai và tự hỏi cuộc sống đă cho nó cái ǵ. Điều đó làm tôi vô cùng phiền ḷng. Tôi không hề nghĩ rằng việc tôi đang làm là giết người. Khi đánh vào một căn cứ hoả lực pḥng không th́ tôi cứ nghĩ là chúng tôi đang ngăn cản hoạt động của một căn cứ hoả lực pḥng không thậm chí c̣n không hề nghĩ rằng có người trong máy bay của kẻ thù. Đó chỉ là một cái máy. C̣n tôi là tôi.

    Tôi biết điều đó nghe thật khủng khiếp. Nhưng nh́n từ phương diện này th́ không kích khác xa với chiến tranh trên bộ. Chúng tôi bay lên và chiến đấu. Sau đó chúng tôi trở về và ngủ trên chăn nệm sạch sẽ. Nếu ai đó bị bắn rơi đơn giản là anh ta sẽ biến mất. Sẽ không có ai nằm bên cạnh chảy máu và bị đối xử một cách thô bạo. Cũng chẳng thấy người nào trong tầm mắt để bắn. V́ vậy chúng tôi không biết rằng đang giết người. Nhưng khi nh́n thấy những h́nh ảnh đó, tôi đă thốt lên "Chết tiệt, Wyman, đứa trẻ đó không c̣n cơ hội trong cuộc sống”.

    Tất nhiên, nhiều vị chưa đọc những quyển sách đó. Những người đă đọc bản báo cáo của Salisbury rất giận dữ v́ họ không nhận ra một số việc anh nhắc tới. Họ cho rằng đơn giản anh đang hành động như một tuyên truyền viên cho miền Bắc Việt Nam. Không một ai có đủ thời giờ nghĩ về chiến tranh ngoại trừ bằng con đường đă được xếp đặt. Chúng tôi bị hút hồn vào công việc hàng ngày, làm nhiệm vụ được giao và bù đầu rối tóc đến mức không c̣n đủ th́ giờ ngủ nghê. Phải mất hai tháng tôi mới đọc xong cuốn "Địa ngục bé nhỏ" của Bernald Fall - nói về tôn giáo - điều mà chúng tôi hết sức tránh né . Tôi xem lướt qua một vài cuốn rồi chúng tôi bàn tán về chúng. Nhưng tôi cho rằng, nếu đi sâu xem xét nó và thực sự nghiên cứu cuộc chiến tranh, sẽ có một cảm giác rằng đó là một chuyện nhảm nhí. Chính v́ thế chẳng bao giờ chúng tôi đọc kỹ cuốn sách. Bởi v́ theo tôi, chúng tôi lo ngại khi phải cắt chân một ai đó làm mất đi chỗ dựa cuối cùng của anh ta và anh ta có thể nói "tôi sẽ bỏ phù hiệu phi công của tôi” một người khác sẽ nói "nếu điều đó xảy ra, ai sẽ là người bay bên cạnh tôi?"

    Sau khi đọc sách viết về Việt Nam, tôi đă đặt ra những câu hỏi về cuộc chiến này, đặc biệt là về phương pháp tiến hành chiến tranh nhưng tôi phải điên đầu với mớ câu hỏi đó. Nguyên tắc quân sự mù mờ. Đó là một phần thiết yếu để đạt được mục đích. Tôi là một sĩ quan hải quân chuyên nghiệp được chính phủ Mỹ trả lương và tôi phải thực thi nhiệm vụ với toàn bộ khả năng vốn có. Do đó tôi không được phép thắc mắc. Nếu họ muốn tôi thả bom xuống chiếc cầu đó hôm nay, ngày mai hay ngày kia, có Chúa chứng giám, tôi sẽ làm điều đó. Để sống sót, phải luôn có nhiệt tâm.

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P17


    BẮC VIỆT SẴN SÀNG

    Với việc Mỹ thiết lập kho vũ khí hạt nhân sau chiến tranh thế giới II, luận điệu về phương pháp phát động chiến tranh trở thành cuộc chiến v́ màu cờ sắc áo, chiến lược hạt nhân hầu như hoàn toàn dựa trên cơ sở các tính toán về tâm lư. Không ai muốn cuộc chiến tranh nguyên tử rồ dại xảy ra. Nhưng kẻ thù của nước Mỹ cần biết rằng nước Mỹ sở hữu các phương tiện huỷ diệt hoàn toàn, một mối đe doạ trả đũa có thực nhằm bảo vệ an ninh đất nước. Do đó không có ǵ ngạc nhiên khi luận điệu của McNamara về phát động cuộc chiến thông thường chống lại miền Bắc Việt là một mô h́nh chiến lược hạt nhân. Mỹ sẽ cho Việt Nam biết thế nào là uy lực nước Mỹ và Việt Nam sẽ phải run sợ trước tiềm lực vượt trội của nước Mỹ.

    Nhưng sự khác nhau giữa bom có vỏ bọc bằng sắt và vũ khí hạt nhân là sự khác nhau giữa phá hoại trên diện rộng và huỷ diệt hoàn toàn và chỉ có thể đe doạ được người khác khi người bị đe doạ cho là họ không thể chịu đựng được hậu quả và chấp nhận thất bại. Chiến lược của miền Bắc Việt không phải dựa trên cơ sở lư thuyết trừu tượng mà dựa vào kinh nghiệm từng trải. Họ không hề nghi ngờ ǵ về việc Mỹ là đất nước hùng mạnh nhất trên thế giới. Nhưng người Pháp cũng rất hùng cường và người Việt Nam đă giành thắng lợi bằng cách theo đuổi một chiến lược quân sự không dựa vào cái ǵ phức tạp mà chỉ bằng ḷng khoan dung. Họ đă đánh đuổi được quân Pháp.

    2 ngày trước khi cuộc không kích nổ ra vào ngày 2/3/1965, ban lănh đạo miền Bắc Việt đă cho cả nước chuẩn bị phương pháp đối phó với việc ném bom. Họ đă tính đến 3 yếu tố. Thứ nhất, phải ưu tiên hết mức cho sự an toàn của dân cư, đảm bảo an ninh các cơ sở sản xuất công nghiệp; thứ 2, mạng lưới giao thông vận tải phải luôn thông suốt để chiến trường miền Nam luôn được chi viện; thứ 3, hệ thống pḥng không không quân phải được phát triển không chỉ để thực hiện chức năng bảo vệ mà c̣n để làm mồi câu nhử không lực Mỹ. Những người không có phận sự được sơ tán khỏi Hà Nội, Hải Pḥng. Những quan sát viên nước ngoài nghe theo luận điệu cho rằng cuộc chiến của Mỹ chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp, th́ nghĩ lệnh sơ tán đó là hành động không cần thiết hoặc có lẽ đó chỉ là một bước chuẩn bị về tâm lư cho người dân, nhưng Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản đă hành động như thể việc phá hoại các thành phố có thể sẽ xảy ra và cảnh báo để người dân chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. "Hầm trú ẩn là nhà" trở thành khẩu hiệu cho toàn quốc. Một mục tiêu được đặt ra là mỗi người phải có 3 chỗ trú ẩn. Sau này, nguời miền Bắc Việt Nam cho biết họ đă đào 21 triệu chỗ trú tránh bom. Con số đó dù có đúng hay không th́ Hà Nội và Hải Pḥng cũng đă thực sự nhanh chóng trở thành một tổ ong kiên cố. Hàng trăm, hàng ngàn căn hầm dành cho một người được dựng lên với khoảng cách từ 6-32 feet dọc theo hầu hết mọi con đường. Đường kính 2,5 feet, sâu 5 feet, các căn hầm được làm bằng bê tông cốt thép có nắp dày 2 inh để có thể vào nhanh chóng. Những căn hầm chung được đào một nửa dưới đất xây bằng xi măng, gạch có mái bằng thiếc và đất được dựng lên trên khắp cả nước. Trông coi hầm trú ẩn trở thành công việc vặt vào ngày chủ nhật của người dân. Những cái hố cá nhân ngập nước mưa vào mùa mưa phải được làm khô ráo. Những căn hầm lớn hơn phải được quét dọn sạch sẽ và sửa chữa lại sau khi bị đánh trượt ở khoảng cách gần.


    Hố trú ẩn cá nhân bằng bê tông đúc sẵn.

    Người dân phải đối phó với tiếng rền vang của các vụ đột kích trên không vào nhiều thời điểm khác nhau với nhiều kiểu bom khác nhau. Trước tiên, loa phóng thanh ở góc đường phát ra lời báo chạy tránh máy bay tấn công, những người giám sát đột kích trên không đă ở đó để đảm bảo mỗi người đều vào nơi trú ẩn an toàn, nhưng rồi nhiều tháng trôi qua, người dân đă quen với việc đánh bom nên không ai chạy xuống hầm cho tới khi có tiếng súng nổ và bom bay vút xuống. Người giám sát kêu mọi người không nên đi loanh quanh hay ngồi trên mặt đất để xem pháo kích nhưng không ai nghe theo cho tới khi Mỹ bắt đầu đánh bom mạnh hơn xuống thành phố, lúc đó họ mới nghiêm túc với các lời cảnh báo.

    Nếu chiến lược chiến tranh lâu dài của miền Bắc Việt Nam muốn thành công giữ giao thông lưu thông vào miền Nam, cần phải có hệ thống đại tu sửa chữa. Các đội thanh niên được lập ra để hàng ngày sửa chữa đường và tạo ra các đường ṿng thay thế.

    Thanh niên nam nữ làm việc ban đêm, bê các rổ nan đất bụi lấp đầy các hố bom, vẽ các cột mốc trắng dọc theo ven đường để chỉ dẫn các tài xế xe tải chuyển động không có đèn; thận trọng tháo ng̣i nổ các quả bom nổ chậm bị ném xuống ḥng làm gián đoạn công việc của họ.


    Sửa đường.

    Trẻ con có thể đi lấp hố bom c̣n những cây cầu bị ném bom lại là chuyện khác. 15 năm trước trong chiến tranh chống Mỹ, Bắc Triều Tiên đă gặp vấn đề tương tự các chuyên gia Bắc Triều Tiên liền nhanh chóng đến để truyền lại cho người Việt Nam 6 cách đưa xe tải qua sông sau khi bị đánh bom. Cây cầu đơn giản nhất được dựng nên bằng những bó tre được buộc chặt với nhau bằng thân cây mềm cho nổi trên mặt nước, các tấm gỗ được đặt ngang và cột chặt với thân cây đó. Những thứ đó chẳng tốn kém ǵ và có thể được thay thế mà không phải nhọc sức. Một điều khác phức tạp hơn được xây dựng bằng cách tập hợp các con thuyền phẳng đáy rộng 3 feet, dài 16 feet lại với nhau, đặt một lối đi bằng tre và các tấm ván ngang qua đó. Những cây cầu phao này được giấu kín dọc bờ sông vào ban ngày để tránh bị đánh bom và vào ban đêm lại được đưa ra đối với những con sông rộng nước chảy xiết phải có những cái phà với móc và dây cáp chắc chắn. Vật liệu dùng để sửa chữa cầu phà được cất giấu ở gần đó. Xe cộ sẽ không c̣n phải dừng lại lâu hơn 1-2 ngày sau một đợt tấn công.



    Điều này không có nghĩa khi bị tấn công bằng bom sẽ không có tổn thất nặng nề ǵ. Năm 1966 cần phải mất 5 tiếng để lái xe trên đoạn đường đầy các hố bom dài 65 dặm từ Hà Nội đến Hải Pḥng. Một phóng viên phương Tây ước tính phải mất 4 ngày chỉ lái vào ban đêm với tốc độ 10 dặm/1 giờ để đi hết 450 dặm chiều dài miền Bắc Việt Nam. Nếu gặp hố bom mới hoặc cây cầu vừa bị phá th́ lại c̣n lâu hơn.

    Sửa chữa đường sắt c̣n khó khăn hơn đường bộ. Người miền Bắc Việt Nam quyết định tập trung giữ ǵn đoạn đường sắt chạy từ Hà Nội sang Trung Quốc sao cho luôn hoạt động tốt. Với sự giúp đỡ của các công nhân Trung Quốc, họ đă xây dựng một đường sắt thứ ba sang Trung Quốc sao cho các toa tàu được đóng theo kích cỡ chuẩn của Trung Quốc có thể trực tiếp đi trên những đoạn ray hẹp ở Việt Nam. Để bù lại những tổn thất xảy ra trên đường ray họ mở rộng thêm hệ thống kênh mương vốn chằng chịt ở trong nước. Nông dân được yêu cầu nạo vét các con sông tới độ sâu 5 feet để các xà lan nhẹ có thể đi qua, một số con sông có thể phải nạo vét tới 14 feet. Các xà lan trở thành mục tiêu tấn công thường xuyên của các vụ đánh bom từ 1965 - 1966, các phi công Mỹ báo cáo họ đă huỷ hoại và phá hoại 23.978 phương tiện đường thuỷ, và đầu năm 1967 họ bắt đầu thả ḿn xuống các con sông ở đất nước này.

    V́ có quá nhiều máy bay lượn trên đầu nhằm do thám có vũ trang theo cách gọi của người Mỹ - nên ngụy trang trở thành một h́nh thức nghệ thuật. Các lái xe gắn cành cây, cành cọ, lá chuối lên nóc xe. Xe jip được bao phủ bằng một tấm lưới nhồi nhét lá cây. Các cây non được kéo sang một bên, cột chặt vào để che giấu các cầu phao. Không có việc ǵ nguy hiểm bằng nhiệm vụ của người lái xe tải. Các xe tải đi đơn độc hoặc thành từng đoàn nhỏ để tránh sự chú ư của máy bay. Ngoài những lần hỏng hóc máy móc, họ c̣n hay bị lạc do đường ṿng vèo và do thiếu dấu hiệu chỉ dẫn đường có bom. Nhưng vật chất vẫn tiếp tục tới được miền Nam. Nếu không thể vận chuyển được bằng xe tải, xà lan hoặc tàu hoả th́ một chiếc xe đạp thồ chở 600 pouds vẫn vượt qua được đoạn đường dài 175 dặm trong ṿng 18 ngày.

    Cơ sở công nghiệp hạn chế miền Bắc Việt Nam được tạo nên bởi khoảng 1000 doanh nghiệp. Trong số này, gần 200 doanh nghiệp là các nhà máy lớn, tương đối hiện đại đặt dưới sự giám sát của chính quyền trung ương. Một nhà máy cơ khí được xây dựng năm 1958 bằng 15 triệu đô la viện trợ của Liên Xô là một trong những nhà máy quan trọng nhất của Hà Nội. Đó là nhà máy sản xuất các chi tiết máy, máy tiện, công cụ, động cơ điện, v. v. Sau vụ đánh bom, nhiều thiết bị của nhà máy này được phân chia rải rác khắp 50 cửa hàng ở Hà Nội. Theo một tác giả người Cu Ba, nhà máy cơ khí đă bị phá hủy trông thật trống trải và hoang tàn nhưng các công nhân vẫn tiếp tục hoạt động suốt ngày với số máy móc cồng kềnh c̣n sót lại.

    Việc sơ tán cũng được thực hiện tương tự đối với một số nhà máy khác. Phần lớn các nhà máy vẫn tiếp tục hoạt động, song năng suất sản xuất giảm mạnh. Than xuất khẩu giảm c̣n một nửa, đất nước từng xuất khẩu xi măng bây giờ phải nhập khẩu. Những thành tựu đạt được trước chiến tranh trong công nghiệp may mặc tạm dừng, cả chất lượng lẫn số lượng vải đều giảm trong khi quân đội cần được cung cấp thêm nhiều bộ quân phục mới, người dân thường chỉ được sử dụng một phần nhỏ vật liệu kém chất lượng nhất cho nhu cầu cá nhân.

    Mặc dù một quả bom vỏ bọc sắt thường khó có thể gây thiệt hại cho một nông trang chưa được cơ khí hoá, hoạt động sản xuất thực phẩm vẫn suy giảm v́ Đảng cộng sản chuyển nông dân sang các hoạt động khác có liên quan đến chiến tranh. Lợn là nguồn cung cấp thịt quan trọng nhất của đất nước, khẩu phần thịt lợn vẫn được duy tŕ như trước - 10 ao-xơ/1 người mỗi tháng, nhưng ngay cả khối lượng nhỏ đó vẫn ít khi được đáp ứng. Khẩu phần đường khoảng 1 poud một tháng chỉ dành cho bà mẹ mới sinh con. Cá, nước mắm và bột rất hiếm hoi. Cứ ba tháng mới được phân phát 2 bao diêm và một miếng xà bông. Để bù đắp cho sự thiếu thốn đó chính phủ ra lệnh cho các công ty dược tăng cường sản xuất các viên thuốc vitamin.

    Vụ đánh bom đă gây ra nhiều khó khăn trong đời sống của cá nhân, song điều đó không làm lung lay ư chí ngoan cường của người miền Bắc Việt Nam. Ngay cả kẻ thù của họ cũng phải miễn cưỡng nể trọng và thừa nhận đó là một nền văn hoá vốn có tinh thần vượt lên khó khăn. Để mô tả sự khác biệt giữa thái độ đối với cuộc sống thường nhật của người dân Hà Nội và Newvork, có thể đưa ra một ví dụ: ở New York, chỉ cần 1 lần mất điện kéo dài ít tiếng đồng hồ năm 1965 đă làm nên một câu chuyện dài trên tờ Times và đă thực sự gây ra khó khăn. Người miền Bắc Việt Nam phải "thắt lưng buộc bụng” tuy rằng bụng họ vốn đă teo tóp. Vậy mà người ta vẫn không thể hiểu họ lấy đâu ra sự kiên cường đó.

    Họ đă hết sức cố gắng bảo vệ các cơ sở sản xuất bằng cách đặt vũ khí bảo vệ gần đó. Tuy nhiên, tên lửa đất đối không tỏ ra không mấy hiệu quả trong điều kiệ nb́nh thường. Đầu năm 1967, tổng số tên lửa đất đối không đă được khai hoả nhiều nhưng số máy bay bị hạ chỉ được 31. Một phần nguyên nhân là do kỹ thuật phá sóng công phu và thủ đoạn tránh né trên không của phía Mỹ.

    Tuy vậy, trong một số trường hợp, số tên lửa này vẫn có tác dụng. Họ điều khiển phi công Mỹ xuống tầm bắn của vũ khí chống không hạm để bắn có hiệu quả như cái việc bắn súng máy quen thuộc của họ. Vụ nổ hoả lực pḥng không kích thước 37 và 57 mm mà các phi công tưởng là bỏng ngô ở ngoài khoang lái Plexiglas và tiếp đó là vụ nổ hoả lực khác mạnh hơn với kích thước 85 và 100 mm có màu tối hơn và đáng ngại hơn. Người miền Bắc Việt Nam phát hiện ra rằng đặt súng vào vị trí dưới dạng h́nh tam giác, h́nh thoi, ngũ giác sẽ tập trung được hoả lực, do đó có thể bắt được máy bay ném bom kiểu bổ nhào trong h́nh chóp nón chết người của mảnh đạn đang cháy nổ.

    19/7/1967
    KHÔNG KÍCH VÀO CỔ CHAI

    Vào lúc 4 giờ 33 phút ngày 19/7/1967, tàu Oriskany của Mỹ tiến hành cuộc không kích đầu tiên trong ngày. Chiếc hàng không mẫu hạm đă đến Yankee Station một tuần trước khi tiến hành chuyến công tác lần thứ ba. Herb Hunter, sĩ quan phụ trách mới của phi đội số 2, bị đánh thức bởi tiếng đập chói tai của những chiếc pittông của máy đẩy nặng một tấn đang bị đẩy từ tốc độ 150 dặm một giờ về số không trong khoảng cách 9 feet, khi chiếc máy đẩy máy bay đạt đến mức phóng một chiếc máy bay lên không trung. 15 phút sau, việc các máy bay cất cánh hoàn thành và Hunter cố gắng t́m lại giấc ngủ. Anh nằm trong giường nghĩ miên man về chiếc cầu Cổ Chai. Cuộc không kích vào cây cầu này dự kiến sẽ được tiến hành vào buổi trưa. Anh sẽ dẫn đầu cuộc không kích đầu tiên của ḿnh vào Bắc Việt. Cách đây đúng một năm, Cal Swanson thực hiện chuyến không kích vào đúng cây cầu này. Jim Nunn là bạn bay cùng với Cal Swanson. Hôm nay, Leabert Fernander, bạn học của Nunn ở Annapolis, sẽ bay hỗ trợ cho Hunter.

    Herb Hunter không giống Cal Swansonl. Cal Swanson rất nhiệt t́nh và quan tâm đến từng chi tiết nhỏ. Hunter th́ lại thoải mái và dễ dăi. Swanson tin vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và nghĩ rằng người Mỹ tiến hành cuộc chiến ở đây là hoàn toàn chính đáng. Với thái độ dửng dưng, Hunter đặt câu hỏi về việc Mỹ tham gia vào cuộc chiến vào Việt Nam nhưng anh tin vào nghĩa vụ của người lính phải tuân lệnh của cấp trên. Swanson mang một phong cách nặng nề vào các đợt xuất kích. Hunter, từng là thành viên của đội bay biểu diễn hàng đầu của hải quân Blue Angels đă thể hiện một phong cách nhẹ nhàng khi điều khiển máy bay. Trong thời gian ngắn, Herb Hunter trở thành sĩ quan cao cấp nổi tiếng của phi đội 162.

    Jim Nunn và Leabert Fernandez học cùng lớp với nhau ở Học viện Hải quân trong 4 năm. Và hai người thăn nhau như hai anh em ruột.

    Cả hai cùng được nhận những lời đề nghị tham gia vào đội đua thuyền của trường. Hai người này học rất xuất sắc và được bạn bè nể phục tính chăm chỉ, tận tâm và nghiêm túc. Tuy vậy, Lee Fernandez, vẫn không giống Jim Nunn, anh đă bắt đầu quay lưng lại với cuộc chiến tranh và cuộc không kích vào cầu Cổ Chai sẽ thay đổi cuộc đời của anh. Sau này khi các thành viên của phi đội 162 được yêu cầu nhận xét về Fernandez th́ tất cả mọi người đều dùng một tính từ "trầm lặng” để nói về anh. Những phi công chiến đấu rất ít khi trầm lặng và thực tế là Lee dành nhiều thời gian đọc sách trong pḥng. Những cuốn sách về Gandhi, Camus, Fromm và lịch sử về Đông Nam Á đă tách rời anh ta khỏi các thành viên của phi đội. Nhưng Lee, vẫn luôn nhă nhặn và nhỏ nhẹ, là một phi công giỏi cho dù anh thường gặp những vấn đề trong các lần hạ cánh xuống boong tàu. Ḷng dũng cảm và nghị lực của anh là điều không ai phải bàn căi, điều này đă được khẳng định bởi sự công luận của các thành viên trong phi đội.

    Anh đă đến Yankee Station một tháng trước khi hoả hoạn xảy ra. Nỗi lo lắng về việc được giao nhiệm vụ trực tiếp hoạt động ở Yankee Station mà không qua một đợt tập luyện thông thường nào với phi đội ở Miramar hoá ra lại không có cơ sở. Cal Swanson chắc chắn là Lee sẽ được hướng dẫn một cách từ từ và cẩn thận bằng cách cho phép Lee Fernandez bay vào những vùng trời ít nguy hiểm của Bắc Việt. Lee Fernandez đă hiểu được đất nước này, qua việc so sánh với những điều anh nh́n thấy với những ǵ mà tấm bản đồ nhỏ mà anh mang theo trong buồng lái.

    Fernandez nói: "Khi đêm tối bao trùm xuống th́ cả dải đất dường như lẫn vào chân trời phía tây trong những màu sắc của kính vạn hoa. Hàng ngh́n ḍng suối và con sông bừng sáng trong những dải lụa trắng của màu xanh bạc khi chúng phản chiếu những tia sáng c̣n rớt lại của một bầu trời đêm. Tôi thấy thật là khó tưởng tượng nổi việc người ta lại tiến hành một cuộc chiến giữa những cảnh đẹp tĩnh lặng này."

    Câu hỏi này đi vào tâm trí của Lee ngay lập tức. Nhiệm vụ tấn công vào một trận địa pháo cao xạ của quân đội Bắc Việt đă không gây ra một sự khó chịu nào đến Lee cả v́ đó là cuộc đối đầu của hai lực lượng quân sự. Anh nói: "Nhưng thông thường th́ dân thường ở dưới mặt đất là những người chịu thiệt nhất, bởi v́ trong môi trường chiến trận th́ chúng ta không thể nào thả bom chính xác vào những mục tiêu đă định. Điều này đă làm tôi suy nghĩ rất nhiều đặc biệt là trong các cuộc không kích với quy mô nhỏ khi bạn có thể lượn qua lượn lại để quan sát chính xác nơi bạn sẽ thả bom. Một loại nhiệm vụ mà tôi không thích là trinh sát vũ trang. Khi đó hai máy bay sẽ bay qua khu vực đất liền mà hầu hết là không có các lực lượng quân đội - bảo vệ để t́m kiếm những khu vực có dấu hiệu nghi ngờ. Ném bom vào các cây cầu hay các đường sắt th́ không có vấn đề ǵ cả. Nhưng những chiếc thuyền, xe khách và các khu nhà làm tôi lo nghĩ rất nhiều v́ chỉ cần một quả bom thả xuống th́ chắc chắn sẽ cướp đi sinh mạng của rất nhiều thường dân vô tội và không có vũ khí”.


    Dân thường chịu thiệt hại nhiều nhất

    Hai ngày sau khi Cal Swanson được giữ vị trí chỉ huy của phi đội, Lee Feruandez làm lễ cưới với Dorothy, một y tá ở San Diego. Swanson không cảm nhận được mức độ chán nản của Lee Fernandez đối với cuộc chiến này. Swanson nói: "Lee trầm lặng đến nỗi tôi không nghĩ là tôi đă có thể nhận ra liệu những câu hỏi của anh ta đặt ra nhằm mở rộng kiến thức của anh ta hoặc liệu anh ta đang t́m câu trả lời cho tính hợp lư của cuộc chiến này hay không”. Tuy vậy Swanson tin rằng Dorothy không phải là một người vợ lư tưởng của một phi công chiến đấu. Dorothy dường như khá dè dặt và không nhiệt t́nh hồ hởi. Cô thuộc tuưp người thích đọc sách hơn tham gia các hoạt động xă hội với các cô vợ của các phi công khác trong phi đội. Dorothy muốn đến Philippin để gần gũi với Lee khi tàu Oriskany đang ở Yankee Station chuẩn bị chiến dịch không kích năm 1967. Swanson thuyết phục cô rằng việc cô đến Philippin sẽ ảnh hưởng không tốt đến kỷ luật của các phi công khác khi vợ của họ đang ở nước Mỹ.

    Swanson tin rằng Herb Hunter có ảnh hưởng tốt đến Lee Fernandez nên Swanson chỉ định Fernandez bay cùng cặp với Hunter. Và hai người này c̣n ăn ư với nhau hơn anh hi vọng. Lee Fernandez nghĩ rằng Herb Hunter là một trong những sĩ quan hải quân tốt nhất mà anh đă từng gặp. Việc Hunter và Fernandez sẽ tham gia chiến dịch không kích vào Cổ Chai như Swanson và Nunn đă từng làm cách đây một năm là một sự ngẫu nhiên của sự sắp xếp. Nếu Swanson biết được cuộc không kích lần này sẽ diễn ra như thế nào, sau này anh nói lại, th́ anh đă thay đổi lịch tŕnh và tự anh tham gia chiến dịch này.

    Cal Swanson đă không có được thời gian dễ chịu khi anh làm sĩ quan chỉ huy mới của phi đội 162. Phi đội không quân của lực lượng hải quân khá độc đáo trong các lực lượng vũ trang. Phi đội này bao gồm một nhóm nhỏ những sĩ quan có tính cạnh tranh cao được lựa chọn về chỉ số thông minh, sự tự khẳng định bản thân và khả năng chuyên môn và khả năng đối mặt với môi trường đầy sức ép mà nó được coi là thử thách cuối cùng của sự điềm tĩnh. Việc cất cánh từ một chiếc hàng không mẫu hạm đ̣i hỏi các phi công phải tự động viên ḿnh là phi công giỏi nhất trong phi đội - tất nhiên trong hải quân việc đánh mất sự tự tin vào bản thân sẽ dẫn đến tai nạn hoặc cái chết. Và không cần phải bàn luận, những viên phi công này rất cứng đầu và khó chỉ huy họ.

    Thật khó để liệt kê chính xác những điều ǵ cần thiết để trở thành một người chỉ huy giỏi. Trên tàu Oriskany, Bryan Compton, chỉ huy của phi đội A-4, được mọi người ngưỡng mộ về những tiêu chuẩn của một người chỉ huy. Compton có biệt danh là "hoa mộc lan" không chỉ bởi v́ anh được sinh ra ở Georgia mà c̣n theo nhận định của các đồng đội - quần áo bay của anh bao giờ cũng có mùi thơm. Bạn luôn t́m được một chiếc ghế trống bên cạnh Compton tại các cuộc họp trước khi xuất kích. Dick Wyman nhận xét “tôi có thể lần theo dấu của "hoa mộc lan" ở bất kỳ nơi nào. Tôi nghĩ mọi người đều cảm thấy như vậy. Và "hoa mộc lan" là một gă như vậy đó. Mọi thứ ngày càng tồi tệ bao nhiêu th́ đối với anh ta càng tốt bấy nhiêu. Anh ta là một gă xấu xí nhưng lại là người điển h́nh của chúng ta?".

    Black Mac cũng đồng t́nh "lần đầu tiên khi bạn nói chuyện với "hoa mộc lan" th́ bạn sẽ phải thốt lên "đây là thằng nông dân trời đánh thánh vật”. Nhưng anh ta rất nhanh nhẹn và dũng cảm".

    Tờ báo đặc chủng của hải quân đă liệt kê những đặc điểm cần có để trở thành một người chỉ huy giỏi. Những điều đó là: ḷng can đảm, sự hoà đồng với đồng đội, sự tế nhị trong giao tiếp, sự cần mẫn, sự chân thật, hết ḷng v́ nhiệm vụ và tính hi sinh. Tờ báo này không quên đề cập đến tầm quan trọng của tính hài hước. Tờ báo này cho biết: "Một trong những đặc tính của con người dễ nhận thấy trong các phi công hải quân là tính hài hước. Tính hài hước và tinh thần lạc quan có thể làm dịu bớt những t́nh huống căng thẳng mà các phi công thường gặp, làm tiêu biến những sự khó chịu trong khi chuẩn bị tham gia các cuộc không kích".

    Mặc dù rất nghiêm khắc trong khi thực hiện nhiệm vụ Compton được mọi người chú ư đến sự điềm tĩnh và vui vẻ v́ không coi mọi việc quá nghiêm trọng trong khi vẫn thể hiện tốt được năng lực và nghị lực của ḿnh. Dick Wyman nhận xét tiếp: "Khi bạn bay qua bầu trời của Hà Nội th́ bạn sẽ nghe "hoa mộc lan” nói vài câu hài hước. Một số người cố tỏ ra vui tính khi họ đang sợ hăi và họ nói luôn mồm. Nhưng Compton có thể làm bạn vơi đi sự lo lắng bằng sự vui vẻ của ḿnh và làm bạn cùng góp vui bằng những câu chuyện của ḿnh một cách tự nhiên". Khi bạn quan tâm đến điều đó th́ đó có thể là bản chất của một người chỉ huy giỏi. Phải là một viên phi công giỏi. Phải điềm tĩnh vui vẻ. Cả Herb Hunter và Cal Swanson đều là những phi công xuất sắc. Herb Hunter khá điềm tĩnh c̣n Cal Swanson th́ không như vậy.

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P18


    Ngoài ra Cal Swanson đang phải đối mặt với một vấn đề đặc biệt trong việc bố trí nhân lực. Nếu như tàu Oriskany đang chịu cảnh thiếu nhân lực có tŕnh độ th́ phi đội 162 lại gặp vấn đề ngược lại. "Rơ ràng chúng ta có hàng trăm trung uư đang phục vụ quân đội nhưng chẳng ai có một tí kinh nghiệm chiến đấu nào”. Black Mac nói: "Hải quân cứ tống họ vào phi đội này thôi. Thông thường một phi đội có một tổ phụ trách gồm 3 trung uư phụ trách hành chính, hoạt động và bảo dưỡng và hai sĩ quan phụ trách việc chỉ huy và quản lư. Số c̣n lại sẽ gồm có những trung uư và thiếu uư hải quân trẻ. Nhưng trong phi đội của chúng ta có 6 chỉ huy trung uư, những gă đàn ông cao cấp đă ở đây quá lâu và quá bảo thủ nên chẳng bao giờ chịu nghe lời của Swanson".

    Viên trung uư chỉ huy thẳng tính nhất là Pat Crahan đến từ Ohio chỉ cao 5 feet 6 inches, thấp nhất trong phi đội. Crahan, 32 tuổi, có khuôn mặt điển trai bộc lộ qua những nét lạnh lùng. Anh đă tham gia không quân hải quân nhưng sau đó quyết định xin ra khỏi quân đội và xin vào công ty đăng kư tài khoản quốc gia khi bố anh đă từng làm chủ tịch. Pat nói: "Tôi không thích những người cứ nói ṿng ṿng không thẳng thắn. Khi tôi gặp khách hàng và giới thiệu tôi là nhân viên của Công ty đăng kư tài khoản quốc gia th́ người ta bỏ đi một cách bất lịch sự mà không thèm nói với tôi một lời. Tôi không chịu đựng được điều đó. Tôi gặp khó khăn với những người như vậy và những cuộc tiếp xúc đó đă không cải thiện được quá tŕnh công tác của tôi".

    Pat đến thăm Jim Stockdale để hỏi xem liệu Jim Stockdale, người từng là sĩ quan quản lư của anh ở đơn vị cũ có thể giúp đỡ anh trở lại làm phi công chiến đấu trong lực lượng hải quân không. Stockdale ra tay giúp đỡ nhưng Pat chỉ được nhận lại với vai tṛ sĩ quan hướng dẫn bay. Khi anh làm sĩ quan phụ trách máy phóng máy bay ở tàu Constellation th́ Ev Alvarez, phi công của tàu Connic, là phi công đầu tiên bị bắn rơi và bị bắt làm tù binh trong sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Hải quân đă kỷ luật anh nhưng anh cảm thấy điều này không hợp lư. Pat biết rằng hăng hàng không Hoa Kỳ đang cần thuê những sĩ quan hướng dẫn bay. Anh có 5 đứa con và lương mà hải quân trả cho anh cao hơn lương của hăng hàng không Hoa Kỳ. Nhưng anh vẫn không quên được việc bị kỷ luật không hợp lư đó và không lâu sau anh không được đề bạt lên chức trung uư chỉ huy. Anh không t́m ra lư do rơ ràng nào trong khi anh bị loại ra khỏi danh sách đề bạt thăng chức và việc chỉ huy không lưu của tàu Connic nhúng tay vào việc thăng chức của anh. Crahan rất tức giận. Anh đă gửi lên ban chỉ huy một lá đơn thông báo ư định xin ra khỏi ngành hải quân, sau đó anh sẽ bay đến Seattle và viết đơn xin việc vào hăng hàng không Hoa Kỳ.

    Lúc đó là gần cuối năm 1965, cuộc chiến bắt đầu vận hành guồng máy của nó nên hải quân quyết định không giải quyết một yêu cầu ra quân nào cả. Một sĩ quan chuyên nghiệp có thể xin ra khỏi quân đội nhưng sẽ phải phục vụ thêm 12 tháng trước khi nhận được quyết định ra quân và thời gian đó được tính từ khi anh phục vụ trong một phi đội hoặc một con tàu nào đó. Pat Crahan đă mang nỗi trăn trở của ḿnh bày tỏ với nghị sĩ Everett M. Dirksen và yêu cầu ông can thiệp. Sau đó văn pḥng của nghị sĩ Everett nhận được thông báo của Lầu Năm Góc cho biết Pat đă được phi đội 162 chấp nhận. Sau một năm phục vụ ở đây, anh sẽ được phép ra khỏi quân đội.

    Pat kết thúc khoá huấn luyện máy bay F-8 trước Hert Hunter và nhận được lệnh đến Nhật Bản. Lần này anh được thăng chức trung úy sĩ quan chỉ huy. Pat kể lại: "Khi tôi đến Nhật Bản, một viên hạ sĩ quan phụ trách việc vận chuyển hỏi khi nào tôi muốn đến Philippin và từ đó sẽ đến Yankee Station. Tôi trả lời: "Khoảng 2 tuần tính từ thứ tư tuần tới". Anh ta nói:"Tôi rất tiếc, tôi chỉ cho anh thời gian một tuần thôi". Ở Nhật Bản, Pat gặp Herb Hunter và thế là cả hai người cùng bay đến Philipin. Herb tỏ ra sốt sắng về việc đến tàu Oriskany và anh cố gắng thuyết phục Pat bay cùng với anh chung một chuyến bay nhưng anh không định vị được vị trí của chiếc tàu đó ở đâu. Đó là buổi sáng ngày 26/10/1966 khi tàu Oriskany bị hoả hoạn. Crahan và Hunter phải đợi cho tàu đến Philippin. Số thành viên c̣n lại của phi đội phải mua vé máy bay để đến San Diego trong khi Pat và Herb phải trở lại tàu Orikany lúc này trông giống như một chiếc bánh bị cháy thui. Trong chuyến bay trở về tàu, Pat chú ư rằng tàu không bị máy bay của Liên Xô quấy rối như b́nh thường, có thể đó là hành vi lịch sự v́ người Nga biết rằng lực lượng không quân của tàu Oriskany không có khả năng xuất kích và thực hiện một cuộc đối đầu với không quân của Nga vào lúc này.

    Pat không gặp được sĩ quan chỉ huy mới của anh đến tận sau khi cuộc họp thay đổi chỉ huy. Trong lúc đó, anh hoàn tất khoá học về an toàn hải quân ở Washington. Điều này có nghĩa là anh sẽ là sĩ quan phụ trách vấn đề an toàn mới của phi đội. Cuối cùng th́ Swanson và Pat cùng gặp được nhau, nhưng cuộc nói chuyện này đă không diễn ra thuận lợi. Pat nói: 'Thưa ngài, tôi được chỉ định đến phi đội của ngài nhưng tôi rất muốn ra khỏi nơi này. Nếu ngài có cách nào giúp tôi ra khỏi nơi này nhanh hơn th́ tôi rất lấy làm cảm ơn. Tôi sẽ làm những việc tôi phải làm nhưng xin ngài hiểu cho rằng tôi chỉ phục vụ ở đây trong thời gian ngắn thôi. Trong bất kỳ trường hợp nào th́ tôi vẫn phải đi trong ṿng một năm nữa.

    Cal Swanson giật ḿnh khi nghe Pat tuyên bố như vậy Pat có thể hiểu Cal Swanson rất giận và cảm thấy bị xúc phạm cho dù anh ta vẫn cố gắng giữ sự điềm tĩnh. Nhưng khi họ cùng huấn luyện ở Arizona th́ Cal Swanson không c̣n giữ được sự b́nh tĩnh nữa, anh bộc lộ hết những ǵ anh nghĩ. Pat kể tiếp: "Chuyện xảy ra ở một quán bar ở Yuma. Cả hai chúng tôi đă uống quá nhiều và khi đến độ th́ chúng tôi sẽ nói ra những ǵ chúng tôi vẫn nghĩ. Tôi đang kể cho ai đó về việc tôi sẽ ra khỏi hải quân th́ Swanson tức giận thực sự. Điều này làm cho mọi người ở đó ngạc nhiên. Khi chúng tôi trở về Miramar, anh ta gọi tôi vào văn pḥng của anh ấy và đọc cho tôi nghe điều khoản về tội bạo loạn. Tôi nhắc lại suy nghĩ của ḿnh: "Nếu ngài có cách nào giúp tôi ra khỏi nơi này th́ điều đó rất tốt cho cả hai chúng ta".

    Cal bị rơi hoàn cảnh khó xử. Anh nói: "Pat Crahan đang hiếu chiến. Tôi nghĩ hành động của anh ấy gây ảnh hưởng xấu đến kỉ luật của phi đội. Anh ta đă thể hiện thái độ chán ghét hải quân và việc hải quân đă làm cho anh ta thất vọng như thế nào. Tôi đă bảo anh ấy nên giữ điều đó trong ḷng thôi". Swanson không thể chuyển Pat Crahan đi đâu được v́ nghị sĩ Dirksen đă được thông báo rằng Pat sẽ phục vụ trong phi đội 162 trong ṿng một năm và cả Swanson và Lầu Năm Góc không muốn liều lĩnh khơi dậy cái vấn đề này với sức mạnh quyền lực của vị chính khách này. Bên cạnh đó theo cách nh́n nhận của hải quân th́ Pat là vấn đề của Cal. Đó là một thử thách của một người chỉ huy. Và Cal biết rằng đó là điều anh phải lao tâm khổ tứ.

    Điều làm cho vấn đề càng tệ hại hơn là Pat Crahan là một sĩ quan hải quân xuất sắc, có năng lực và ăn mặc rất bắt mắt. (Ngay Cal cũng phải công nhận: " Pat là một phi công giỏi và không có ǵ phải bàn căi về điều này”) và trong anh có một nét duyên dáng quyến rũ khi anh không phàn nàn về cái này hay cái kia. Pat rất hoà đồng và sẵn sàng tham gia những tṛ chơi của những người đàn ông như là uống rượu lửa, một tṛ chơi vào đêm khuya ưa thích của Dick Wyman và Black Mac. Họ đổ đầy rượu mạnh vào một chiếc cốc và châm lửa đốt; một người sẽ uống cạn trong khi lửa vẫn đang cháy; một tṛ chơi vô nghĩa đôi khi gây bỏng môi người uống. Năng lực và tính hoà đồng của Crahan đă tạo ra một sức ép lớn đối với hải quân nói chung và Swanson nói riêng trong những lần anh cảm thấy không hài ḷng hơn là lúc anh từng là, theo ngôn ngữ của hải quân - một gă vô dụng.

    Swanson cố gắng phớt lờ Crahan. Anh có ư định chuyển đổi phi đội của ḿnh thành phi đội ném bom. Một năm trước, phi đội này đă ném bom vào những mục tiêu như là Cổ Chai nhưng hầu hết những nhiệm vụ đó toàn do những phi công chiến đấu đơn thuần đảm nhiệm. Kế hoạch của Swanson không bắt từ ư tưởng muốn tăng cường sức tàn phá của quân đội Mỹ lên Bắc Việt mà bắt nguồn từ một sự xem xét thực tế là các thành viên trong phi đội thường xuyên lăng phí thời gian làm nhiệm vụ canh chừng Mig cho các máy bay ném bom khác. Nếu như đạn bắn vào những vật cứ thoắt ẩn thoắt hiện như Mig, vốn rất khôn ngoan, của Bắc Việt một cách không có mục đích th́ tốt hơn là tập trung vào một thứ để phục vụ cuộc chiến tranh. Phi đội F-8 khác trên tàu Oriskany cũng muốn khôi phục chức năng ném bom đầu tiên của họ và Swanson đă phải đấu tranh quyết liệt xem phi đội nào sẽ đảm nhận nhiệm vụ này, người ta phải dùng việc tung đồng xu. Cal chọn mặt ngửa và thắng. Tuy nhiên, phi đội đă không tán thành ư kiến của anh ngay.

    Black Mac nói: "Lúc đầu tất cả mọi người đều phản ứng gay gắt về việc chuyển phi đội thành đơn vị ném bom chuyên trách như Swanson muốn. Có hàng triệu lư do để giải thích tại sao việc mang đủ bom cho tất cả những chiếc F-8 là không thể thực hiện được. Nhưng quyết định của Swanson lại hoàn toàn đúng đắn và sau đó tất cả mọi người đều nhất trí rằng kế hoạch của Swanson là rất hay và sáng tạo".

    Những phi công phản đối kế hoạch của Swanson có cơ hội tham gia những cuộc nói xấu sau lưng khi Swanson dẫn cả phi đội tham gia một cuộc huấn luyện ở Arizona để ném những quả bom chất đầy cát và nước xuống một trận địa giả. Cal nói: "Tôi muốn giống thực tế và càng gắn khung cảnh chiến tranh càng tốt. V́ vậy tôi tắt tất cả các thiết bị định vị và quan sát chặt chẽ bằng mắt thường. Bay ở độ cao thấp với tốc độ 400 hải lư qua một sa mạc mà chỉ định vị mục tiêu bằng mắt th́ rất dễ nhầm đường. Và tôi đă nhầm thật sự”.

    Black Mac kể: "Swanson nh́n thấy một cánh đồng và nói: "Mục tiêu đây hả". Tôi trả lời "Tôi nghĩ là như vậy đó”. Anh ấy lượn vào rồi ném bom. Khi tôi lao vào theo th́ nh́n thấy một dấu x lớn nằm vắt ngang cánh đồng, dấu x này mang màu vàng cam. Tôi tự nhủ "Chết tiệt, chẳng có ai đánh dấu mục tiêu như vậy cả. ". Tôi liền quay trở ra khỏi khu vực đó và ném vài quả bom xuống khu rừng bên cạnh. Đúng lúc đó tôi nghe thấy ai đó gọi, một viên phi công A-4 kêu lên: "Anh bạn chọn nhầm mục tiêu rồi". Swanson đă dẫn chúng tôi đến khu liên hợp Uỷ ban năng lượng hạt nhân nằm ngay giữa sa mạc. Nhân viên của uỷ ban năng lượng hạt nhân không hiểu tại sao Swanson lại ném bom xuống đây và họ điện đài lên cho Swanson "đi đến Arizona" và thế là chỉ huy bay cho Swanson một bài thuyết giáo ngay lập tức và Swanson không được dẫn đầu một nhóm không kích lớn nào nữa sau khi chúng tôi trở về Yankee Station. Tôi nghĩ điều này là sai lầm của anh ấy v́ việc dẫn đầu và chỉ đạo những cuộc trận không kích lớn là cách bạn giành được thêm sao bạc trên vai đó".

    Swanson nói: "Tôi thấy thật sự rất xấu hổ”.

    Vấn đề đối với Pat Crahan đạt đến đỉnh điểm khi tàu Oriskany chuẩn bị chuyển đến Yankee Station. Lee Prost, một thành viên cũ của East Coast và là người bạn thân của Dick Wyman, đang tiến hành một cuộc tập luyện nhắm vào một bộ phận kéo của tàu. Đây là chuyến bay luyện tập về phương hướng mà các phi công thực hiện đợt luyện tập này rất dễ dàng mà không mất chút mồ hôi nào. Vậy mà v́ một lư do nào đó Prost đă không thực hiện được nhiệm vụ này mà bay thẳng xuống biển chứ không bay ra khỏi khu vực mục tiêu. Và v́ là một sĩ quan phụ trách những quy định an toàn, Pat Crahan buộc phải điều tra tai nạn này và viết báo cáo.

    Máy bay bị hỏng đến nỗi không thể phục hồi được. Không c̣n những cuộc trao đổi điện đàm được ghi lại. Điều duy nhất mà người ta có tính đến là Prost luôn bị ám ảnh bởi hiểm nguy hiện hữu của sự cố định mục tiêu. Các phi công đôi khi vẫn bị rơi vào t́nh trạng bị thôi miên về đường ném bom, thay v́ thả bom xong và bốc thẳng lên th́ họ lao thẳng vào mục tiêu. Đó là điều mà họ đă được cảnh báo trong các chuyến bay luyện tập. Pat Crahan chỉ có thể nhận xét được như vậy thôi. Anh biến bản báo cáo này thành vũ khí chỉ trích việc chỉ huy lănh đạo của Swanson. Anh nói: "Nghĩ lại, có thể tôi cố gắng nhạo báng Swanson nhưng lúc đó tôi cũng muốn nói ra sự thật để nhằm vào Swanson". Quy tŕnh thông thường để nộp các bản báo cáo về các tai nạn là phải chuyển qua sĩ quan chỉ huy trực tiếp, người này sau đó sẽ chuyển bản báo cáo đến một loạt sĩ quan chỉ huy cấp trên kèm theo lời nhận xét của ḿnh. Pat quyết định lờ Swanson đi. Anh gửi thẳng bản báo cáo đến Washington. Được sự giúp đỡ của Burt Shepherd, sĩ quan chỉ huy bay. Swanson đă lấy được bản báo cáo đó tại pḥng bưu chính của tàu trước khi nó được gửi đi.

    Cal nói "Bản báo cáo tai nạn đó gây cho tôi một cơn nổi giận lôi đ́nh. Tôi gọi ngay anh ta vào văn pḥng và dùng hết lời lẽ để mắng. Pat quy trách nhiệm tai nạn của Prost do sự thiếu sót trong phối hợp hoạt động và thiếu sự chỉ dẫn của chỉ huy. Tôi nói: Anh biết bản báo cáo đó là sai. Đă vậy, anh c̣n biến nó thành mũi dùi để chọc vào hải quân và tôi. Về pḥng và viết lại báo cáo theo đúng những ǵ anh biết. Và nếu anh c̣n có thái độ như thế này nữa th́ tôi dám chắc với anh một điều là anh sẽ chẳng bao giờ nhấc chân ra khỏi hải quân được đâu”. Tôi nói ra một số ư của tôi nghĩ sẽ làm cho bản báo cáo hợp lư hơn và anh ta viết theo những ư đó. Và tất nhiên Pat vẫn bất b́nh và nghĩ tôi đang dùng vị trí người chỉ huy để thay màu bản báo cáo".

    Pat cho biết: "Sau lần đó chúng tôi rất ít khi nói chuyện với nhau. Swanson phạt không cho tôi làm sĩ quan phụ trách an toàn nữa. Anh ấy bắt tôi trở thành phi công. Tôi không bao giờ bộc lộ sự đối đầu v́ tôi không muốn. Tôi treo một ảnh của người mẫu của hăng hàng không Hoa Kỳ DC-8 qua chiếc ghế trong pḥng chuẩn bị. Điều này làm cho Swanson nóng mắt nhưng anh ta không bảo tôi bỏ tấm ảnh đó xuống. Tôi nghĩ rằng anh biết được nếu anh yêu cầu tôi bỏ tấm ảnh đó xuống th́ anh ấy rơi vào bẫy của tôi. Và mối quan hệ của chúng tôi là như vậy đó".

    Cho dù Crahan suy nghĩ về Cal như thế nào đi nữa th́ anh vẫn phải đồng ư với mọi người rằng Cal là người hiểu rơ công việc có liên quan đến máy bay nhất. Cal có thể bước lên bảng và thể hiện rơ những ǵ anh nghĩ với một nhà toán học xuất sắc một cách dễ như thường. Đó là những điều mà hầu hết các phi công khác đă từng học và ghi nhớ từ hồi học ở trường dạy phi công nhưng giờ th́ đă quên gần hết. Bạn phải lắng nghe những ǵ anh ấy nói. Swanson là một trong những người đầu tiên phát hiện ra cách đánh bại SAM. Anh nói bay ở tầm cao thấp là một sai lầm. Bạn có thể làm sai lệch hệ thống hệ thống dẫn đường của tên lửa bằng cách bay vào giữa một quả đồi hoặc một địa h́nh nào đó. Nhưng khi ở đội cao thấp như vậy th́ ngay cả một đứa trẻ con cũng ném đá vào được ca bin của bạn.

    Swanson ủng hộ phương thức đối đầu trực tiếp với tên lửa ở trên cao. Đó là một việc nguy hiểm và cần những người có dây thần kinh thép, nhưng cách thức thực hiện th́ đáng tin cậy nếu như bạn thực hiện đúng. Đầu tiên bạn phải quyết định xem khu vực tên lửa đó có bám theo bạn không bằng cách cố gắng tạo ra vận động tương đối. Ví dụ như nếu bạn đang đi trên một sa mạc và nh́n thấy một ai đó ở đằng xa, bạn có thể quan sát người đó bằng ngón tay cái của ḿnh để nói xem anh ta đang đi đâu. Nếu như anh ta đang tiến về phía bạn th́ dường như anh ấy không di chuyển ǵ cả người anh chỉ to hơn thôi. Nếu anh ta không tiến về phía bạn th́ anh ấy sẽ đi sang phải hoặc sang trái của ngón tay cái của bạn. Khi phi công nh́n thấy một quả tên lửa bay với vận tốc 1800 dặm một giờ th́ anh ta phải chúc đầu máy bay xuống và giữ nguyên tư thế đó khi anh dùng ngón tay cái để kiểm tra hướng bay của quả tên lửa. Nếu như không có sự vận động tương đối và quả tên lửa không lệch sang trái hay sang phải th́ có nghĩa là nó đang lao về phía máy bay của bạn đó. Đến gần phút cuối cùng, bạn phải thực hiện động tác lộn nhào. Khi đó bạn phải đột ngột nâng độ cao và lượn sang phải hoặc sang trái liên tục trong khi lao thẳng lên bầu trời. Nếu quan sát trong khung cảnh không gian ba chiều th́ động tác nhào lộn này giống như ṿng xoáy của đồ khui nút chai. Bạn sẽ bay cách thức giống như ṿng xoáy của đồ khui nút chai, do nó liên tục thay đổi toạ độ của máy bay, cộng với vận tốc của tên lửa càng làm cho cách thức chống tên lửa kiểu này càng hiệu quả. Hệ thống dẫn đường của tên lửa không thể nào phản ứng đủ nhanh nhẹn so với động tác lộn nhào của máy bay v́ bán kính của mỗi động tác lượn là khá lớn nên quả tên lửa sẽ bay qua và phát nổ một cách vô hại.

    Những phi công xuất sắc hơn trong phi đội nhanh chóng nhận ra được giá trị của chiến thuật này. Quá tŕnh này diễn ra rất nhanh nhưng đó là điều mà DickWyman và Black Mac quan tâm và ngoài ra chiếc hộp đen đă được cải tiến tạo điều kiện cho phi công tiếp cận những biện pháp đối phó điện tử phức tạp hơn để chống tên lửa. Bên cạnh đó mỗi máy bay đều được trang bị hộp đựng những miếng kim loại nhôm nhỏ mà phi công có thể phóng ra để giả vờ đó là vỏ kim loại để đánh lừa hệ thống định vị bằng radar của tên lửa, một chiến thuật đă được phát triển ở chiến tranh thế giới lần thứ II.

    Dick Wyman nói: "Lần đầu tiên tham gia chiến dịch không kích, tôi đă gần mất mạng khi suưt đâm xuống đất để tránh tên lửa. V́ vậy trong cuộc không kích năm 1967 này tôi sẽ bay ở trên cao và quan sát tên lửa và thử xem tôi có thể xác định được vận động tương đối hay không. Vỏ kim loại mà chúng ta tự tạo có ư nghĩa trợ giúp về mặt tinh thần. Trong ca bin của bạn có một chiếc nút, khi bấm vào th́ bạn sẽ tạo ra một dải những mảnh kim loại nhôm, tôi sẽ bấm nút hên tục. Đó là cách của tôi".

    Khi Oriskany đến Yankee Station, Cal Swanson cảm thấy tự tin rằng cả phi đội đă chuẩn bị kĩ lưỡng cho cuộc chiến. Lúc này, ở nước Mỹ người ta đang dần dần phản đối cuộc chiến này nhưng Swanson hi vọng sự tác động của người dân không thể đầu độc được kỷ luật của các phi công. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của ḿnh, không được đề cập đến việc sống chết, phi đội nào cũng cần được củng cố liên tục về mặt tinh thần. Cal Swanson quyết định viết một lá thư rồi gửi cho tất cả những người vợ của các phi công và chỉ cho họ biết những lời khuyên để động viên tinh thần của những người chồng đang chuẩn bị bước vào một cuộc chiến mới .

    Hai ngày sau đó, Swanson ra lệnh cho phi đội tiến hành chiến dịch không kích đầu tiên vào miền Bắc Việt Nam trong năm 1967. Chiến dịch không kích diễn ra không gặp trở ngại nào. Do có điều khoản trong hiệp ước quân sự nên sĩ quan chỉ huy và sĩ quan phụ trách không bao giờ bay cùng với nhau, do đó Herb Hunter sẽ chỉ huy chiến dịch không kích lần thứ hai. Nhưng Herb không có chút kinh nghiệm chiến đấu nào và Swanson muốn Herb cần phải có một chút kinh nghiệm trước khi chỉ huy một phi đội tiến vào đất liền. V́ vậy ban chỉ huy đă quyết định Butch Verich sẽ chỉ huy chiến dịch không kích thứ hai. Butch là sĩ quan trung uư cao cấp – sĩ quan chỉ huy chiến dịch của phi đội. Dick Wyman có thể bay cạnh Hunter trong chiến dịch do Butch chỉ huy,để tạo điều kiện cho Herb học hỏi thêm kinh nghiệm thực tế. Thời gian ấn định cho cuộc không kích lần thứ 2 là ngày 16/7/1967. Swanson tin rằng sau chuyến bay này Herb sẽ sẵn sàng chỉ huy chiến dịch không kích vào Cổ Chai diễn ra vào 3 ngày sau đó.

    Một năm trước Butch bị bắn hạ. Người ta vẫn nghi ngờ về khả năng phản ứng của Butch trên đất liền nhưng đó không phải là năng lực của anh ta DemetrioVerich, 40 tuổi, đến từ Wisconsin, là thế hệ đầu tiên con lai của người Nam Phi và người Ư đến định cư tại Mỹ. Gen thuộc ḍng Ha vơ của bố anh ta đă hoà quyện vào gen thuộc ḍng Latinh của mẹ anh ta nên anh ta vừa điềm đạm vừa chậm chạp. Anh ta rất lịch thiệp. Có một câu chuyện cười trong phi đội, tất nhiên là có phóng đại, về cái cách mà anh ta kể cho Rick Adams về việc máybay của Rick bị cháy vào năm ngoái. "Này Rick, máy bay của cậu đang cháy phải không?". Sau khi có đám lửa trên thân máy bay th́ máy bay của Rick đột nhiên tăng tốc, đó là trạng thái tăng tốc của máy bay và tạo cho đám lửa càng bốc to hơn từ khí thải thoát ra từ ống khói nhưng Rick không nhận ra là máy bay của ḿnh đang cháy ngày càng to v́ gió tạt. Rick trả lời "làm ǵ có” cho dù vẫn hơi nghi ngờ. Butch buồn rầu thốt lên: "Th́ cậu đang cháy đấy”.

    Năm ngoái Butch là sĩ quan bảo dưỡng máy bay của phi đội và anh làm việc rất có hiệu quả. Máy bay phản lực rất hay bị hỏng hóc đặc biệt là trong điều kiện thời tiết nhiệt đới và luôn giữ đảm bảo điều kiện máy bay sẵn sàng chiến đấu là một vấn đề. Verich nói Bellinger và Swanson rằng phi đội sẽ có cả 12 máy bay tham gia chiến dịch cùng một lúc. Hai người đó nói rằng điều đó không thể thực hiện được. Nhưng Butch đă thực hiện được. Black Mac nhận xét: "Butch là tuưp người nếu bạn cho anh ta chút thời gian để anh ta suy nghĩ về vấn đề đang cần giải quyết th́ anh ta sẽ luôn t́m ra được đáp số đúng. Nhận xét về anh ấy chỉ tập trung vào điều này thôi”.

    Lối suy nghĩ độc lập là sự bổ sung tuyệt vời cho những đức tính mà sĩ quan phụ trách bảo dưỡng máy bay cần phải có. Nhưng đó lại trở thành điểm bất lợi khi cần có những quyết định tổng hợp của nhiều người trong khi bay qua những khu vực bố trí trận địa pháo cao xạ và tên lửa. Lối suy nghĩ độc lập đă đẩy Butch vào khó khăn đợt tháng 8/1966. Anh và một người đồng đội khác tiến hành một nhiệm vụ trinh sát các khu vực vũ trang. Họ không t́m thấy điều ǵ khả nghi và Butch quyết định ném bom xuống một cây cầu. Khi Butch bay trở ra th́ anh nh́n thấy 5 chiếc thuyền nhỏ ở trên sông. Anh ta đă thả hết bom rồi nhưng vẫn c̣n vài quả rockét và thế là anh ta bay đến chờ máy chiếc thuyền đó. Có một quả rocket không khai hoả. Anh ta hạ thấp độ cao để ngắm lại mục tiêu và dồn toàn bộ sự chú ư vào mục tiêu. Sau này Butch kể lại, lúc đó anh hạ máy bay xuống quá thấp trong khi anh ta ngắm mục tiêu. Do đó anh bị súng trường bắn cháy. Anh phải lao ra biển và sau đó được trực thăng đến vớt lên.

    Báo chí tôn trọng những phi công bị bắn rơi giống như những người anh hùng, giống như cầu thủ bóng đá bị thương được cáng ra khỏi sân bóng. Nhưng các thành viên trong phi đội mà biết chuyện đă xảy ra như thế nào th́ có xu hướng chia vụ Butch bị bắn cháy thành hai quan điểm, một quan điểm thiên về việc tai nạn đó có thể pḥng ngừa được và một quan điểm đối lập với quan điểm trên. Và rất nhiều phi công của phi đội tin rằng vụ Butch bị bắn rơi thuộc quan điểm thứ nhất.

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P19



    Sau khi Swanson chỉ huy phi đội, anh cho Butch lựa chọn giữa việc vẫn làm sĩ quan bảo dưỡng hoặc làm sĩ quan chỉ huy chiến dịch. Swanson gợi ư rằng anh rất vui nếu như Butch vẫn giữ vai tṛ bảo dưỡng máy bay cho phi đội nhưng quyết định của Butch dựa vào vị trí chức vụ của anh ta đó là anh sẽ có một sự nghiệp tốt hơn khi đảm nhận công việc chỉ huy các hoạt động của chiến dịch. Và khi đảm nhận vị trí mới Butch luôn chứng tỏ được ḿnh là một sĩ quan chỉ huy cẩn thận và kín kẽ; và anh được mọi người trong phi đội yêu mến.

    Chiến dịch không kích vào ngày 16/7/1967 nhằm vào thị xă Phủ Lư. Herb Hunter sẽ tham gia vào chiến dịch không kích vào Cổ Chai diễn ra 3 ngày sau đó nhưng trong chiến dịch này Herb và Dick Wyman sẽ bay dưới sự chỉ huy của Butch. Người bay cùng với Butch bị lao xuống boong tàu do một sự cố khi họ cất cánh.

    Butch nói: "Ba chúng ta sẽ tăng tốc, dẫn đầu nhóm không kích và loại bỏ những ụ pháo cao xạ. Ư tưởng của tôi là tăng tốc, nâng độ cao và lao vào trận địa. Nào tăng tốc đi các chàng trai". Khi chúng tôi bay lên cao th́ tôi nghe thấy sóng điện từ đối chọi nhau trong tai nghe khá rơ. Đột nhiên tôi nghe thấy sóng dao động đó rung động mạnh, sóng điện từ phát ra âm thanh có nghĩa là đă có tên lửa ở một phía nào đó đă được phóng đi. Tôi bèn lượn quay sang hai bên và nh́n xuống. Có hai tên lửa SAM đang lao đến. Tôi bắt đầu lộn nhào máy bay.Tôi chọn được vận động tương đối và nhận ra hai quả tên lửa sẽ phóng qua đuôi máy bay của tôi.

    “Tôi lộn lại để kết thúc việc tiếp cận mục tiêu. Tôi nh́n xuống th́ thấy có một quả tên lửa khác đang lao về phía đầu cánh của tôi, lần này th́ không có đủ thời gian để lựa chọn vận động tương đối. Tôi sẽ lộn nhào máy bay lao thẳng vào nó như lời dạy của Swanson. Nhưng khi tôi bắt đầu bay lên cao th́ nhận ra tôi đă mất tốc độ. Máy bay của tôi chở hơi nhiều bom. Tôi không thể thực hiện động tác lộn nhào này hoàn hảo được Tôi nh́n lại quả tên lửa đó và nó đang lao thẳng về phía tôi. Tất cả diễn ra trong khoảng từ 5 đến 10 giây. Tôi không thực hiện nốt động tác nhào lộn nữa mà lượn h́nh ṿng nửa chữ S. Khi mũi máy bay vừa chúi xuống th́ quả tên lửa đó đă trúng mục tiêu.

    Chiếc máy bay loạng choạng bởi quả tên lửa đó nổ. Quả đạn đó màu trắng nóng hừng hực bay vù qua buồng lái. Tôi mất điều khiển máy bay và máy bay cứ lao thẳng xuống đất. Tôi chờ máy bay rơi xuống thấp hơn th́ bung dù. Cánh dù bung ra trên đầu làm cho xuất hiện trong tôi một cảm giác rất lạ, khó miêu tả. Lại có một tiếng nổ khủng khiếp khác "bùm". Lại một quả tên lửa khác nổ cách chỗ tôi vừa bung dù không xa, để lại trên bầu trời một đám mây khói vàng da cam".

    "Tôi nghe thấy tiếng súng pḥng không kêu rat-tat, tạt phía dưới. Tôi nh́n thấy hai chiếc F-8, đó là Wyman và Hunter. Hai người đang vật lộn với làn đạn pḥng không đang bắn lên trời rất dữ dội và tôi biết họ chắc đă nh́n thấy tôi bị trúng đạn. Khi tôi đang hạ thấp dù xuống th́ máy bay của tôi nổ. Một cơn gió lùa mạnh chiếc dù của tôi về phía xác chiếc máy bay đang cháy. Tôi nói: "Thật là điên rồ khi ḿnh sẽ bị cháy rực bởi chiếc máy bay của ḿnh. Tôi dùng hết sức kéo mạnh dây dù. Và may mắn của nỗ lực đó đă xuất hiện. Tôi đă tránh được xác chiếc máy bay đang cháy. Thế nhưng tôi bắt đầu rơi xuống một khu đất cao của một quả đồi ngay phía trên của một khu vực pháo pḥng không.

    "Tôi có thể ngửi thấy mùi thuốc súng từ những khẩu pháo và nh́n rơ những mảng bông trong thùngđạn giống như những tờ giấy pháo đang bị sức ép của pháo làm cho xoáy tung lên. Tôi cảm thấy một màn mưa đạn đang bao phủ lấy tôi. Tôi đáp xuống cách khu vực pḥng không khoảng 200 feet. Dân quân và bộ đội Bắc Việt bắt đầu nhả đạn vào những cái cây xung quanh tôi bằng vũ khí hạng nhẹ và súng tự động. Tôi nghĩ họ đang dọa tôi và họ đă thành công. Tôi chạy như ma đuổi về phía đối diện, chạy đến khi mà tôi không c̣n sức để chạy nữa. Tôi bị bắn rơi lúc 5h52' chiều. Tôi biết trời sẽ tối rất nhanh."

    "Tôi gọi điện đàm để thông báo tôi vẫn ổn nhưng tín hiệu truyền tin không có dấu hiệu trả lời. Tôi để máy hoạt động thêm một chút nữa rồi tắt đi v́ không muốn hết pin. Tôi nh́n thấy một chiếc hang nhỏ có phiến đá chắn ở phía trước. Tôi t́m thấy cành cây và dùng chúng để che chiếc hang đó sau khi tôi nấp sau phiến đá. Tôi nghe thấy dân quân và bộ đội Bắc Việt đi qua các bụi cây và gọi nhau truy t́m tôi. Tôi nhận ra đôi ủng bay của tôi có màu sáng. Tôi nghĩ chắc chắn họ bắt tôi làm tù binh và thế là tôi đánh lạc hướng họ bằng cách ném một ḥn đá về một hướng khác”.

    CHIẾN THUẬT MỚI CỦA MIG-17

    Từ 14/2/1967 các hoạt động ném bom tăng lên đáng kể và tiếp đó 10 tháng, Mỹ cố gắng lần lượt đánh phá cơ sở công nghiệp Bắc Việt. Không may, các lần đánh phá không theo hướng một cuộc đại tấn công mà vẫn theo lối leo thang dần dần.

    Cho đến lúc này, F-4 đă nhận được QRC-160 pod của riêng ḿnh mà không phải nhờ đến loại của F-105. Mig Cap F-4 đă có thể hộ tống F-105 trên toàn bộ hành tŕnh mà không cần phải lượn chờ ngoài khu vực SAM. Pod đă giúp làm giảm mạnh số thiệt hại do tên lửa SA-2. Từ tháng 9-12/1966, SA-2 bắn rơi 6 F-4 trong 226 lần cất cánh trong khu vực 6; Từ tháng 1-3/1967 SA-2 chỉ bắn rơi 1 F-4 trong tổng 306 lần xuất kích trong cùng một khu vực - F-105 khi bắt đầu mang QRC-160.

    Tháng 2/1967 thời tiết phần lớn rất tồi, không có thiệt hại không chiến cho cả hai bên. Mig- 21 không hoạt động và có một biên đội 4 chiếc F-4 bắt đầu tuần pḥng trên sân bay ŕnh Mig cất cánh. EC-121D của Big Eye chuyển tới Udon RTAFB, cùng cơ sở với đơn vị TFV số 8, nơi tiến hành phần lớn các phi vụ chống Mig. (Ngay sau khi chuyển tới Udon, các phi vụ EC-121được đổi tên từ Big Eye sang College Eye). F-4 muốn tận dụng khả năng của EC-121 không chỉ dừng lại ở cảnh báo sớm, mà cả điều khiển Mig Cap.

    Trong một vài trận giao chiến tháng 2, F-4 nhận thấy chiến thuật của Mig-17 có tiến bộ. Ngày 4/2, 4 F-4 hộ tống F-105 trên khu vực Hà Nội ở độ cao khoảng 3000 feet phát hiện 2 Mig-17 phía trước. Khi họ ngoặt tới tấn công, th́ đồng thời F-4 bị tấn công bởi 2 Mig-17 từ phía sau. Cuộc tiếp chiến hoá thành đuổi bắt ở độ cao thấp với các cú ngoặt gấp; không bên nào có thể chiếm ưu thế. Cứ lúc nào F-4 tiếp cận được phía sau một Mig-17 th́ nó lại bị một Mig-17 phía sau đánh bật. Khi Mig ở phía sau, F-4 sử dụng chiến thuật tiêu chuẩn là kéo cao gấp khiến Mig không thể theo được.

    Trước kia, Mig-17 sẽ kéo cao theo F-4, rồi bị hụt hơi giữa chừng mà rơi xuống, khiến cho sau đó F-4 có thể ngoặt lao theo từ phía sau và phóng tên lửa. Nhưng lần này, phi công Bắc Việt đă học được chiến thuật, tránh không kéo cao theo mà giữ ở phía dưới; bằng cách đó họ đă làm mất ưu thế chiến thuật của F-4. Những chiếc F-4 trong thất vọng bắn 8 tên lửa (3 Sparow và 5 Sidewinder), nhưng không có quả nào gần đích.


    MiG-17 của KQVN

    Mig-17 Bắc Việt nhận thức được tiếp chiến tầm thấp làm giảm hiệu lực của cả hai loại tên lửa không đối không của Mỹ. Phân tích cho thấy độ cao tiếp chiến, đặc biệt của Mig-17, ngày càng xuống thấp rơ rệt.

    Từ đây Mig-17 cố gắng dụ F-4 vào các cuộc đối đầu quần ṿng tốc độ thấp. Và năm 1967 tiếp diễn, phi công Mỹ nhận thấy Mig-17 chờ đợi bằng đội h́nh bay ṿng tṛn, giống như bánh xe kéo, tại độ cao cực thấp ngay trên hầu hết các đường bay của F-105. Đội h́nh này cho phép Mig-17 có thể tấn công cả F- 105 đang bay vào và bay ra khỏi mục tiêu.

    Bánh xe này cực kỳ hiệu quả. Mig-17 giữ khoảng cách với nhau trên chu vi đường tṛn; khi F-4 cố giảm tốc và chui vào bánh xe để bắn tên lửa th́ sẽ bị một Mig-17 khác tấn công từ phía sau. Nhiễu địa vật không cho phép F-4 dùng radar khoá mục tiêu; và độ cao thấp làm giảm đáng kể giới hạn bắn Aim-9b. ở 10.000 feet, Aim-9b có tầm khoảng 6000 feet và có thể bắn ở nón 40 độ phía sau mục tiêu; nhưng ở tầm tối đa giảm xuống c̣n 4000 feet và nón bắn co lại c̣n 30 độ. Giới hạn bắn hạn chế, các ṿng ngoặt gấp của Mig, cộng với tín hiệu hồng ngoại từ địa vật khiến cho Aim-9 trở nên vô dụng.

    Cho dù F-4 có thể tránh tấn công của Mig-17 bằng kéo cao rồi lại nhào xuống tấn công lại, nhưng thời gian không đủ để ngắm bắn tên lửa, mà F-4 th́ không có can non để bắn. Mig-17 th́ chỉ có cơ hội nhỏ để bắn hạ F-4 bằng may mắn hoặc tấn công bí mật, hoặc lúc F-4 giảm tốc và lượn cải bằng.

    Trong khi không bắn được F-4 th́ Mig-17 cũng vẫn an toàn từ F-4 và đợi các phi đội F-105 tới. Khi đội h́nh ném bom tới nơi, Mig-17 rời bỏ "bánh xe" để kéo cao tấn công khiến F- 105 phải vứt bom cơ động tránh và tiếp chiến quần ṿng.

    Thường xuyên máy bay Mỹ thấy một chiếc Mig-17 duy nhất trong khu chiến của bánh xe, và cho rằng đấy là chiếc dẫn đầu hoặc chỉ huy. Người ta tin chiếc này sẽ thông báo các Mig khác khi nào bị tấn công, và khi nào th́ bật ra để công kích đội h́nh cường kích.

    Phi công Mỹ cho rằng đội h́nh này cho phép không quân Bắc Việt bảo vệ được một số lớn các phi công không kinh nghiệm và một số ít các phi công cốt cán kinh nghiệm của họ.

    Tháng ba trăng sớm khiến thời tiết xấu, nhưng 10/3 vẫn có leo thang lớn khi khu gang thép Thái Nguyên bị bỏ bom lần đầu tiên. Sấm Rền ngày càng gây nhiều tranh căi, và gây phân hoá giữa quân đội và Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng. Quân đội muốn tăng cường mức độ và giảm các hạn chế đánh phá. McNamara th́ tin rằng chiến dịch đạt được kết quả, nhưng vẫn sợ phải đối đầu với Liên Xô và Trung Quốc.

    Tháng 4/1967, gió mùa đông bắc kéo dài hơn thường lệ khiến thời tiết vẫn xấu. Vào ngày 18/4 trời sáng ra, bắt đầu một giai đoạn quyết liệt nhất của chiến dịch Sấm Rền.

    Số lượng Mig và SAM tham chiến đạt mức kỷ lục. Các báo cáo của Mỹ cho thấy phi công Mig "quyết liệt hơn và thành thạo hơn", "chiến thuật của Mig đă chuyển biến đáng kể trong mấy tháng gần đây", và Mig thường xuyên tấn công cả F vào và F bay ra.

    Những ngày SAM và ngày Mig đă qua. Nay cả SAM và Mig cùng hoạt động song song. Bắc Việt bảo vệ Mig-17 bay thấp bằng cách cắt ng̣i nổ của cao xạ trên 12.000 feet và giữ Mig 17 bay thấp dưới độ cao này. SAM và cao xạ hoạt động trên 12.000 feet khiến F-4 mất hiệu lực khi dùng cách tấn công. Bánh xe Mig từ trên cao: F-4 dễ bị trúng đạn cao xạ và SAM 2.

    Chiến thuật của Mỹ cũng thay đổi. Do cần nhiều bom ném vào mục tiêu hơn nên nhiều F-4 phải mang bom, giảm số lượng không đủ F-4 cho hộ tống. V́ thế, để tăng cường bảo vệ, F-105 bay thoát khỏi mục tiêu sẽ nhận nhiệm vụ tiếp theo là bảo vệ các phi đội c̣n lại khi họ ném bom. Khi đă ném hết bom chỉ c̣n lại Aim9, F-105 khá hữu ích trong chống Mig. Chiến thuật này hiệu lực tốt cho đến suốt tháng 5.

    Trong 4 ngày đầu tiên sau khi thời tiết trong xanh trở lại, Mig-17 cố gắng khẳng định ḿnh, trong khi hiếm khi Mig-21 xuất hiện. Vào ngày 19/4 một lực lượng lớn tấn công doanh trại quân đội ở Xuân Mai và một trường huấn luyện nằm dưới chân núi, cách khoảng 12 dặm về phía Tây - Tây Nam Hà Nội. Từ 19/4 cho đến hết tháng, hàng loạt các cuộc cận chiến quần ṿng khiến 6 F- 105 và 1 A- 1 bị bắn rơi.

    Như thường lệ, F-105 bàn tay sắt (Iron hand) đến trước để tiêu diệt bất cứ trạm SAM nào. Phi đội Kingfish đến khu vực đầu tiên và bị Mig-17 bắn rơi số 2, nhưng số 1 bắn rơi một Mig-17. Khi lực lượng ném bom bay vào khu vực, F- 105 chống Mig va chạm với một số lớn Mig-17, trong khi số 1 của phi đội Kingfish định vị 2 phi công của tổ bay số 2 đă bị rụng xuống đất và bắt đầu bay ṿng quanh trên đó. Hoạt động cứu hộ bắt đầu.

    Phi đội F-105 mang tên Tomahawk tấn công mục tiêu và đang bay ra chuẩn bị tiếp nhiên liệu sau trận đánh th́ nghe được số 2 của phi đội Kingfish bị bắn rơi. Khi số 1 của phi đội Tomahawk tiếp cận máy bay tiếp dầu, anh ta t́nh nguyện quay lại để bảo vệ đội cứu hộ, nhưng phía kiểm soát cứu hộ lưỡng lự không cho phép v́ phi đội Tomahawk không có thùng dầu phụ (họ đă vứt nó khi tiếp cận Mig lúc trước), nên chỉ có thể bay bảo vệ trên đầu tổ bay bị bắn rơi trong thời gian ngắn. Nhưng v́ không c̣n máy bay nào để điều vào nhiệm vụ kiểm soát viên đành cho Tomahawk lấy đầy dầu rồi quay lại.

    Khi lực lượng cứu hộ t́m đến khu vực phi công rơi, Mig-17 xuất kích t́m cách ngăn chặn, và một cuộc không chiến lớn đă xảy ra.

    Lực lượng cứu hộ dẫn đầu bởi loại A-1 cánh quạt bay chậm vốn hộ tống trực thăng cứu hộ. A-1 thường bay chờ ở gần Bắc Việt vào thời gian tấn công để luôn ở vị trí tối ưu pḥng khi cần hỗ trợ cứu hộ. Ngay khi có phi công bị bắn rơi, A-1 sẽ bay tới khu vực phi công nhảy dù, xác định khả năng cứu phi công dựa trên đánh giá t́nh h́nh vị trí và mức độ pḥng ngự của đối phương. Sandy sẽ dẫn hướng trực thăng bay đến chỗ phi công rơi, tự tấn công địch và điều hành các phi đội khác tấn công địch ở mặt đất. Chẳng cần phải nói nhiều, phi vụ bay chậm và bay thấp như A-1 và trực thăng rất rủi ro và khó khăn. Nguy cơ càng tăng khi Bắc Việt có thể nghe được radio để biết được khi nào một phi công bị rơi và khi nào hoạt động cứu hộ bắt đầu. Do đó cứu hộ chỉ được thực hiện ngoài vùng pḥng ngự mạnh, sao cho Bắc Việt chỉ có thể cản trở bằng Mig; nhưng họ lại làm thế thường xuyên, và rất hiệu quả xuyên suốt cuộc chiến.


    Một vụ giải cứu phi công.

    Ngày 19/4, 2 A-1 Sandy 1 và Sandy 2 đang trực chờ khi Kingfish bị rơi. A-1 hướng tới vị trí 32 dặm tây nam Hà Nội, gặp Kingfish 1 và bắt đầu t́m vị trí của phi công. Sandy 2 nh́n thấy F-105 đang cháy, và thấy một thành viên tổ bay. A-1 bắt đầu bay ṿng trực ở khoảng 1000 feet và vừa mới kết thúc lượn th́ Sandy 2 thấy 4 Mig-17 phía sau và hơi cao phía trên; Mig-17 chia làm 2 cặp tấn công 2 chiếc A-1. Mig-17 bắt đầu bắn ngay khi Sandy 2 thấy họ. Sandy 2 gọi "ngoặt phải", và liền ngoặt phải hướng về phía Mig. Mig bắn trượt Sandy 2, nhưng khi anh ngoặt cũng là lúc anh thấy Sandy 1 trúng đạn và quay lộn nhanh sang trái với các mảnh vỡ cánh trái rơi ra, sau đó đâm vào đỉnh núi; không có dù và tín hiệu nào bung ra.

    Kingfish 1 cũng bị Mig tấn công và cảnh báo phi đội Tomahawk rằng Mig ở khắp nơi. Khi phi dội Tomahawk đang ở 20 dặm phía tây của khu vực, Kingfish 1 gọi nói rằng đă cạn dầu và phải rời khu vực hướng tới máy bay tiếp dầu. Sandy 2 cũng liên lạc thông báo Sandy 1 đă bị bắn rơi và 4 Mig-17 đang tấn công anh ta, sau đó hốt hoảng yêu cầu F-105 đến giúp. F- 105 đề nghị A-1 giữ bay thấp rồi hướng bay tới, giảm cao độ 5000 feet và tăng tốc lên 700 knots.

    Mig-17 giờ đây đang bao vây Sandy 2 và lần lượt từng chiếc tấn công từ xung quanh ṿng tṛn. Chúng đă lao tới bắn ít nhất 5 lần trước khi Sandy 2 thấy 4 F-105 và gọi: "F-105, tôi ở 3 giờ (bên phải), sang phải, sang phải, sang phải". Sandy 2 ngoặt tiếp để tránh Mig và sau đó thấy 4 F-105 ở sau đuôi xa xa và có một Mig ở phía sau họ. Sandy 2 gọi: "F-105 ngoặt, có một Mig ở sau đuôi anh".

    Phi đội Tomahawk ngoặt phải và tiếp đón một nhóm Mig ở gần phía trước mặt. Tomahawk 1, cố gắng tách Mig khỏi A-1 bằng cách dẫn cả 4 F-105 bay vào giữa các Mig, Mig tản ra khi F-105 bay xé qua đội h́nh. Một Mig cải bằng rồi lộn vào sau đuôi Sandy 2, nhưng Tomahawk 2 và 3 ngoặt ngay vào Mig để rồi ngay sau đó mắc vào một dây chuyền tầm thấp: Mig-17, Tomahawk 3, Mig-17, Tomahawk 4 và thêm 2 Mig nữa. Cuộc chiến chậm hẳn xuống dưới 300 knot, rất thuận lợi cho Mig nhưng cực kỳ nguy hiểm cho F-105.

    Trong dây chuyền này, Tomahawk 3 bắn trúng chiếc Mig phía trước bằng can non vào cánh trái và thân sau buồng lái, nhưng khi anh ta bắt đầu bắn, Tomahawk 4 gọi "Tomah 3 ngoặt phải, Tomah 3 ngoặt phải - F-105 ngoặt phải ngay, Mig-17 đang bắn vào anh". Tomahawk 3 thấy "những quả cầu lửa da cam lớn bay trước buồng lái và quyết định đă đến lúc ngoặt phải", và lao xuống các đám mây gần đó, "hy vọng không có núi ở phía bên kia đó". Mig vẫn tiếp tục bắn khi Tomahawk 3 vào mây; khi anh ta ra khỏi mây, Mig đă bay đi.

    Trong khi đó, Tomahawk 1 quay lại khu chiến và ngay lập tức thấy dây chuyền của Tomahawk 3, 4 và 4 Mig-17. Khi anh lại gần, anh thấy Tomahawk 4 bắn từ phía sau khoảng 200 feet vào chiếc Mig-17, chiếc mà đang bắn Tomahawk 3, nhưng rơ ràng bắn trượt. Một Mig nữa kéo vào sau đuôi Tomahawk 4, và Tomahawk 4 kêu "ai đó giúp tôi, tôi có một Mig ở sau đuôi và không thể tống khứ được". Tomahawk 1 giờ đây ở gần cuộc chiến và dễ dàng trượt vào sau đuôi chiếc Mig đang bắn Tomahawk 4. Anh ta bay vào 1000 feet phía sau chiếc Mig và bắn, ngay lập tức trúng vào thân sau buồng lái của chiếc Mig. Tomahawk 1quyết định thay cho Sandy 2: "Sandy, tốt hơn là anh hăy quay về, chúng tôi sắp hết dầu và không thể ở lại lâu hơn nhiều nữa". Lúc này Mig kiên quyết tấn công F-l05, Sandy 2 bắt đầu bay dọc thung lũng. Một Mig cố gắng lao tới, nhưng bị F-105 cản trở nên không thể theo kịp. Khi Sandy 2 tới bờ kia của thung lũng, anh ta thấy một khe họng hẹp và sâu, có các đỉnh núi nằm trong tầng mây khoảng 300 feet trên bề mặt nền thung lũng. Chiếc A-1 liền chui vào trong tầng mây, lần theo khe, và đi thoát an toàn; khi đó F-105 cũng rời Mig và trở về căn cứ.

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.

    Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
    Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
    P20



    Sau đó vào cuối tháng 4, F-4 của Không quân tới khu chiến trước 5 phút để "quét” Mig, sau đó bay trực giữa khu vực mục tiêu và sân bay để cắt đứt đường tiếp cận của Mig tới các phi đội ném bom. Điều này không thành công; cả radar của F-4 lẫn EC-121 không thể phát hiện được Mig bay thấp, và dẫn đường Bắc Việt đơn giản chỉ cần dẫn Mig bay ṿng qua F-4 để tới đội h́nh ném bom. Hơn nữa, F-4 tới sớm nên sớm cạn dầu trong khi phi đội ném bom đến cuối vẫn c̣n đang ném bom, và quỹ đạo bay khiến F-4 phải phơi ḿnh trước cao xạ và SAM trong một thời gian dài.

    Thật không may, trong hai ngày cuối cùng của tháng 4, Mig-21 quay lại cuộc chiến và đă thể hiện ưu thế trước F-105. Vào ngày 29/4, phi đội Tia chớp gồm 4 chiếc F-105 đang trấn áp cao xạ ở một mục tiêu gần Hà Nội. Thời tiết tốt - mây rải rác với đáy mây khoảng 16.000 feet và đỉnh mây khoảng 20.000 feet. Tầm nh́n tốt (khoảng 15 dặm) . Sau khi ném bom mục tiêu, Số 1 và Số 2 tách ra tấn công 2 Mig-17 trong khi số 3 và số 4 rời khu vực. Số 3 và số 4 đang bay ra ở độ cao 18.000 feet và tốc độ 500 knots khi họ thấy một máy bay màu bạc không mang vũ khí chưa xác định được danh tính bay ra khỏi những đám mây khoảng 2 dặm phía sau họ, hơi lệch về bên trái. Chiếc máy bay này ở cùng độ cao và tiến gần rất nhanh. F-105 bắt đầu ngoặt trái vào chiếc máy bay này và vứt bỏ thùng dầu phụ. Khi lại gần, họ nhận ra đấy là một chiếc Mig-21; họ tiếp tục rẽ trái, lao xuống thấp để tăng tốc khi Mig-21 ngoặt vào sau đuôi họ.

    Chiếc Mig lại gần, và số 4 cảm nhận được một cú đấm khi các viên đạn của Mig bắn trúng. Chiếc Mig bay trượt lên phía trước, và 2 chiếc F-105 nh́n vô vọng khi chiếc Mig- 21 bay lên cao, lấy lại vị trí ở khoảng 1dặm phía sau khi họ vẫn đang tiếp tục lượn ṿng xuống thấp. Khi lao qua độ cao 10.000 feet, số 4 thấy chiếc Mig tiến lại gần lần nữa, rồi thấy cả bụng của chiếc Mig khi nó kéo lên bắn đón đầu. Ngay khi đó số 3 kêu đă bị trúng đạn, và lập tức phải giảm tốc độ. Thấy lửa và khói bay ra từ thân sau, số 4 kêu phi công số 3 bỏ máy bay. Số 3 vẫn tiếp tục lao xuống, rồi ngay sau đó bùng lên thành đám cháy từ cánh trái. Số 4 theo sau số 3 và vẫn tiếp tục quan sát Mig, nhưng chiếc Mig (chắc đă hết đạn) không tấn công thêm lần nữa. Ở khoảng 1000 feet, phi công số 3 nhảy dù. Số 4 thấy 2 vật thể đen bung ra từ máy bay và thấy F-l05 đârn xuống đất. Anh ta ở lại trên khu vực 2 phút, rồi khi không thấy Mig đâu, và băn khoăn về hư hỏng của chính máy bay ḿnh, rồi rút đi.

    Kết quả kiểm tra trận đánh thật gây thất vọng. Dẫn đường Bắc Việt đă đưa Mig-21 tới một vị trí tuyệt vời và Mig- 21 đă có thể đuổi đánh 2 F-105 sau khi chúng đă ném hết bom. Cái thực sự làm mất yên tâm là khác với các phi công Mig-21 trước kia, phi công Mig này đă tŕnh diễn một khả năng đáng kể trong việc sử dụng tốc độ và ưu thế cơ động trước 2 F-105 khi thúc ép tấn công. Đó là một điềm xấu, nhưng may mắn chỉ có một F- 105 bị hạ.

    Ngày tiếp theo, Mig-21 lại đánh tiếp. Tomahawk, một phi đội 4 chiếc F- 105, đang bay chống SAM hỗ trợ cho một đợt đánh phá vào ga Hà Nội. Tomahawk là phi đội đầu tiên ở khu vực khi họ nhận được cảnh báo có Mig-21. Vài phút sau, số 1 quan sát thấy số 3, một F-105F với tổ bay 2 người, đang cháy. Máy bay bùng cháy toàn bộ sau đó, tổ bay mất điều khiển. Số 1 và số 2 thấy 2 dù và nghe tiếng máy phát tín hiệu báo vị trí phi công nhảy dù, họ liền bay ṿng quanh hai chiếc dù đang rơi xuống.


    Phi công Mỹ bị bắt.

    Lúc đấy, số 1 và số 2 nhận ra số 4 không bay cùng với họ. Không ai thấy số 4 bị trúng đạn hay nghe thấy radio. Họ cố gắng liên lạc với anh ta nhưng không có trả lời. Số 1 báo cáo về tổ bay bị bắn rơi, đồng thời nói thêm với đội t́m kiếm cứu hộ số 4 cũng có thể đă bị bắn hạ. Phân tích quân báo sau đó xác nhận cả hai chiếc F-105 đều là nạn nhân của cùng một chiếc Mig. Carbine là một trong các phi đội F-105 của lực lượng đánh phá, và sau khi trận đánh bị huỷ bỏ, 4 F-105 thiết lập bảo vệ tầng cao ở 16.000 feet trên đầu tổ bay, trong khi phi đội bốn chiếc F-105 khác bảo vệ ở tầng thấp. Khi phi đội bảo vệ tầng thấp thông báo phải rời đi để tiếp nhiên liệu, số 1 và số 2 của phi đội Carbine hạ thấp để bảo vệ tầng thấp, trong khi số 3 và 4 vẫn ở lại trên cao.

    Trong khi đang ở trong quỹ đạo bay, số 4 "cảm nhận được cú xóc và một tiếng sấm" và ngay lập tức gọi số 3 ngoặt trái v́ "có Mig”. Khi số 3 ngoặt trái và lao xuống, anh ta thấy 1 Mig-21 trượt ra bên trên cánh trái. Anh ngoặt lại vào chiếc Mig và khi đó thấy chiếc Mig-21 thứ 2 đang tiếp cận số 4. Cả hai F- 105 bật tăng lực và bổ nhào an toàn vào các đám mây vài ngàn feet bên dưới. Trên đường bay ra, số 3 liên tục hỏi số 4 nhiều lần có "nh́n thấy anh ta không". Mỗi lần số 4 lại khẳng định "có thấy". Sau khoảng 10 giây sau một lần hỏi như vậy, số 3 quay lại và thấy một quả cầu lửa, đó là số 4. Số 1 và số 2 gọi số 3 và báo họ thấy số 4 đang lao xuống và có một dù với một người đang vẫy tay.

    Phi công Mỹ đánh giá về Mig-17 và Mig-21

    Mig-21 cơ động tốt hơn so với máy bay Mỹ ở tầm cao. Tuy nhiên, khả năng ṿng lượn c̣n tuỳ, phụ thuộc vào các yếu tố khác (như cao độ, thiết kế khí động học và các hệ thống điều khiển của máy bay). Ở cao độ cho đến 15.000 feets hạn chế khí động học khiến Mig-21 chỉ cơ động như F-4 và F-8. Nhưng ở bất cứ cao độ và tốc độ nào, Mig-21 vẫn bỏ xa F-105 về khả năng cơ động. Trong chiến dịch Sấm Rền, có 2 sự khác biệt về tính năng máy bay. Mig-17 kém hơn nhiều so với bất cứ máy bay nào của Mỹ và thực tế thiệt hại thể hiện điều này. Cho dù có dẫn đường tốt và chủ yếu tiếp cận với máy bay ném bom, nhiều Mig-17 đă bị hạ, trong khi ngược lại chỉ bắn rơi 23 máy bay Mỹ.

    Nhưng, Mig-21 rơ ràng ưu việt hơn F-105: chúng bắn rơi 15 F-105 trong khi F-105 thực sự chỉ bắn rơi có mỗi một Mig-21.

    Cả Mig-21 và Mig-17 đều có vấn đề về điều khiển. Mig-17 thiếu khả năng điều khiển ở tốc độ trên 400 knots và 3.5 G và Mig-21 khó cơ động ở tốc độ trên 510 knots và 210 knots, điều này đem lại thuận lợi nào đó với phi công Mỹ.

    Tháng 5/1967, chiến tranh tiếp tục leo thang. Thêm nhiều mục tiêu được giới chính trị thông qua cho chiến dịch Route Package VI. Thời tiết xấu trên bầu trời mục tiêu và số lượng đánh phá gia tăng khiến Việt Nam phải di chuyển một số pháo cao xạ và SA 2 về khu vực Hà Nội.


    Một bức tranh về phi vụ của F-4c Phantom II trên bầu trời Việt tŕ năm 1967.

    Sự tăng cường không thủ khiến có những thay đổi chiến thuật. F-4C trước có nhiệm vụ đánh bom – pḥng vệ (mang bom và nếu Mig tấn công sẽ vứt bom để đánh trả nay chuyển hẳn sang chống Mig - chỉ mang mỗi tên lửa đối không và không mang bom. Số lượng phi đội chống Mig hộ tống đoàn bay đánh phá tăng lên tới 8. Thêm vào đó, một vài phi đội F-105 được chuẩn bị như bay bay tiêm kích, mang Aim-9b và không mang bom, hy vọng sẽ làm Mig bất ngờ.

    Mig-21 với F-105

    4 F-105 bị mất vào Mig-21 mà không bắn lại được phát nào đă chứng tỏ một điều vốn đă rơ từ trước - F-105 hoàn toàn không tương xứng với các loại Mig thế hệ mới. So sánh về tính năng của F-105 với Mig-21 hoàn toàn tương phản với so sánh F- 105 với Mig-17. Cho dù F-105 không thể dùng cơ động nhào lượn để bay thoát khỏi Mig-17 và Mig-21 , nhưng nó có ưu thế tăng tốc nhanh và tốc độ tối đa lớn so với Mig-17, cho phép phi công tuỳ ư xông vào công kích hoặc rút khỏi đánh quần. Mig-17 chỉ có thể sử dụng một chiến thuật hạn chế là cơ động gấp.

    Mặt khác, trong khi F-l05 có ưu thế hơn về tốc độ so với Mig-21 - 730 knots so với 595 knots - không may là dẫn đường mặt đất Bắc Việt ngày càng tiến bộ, biết đưa Mig-21 vào các vị trí phía sau và cao hơn F-105, đem lại cho Mig-21 ưu thế đáng kể về tốc độ vào thời điểm bắt đầu công kích. Thêm vào đó, Mig-21 có khả năng tăng tốc tốt hơn, và tính năng cơ động cao cho phép nó vừa tấn công tốt lại vừa dễ dàng phản đ̣n F-105.

    Tên lửa của Mig-21 cũng đem lại nhiều khả năng hơn, nhất là khi F-105 chỉ kiếm cách rút lui bằng tăng tốc bỏ chạy. Chiến thuật tăng tốc để tăng giăn cách rnà F-105 sử dụng hiệu quả với Mig-17 nay không được khuyến khích nữa, đơn giản là việc tăng giăn cách bằng cách tăng lực động cơ trong khi bay thẳng về phía trước chỉ giúp cho tên lửa Atoll (tên của tên lửa dùng cho Mig-21) đỡ phải cơ động.

    Chiến thuật pḥng ngự được đề nghị bây giờ lại là ngoặt gấp vào bên tấn công rồi lao xuống để tăng tốc bay thoát. Nếu Mig-21 tiếp tục đuổi theo, F- 105 lặp lại thao lượn đó.

    Một chiến thuật khác là lao xuống xoáy trôn ốc dùng để giữ F- 105 bên ngoài khu vực bắn hiệu quả của Atoll; nhưng không hay lắm là nó có thể làm F-105 cuối cùng bị mất độ cao vào phải cải bằng. Nếu không kịp lấy lại tốc độ, Mig sẽ đuổi kịp.

    Nếu Mig-21 đă ở gần, F-105 có cơ hội cuối cùng; vốn được sử dụng khá thành công trong quá khứ. F-105 sẽ ngoặt cực gấp vào bên tấn công, rồi tiếp tục ṿng và lật ngửa, như là đang chuẩn bị lao xuống; tại thời điểm này, phi công sẽ trả hết cần ga rồi bung cánh cản cho đến khi lật xong. Nếu làm tốt, động tác cơ động này sẽ giúp giảm 5.000 đến 8.000 feets, và giảm tốc độ đột ngột về 200 knots, khiến cho Mig bay trượt lên trước và ở trên cao. Từ vị trí này, F-105 hy vọng có thể lao xuống và bay thoát.


    Một bức tranh về trận đối đấu giữa F-105 và MiG-21.

    Nếu Mig-21 bắn trượt lần đầu, tính năng tốc độ và các tính năng chung khác cho phép nó tăng tốc, giăn cách, kéo cao với lực tải trọng lớn (high G turn) mà F-105 không thể theo được, rồi tấn công trở lại. Nếu F-105 ở vị trí tốt sau Mig-21, Mig lao xuống và ṿng ngoặt gấp - đây là chiến thuật pḥng ngự tốt nhất chống lại can non và tên lửa của F-105 - sau đó lại kéo lên vào phía sau F - Kết quả là, trong một trường hợp tương tự, một phi công F-105 có thể chọn chạy khỏi Mig-21 vào lúc mà anh ta có thể bắn hạ một Mig-17.

    Thống kê cho một cái nh́n hoàn toàn khác. Trong khi ngày càng nhiều tiếp chiến giữa F-105 và Mig-21, rất hiếm khi F-105 có thể bắn vào một chiếc Mig-21; 90% nỗ lực bắn là vào Mig-17.

    GIẢI CỨU


    Tôi nh́n thấy tên lửa và kêu lên "tách ra mau”. Tôi lao sang trái, Herb lao sang phải. Chỉ c̣n lại Butch ở ngay chính giữa sau một thời gian làm việc với máy bay phản lực th́ thính giác bắt đầu có dấu hiệu giảm sút và Butch gặp phải vấn đề này. Thính giác của tôi đă kém nhưng do anh ta đă từng làm sĩ quan phụ trách máy phóng và phải chịu nhiều tiếng ồn hơn bất kỳ người nào nên vấn đề của anh rất nặng. Bạn phải đứng ngay cạnh anh ta và thét lên th́ anh ta mới nghe được bạn nói ǵ. Khi tôi ṿng lại th́ nh́n thấy một quả tên lửa lao ngay vào đuôi của anh ta. Máy bay của anh ta biến mất trong một đám lửa màu da cam lớn. "Sau đó một chiếc dù được bung ra khỏi đám lửa đó. "Thật không thể nào thế được” Tôi nói.


    F-105 tránh SAM.

    "Cấp cứu? Cấp cứu. Chúng tôi có một người bị bắn rơi".

    Tôi bay ṿng ṿng và nhả đạn vào các mục tiêu phía dưới cho đến khi Butch tiếp đất. Khi tôi quay góc bay th́ tôi cảm thấy có cái ǵ đang đập vào máy bay của ḿnh. Sau này tôi mới phát hiện 16 lỗ đạn ở sườn máy bay. Tôi điện đàm cho Herb: "Tôi đă bị trúng vài phát đạn. Tôi thoát ra đây”. Tôi tăng tốc và hướng ra biển "Nếu như động cơ ngừng hoạt động th́ ḿnh sẽ cho má ybay chạy theo quán tính". Khi tôi ra đến biển th́ mới biết động cơ không bị hỏng nhưng nhiên liệu th́ hầu như sắp hết. Tôi gọi về trung tâm và yêu cầu có máy bay tiếp nhiên liệu.

    Một chiếc máy bay tiếp nhiên liệu trả lời: "Tôi đang bay về phía nam nhưng tôi cũng đang trong t́nh trạng thiếu nhiên liệu khẩn cấp".

    Tôi hỏi: "Nhắc lại lần nữa xem nào?"

    Viên phi công lái máy bay tiếp nhiên liệu trả lời: "Tôi không c̣n đủ nhiên liệu nữa".

    "Chúa ơi" tôi chồm người lên và bắt đầu gửi thông báo t́nh trạng khẩn cấp đi mọi nơi: "Tôi cần một ít nhiên liệu tôi không thể bay được nữa".

    Red Crown là một tàu khu trục cùng tác chiến với chúng tôi, trả lời: "Có một chiếc máy bay tiếp nhiên liệu đang tiến về phía bạn đó."

    Tôi nh́n lên và nh́n thấy chiếc máy bay đó cách 15.000 feet đang bay ở chiều đối diện. Tôi không đủ nhiên liệu để lao đến chỗ chiếc máy bay đó.

    Tôi gọi về cho tàu Oriskany và thông báo: "Tôi đang rơi vào t́nh trạng thiếu nhiên liệu khẩn cấp và không có đủ thời gian để thực hiện bất kỳ động tác chuyển hướng nào cả. Tôi đang cho máy chạy không”. Một viên phi công ở phía trước tôi đă bị mất đuôi và trung tâm khuyên anh ta tắt hết mọi động cơ khi hạ cánh để đề pḥng cháy nổ. Anh ta chắn đường không để tôi hạ cánh trước. Viên sĩ quan kiểm soát không lưu mà tôi đă gọi thông báo và tôi kêu lên: "Không thể nào? T́nh trạng khẩn cấp luôn như thế sao?".

    Tôi nói: "ôi chúa ơi, tôi chưa bao giờ gặp điều này? Tôi lấy lại trạng thái cân bằng và giữ nguyên cần lái để cho máy bay tiếp tục bay. Đồng hồ báo nhiên liệu đă không c̣n dấu hiệu của chút nhiên liệu nào. Tôi cảm thấy quần của tôi đă ướt gần hết. Tôi không thể tin được khi tôi cảm thấy bị chấn động mạnh về phía trước khi chiếc máy bay bắt vào một dây cáp. Chiếc dây cáp toé lửa khi chiếc máy bay chạy ken két trên mặt boong tàu và một phi đội lao ra dập tắt đám lửa nhỏ đó ngay.

    Hai đầu gối tôi rung lên bần bật, không thể kiểm soát được Tôi bước ra buồng lái và thông báo: "Các bạn hăy quên Verich Butch đi. Ông ấy bị bắn rơi rồi".

    Một thành viên trong phi đội đang dập tắt đám lửa đó nói với tôi rằng: "Đô đốc muốn gặp anh tại pḥng chiến tranh càng nhanh càng tốt. Viên đô đốc chỉ huy nhóm tàu hàng không mẫu hạm đang sử dụng tàu Oriskany làm trung tâm chỉ huy. Tôi bước vào pḥng chiến tranh và những người ở trong pḥng yêu cầu tôi chỉ chỗ mà Butch bị bắn rơi trên bản đồ. Chẳng có viên phi công nào được cứu thoát tại một vị trí nằm sâu trong đất liền như vậy v́ Butch rơi cách Hà Nội 30 dặm về phía Nam. Có 2 đại uư là thành viên của ban đô đốc chỉ huy cho rằng tổ chức việc giải cứu Butch là một việc làm quá nguy hiểm. Sẽ có nhiều máy bay nữa sẽ bị thiệt hại trong việc giải cứu này Trời th́ đang tối dần và chẳng thể nào làm được bất cứ điều ǵ cho đến tận sáng mai. Vào lúc đó th́ có thể Butch đă rơi vào tay Bắc Việt nếu như anh ta không chết.

    Burt Shepherd, chỉ huy bay có mặt ở đó nói: "Không được chúng ta phải cố gắng đưa anh ấy ra khỏi đó. Chiến trận vừa mới xảy ra. Chúng ta phải cho những phi công khác biết rằng chúng ta sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm để cứu họ trong trường hợp họ bị bắn rơi. Nếu chúng ta không thực hiện việc này th́ chúng ta phải trả giá cho kỉ luật của chúng ta trong thời gian dài.

    Hai viên đại uư kia phản đối: "Không được, điều này không đáng phải liều lĩnh".

    Đô đốc chỉ huy để cho ba người tranh luận với nhau. Tôi im lặng ngồi đó, vừa run rẩy vừa nghe họ tranh luận. Miệng tôi khô khốc. Tôi chỉ muốn trở về pḥng để chợp mắt cho đỡ mệt. Chợt đô đốc nói: "Cag này, (tên của Burt mà chúng tôi gọi theo cách của hải quân) tôi ủng hộ ư kiến của anh. Chúng ta sẽ cứu anh ấy khi trời vừa sáng”.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •