Page 2 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 11 to 20 of 38

Thread: VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

  1. #11
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

  2. #12
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Nhân Ngày Quân Lực 19/06 : Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ...

    Hoàng Nhật Thơ

    Quân đội là một tập thể lớn nhất trong một quốc gia, được h́nh thành từ đủ mọi thành phần trong xă hội ở khắp mọi miền đất nước theo luật động viên hoặc tổng động viên ... V́ thế tập thể quân đội rất phức tạp nhưng sự phức tạp này đă được trui rèn trong những ḷ luyện thép để trở thành một tập thể kỷ luật nhất với trách nhiệm cao quư "Bảo Quốc-An Dân".

    Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được Quốc Trưởng Bảo Đại thành lập năm 1949 cho đến khi chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa ra đời ngày 26/10/1955, Vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của nước Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm với tư cách là nguyên thủ quốc gia kiêm tổng tư lệnh tối cao đă cải danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, danh xưng thân thương này được trân quư giữ cho đến ngày hôm nay và măi măi.

    Từ sau cuộc chính biến ngày 01/11/1963, cuộc chỉnh lư tháng 01/1964 cho đến năm 1965, t́nh h́nh chính trường Miền Nam Việt Nam thật sự rối ren, bất ổn bởi những cơn lốc chính trị ... tên đồ tể Hồ Chí Minh và bọn CSBV đă lợi dụng t́nh trạng này để gia tăng đánh phá trong mưu đồ thôn tính MNVN. Trước những cơn phong ba chính trị với cơn băo lửa chiến tranh lan dần và sau nhiều phiên họp của Thượng Hội Đồng Quốc gia ... Chính phủ dân sự do Thủ Tướng Phan Huy Quát lănh đạo đă quyết định trao quyền lănh đạo đất nước lại cho quân đội.

    Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương được thành lập và tŕnh diện trước quốc dân ngày 19/06/1965. Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, đă thay mặt đại gia đ́nh quân đội nhận lănh trọng trách lèo lái con thuyền Quốc Gia trong cơn nghiêng ngả của đất nước, v́ thế ngày 19/06 được gọi là ngày Quân Lực chớ không phải là ngày thành lập Quân Lực VNCH như một số người đă hiểu sai.

    Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề hơn đối với quốc gia, dân tộc ... Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm "Bảo Quốc-An Dân", họ c̣n phải chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn băo lửa chiến tranh trên ḍng sông lịch sử.

    Nói đến quân đội là phải nói đến Người Lính, những người đă đem cả cuộc đời, một phần thân thể và sinh mạng để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tang thương kéo dài 20 năm bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương do tên tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.

    Nhân dịp lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 46, người viết xin được trải ḷng ḿnh trong những ḍng chữ hạn hẹp, kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân Người Lính VNCH, những người đặt Tổ Quốc_Dân Tộc lên trên hết, những người trân quư Tổ Quốc-Dân Tộc hơn cả mạng sống của ḿnh.

    Trước khi gói trọn cuộc đời trong chiếc áo trận phủ dày bởi khói lửa sa trường, họ là những thanh niên sống dưới khung trời Tự Do của Miền Nam Việt Nam, ư thức được trách nhiệm của người trai trong thời loạn ... Họ từ giă học đường, xếp lại con đường công danh khoa bảng vào trang vở thơm mùi giấy học tṛ, giă biệt người yêu trong tiếng ve ngân ngày tháng Hạ, những cành phượng vỹ đỏ thắm nhẹ đong đưa trong gió như vẫy tay tiễn người đi khoác chinh y, bạn bè kẻ ở người đi nâng chén quan hà chúc tụng nhau những ǵ đẹp nhất ; Họ hy sinh t́nh cảm cá nhân, gia đ́nh, người thân, người t́nh ... đặt bước chân vào cuộc sống quân ngũ bảo vệ, ǵn giữ quê hương.

    Sau những tháng ngày dài chạy đều bước 1, 2, 3, 4 ... hát vang "chân cứng đá mềm", mũi thở ra khói nơi "thao trường đổ mồ hôi", người thanh niên tuổi trẻ ngày nào đă gột rửa nét thư sinh bằng những giọt mồ hôi của ḿnh ... Mái tóc ba phân, ánh mắt cương nghị, thân thể cường tráng khỏe mạnh được phủ bởi làn da sạm nắng cháy quân trường với lời thề "Vị Quốc Vong Thân" trong ngày lễ măn khóa ... Người thư sinh ấy đă trở thành đứa con yêu của Tổ Quốc với tên gọi thân thương "Người Lính VNCH".

    Người Lính VNCH đem tấm thân được trui rèn từ ḷ luyện thép, kiến thức quân sự được đào tạo từ mái trường Tổ Quốc mang hành trang "Bảo Quốc -An Dân" hiện diện trên mọi nẻo đường đất nước, ǵn giữ quê hương bằng chính sinh mạng của ḿnh.

    Người Lính VNCH không đi chinh chiến xây đắp tương lai cho cá nhân ḿnh ... Người Lính VNCH không đem sinh mạng vào vùng lửa đạn đánh đổi quyền cao chức trọng ... Người Lính VNCH không mang gịng máu thắm đổi lấy huy chương trên ngực áo ... Người Lính VNCH không đem một phần thân thể làm nấc thang binh nghiệp ... Người Lính chỉ biết đi chiến đấu cho đất nước yên vui.

    Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH đi miệt mài không ngừng nghỉ, đôi giày trận ṃn gót từ miền địa đầu giới tuyến nắng cháy da người ... vùng cao nguyên khô cằn sỏi đá, bụi đỏ mịt mờ ... miền Tây śnh lầy nước đọng, rừng già âm u, núi đồi lộng gió cho đến cao vút không gian bao la vương dấu giày trên vùng mây trắng mênh mông ... xa ngút ngàn trùng khơi sóng vỗ lắc lư chiến hạm ... Người Lính đi trong lửa khói mịt mờ, đi trong mưa đạn pháo của quân thù, đi trên xác giặc xâm lăng, ẩn hiện như những bóng ma đi vào mật khu của giặc, âm thầm làm người chiến sĩ vô danh trong công tác đặc biệt "vượt tuyến" ... không nơi nào thiếu vắng bóng dáng Người Lính VNCH, những người đem sinh mạng che chắn cơn băo lửa chiến tranh để mang niềm vui cho đời.

    Người Lính đi từ lúc mặt trời c̣n say ngủ, sương đêm buốt lạnh đôi vai cho đến khi quả cầu lửa khổng lồ chiếu ngay trên đỉnh đầu, bộ chinh y đẫm ướt mồ hôi, thân thể bốc khói ... Người Lính tạm dừng chân lấy nước từ sông hồ, kinh rạch, từ dây rừng đổ vào bọc gạo sấy, nuốt vội vă, hớp ngụm nước mát từ ḷng đất mẹ, ph́ phà vài hơi thuốc lá rồi tiếp tục lên đường ... Hoàng hôn buông phủ, đơn vị tạm dừng quân ... sau khi lót ḷng bằng phần lương khô, Người Lính dành chút th́ giờ quư báu "từ KBC giá lạnh rừng sâu" trong cái lều vải cá nhân vội vàng viết lá thư tiền tuyến gởi về thăm gia đ́nh ... Kẻ th́ thăm hỏi, kính chúc sức khỏe mẹ già vạn an, khói lửa chiến tranh vẫn c̣n phủ kín quê hương nên con chưa thể về bên mẹ để làm tṛn chữ "Hiếu", mong mẹ thứ lỗi cho con. Con vẫn khỏe mạnh, b́nh an ... Thương nhớ mẹ nhiều ; Người th́ cặm cụi bên chiếc balô làm bàn nên nét chữ không ngay, trải nỗi ḷng nhung nhớ vợ hiền, con thơ trên trang giấy nhỏ bé ... Thương nhớ em và con thật nhiều. Anh khỏe và an lành ; Người th́ nắn nót từng nét chữ yêu thương gởi về người yêu nơi phố thị ... đă từ lâu chưa một lần về thăm ... hẹn ngày hoa giăng đầu ngơ ... Hôn Em ; Kẻ th́ nguệch ngoạc đôi ḍng thăm bạn bè đang gh́m súng ở một KBC nào đó. Xếp vội những lá thư c̣n thơm mùi mực, Người Lính vừa chợp mắt th́ có lệnh lên đường ... Người Lính tiếp tục bước quân hành, âm thầm khuất vào màn đêm đen tăm tối dưới cơn mưa lạnh buốt để canh giữ quê hương cho người dân tṛn giấc ngủ.

    Hai mươi năm chinh chiến, hầu như Người Lính không có dư th́ giờ nhiều để tắm gội nhưng họ lại là những người tắm nhiều nhất ... họ tắm trên bước quân hành dưới những cơn mưa tầm tả ngày đêm, vừa đi vừa tắm bằng gịng suối mát ngọt ngào nơi núi cao dốc thẳm, sông hồ kinh rạch, họ tắm bằng những giọt nước từ chiếc biđông nhỏ giọt trên đầu dưới sức nóng gay gắt của mặt trời và họ tắm bằng những gịng biển mặn thoát ra từ cơ thể của họ.

    Hơn bảy ngàn ngày đêm, Người Lính chưa bao giờ có một lần tṛn giấc, Người Lính ngủ trong thức, thức trong từng giấc ngủ ... Người Lính có thể ngủ bất cứ giờ phút nào, bất cứ nơi đâu dù chỉ năm ba phút, ngủ trong lúc di hành, ngủ trong lúc ăn, ngủ trong lúc đang nói chuyện với đồng đội, ngủ dưới cơn mưa tầm tả nơi giao thông hào, ngủ trong lúc đang đánh răng, ngủ ngay cả lúc đang đại hay tiểu tiện ... Có người đă thiếp đi vài phút dưới cơn mưa pháo của quân thù v́ họ quá mệt mỏi trong một trận chiến dài nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, trận chiến 510 ngày đêm trên ngọn đồi Tống Lê Chân. Người Lính rất thèm ngủ nhưng Người Lính tự ban "quân lệnh" cho ḿnh không được ngủ khi quê hương c̣n thao thức v́ tiếng súng đạn xâm lăng ... Hầu như Người Lính đi và thức gần trọn cuộc đời khoác chinh y.

    Hai mươi năm chinh chiến ... có biết bao nhiêu Người Lính VNCH đă ngủ quên trên chiến địa, trên vùng trời Tổ Quốc Không Gian, dưới ḷng Tổ Quốc Đại Dương măi măi không trở về với đồng đội ... Bao nhiêu Người Lính VNCH trở về bằng mỗi một tấm thẻ bài lạnh giá hoặc ngủ im ĺm trong ḥm gỗ cài hoa, không bao giờ biết mặt đứa con thơ vừa cất tiếng khóc chào đời, không được nh́n thấy những gịng lệ trào tuôn trên khuôn mặt người vợ hiền đầu vừa chít vội mảnh khăn tang ... không được vuốt mái tóc người t́nh hay vị hôn thê mới vừa đeo chiếc nhẫn đính hôn tháng rồi nay tan nát tâm hồn quấn chiếc khăn tang đang gục đầu trên quan tài gỗ được phủ lá quốc kỳ ... không được tự tay lau những giọt lệ từ gịng nước mắt khô cạn của người mẹ già yêu quư.

    Hai mươi năm chinh chiến ... bao nhiêu Người Lính VNCH trở về không nguyên vẹn h́nh hài ... kẻ trở về với một hoặc hai ống tay áo dư thừa ... người th́ vĩnh viễn không bao giờ mặc lại được cái quần dài v́ đôi chân đă gởi lại chiến trường ... người th́ măi măi sống trong bóng tối suốt quăng đời c̣n lại v́ họ đă hiến dâng cặp mắt cho hai chữ Tự Do của Miền Nam Việt Nam. Trong thời chiến, họ đem tấm thân gầy chống đỡ giang san ... ngày tàn cuộc chiến, họ lê tấm thân phế tàn chống đỡ tang thương, bất hạnh phủ trùm lên thân phận người thua cuộc kéo dài hơn một phần ba thế kỷ.

    Chinh chiến triền miên không biết bao giờ chấm dứt ... Anh miệt mài đi măi ... đem sinh mạng đi canh giữ quê hương ... lấy máu hồng đi dập tắt ngọn lửa chiến tranh ... đi cho đến khi nào người dân không c̣n kinh hoàng, hốt hoảng d́u dắt, bồng bế nhau chạy loạn trong khói lửa ngút trời bởi thảm họa chiến tranh do lũ cộng sản gây nên ... đi cho đến khi không c̣n thảm cảnh đứa bé thơ đang ngậm bầu sữa khô, nút những giọt máu rỉ ra trên xác người mẹ vừa chết bên ven đường bởi đạn thù, pháo giặc ... đi cho đến khi đất nước thật sự thanh b́nh, người dân được sống an vui, hạnh phúc, tiếng cười đùa của trẻ thơ rộn ră khắp nơi nơi, tiếng ê a hồn nhiên tuổi thơ vang lên dưới mái trường làng rợp bóng mát thanh b́nh, tự do.

    Đường quân hành dịu vợi mù xa ... đôi chân nhỏ bé của Người Lính đă vượt qua ngàn ngàn cây số, bao nhiêu sông hồ kinh rạch, núi thẳm rừng sâu, śnh lầy nước đọng, muỗi đỉa bám đen cả thân ḿnh ... gian nan trên mỗi bước đi, hiểm nguy trong từng hơi thở, tử thần lảng vảng bên cạnh, cái chết có thể đến bất chợt trong buổi ăn, giấc ngủ ... Nhưng Người Lính VNCH, những người nguyện hiến dâng cuộc sống cho đời nào có xá chi hiểm nguy, chết chóc khi quê hương c̣n vang rền tiếng súng xâm lăng. Người Lính VNCH ơi ... Anh thật là cao cả.

    Hai mươi năm lao vào vùng lửa đạn do tên Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên ... Hằng ngàn ngàn quân lệnh ban ra ... phải chiến thắng, phải dứt điểm mục tiêu, phải giải quyết chiến trường không để một tấc đất quê hương, một căn nhà người dân lọt vào tay quân giặc ... Lá Quốc Kỳ màu Vàng Ba Sọc Đỏ thân yêu phải tung bay phất phới trên xác giặc trong thời hạn bắt buộc. Người Lính VNCH nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh không một lời than van, hiên ngang bước vào vùng tử địa, đem máu đào và sinh mạng của ḿnh giành lấy chiến thắng mang về dâng lên Tổ Quốc.

    Trước khi đi vào chốn hiểm nguy, lao ḿnh vào vùng lửa đạn, Người Lính VNCH không nghĩ đến gia đ́nh mà chỉ nghĩ đến sự an nguy của quê hương dân tộc ; Trong vùng lửa đạn mịt mờ ... Người Lính VNCH vừa chiến đấu vừa bảo vệ người dân, dù Người Lính bị thương thân thể đẫm máu, họ vẫn cố gắng d́u dắt người dân, bồng bế trẻ thơ, cơng ông lăo, bà cụ thoát khỏi vùng hiểm nguy ... Người Lính VNCH chẳng những bảo vệ người dân mà c̣n chăm sóc, chữa trị vết thương cho những tù binh cộng sản bị bắt trên chiến trường, Người Lính VNCH tự tay băng bó vết thương cho tù binh, đút cho họ ăn từng muỗng cơm, từng ngụm nước, gắn lên môi họ điếu thuốc sau đó tải thương giao họ lại cho các cơ quan thẩm quyền đưa về điều trị vết thương, khai thác và giáo huấn họ trở về con đường chính nghĩa của quê hương dân tộc. Đây là tánh nhân bản của Người Lính VNCH trên con đường lư tưởng "Bảo Quốc-An Dân".

    Người Lính VNCH chèo chống con thuyền quốc gia trong cơn băo lửa chiến tranh, cắm ngọn cờ chiến thắng khắp mọi nơi từ gịng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến dài xuống tận mũi Cà Mau phần đất cuối cùng của quê hương. Sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, quân đội CSBV đă kiệt quệ, chiến tranh lắng dịu, quê hương hồi sinh, nắng ấm thanh b́nh tạm trải dài muôn nơi sau trận chiến kinh hồn, máu và lửa đỏ cả quê hương suốt năm tháng rưỡi trong cuộc chiến tang thương dài triền miên.

    "Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu ...". Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, Người Lính VNCH đă dùng máu và sinh mạng tạo một chiến công lẫy lừng làm cả thế giới nghiêng ḿnh kính phục ... Lá Quốc Kỳ tung bay khắp mọi miền đất nước dưới tia nắng ấm thanh b́nh vừa ló dạng nơi chân trời th́ cũng là lúc Người Lính VNCH bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH, Người Lính VNCH bị bức tử găy súng ... Con thuyền quốc gia chuyên chở "Tự Do-Hạnh Phúc" cho người dân Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươi năm đă bị người bạn đồng minh nhẫn tâm nhận ch́m vào gịng sông máu của cộng sản ngày 30/04/1975.

    Năm vị tướng lănh cùng một số Quân Cán Chính VNCH các cấp đă quyên sinh theo con thuyền quốc gia nhưng họ không ch́m vào gịng sông máu của cộng sản ... Họ miên viễn đi vào ḷng đất mẹ, linh hồn quyện vào Lá cờ Hồn Thiêng Sông Núi ... Họ đă hiên ngang, can trường đi bước quân hành cuối cùng trong sự uất nghẹn "găy súng" để bảo vệ danh dự cho đại gia đ́nh QLVNCH, bảo toàn chính nghĩa Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, để lại ngàn đời sau nhắc nhớ và thương tiếc.

    Ngay sau khi Miền Nam Việt Nam lọt vào tay CSBV ... Hằng ngàn Quân Cán Chính VNCH đă bị lũ quỷ đỏ mạo danh "chống Mỹ, cứu Nước" khoan hồng bằng những loạt đạn AK47 hận thù nớ pháp trường thù hận. Hằng trăm ngàn đă được "ḥa hợp, ḥa giải" bằng gông cùm xiềng xích, biệt giam ngục tối, bằng những cực h́nh tra tấn dă man, bị bỏ đói, cưỡng bức lao động trong thủ đoạn thâm độc giết dần ṃn nơi các trại tù khổ sai, khắc nghiệt mang ba chữ hoa mỹ "Trại Cải Tạo" trên hai miền Nam Bắc.

    Những người TPB.VNCH bị lũ quỷ đỏ chà đạp, lết lê hít thở khói xe, bụi đường bên lề cơi sống. Họ uống nước mắt uất nghẹn kéo lê kiếp sống vong quốc hơn nửa cuộc đời ngay chính trên mảnh đất quê cha mà họ đă hy sinh gịng máu, một phần thân thể để ǵn giữ.

    Lũ cộng sản vô thần không tim óc, độc ác, dă man cũng không buông tha những người đă chết. Chúng tàn phá nghĩa trang Quân Đội Biên Ḥa, tàn nhẫn giẫm lên những nắm xương tàn vô tri, những thân xác mục ră không c̣n ḷng thù hận.

    Người Lính VNCH dù đặt bước chân trên con đường vong quốc trước hay sau đều trở thành những người lính già xa quê hương, đă ổn định cuộc sống nơi xứ lạ. Người th́ buồn bă khép mắt ra đi vĩnh viễn trong nỗi uất nghẹn không nguôi ... Người th́ đă về hưu sau những năm dài tạo lập cuộc sống mới nơi quê người, ngày ngày trông về cố quốc với ánh mắt xa xăm, hơi thở mỏi ṃn, chiếc bóng đời đang ngă dần về Tây trên đất khách ... Người th́ vẫn tiếp tục cày trả nợ áo cơm ...

    Người Lính VNCH đă đi trên đoạn đường chiến binh dài bằng một phần ba đời người ... Sau ngày "găy súng", họ vẫn cố gắng tiếp tục đi nốt quăng đường quân hành c̣n lại bằng con đường đấu tranh trong thời gian hạn hẹp của chiếc bóng hoàng hôn trên con đường vong quốc. Họ tranh đấu cho ai ... Họ đă có tự do, cơm no áo ấm, con cái lớn khôn thành đạt, cuộc sống ổn định th́ chắc chắn một điều là họ không tranh đấu cho bản thân hay gia đ́nh họ ... Trong thời chiến, họ không đem sinh mạng đi chiến đấu v́ danh vọng, địa vị, quyền uy, chức tước th́ ngày nay họ không đem tuổi già ra tranh đấu v́ bất cứ một tham vọng ǵ ... Họ chỉ muốn đóng góp những chuỗi ngày c̣n lại vào công cuộc đấu tranh giải thể lũ bạo quyền CSVN, cho quê hương dân tộc không c̣n ngập ch́m trong bể máu cộng sản ... Họ tranh đấu cho những thế hệ mai sau được hít thở không khí tự do, không c̣n bị nhồi sọ, cai trị bởi chủ nghĩa cộng sản bệnh hoạn, vô thần, khát máu. Hai mươi năm chinh chiến ...Ba mươi sáu năm vong quốc ... bây giờ họ là những người lính già lưu vong ... con đường chiến binh dang dở năm xưa vẫn chưa thấy đoạn cuối nhưng hơi thở của họ ... đă cạn ...

    Hai mươi năm chinh chiến ... Người Lính VNCH không bao giờ đ̣i hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều ǵ. Người Lính chỉ mong đem cuộc đời của ḿnh đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc cho dù phải trả cái giá đắt nhất là mạng sống.

    Hai mươi năm miệt mài đi canh giữ quê hương ... Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều ǵ cho lợi ích cá nhân. Người Lính chỉ mong muốn nh́n thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm dưới nắng ấm thanh b́nh trên quê hương mến yêu mang tên Việt Nam.

    Những năm dài bị lũ giặc thù tra tấn dă man, chết đi sống lại bao nhiêu lần trong các trại tù khổ sai, khắc nghiệt sau ngày "găy súng" ... Người Lính VNCH không quỵ lụy, ḷn cúi kẻ thù để được tồn tại. Người Lính VNCH trước sau vẫn thủy chung với con đường "Lư Tưởng" mà ḿnh đă chọn, vẫn giữ được khí khái , "Danh Dự" của Người Lính VNCH khi bị bức tử trở thành kẻ thua cuộc.

    36 năm vong quốc ... bao nhiêu năm đem phần đời c̣n lại miệt mài tranh đấu ... "Người Lính già xa Quê Hương" không có bất cứ một tham vọng chính trị nào ... Người Lính Già chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, độc ác để người dân Việt Nam có được nụ cười "Tự Do-Hạnh Phúc" măi măi nở trên môi

    Hoàng Nhật Thơ

    http://www.chinhviet.net/02DienDan/2...chToiNoAnh.htm

    ***

    Không Quên Bạn Tù

    Không Quên Đồng Bào Đau Khổ
    Last edited by Tigon; 10-06-2012 at 08:35 PM.

  3. #13
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    HĂY THỨC DẬY, HỠI VIỆT NAM...THỨC DẬY!!!






    HĂY THỨC DẬY, HỠI VIỆT NAM...THỨC DẬY!!!

    Thân mến gởi những người con của Mẹ Việt Nam - mọi lứa tuổi, mọi thành phần - những người có tâm cao, chí cả, không ngại ngần gian khó, sẵn sàng đứng lên đáp lời sông núi với tất cả ḷng yêu nước chân thành.

    Hăy thức dậy hỡi trai hùng gái đảm
    Dậy mà xem hoa nở trắng hoàn cầu
    Xem bạo chúa cùng ngai vàng vụn nát
    Khi toàn dân đoàn kết đứng cùng nhau

    Dậy mà xem cuộc hoa lài, cách mạng
    Đă bắt đầu từ một mẹt hàng rong
    Từ những người dân tay không súng đạn
    Từ một quốc gia quyết chí, chung ḷng

    Họ đă đứng lên phá tan xiềng ngục
    Đập vỡ độc tài, hung ác, bất lương
    Lấy lại tự do, diệt trừ tàn độc
    Cho hoa lài rực rỡ sắc quê hương

    Cánh hoa ấy đă thơm lừng thế giới
    H́nh ảnh quật cường, bất khuất vang xa
    Hỡi Việt Nam! sao c̣n chờ, c̣n đợi ...
    Thức dậy đi nào, dũng cảm xông pha !




    Hăy thức dậy!... Hỡi Việt Nam ...Thức dậy !!!
    Thức dậy mà đ̣i Quan - Giốc - Tây - Sa ...
    Vận mệnh quê hương trong tay ta đấy
    Gióng trống Diên Hồng, nối bước ông cha !

    Hăy thức dậy, đừng ươn hèn, khiếp nhược
    Ông cha ta muôn trước đă kiêu hùng
    Gọi nhau nhé, góp tay vào đại cuộc
    Đứng lên nào ...ta phá nát cùm gông !!!

    Đây là lúc, là giờ ta hành động
    Đừng để qua đi cơ hội ngàn vàng
    Hăy thức dậy mà dệt tṛn giấc mộng
    Hỡi những người con của Mẹ Việt Nam !!!

    Ngô Minh Hằng

    http://www.chinhviet.net/07ThoVan/20...HoiVietNam.htm

  4. #14
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HOÀ

    Chân dung người lính Việt Nam Cộng Ḥa (Tập 1)


  5. #15
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Đào Vũ Anh Hùng – Viết cho Ngày Quân Lực 19-6
    Posted on May 17, 2012


    Hàng năm, chúng ta làm lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19-6. Ngày Quân Lực năm nay đánh dấu 37 năm kể từ biến cố bi thảm 30-04-1975, ngày miền Nam thân yêu của chúng ta rơi vào tay cộng sản. Ba mươi năm trôi qua trong đau hận không nguôi của tâm trạng …

    Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
    Cờ c̣n nước đánh phải đành thua

    (thơ Thanh Nam)

    Sau 30 tháng 4, những người cựu chiến binh VNCH lại có ngày Quân Lực 19 tháng 6 để buồn rầu hoài niệm và suy tư, tiếc nhớ một thời đă góp phần tích cực trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam, tiếc nhớ một đời đă đem tuổi thanh xuân hiến dâng cho lư tưởng quốc gia, dân tộc.

    Thế hệ chúng ta đă đi những bước truân chuyên trên con đường quá khổ và quá nhọc nhằn mong đem lại thanh b́nh, hạnh phúc cho dân Việt nhưng v́ vận số hẩm hiu đất nước, chúng ta cặm cụi đi hoài vẫn không tới đích và cuối cùng, đem thân phiêu bạt …

    B́nh luận gia quá cố Phạm Kim Vinh cho rằng “Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến kéo dài, đẫm máu và tàn khốc nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại”.

    Cuộc chiến mang nhiều tính chất bi thảm và hài hước, cho tới bây giờ vẫn được nói tới và gây nhiều tranh căi sôi nổi.

    Nó bi thảm, bởi thế giới có ư muốn phủ nhận chính nghĩa cuộc chiến đấu để tự vệ của nhân dân Nam Việt Nam.

    Nó hài hước, bởi sau khi cộng sản đánh chiếm miền Nam, cái đám nhân loại khiếp nhược đó đă cúi đầu trước bạo lực, phụ hoạ với cộng sản, bôi nhọ VNCH, quốc gia đă từng được họ tuyên dương là “Tiền Đồn Chống Cộng” của Thế giới Tự do.

    Dư luận đó đă nhục mạ Quân lực VNCH hèn nhát không chịu chiến đấu, VNCH hoàn toàn lệ thuộc nơi người Mỹ nên miền Nam mới sụp đổ dễ dàng và nhanh chóng như vậy.

    Đây là thứ dư luận ngu xuẩn, thiếu lương tri, vô trách nhiệm và đầy ác ư. Họ đă nhắm mắt, cố t́nh không chịu t́m hiểu tường tận sự hy sinh cùng khả năng chiến đấu tuỵệt vời của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, không chịu hiểu một điều giản dị, rằng “Nếu quân lực VNCH nhát hèn, không chịu chiến đấu, th́ ai, sức mạnh nào, binh lực nào, phép mầu nào đă giữ được miền Nam trong bao nhiêu năm đất nước sôi bỏng bởi chiến tranh tàn khốc, từ 1954 tới 1975?

    Trong suốt hơn hai mươi năm dài đó, nếu không có sự chiến đấu dũng cảm, khắc khổ và kiên tŕ của người lính VNCH, chắc chắn miền Nam Việt Nam đă bị cộng sản thôn tính từ lâu rồi, ngay từ cái gọi là “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”.

    Tết Mậu Thân 1968, hay từ những trận đánh khốc liệt làm rúng động thế giới vào mùa hè binh biến 1972. Nếu không có sự chiến đấu đầy dũng cảm, hữu hiệu và kiên tŕ của người lính VNCH, làm sao quân đội Mỹ có thể rút ra khỏi cái gọi là “vũng lầy Việt Nam” một cách dễ dàng và an toàn như vậy ?

    C̣n tiếp...

  6. #16
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Trong lịch sử Việt Nam cũng như trong lịch sử nhân loại cũng đă có những cuộc nội chiến. Nhưng không có cuộc tương tàn nào kéo dài quá lâu, liên tục và đẫm máu, cường độ tàn phá khốc liệt cùng sự tổn thất về nhân mạng cho cả hai miền lên đến con số kinh khủng như chiến tranh Việt Nam.

    Kể cả trong hai kỳ thế chiến, chưa một thời đại nào trong lịch sử, người dân Việt nam ở cả hai miền Nam Bắc phải nhận chịu những nỗi đau thương bất hạnh như trong cuộc chiến vừa qua.

    Chúng ta, những người lính VNCH đă từng trực tiếp lăn ḿnh vào binh lửa, những người lính đă thực sự cầm súng và chiến đấu, đều có thể khẳng định rằng, quân lực chúng ta không hề thua v́ kém tinh thần chiến đấu. Sự sụp đổ về quân sự là do những quyết định sai lầm và suy yếu về chính trị.

    Nếu gọi là “thua”, chúng ta đă thua trận từ những nguyên nhân sâu ẩn khác

    . Chúng ta đă bị cái đám nhân loại hèn nhát và ngu xuẩn đó bất công trút đổ lên đầu chúng ta trách nhiệm. Những nguyên nhân khởi từ sau hai cuộc thế chiến, toàn thế giới run rẩy phục hồi, bắt tay xây dựng lại những công tŕnh bị tàn phá. Thế giới từ ngày đó, mệt mỏi và sợ hăi chiến tranh, sợ bị nhiễm vi trùng cộng sản, đă trở nên ươn hèn, ích kỷ, ve vuốt cộng sản, đối xử bất công, nḥm ngó, dè bỉu, chê trách, quy kết tất cả mọi lỗi lầm về phía chúng ta, trút đổ tất cả gánh nặng lên đôi vai người lính VNCH, bắt chúng ta phải trách nhiệm ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản.

    Trong khi đó, nước Việt Nam bất hạnh đă nẩy sinh ra gă họ Hồ, một thứ “nhân tài chết tiệt” của dân tộc, cuồng tín và tàn độc, tham vọng và mưu mô, bất lương và hiếu sát, vong bản và phi nhân, vô luân và vọng ngoại, tận tụy tôn thờ chủ nghĩa của gă Mác, gă Lê, xô đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc tương tàn thảm khốc.

    Từ cái thời điểm phải ghi nhớ và đáng nguyền rủa đó, nhân dân Việt Nam ở cả hai miền đă phải c̣ng lưng chịu đựng, không ngóc đầu lên được để thấy ánh mặt trời, để đi và đứng song hàng, hưởng cơn gió lành thịnh vượng cùng mọi dân tộc tự do trên thế giới.

    Dân tộc Việt Nam là nạn nhân thảm khổ trong cuộc chiến tranh phá hoại tận t́nh và tuyệt kỷ của bọn người ngu dốt. “Chính v́ sự cương-quyết-ngu dốt và ngu dốt kiên tŕ mà chúng đă bán đứng đất nước, bán đứng cả linh hồn đất nước”, như cách nói của nhà văn Doăn Quốc Sĩ.

    Nhà văn Phan Nhật Nam cũng đă kêu lên tiếng kêu ai oán, “Chiến tranh nào cũng đem lại những đổ vỡ, tan hoang, gieo mầm độc ác và gây nên bao sự hủy diệt. Nhưng đây là cuộc chiến thê thảm, tồi tệ và tủi hổ nhất của dân tộc Việt Nam”.

    Trong cuộc chiến vô nghĩa, dai dẳng và tàn bạo tột độ này, người lính VNCH đă gánh chịu trọn vẹn cái phần nặng nề, bất công, thua thiệt và đau đớn nhất. Cuộc tương tranh rơ ràng không đồng cân đồng sức và bị bội phản trắng trợn nhưng người lính Việt Nam vẫn thản nhiên chấp nhận.


    Những đời trai trẻ quên bỏ hạnh phúc, t́nh yêu, tương lai, sự nghiệp cùng những thú vui riêng để bước vào chốn cùng hung cực hiểm, đầy rẫy gian lao khổ nhọc và bị vô ơn, bạc đăi nhưng họ vẫn lầm ĺ chịu đựng và dũng cảm xông pha trận mạc, trực diện kẻ thù, đổ mồ hôi, xương máu, lao thẳng vào lửa đạn, phóng ḿnh vào nỗi chết cho giải đất miền Nam được tồn tại và người dân miền Nam được sống c̣n.


    C̣n tiếp...

  7. #17
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Lính và vợ con lính.
    Vợ con lính và những người lính VNCH là hiện thân của những hy sinh quá sức lớn lao. Ḷng quả cảm và những hy sinh kỳ vĩ đó chứng minh được bằng những chiến thắng cụ thể, nhiệm mầu, vượt cao, vượt xa và ở trên tất cả mọi suy nghĩ tầm thường của những con người không có chiều dài lịch sử bốn ngàn năm để hiểu thế nào là t́nh yêu thương đất nước cùng mối tự hào dân tộc.

    Như Mậu Thân ở Huế. Một đại đội Hắc Báo quân số 270 người, c̣n lại vỏn vẹn 19 người sau nhiều ngày giao tranh, đă anh dũng chiếm lại Kỳ Đài, đưa lá cờ vàng ngạo nghễ tung bay trên đỉnh ngọn. Như An Lộc, với 52 ngày tử thủ, thịt da đất nước từng phân vuông quằn quại nẩy tung dưới cơn mưa pháo, ngày và đêm.

    Không một nơi nào trên thế giới nhận chịu một cuộc tấn công ác liệt, kinh hoàng như An Lộc. Chỉ trong đêm 11 rạng 12 tháng 5, 1972, từ 3 giờ đến 6 giờ sáng, An Lộc co quắp run rẩy hứng chịu liên tục 8 ngàn trái pháo và hỏa tiến của cộng sản.

    Thế mà An Lộc vẫn đứng vững, vẫn tồn tại. Cái quận lỵ nhỏ bé đó đă dược ghi danh trong quân sử Việt Nam và trong chiến sử Thế giới.

    Vào những giờ phút hấp hối của miền Nam, trận chiến cuối cùng ở Xuân Lộc cũng là một kỳ tích để nhân loại ngưỡng phục. Sư đoàn 18 Bộ Binh, một Sư đoàn được coi là không mấy xuất sắc của quân lực, đă anh dũng giữ vững tuyến pḥng ngự, chặn đứng được sự tấn công ào ạt của 5 sư đoàn cộng sản với xe tăng và đại pháo 130 ly hùng hậu.

    Nhưng biển người của Văn Tiến Dũng đă phải đứng khựng lại, phải bỏ rơi Xuân Lộc, đi đuờng khác ṿng về Saigon, để lại hàng ngàn xác chết. Jean Lacouture, một nhà báo Pháp có lương tâm đă nhỏ rơi nước mắt khi tường thuật trận Xuân Lộc và thảng thốt kêu lên, “Cái Quân lực đó quả thật là gan dạ và anh hùng. Họ chiến đấu vô cùng ngoạn mục và tôi thật ḷng kính phục.”

    Nhiều kư giả Tây phương cũng hết lời ca ngợi những cuộc chiến đấu đơn lẻ, tạo nên thiên anh hùng ca bi tráng trong ngày cuối cùng của Tháng Tư Đen.

    Như cuộc chống cự của Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tầu.

    Của những đơn vị Nhảy Dù ở khu Lăng Cha Cả.

    Của anh em Biệt Kích 81 ở Bộ Tổng Tham Mưu.

    Của các chiến sĩ Biệt Động Quân ở dốc Cầu Xa Lộ.

    Của những Sinh Viên Sĩ Quan Vơ Bị Đà Lạt trong quân phục đại lễ nơi một góc phố thủ đô rất nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ QLVNCH và Cảnh sát Quốc gia đă tự sát tập thể v́ tuyệt vọng và phẫn nộ trước cuộc đầu hàng nhục nhă của Dương Văn Minh.

    Chưa kể đến sự tuẫn tiết của các tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng, tướng Phạm Văn Phú, tướng Trần Văn Hai, tướng Lê Nguyên Vỹ và những sĩ quan chỉ huy các đơn vị tác chiến khác.


    Ba mươi bảy năm đă trôi qua. Người ta nói hoài đến con số 58 ngàn lính Mỹ chết và mất tích trên chiến trường Việt Nam. Việt cộng đưa ra con số tổn thất nhân mạng là một triệu 400 ngàn bộ đội của chúng. Phía Việt Nam Cộng Ḥa, không ai truy cứu để đưa ra một con số chính xác, bao nhiêu binh sĩ của chúng ta tử trận, bao nhiêu đồng bào, cán bộ chính quyền của chúng ta bị sát hại trong cuộc chiến?

    Chúng ta bị thế giới cố t́nh bỏ quên. Bị cộng sản đê tiện trả thù, đầy đọa người sống trong trại tù cải tạo và quật mồ người chết để thỏa măn cái tâm địa man rợ của loài lang sói.

    Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực, chúng ta, những người lính chiến VNCH cũ, hăy cùng nhau chiêm nghiệm, không phải để “tự cho ḿnh là những người mất nước t́m cách phục quốc, hay để tự nhận là những người thất trận t́m cách trả thù, phục hận …” Và càng không thể là “những người Quốc gia đă được “điều kiện hóa” để xem chống cộng là cứu cánh …” như một số người trong chính hàng ngũ chúng ta – đau đớn thay – đă ḥa nhịp với kẻ địch, công khai sỉ nhục quân đội.

    Chúng ta hăy dơng dạc nói thẳng cho những con người đó, thù cũng như bạn, biết rằng lư tưởng và cứu cánh của người lính chúng ta không phải là thù và oán. Lư tưởng Quốc gia Dân tộc là một t́nh cảm tự nhiên, thiêng liêng cao cả trong trong trái tim con người, không thể đem “điều kiện hóa” như thí nghiệm vào loài chó của Palov, như thủ đoạn tẩy năo phi nhân của cộng sản. Lư tưởng và cứu cánh đó bao giờ cũng là chu toàn ước vọng đem lại đời sống thanh b́nh an lạc, đem lại tự do dân chủ, no ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Kẻ nào xâm phạm đến phúc lợi và ước vọng đó của dân tộc, chúng ta có bổn phận ngăn chặn, dù đó là cộng sản hay bất cứ một thế lực nào khác.

    Chúng ta, những người lính VNCH sống c̣n sau cuộc chiến và thoát khỏi bàn tay đê tiện của kẻ thù, xin hăy nghĩ nhớ đến anh em đồng đội, hồi niệm và tri ơn những người đă nằm xuống cho chúng ta được sống. Hăy cùng nhau đốt lên một ngọn lửa, soi sáng một niềm tin, giữ vững tinh thần và ư chí, làm sánh danh Quân lực, làm rơ ràng Chính nghĩa Quốc gia và hăy vẽ lại chân dung đích thực của người lính VNCH, những người con yêu của đất nước, dù đă đi vào miền Vĩnh cửu nhưng h́nh ảnh cùng những chiến công vẫn hằng hằng sống măi trong ḷng dân tộc Việt Nam ta.

    Chúng ta hăy cùng nhau chiêu niệm quê hương, chiêu niệm hồn tiên liệt và khí thiêng sông núi, cầu mong sớm có một ngày vinh hiển trở về nh́n lại quê cha đất tổ, như trong lời Hịch B́nh Ngô:

    “…Giang sơn từ nay mở hội
    Xă tắc từ nay vững bền
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh
    Kiền khôn bỉ rồi lại thái
    Nền vạn thế xây nên chăn chắn
    Thẹn ngh́n thu rửa sạch làu làu
    Đó là nhờ trời đất tổ tiên khôn thiêng che chở
    Và giúp đỡ cho chúng ta vậy…”

    Đào Vũ Anh Hùng


    Sống

    Sống tủi làm chi đứng chật trời?
    Sống nh́n thế giới hổ chăng ai?
    Sống làm nô lệ cho người khiến?
    Sống chịu ngu si để chúng cười?
    Sống tưởng công danh, không tưởng nước.
    Sống lo phú quư chẳng lo đời,
    Sống mà như thế đừng nên sống!
    Sống tủi làm chi đứng chật trời?


    Chết

    “Chết mà v́ nước, chết v́ dân,
    Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
    Chết buổi Đông Chu, hồn thất quốc,
    Chết như Tây Hán lúc tam phân.
    Chết như Hưng Đạo, hồn thành thánh,
    Chết tựa Trưng Vương, phách hóa thần.
    Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
    Chết mà v́ nước, chết v́ dân.”

    (Sào Nam Phan Bội Châu)


    http://buonvuidoilinh.wordpress.com/...quan-luc-19-6/

  8. #18
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

  9. #19
    Member
    Join Date
    02-05-2012
    Posts
    642

    TIỂU SỬ TRƯỜNG BỘ-BINH THỦ-ĐỨC

    Việc huấn luyện đơn vị và đào tạo cán bộ cho Quân lực Việt Nam đặt thuộc lănh vực yễm trợ cũa các Quân trừơng Liên Hiệp Pháp. Tuy nhiên, kễ từ năm 1946, các Quân trừơng riêng biệt cũa Quân đội Việt Nam đựơc dần dần thành lập để mỡ rộng sự phát triển Quân lực. Tính theo thứ tự thời gian tới khi ngưng chiến, có nhiều Quân trự̀ng đă đựơc thành lập và một trong những Quân trừơng nầy là Trừơng Sỉ quan Trừ bị Thủ Đức.

    Theo quá tŕnh thành h́nh cũa các Quân trừơng, khóa Liên Quân Viển Đông là một khóa huấn luyện cũa Quân đội Pháp, có khỏang 10 khóa sinh Sỉ quan ngừơi Việt, đựơc mỡ với mục đích tăng thêm sĩ số ngừơi Việt trong Quân đội Pháp, chứ ngừơi Pháp chưa có ư định tạo dựng một Quân đội Việt Nam riêng biệt.

    M ăi tới cuối năm 1948, Pháp mới thực sự mỡ Trừơng Sỉ Quan cho Quân đội Việt Nam. Đó là Trừơng Sỉ Quan Huế, nhưng trừơng nầy lại đựơc khai sanh do sáng kiến cũa ông Phan Van Giáo, đương kim Tỗng Trấn Trung Phần, một phần tử rất đựơc Quốc Trửơng Băo Đại tin cây, cho mang hàm Trung Tứơng đễ lập Quân đội Quốc gia,, và tạm thời lạnh đạo lực lựơng Việt Binh Đ̣an. Lúc đó ông Giáo c̣n có triển vọng đựơc Quốc Trửơng bỗ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Quốc gia do ông thành lập, với những sáng kiến riêng biệt. Khi lập ra Trừơng Si quan Huế, ông muốn tạo Trừơng nầy làm nơi rèn luyện các cấp chỉ huy cho Quân đội cũa ông. Nhưng ư kiến cũa ông không đựơc ngừơi Pháp chiều theo, họ chỉ muốn Trừơng nầy là nơi đào tạo chung cho cả Quân đội, với nhiệm vụ vừa đào tạo các Sỉ quan Trung đội trửơng cho các đơn vị chiến đấu, vừa đào tạo một số huấn luyện viên cho những khóa sau nầy.

    Mùa Thu 1950, nhầm có những Quân Trừơng đào tạo cán bộ hạ sỉ quan, tại mỗi Quân khu đựơc phép mỡ một Trừơng vơ bị địa phương. Trừơng hạ sỉ quan Trung Chánh đào tạo đa số cán bộ cấp nhỏ cho ngành vệ binh Nam Việt. Trừơng hạ sỉ quan Huế khi mỡ, th́ Trừơng sỉ quan Huế chuyển về Đà Lạt cải thành Trừơng Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, khai mỡ khóa thứ ba ngày 1-10-1950. Trừơng này đựơc mang về Đà Lạt là do ư kiến cũa Quốc Trửơng Bảo Đại. Lúc đó Quốc Trửơng đang ở Đà Lạt nên muốn Quân Trừơng chính nầy đựơc dời về đây, để ông tiện coi sóc. Trừơng Sỉ quan hiện dịch khi ỏ Huế đồn trú tại Đạp Đá và Trừơg Vỏ Bi địa phươg nhận doanh trại nầy khi thành lập. Nhưng thực ra hai trừơng nầy khác nhau. Trừơng Vỏ Bị địa phương có lúc phải dời ra Van Thanh để sửa chửa ngoi Trừơng ở Đạp Đá rồi sau lại di trở về.

    T rừơng Vỏ Bị Nam Định đă có vinh dự đào tạo khóa 1 Nam Định vào cuối năm 1951, khi Trừơng Sỉ quan Trừ bị xây trên đồi Tăng Nhơn Phú quận Thủ Đức chưa hoàn tất. Tuy nhiên, khóa 1 Thủ Đức cũng diển ra tại đây, trong những căn nhà lá đựơc dùng tạm thời làm chổ cho khóa sinh lưu trú. Bởi vậy, khóa 1 trừ bị đă diển ra tại 2 nơi vào cùng ngày 1-10-1951. Các Trừơng Vỏ Bị địa phương khi mới thành lập v́ c̣n bị ảnh hửơng bởi Trừơng Sỉ Quan Huế trứơc đây nên c̣n đựơc phép đào tạo cấp Chuẩn úy, nhưng chỉ có 2 khóa đầu, về sau chỉ đựoc đào tạo Hạ Sỉ quan cấp trung đội trửơng và cấp chuyên môn mà thôi.

    Năm 1951, đánh đấu việc động viên, không những động viên các thành phần Sỉ quan vào các tư nhân, công tư chức, học sinh, sinh viên; có cấp bằng văn hóa từ trung học đệ nhất cấp hoặc cấp tương đương trở lên, mà c̣n động viên các thành phần hạ Sỉ quan và binh sỉ không có căn bản văn hóa như trên, hay có văn hóa nhưng liệt vào lọai không có sức khỏe chiến đấu. Việc kêu gọi động viên những thành phần Hạ Sỉ quan và binh sỉ đựơc dự trù tới 60.000 ngừơi và đựơc chia gọi thành 4 đợt, mỗi đợt 15.000 ngừơi : Bắc: 6.000, Trung: 3.000 và Nam: 6.000.

    Để thâu nhận những phần tử động viên nầy, tại Bắc Việt trung tâm huấn luyện Bắc Ninh đựơc mỡ nhưng sau trung tâm nầy phải băi bỏ v́ không thuận tiện lợi về mặt an ninh. Tại Trung tâm Nam Việt, việc huấn luyện những tân binh động viên đă diển ra ở thành Mang Cá và Cây Điệp. Vấn đề động viên binh sỉ lúc đó chỉ là 1 nhu cầu chính trị, bởi vậy sau 2 tháng thụ huấn, các học viên đựơc thong thả trở về nhà đợi lệnh. Nhưng việc động viên Sỉ quan lại không thế, những phần tử tốt nghiệp Sỉ quan đựơc bổ nhậm ngay tới các đơn vị Liên Hiệp Pháp vừa đựơc Việt hóa, để dần thay thế các cán bộ Pháp. Việc động viên Sỉ quan đă gây nên một vài vụ rắc rối, đó là vụ bải khóa tại khóa 1 Nam Định, đựơc cầm dầu bởi 1 số khóa sinh là sinh viên và học sinh phản đói việc nhập ngũ mà họ coi là vô nghĩa. Một số khóa sinh trong đám đó bị bắt giử nhưng sau lại đựơc đưa vào theo học khóa 1 Thủ Đức, một số khác đựơc phép thi vào khóa 6 Đà Lạt. Một vụ rắc rối khác xẩy ra tại khóa 2 Thủ Đức nhưng đă bị dập tắt ngay.

    Trừơng Sỉ quan trừ bị lúc ấy góp sức vào việc đào tạo các sỉ quan chuyển môn như Pháo Binh, Trọng Phao, Thiết Giáp, Xa Binh, Truyền Tin, Quân Cụ, Công Binh v…v…Thời gian thụ huấn chia làm 2 giai đọan :
    Giai đọan bộ binh căn bản và giai đọan chuyên môn. Những khóa sinh nào đựơc chọn theo ngành, sau khi học xong giai đọan bộ binh, sẽ theo giai đọan chuyên môn, và khi đă tốt nghiệp sỉ quan tại Thù Đức, đựơc gửi đi học tiếp ở các quân trừơng chuyên môn Liên Hiệp Pháp. C̣n những si quan tốt nghiệp thuần túy bộ binh đựơc gởi ngay tới các đơn vị để phục vụ.

    Để đáp ứng cho nhu cầu Việt hóa cuộc chiến tranh, tới cuối năm 1953, việc đào tạo các cán bộ sỉ quan có phần gấp rút, và đăc biệt đă đăt trọng tâm vào trừơng Thủ Đức. Trừơng nầy đang từ sự thu nạp thông thừơng 500 khóa sinh mơi khóa, đă phải tăng lên 1.000 cho mỗi khóa. Với sự gia tăng số lựơng khóa sinh nầy, giừơng bố đă phải thay bằng giừơng tăng, các khóa sinh thụ huấn đă phải sống trong một ḥan cảnh chật chội quá đáng. Thế nhưng sự gia tăng nầy vẩn chưa đũ, do đó nhửng khóa si quan trừ bị phụ đựơc mỡ thêm

    T ại trừơng Vỏ Bị Liên Quân Đà Lạt, để kịp thời cung cấp cán bộ cần thiết cho quân đội. Đo nhu cầu nầy mà ngày nay các sỉ quan trừ bị đă nắm giử những mấu chốt quan trọng hầu hết các ngành họat động quân đội, bởi v́ khối lựơng sỉ quan trừ bị đông hơn sỉ quan hiện dịch, khối lựơng nầy lại có nhiều khả năng, và đă sợ v́ cuộc chiến kéo dài nên đă phục vụ vĩnh viễn cho binh nghiệp. Việc đào tạo qua ngă động viên đă 1 phần nào làm thay đổi bản chất cũa quân đội, đang từ tính cách than binh sang tính cách quốc gia, bởi v́ các thành phần động viên có mặt trong quân đội tiêu biểu cho mọi giới quân chủng cũa quốc gia.

    Đầu năm 1955 quân đội chỉ c̣n có những quân trừơng chính mà Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Thủ Đức là một trong những quân trừơng nầy. Trong thời gian nầy trừơng sỉ quan trừ bị Thủ Đức phải tạm thời đăm nhiệm các chuyên khoa : Bộ binh, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Truyền tin, Quân cụ, Thông vận binh ( tức là xa binh ) và Quân chinh, nền vào năm 1957 cải thành Liên Trừơng Vỏ Khoa Thủ Đức.

    Sau nầy các trừơng chuyên môn trong Liên trừơng Vỏ Khoa Thủ Đức lại tách riêng ra và di chuyển đến các địa đỉêm khác và trừơng Thủ Đức lại đựơc cải danh thành Trừơng Bộ Binh và chỉ thuần túy đào tạo các sỉ quan bộ binh. Ngoài ra trừơng Bộ Binh c̣n đặc trách huấn luyện các khóa Đại Đội Trửơng và Tiểu Đ̣an Trửơng.

    Đến đầu năm 1974 th́ Trừơng Bộ Binh đựơc dời lên Long Thành,(Trại cũa Quân Đội Thái Lan củ) cho đến đầu tháng 4 năm 1975 th́ di tảng trở lại Thủ Đức và ở đây cho đến ngày mất nứơc 30 thang 4 nam 1975. Khóa cuối cùng cũa Trừơng Bộ Binh Thủ Đức là khóa 3/75.

    ( Sach tham Khao : QUÂN SU 4 CUA QUÂN LUC VIÊT NAM CÔNG HOA)

    http://chauxuannguyen.wordpress.com/...-binh-thu-duc/

  10. #20
    Member
    Join Date
    02-05-2012
    Posts
    642
    TRỪƠNG SỈ QUAN TRỪ BỊ THỦ ĐỨC

    Ngày 5-6-1948, do Hiệp Ứơc Vịnh Hạ Long, Ṭan quyền Pháp Bollaert đă cử Cựu Ḥang Bảo Đại làm Quốc Trửơng và thừa nhận Việt Nam là một Quốc gia Độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp.

    Một năm sau, vào ngày 8-3-1949, Quốc Trửơng Bảo Đại kư Hiệp Ứơc Elysee với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol. Theo hiệp ứơc đó, Pháp sẽ xây dựng cho Việt Nam một Quân đội Quốc Gia. Do đó, ngày 8-3-1949 là khởi điểm cho việc thành lập Quân Đội Quóc Gia và các trừơng đào tạo Sỉ Quan, các trung tâm huấn luyện Hạ Sỉ Quan, binh sỉ cho Quân Đội Quốc Gia.

    Trừơng đào tạo Sỉ Quan Vỏ Bị Huế dành cho các HSQ đă phục vụ trong quân đội Pháp, khai giảng đầu tiên vào năm 1949 và đă đào tạo ra các sỉ quan như các tứơng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Đặng Văn Quang…….là những ngừơi đă góp phần lănh đạo nứơc Việt Nam trong nhiều thập niên.

    N gày 23-12-1950, Việt Nam, Pháp và Hoa Kỳ kư hiệp định hổ tương, pḥng thủ và viện trợ. Cùng ngày đó, Nghị Định thành lập Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Thủ Đức ở miền Nam, và trừơng Sỉ Quan Nam Định ở miền Bắc đựơc ban hành. Trừơng Sỉ Quan Trừ Bị Nam Đỉnh chỉ đào tạo đựơc 1 khóa rồi đóng cữa.

    Riêng Trừơng SQTB Thủ Đức khai giảng khóa đầu tiên năm 1951 và kéo dài đến ngày 30-4-1975. Trong thời gian 25 năm đó, trừơng đă đào tạo hơn 55.000 SQ cho Quân Đội Quốc Gia thuộc đủ mọi Quân chũng như Bộ Binh, Hải Quân, Không Quân và thuộc đũ mọi Binh chũng như Pháo Binh, Quân Cụ, Truyền Tin……..

    Theo hiệp định hổ tương, pḥng thủ và viện trợ, năm 1950 đến 1954, Hoa Kỳ đă cung cấp cho Việt Nam một ngân khỏan 2 tỉ Mỹ kim để trang bị vũ khí và huấn luyện cho Quân Đội Quốc Gia. Cùng trong thời gian từ 1951 đến 1954, trừơng đă đựơc chĩ huy bởi các SQ và Huấn Luyện Viên ngừơi Pháp. Bắt đầu từ năm 1955, trừơng đă đựơc chỉ huy bởi các SQ và các HLV đều là Sỉ quan Việt Nam.

    Suốt 25 năm có mặt, trừơng Thủ Đức đă đào tạo hơn 55 ngàn Sỉ Quan, th́ giai đọan III ( nhất là sau lệnh Tổng Động Viên ) đă chiếm đến gần 50 ngàn SQ để có đũ số Sỉ Quan cần thiết cung ứng việc chỉ huy cho 1 triệu quân….

    Và tính đến ngày mất nứơc, đă có khỏang 5.000 Sỉ Quan đă hy sinh v́ tổ quốc trên các chiến trừơng.

    Theo truyền thuyết nghe đựơc ở trừơng Bộ Binh Thủ Đức, th́ những đứa con thân yêu ấy đă trở về với Mẹ, trên mặt tựơng cũa Trung Nghĩa Đài có hiện thêm một đừơng kẻ nứt !

    http://chauxuannguyen.wordpress.com/...-binh-thu-duc/

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 76
    Last Post: 29-03-2015, 11:56 AM
  2. Replies: 2
    Last Post: 20-09-2011, 08:25 PM
  3. THƯ MỜI THAM DỰ ĐÊM VĂN NGHỆ VINH DANH CHIẾN SĨ QUÂN LỰC VNCH
    By NguyễnQuân in forum Thông Báo Cộng Đồng
    Replies: 0
    Last Post: 12-06-2011, 07:25 AM
  4. Các đại đơn vị của QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
    By nguoibatcao in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 0
    Last Post: 17-04-2011, 02:55 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 17-11-2010, 04:08 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •