Page 3 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 21 to 30 of 35

Thread: Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P20


    Khi Nonam Olson nhận chức chỉ huy NAD mùa xuân 1967, mâu thuẫn này trở nên rơ ràng.3 Ngay lập tức, ông nghi ngờ các điệp vụ có nhiệm vụ bắn ch́m thuyền của đối phương. Khi nhớ lại số tàu thuyền bị ch́m năm 1967, ông nói “tôi tin tưởng chắc chắn là 100 trong số 102 tàu thuyền đó là thuyền đánh cá nhỏ. Tôi không nghĩ là có dân quân vũ trang trên đó để tấn công tàu (chúng tôi). Có một số tàu vũ trang nhỏ, nhưng tôi có thể nói rằng đại đa số thuyền bị bắn ch́m chỉ là thuyền đánh cá”.4 Olson nhớ lại một loại thuyền có thể được coi là mục tiêu quân sự "khi tôi ở đó tôi nghĩ loại duy nhất mà chúng tôi tấn công là thuyền tương đối lớn trên đó có đủ loại vũ khí... ư tôi muốn nói là vũ khí nhỏ. Đó là loại duy nhất mà tôi c̣n nhớ được".5
    Pat Carothers, phó chỉ huy của NAD phụ trách hoạt động năm 1966 chỉ ra là thậm chí các thuyền có kích cỡ nhỏ hơn thuyền đánh cá cũng có thể là mục tiêu được phép tấn công bắn ch́m. Đó là các thuyền thúng. Carothers mô tả một chiếc thuyền thúng như sau: "Người ngư dân đan một chiếc thúng sau đó trát nhựa để chống thấm nước và họ sẽ đứng trong thúng đường kính chỉ có 5 feet thôi (1,5m) để đánh cá. Họ để dụng cụ đánh cá dưới chân và sử dụng một mái chèo". Khi hỏi tại sao chiếc thuyền nhỏ như vậy cũng được tính vào số tàu, thuyền hàng năm bị chặn đánh và bắn ch́m, Carothers trả lời các con thuyền đó là một phần của "thống kê".6
    Đối với Norman Olson, những việc trên chẳng có ư nghĩa ǵ. Bắn vào thuyền đánh cá, chứ chưa nói đến thuyền thúng, rồi báo cáo là điệp vụ đă ngăn chặn thành công các tàu địch là điều vớ vẩn. Có nhiều khả năng việc này gây hậu quả tiêu cực v́ ngư dân là đối tượng tâm lư chiến chủ yếu của SOG. Tuy nhiên, đối với thuỷ thủ Việt Nam, bắn ch́m thuyền của miền Bắc, kể cả thuyền thúng, là cách để kiếm tiền thưởng. Khi hồi tưởng lại, dường như điều đó thật khó tin. Nhưng theo Olson; "v́ họ được thưởng". Cựu chỉ huy trưởng của NAD chỉ ra điều tưởng như rất rơ ràng, "nếu bạn là một ngư dân b́nh thường và thuyền của bạn bị nổ tung, bạn sẽ không thích ǵ những kẻ từ miền Nam tới và làm điều đó với bạn". Olson nghĩ, đó là việc ngốc nghếch, "nhất là khi bạn đang cố tự hoạ ḿnh là một phần của phong trào Gươm thiêng ái quốc.7
    Trên đây là một trong nhiều vấn đề Olson gặp phải. Năm 1968, Olson đóng vai tṛ quan trọng trong việc đề ra quy định mới về can dự, điều chỉnh việc bắn thuyền đánh cá miền Bắc. "Đầu năm 1968, để hỗ trợ hoạt động tâm lư chiến, một số hạn chế được đưa ra cấm phá huỷ các thuyền có chiều dài dưới 10 mét, trừ khi xác định được trên thuyền có chở hàng quân sự hoặc một số lượng lớn hàng hoá hoặc thực phẩm, đồng thời không được tấn công số rơ ràng là thuyền cá".8
    Và thuyền thúng cũng thế. Do vậy, số thuyền của đối phương bị SOG phá huỷ trong năm 1968 tụt xuống c̣n 40. Việc xem xét lại quy định can dự đă tạo ra sự khác biệt - nhưng những khuyến khích bằng tiền vẫn giữ nguyên.9
    Olson cũng gặp phải vấn đề bên trong OP37. Sếp của SOG, Jack Singlaub nói với ông là NAD cần giữ kỷ luật và phải khắc phục điều đó ngay lập tức. Olson nhớ lại. "Một trong những vấn đề của các hoạt động này là có nhiều quyền hạn. Có cảm tưởng là không có sự kiểm soát".10 Olson nhận được "hướng dẫn rơ ràng từ Singlaub là phải trực tiếp chấn chỉnh. Có một số vấn đề về tinh thần của nhân viên Mỹ và rất nhiều vấn đề về kỷ luật. Do đó phải mất nhiều thời gian chấn chỉnh hơn là tôi nghĩ. Trong 6 tháng đầu tiên ở đó, tôi dành nhiều thời gian chấn chỉnh mọi thứ và tạo ra sự thay đổi đồng thời chuyển một số người gây phức tạp đi nơi khác".11
    Olson nhận thấy quan hệ với cơ quan an ninh bờ biển - CSS của Nam Việt Nam - đối tác của OP37 cũng cần phải sửa đổi. Khi đến Đà Nẵng, ông thấy rằng: "chúng tôi không có quan hệ tốt với đối tác - mối quan hệ, theo tôi là cực kỳ quan trọng và tôi dành rất nhiều thời gian để củng cố điều đó với tất cả khả năng của ḿnh và thực sự biến tổ chức của đối tác thành cái bóng của chúng tôi... Nguyên tắc của tôi là quyết định sẽ do tôi và chỉ huy Việt Nam cùng đưa ra và tôi buộc anh ta phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện xảy ra trong tổ chức của ḿnh".12 Olson muốn cho CSS cảm giác là họ được tin cậy. "Trách nhiệm của tôi là đảm bảo mối quan hệ với đối tác".13 Olson chấp nhận những khía cạnh tiêu cực về an ninh để thực hiện chính sách của ḿnh.
    ____________________ ________________
    1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG", (7-1970) Phụ lục C, phần "Hoạt động trên biển", tr. 47.
    2. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1967", Phụ lục G, tr.III 1-2.
    3. Như đă nói ở trên, Olson là dạng lănh đạo mà NAD cần phải có từ lâu. Ông có kinh nghiệm phù hợp. Sau Việt Nam, Olson tiếp tục hoạt động trong chiến tranh đặc biệt và kết thúc sự nghiệp hải quân với chức vụ tham mưu trưởng Bộ chỉ huy hoạt động đặc biệt hỗn hợp (lực lượng Delta) được thành lập sau thất bại giải cứu con tin ở Iran 1980. Delta nhanh chóng trở thành lực lượng phản gián con cưng của Bộ Quốc pḥng. Olson đóng vai tṛ quan trọng vào sự phát triển này.
    4, 5. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr.150, 133.
    6. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Pat Carothers, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr. 97.
    7. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG", tr. 156.
    8. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG”, (7-1970) Phụ lục C, phần “Hoạt động trên biển", tr. 52.
    9. MACVSOG, “Lịch sử chỉ huy 1968", Phụ lục F, tr. F-III-A-1.
    10. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACV SOG", tr.128.
    11, 12, 13. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG",tr 128 - 129, 18.
    Vào năm 1968, hoạt động tập kích ven bờ gần như ngừng lại hoàn toàn. Theo Olson, "đó là công việc khó khăn v́ chúng tôi không đưa họ đến đó được".1 Ông quyết định xin phép sử dụng họ ở miền Nam. "Những ǵ tôi muốn là đưa các toán biệt kích ra thực địa và t́m hiểu họ có năng lực làm được ǵ. Qua Singlaub, chúng tôi thu xếp để cử một toán tới đồng bằng và phối hợp với lực lượng cơ động đường sông, một lực lượng hỗn hợp của lục quân và hải quân. Một trong những công việc mà trước đó họ chưa từng làm là đi tiền trạm, tức là đi trinh sát t́m hiểu những ǵ đang diễn ra. V́ vậy chúng tôi cho rằng đây là cơ hội để tiến hành huấn luyện thực tế và có thể giám sát được họ".2 Theo báo cáo năm 1968 của SOG, "những hoạt động này rất có giá trị đối với lực lượng cơ động đường biển... cung cấp tin t́nh báo cho lực lượng này".3
    Ngoài hoạt động đường sông, các toán biệt kích được bố trí tại vùng I chiến thuật để "tiến hành hoạt động thực tế chủ yếu là nhằm vào cơ sở của Việt Cộng".4 Mục đích là quấy rối và bắt giữ các thành viên của chính phủ ngầm của Việt Cộng và phá huỷ mạng lưới hậu cần ở vùng ven biển thuộc vùng I - NAD triển khai những hoạt động tương tự ở vùng II (vùng Tây nguyên ở Nam Việt Nam) năm 1968. Trong năm đó, 25 điệp vụ được thực hiện thành công ở vùng I và 22 ở vùng II. Kết quả ở vùng I là "6 V.C. bị giết, 6 bị bắt làm tù binh, thu giữ số lượng lớn tài liệu, tiến hành 11 vụ phục kích và càn quét". Kết quả ở vùng II cũng tương tự.5 Những con số tuy nhỏ bé nhưng đánh dấu sự cải thiện so với các vụ tập kích ở miền Bắc.
    Hoạt động chống cơ sở của Việt Cộng chỉ là một phần nhỏ trong kế hoạch phản gián và b́nh định của Mỹ ở Việt Nam dưới sự giám sát của chương tŕnh hỗ trợ phát triển cách mạng và hoạt động dân sự - CORDS. Lănh đạo đầu tiên của CORDS là Robert Komer, phó của Westmoreland. CORDS được thành lập tháng 5-1967 để cải thiện việc b́nh định hoá nông thôn và an ninh ở nông thôn Nam Việt Nam. Nhân viên CORDS được lấy từ quân đội, Bộ Ngoại giao, Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, và CIA.
    Một mục tiêu của CORDS là phá vỡ cơ sở hạ tầng của Việt Cộng. Hoạt động này được biết đến với các tên "chiến dịch Phượng Hoàng". Việc chỉ đào Phượng Hoàng được giao cho Colby, phó của Komer, người được tái phân công đến Việt Nam sau khi nhận công tác tại Tổng hành dinh CIA. Khi Komer ra đi, Colby thay ông là giám đốc của CORDS. Với nhiệm vụ vô hiệu hóa cán bộ Việt Cộng, Phượng Hoàng trở thành vấn đề gây tranh căi. Những lời tố cáo về việc sử dụng nhục h́nh và ám sát đă dẫn đến nhiều cuộc điều tra của quốc hội. Tại các cuộc điều trần, Colby khăng khăng cho rằng phần lớn trong số 20.000 người Việt Nam bị giết trong chiến dịch Phượng Hoàng là trong giao tranh chứ không phải bị ám sát.6 Những người khác không đồng ư và cuộc tranh luận về chiến dịch này c̣n kéo dài đến tận ngày nay.
    Các toán biệt kích trên biển của SOG hoạt động ở miền Nam hiệu quả hơn nhiều so với miền Bắc v́ nhiều lư do. Thứ nhất, các địa bàn do Việt Cộng kiểm soát dễ tiếp cận hơn những nơi mà các toán biệt kích phải đối mặt ở miền Bắc. Ngoài ra, số biệt kích người Việt c̣n được hưởng lợi từ việc giám sát và lănh đạo của Mỹ. Cuối cùng, nếu các toán gặp phải trục trặc sẽ có lực lượng hỗ trợ đến ứng cứu. Nhưng hoạt động ở miền Nam không liên quan ǵ đến các nhiệm vụ ban đầu của OP34A. Thực ra, hoạt động biệt kích của SOG được thực hiện ở Nam Việt Nam phần lớn là do thất bại ở miền Bắc.
    Nói tóm lại, vào mùa thu năm 1968, Norman Olson đưa NAD quay lại mục tiêu chính. Từ khía cạnh hoạt động, "157 điệp vụ được thực hiện trong 10 tháng đầu năm 1968. Trong đó, 140 vụ kết thúc thành công, 11 bị huỷ do thời tiết xấu và 6 do tàu trục trặc".7 Tuy nhiên, ông không thể tái tập trung NAD vào các nhiệm vụ trên biển ban đầu - điều đó là không thể được. NAD bị cuốn vào hoạt động hỗ trợ chương tŕnh chiến tranh tâm lư của SOG. Trong khi việc hỗ trợ chiến tranh tâm lư là quan trọng, nó chỉ là một phần của những ǵ các nhà vạch chính sách đầu tiên hy vọng hoạt động trên biển có thể làm được.
    Chấm dứt hoạt dộng trên biển chống miền Bắc
    Trong khi Norman Olson đang khắc phục nhiều vấn đề của OP37 và đưa OP37 trở lại hoạt động b́nh thường, thành tích của ông bị che khuất bởi quyết định của Washington ghi trong bức điện ngày 1-11-1968 yêu cầu SOG chấm dứt mọi hoạt động dính dáng đến việc đưa người qua biên giới. Đối với bộ phận cố vấn hải quân phối thuộc - NAD, chỉ thị này đồng nghĩa với việc đóng cửa toàn bộ chương tŕnh hoạt động. "Ngày 1-11-1968 mọi hoạt động trên biển bên trên vĩ tuyến 17 bị ngừng lại".8
    Sang 1969, t́nh h́nh vẫn giữ nguyên như vậy. Các thuyền viên và toán biệt kích vẫn được duy tŕ, nhưng hoạt động của họ hạn chế ở dưới vĩ tuyến 17. Nhiệm vụ của họ là "tiến hành ngăn chặn ngầm trên biển, thu thập t́nh báo, chiến tranh tâm lư, hoạt động tập kích như phục kích, bắt giữ và quấy rối các địa bàn ven biển do quân đội miền Bắc và Việt Cộng kiểm soát".9 Các hoạt động này "giết 116 VC- bộ đội miền Bắc, bắt giữ 34 VC-Bộ đội, bắt giam 165 đối tượng nghi Việt Cộng, phá huỷ 20 thuyền tam bản, 71 hầm, thu giữ 37 vũ khí, 29 lựu đạn và 8.500 pound (4.000KG) gạo. Ngoài ra, một số lượng lớn tài liệu được thu giữ qua các cuộc tập kích".10 Những con số này đánh dấu sự gia tăng hoạt động, nhưng chỉ là nỗ lực nhỏ bé, chống lại cơ sở hạ tầng của Việt Cộng.
    Năm 1970, hoạt động trên biển ở miền Nam duy tŕ ở mức 1969. Yêu cầu phải chuẩn bị sẵn sàng cho các điệp vụ ra Bắc bất kỳ lúc nào vẫn c̣n nguyên hiệu lực, nhưng không một thuỷ thủ đoàn hoặc toán biệt kích nào nhận được lệnh lên đường. Tiêu điểm của OP37 là Việt Nam hoá hoạt động trên biển. Một bản kế hoạch được vạch ra, theo đó vào cuối năm, CSS "có năng lực vạch kế hoạch, phối hợp và thực hiện điệp vự” cũng như "sửa chữa và bảo tŕ tàu và cơ sở vật chất". Việc chuyển giao hoạt động trên biển cho CSS và giải thể NAD được dự kiến vào ngày 1-1-1971 với "6 tháng gia hạn để đảm bảo sự huấn luyện đầy đủ cho số hải quân Nam Việt Nam đến thay thế".11 Tháng 7-1971, CSS tiếp nhận trách nhiệm vạch kế hoạch và thực hiện mọi hoạt động trên biển.
    ____________________ ____________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACVSOG”, tr.5.
    2. Phỏng vấn lịch sử với đại úy Norman Olson, trong "MACVSOG: phỏng vấn các sĩ quan đă từng phục vụ trong OP37 của MACV SOG”, tr.6.
    3, 4, 5. MACVSOG, “Lịch sử chỉ huy 1968”, Phụ lục F, tr.F-III-1-5, F-III-E-1.
    6. Xem Willam Colby: "Chiến thắng bị đánh mất" (NewYork, Contemporary Books, 1968.).
    7, 8. MACVSOG, “Lịch sử chỉ huy 1968”, Phụ lục, tr.F.III-1-2, F.III-1-3.
    9. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1969”, Phụ lục, tr.F.III-1-2.
    10. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1969”, Phụ lục, tr.F-III-1-A/B/C-1.
    11. MACVSOG, "Lịch sử chỉ huy 1970”, Phụ lục B tr.B.III-7.
    TÁC ĐỘNG CHIẾN LUỢC CỦA HOẠT ĐỘNG TRÊN BIỂN:
    HY VỌNG CAO - KẾT QUẢ THẤP
    Năm 1964, các nhà vạch chính sách của Washington đặt nhiều hy vọng vào hoạt động ngầm trên biển. Họ tin là hoạt động này sẽ nhanh chóng tác động đến Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông. Các hoạt động tấn công, quấy phá từ ngoài biển được coi là công cụ bí mật chủ yếu để làm Hà Nội chú ư và thuyết phục họ ngừng thúc đẩy chiến tranh ở miền Nam. Thông qua các hoạt động nhằm vào mục tiêu thiết yếu dọc theo bờ biển, Hồ Chí Ḿnh sẽ nhanh chóng hiểu ra là phải trả giá cho hoạt động lật đổ ở miền Nam. Nếu hoạt động đó không chấm dứt, chiến tranh bí mật sẽ được tăng cường. Nhưng Hà Nội không lùi bước.
    Những ǵ mà McNamara và các nhà vạch chính sách trông chờ ở hoạt động ngầm trên biển là hoàn toàn phi thực tiễn. Toàn bộ ư tưởng không là cái ǵ khác ngoài sự ảo tưởng, nhất là trong bối cảnh OP37 vấp phải nhiều vấn đề mà phần lớn những trở lực đó không được tháo gỡ. Sự lănh đạo và kiến thức của các chỉ huy của NAD là một ví dụ. Chỉ có Norman Olson đúng là người chỉ huy, c̣n lại cơ quan nhân sự không t́m được một vị chỉ huy nào khác như ông.
    Tương tự, chất lượng và động cơ của thuỷ thủ và toán biệt kích người Việt luôn là điều nghi ngại. Đây là vấn đề tồn đọng kéo dài v́ phần lớn số này chỉ v́ tiền. Chế độ tiền thưởng khuyến khích tư tưởng làm thuê và không thể thay thế cho động cơ yêu nước.
    Từ khi khởi đầu, quy định về can dự đă ngáng trở việc thực hiện thành công điệp vụ. Sự cản trở lớn nhất, chứ không phải duy nhất, là nhân viên của SOG không được đi kèm theo tàu và các toán biệt kích lên phía Bắc. Điều này gây tác hại chủ yếu đến hiệu quả của toàn bộ hoạt động, nhất là sau khi miền Bắc đă triển khai biện pháp đối phó. Trong khi đó câu trả lời của SOG lại là thu hẹp phạm vi, chỉ c̣n hoạt động trên biển.
    Cuối cùng, có vấn đề ḷng tin và hợp tác giữa NAD và CSS. Quan điểm cho rằng đối tác Việt Nam chứa đầy gián điệp ngấm sâu vào mọi bộ phận nghiệp vụ của SOG, kể cả OP37. Theo dự kiến ban đầu hoạt động trên biển của SOG dự kiến là nỗ lực phối hợp chung giữa các nhân viên Mỹ và Nam Việt Nam. Tuy nhiên, mối lo ngại về an ninh và sự thiếu tin cậy làm cho nó nhanh chóng biến thành hai chế độ chỉ huy riêng biệt, trong đó Hoa Kỳ giữ vai tṛ chính. Điều này cũng ảnh hưởng tiêu cực gây tác hại đến các hoạt động.
    Bổ sung vào những cản trở trên là sự kỳ vọng của các nhà vạch chính sách. Họ hoàn toàn thoát ly thực tế khi đánh giá quá cao tác động của các hoạt động “găi ghẻ" đối với giới lănh đạo miền Bắc. Washington không hiểu đối thủ của ḿnh ở Hà Nội. Phải làm nhiều hơn là một số hoạt động trên biển mới có thể ảnh hưởng đến tính toán của Hồ Chí Minh.
    Ngay cả khi NAD không gặp những cản trở trên, Washington vẫn trông chờ quá nhiều và quá nhanh từ hoạt động trên biển. Chương tŕnh hoạt động trên biển năm 1964 một lần nữa cho thấy các nhân vật cao cấp trong chính quyền Johnson và Kenedy có hiểu biết ít ỏi như thế nào về hoạt động ngầm.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P21


    CHƯƠNG SÁU VƯỢT QUA GIỚI TUYẾN



    Washington và Hà Nội b́nh thường hoá quan hệ đầu 1990. Người Mỹ với các quan điểm khác nhau về chiến tranh bắt đầu đến Việt Nam. Các nhà kinh doanh, những người nh́n Việt Nam như là một thần kỳ kinh tế mới ở châu Á và muốn nhảy vào có chỗ đứng chân, là những người đến đầu tiên. Đối với họ, chiến tranh đă thành lịch sử cổ xưa. Mối quan tâm của họ là kiếm tiền và Việt Nam có vẻ là một triển vọng khả quan.
    Các cựu chiến binh cũng quay lại thăm chiến trường xưa, nhớ lại những chiến hữu đă bị chết và gặp những người đă từng giao chiến. Trung tướng nghỉ hưu Hal Moore có một chuyến đi như vậy năm 1990. 25 năm trước, năm 1965, trung tá Moore chỉ huy trung đoàn 1, sư đoàn con cưng số 7 của lục quân Hoa Kỳ. Ngày 23-10 năm đó, đơn vị của ông được trực thăng vận đến thung lũng Ia Drang, nơi có căn cứ và tuyến đường xâm nhập vào Tây Nguyên của cộng sản. Khi hạ cánh, lực lượng gồm 450 người của Moore bị bao vây và tập kích bởi 2.000 quân chủ lực. Vài ngày sau, một trung đoàn khác của sư 7 cũng rơi vào t́nh trạng tương tự. Các cuộc giao tranh ác liệt kéo dài hàng tuần.
    Trận chiến ở Ia Drang có ư nghĩa rất lớn đối với cuộc chiến tranh. Theo lời Moore: "Cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng và cả hai rút ra những bài học, một số trong đó dối trá một cách nguy hiểm, được lan truyền lặp lại trong suốt một thập kỷ chiến tranh đẫm máu và hy sinh đau đớn đến sau đó"1. Quyết định viết sách về những người lính đă chết tại Ia Drang, Hal Moore quay trở lại Việt Nam năm 1990. ông gặp lại tư lệnh quân đội miền Bắc từng đối mặt năm 1965. Họ cùng nhau đi trên băi chiến trường Ia Drang và nhớ lại các cuộc đụng độ khốc liệt.
    KHI HÀ NỘI TIẾN, WASHINGTON LÙI
    Không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của đường ṃn Hồ Chí Minh. Quyết định năm 1959 xây dựng con đường này có tầm chiến lược to lớn. Tương tự, bước đi dũng cảm của Hà Nội năm 1963 mở rộng con đường, đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam cũng có tầm ư nghĩa như vậy. Con đường đầu tiên chỉ là mạng lưới các lối ṃn, đường nhỏ xuyên qua dốc núi dựng đứng và rừng rậm, đóng vai tṛ làm mạng lưới tiếp tế hậu cần. Từ nơi trú quân này, quân đội miền Bắc có thể xâm nhập vào miền Nam một cách dễ dàng để tấn công các mục tiêu sau đó trở về Lào một cách an toàn. Sau chiến tranh, Hà Nội gọi con đường là "một câu chuyện thần kỳ của thế kỷ"2.
    Lào là một vấn đề chính trị nóng bỏng trong những ngày đầu của chính quyền Kenedy. Hiệp định Giơnevơ năm 1962, mà Hoa Kỳ đóng vai tṛ trung tâm, tuyên bố Lào trung lập. Mọi quân đội nước ngoài phải rút ra khỏi Lào, kể cả các đơnvị quân đội Việt Nam. Washington muốn tin vào khả năng trung lập đó, nhưng hoạt động của Hà Nội ở Lào tiếp tục được mở rộng. Ở Sài G̣n, tướng Harkin, tư lệnh MACV, giảm nhẹ sự có mặt của Bắc Việt Nam là "sự đồn đoán".
    Trong khi Harkin cho rằng không có chứng cứ đáng tin nào về việc mở rộng sử dụng con đường để vũ trang cho Việt Cộng và đưa quân đội chủ lực miền Bắc vào Nam, các lực lượng đặc biệt của Hoa Kỳ hoạt động dọc theo biên giới Lào không gặp mấy khó khăn để khẳng định điều đó. Từ 1961, nhân viên lực lượng đặc biệt đă hỗ trợ nhiều đề án của CIA được triển khai theo chỉ thị của tổng thống Kenedy, bao gồm: toán thu thập t́nh báo, biệt đội sơn cước và thám báo biên giới, và biệt đội không vận dân sự. Các đề án này triển khai các toán nhỏ để trinh sát hoặc tập kích các toán quân đối phương vượt qua biên giới hoặc thu thập t́nh báo ở Lào3.
    Bill Colby bắt đầu các hoạt động trên vào mùa hè 1961. Địa bàn hoạt động, theo một tài liệu được giải mật, "là từ Attopeu phía bắc Tchepone vào đường 9 phía bên kia của vùng I và II", một dải đất dài hơn 50 dặm. Attopeu nằm ở góc đông nam của Lào, gần biên giới Campuchia và ngay phía tây của Tây Nguyên. "Trong giai đoạn đó (1961-1963) 41 điệp vụ được thực hiện"4 .
    Đại uư lực lượng đặc nhiệm Jerry Kinh đă thực hiện nhiều điệp vụ ban đêm cùng với các toán người địa phương do CIA hỗ trợ đi tuần tra ở Lào. Toán của King, bao gồm hai cố vấn Mỹ, một nhân viên đặc biệt của Thái Lan và ba người Lào, hoạt động ở Tchepone tháng 7-1962. Một lần, toán của Kinh gần như chạm trán với một trung đoàn bộ đội Bắc Việt Nam. May mắn và họ kịp tránh đi. Nhưng King đă nh́n thấy quân phục, phù hiệu và vũ khí. Không nghi ngờ ǵ nữa, đó là một trung đoàn chủ lực của miền Bắc5.
    Bất chấp những ǵ Harkin tin tưởng, những ǵ King nh́n thấy chỉ cách Tchepone có 10km không phải là điều khác thường. Đây là chứng cứ rơ ràng cho sự đánh giá của CIA năm 1962 là Hà Nội có thể xâm nhập 1.500 bộ đội dọc theo đường ṃn vào miền Nam trong ṿng một tháng. Vào năm 1963, sự có mặt ngày càng nhiều của Bắc Việt Nam ở Lào là nguyên nhân dẫn đến t́nh h́nh xấu đi và các cuộc khủng khoảng ở miền Nam. Giá trị của Hiệp định Giơnevơ 1962 là việc Hà Nội thoải mái sử dụng đường ṃn Hồ Chí Minh.
    ____________________ ________________
    1. Trung tướng Harold G. More và Soseph L. Galloway, "Một thời chúng ta là chiến sĩ ... và thanh niên", (New York: Ramdom House, 1992), tr. XVII.
    2. Vơ Bẩm, "Mở đường ṃn". tr. 15.
    3. Bowman biên tập, "Alamac về chiến tranh Việt Nam”, tr. 454.
    4. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào”, tr. 2.
    5. Newman, "JFK và Việt Nam", tr. 275-76.
    Tranh đấu với "Cá sấu” về Lào
    Đội công tác CIA-MACV, người dự thảo Kế hoạch 34A cảm nhận mạnh mẽ là cần phải làm một việc ǵ đó đối với con đường ṃn, và muốn bổ sung hoạt động bán vũ trang ở Lào vào 34A. Bản đề xuất được chuyển tới cho McNamara và giám đốc CIA John McCone ở Sài G̣n, tháng 12-1963. Rơ ràng cả hai đều bị thuyết phục và "chỉ thị tŕnh việc này lên cấp cao hơn để Washington xem xét"1.
    Các quan chức chủ chốt trong chính quyền cũng lo ngại về Lào. Micheal Forrestal, nhân viên của Hội đồng an ninh quốc gia vừa trở về sau chuyến thị sát Việt Nam, báo cáo với tổng thống rằng ông "thấy có sự quan tâm đáng kể đối với việc thiết lập hoạt động qua biên giới Lào... chống đường ṃn Hồ Chí Minh". Ông kiến nghị rằng "nên xem xét những hoạt động t́nh báo quy mô nhỏ có sự kiểm soát chặt chẽ". Chí ít, Hoa Kỳ cần biết là Hà Nội đang ở Lào. Tuy nhiên Forrestal tỏ ra thận trọng đối với hoạt động có quy mô lớn hơn và khẩn thiết đề nghị Johnson cân nhắc kỹ việc mở rộng hoạt động v́ có "nguy cơ bị phát hiện và khi đó sẽ làm đảo lộn sự cân bằng lực lượng mong manh ở Lào"2. Sự "cân bằng lực lượng" là cụm từ trong Hiệp định Giơnevơ 1962 mà Avarrell Harriman, đại sứ lưu động của chính quyền Kenedy, làm trung gian.
    Ở Washington, dấu ấn của Harriman xuất hiện trong toàn bộ chính sách Việt Nam. Tháng 8-1963, ông giúp thảo bức điện, giờ đây bị coi là tệ bạc, phát đi tín hiệu chấp thuận âm mưu đảo chính Diệm của các tướng lĩnh miền Nam. "Cá sấu” biệt danh của Harriman, cùng với Roger Hilsman, George Ball, và Micheal Forrestal kết luận rằng tổng thống Việt Nam cộng hoà cần phải ra đi. Rơ ràng, Kenedy đă chấp thuận. Diệm và em trai bị ám sát ngày 1-11-1963, với sự đồng loă của Hoa Kỳ.
    Harriman c̣n khôn khéo vô hiệu hoá bất kỳ ai đề nghị MACV thực hiện hoạt động ngầm bán vũ trang chống con đường ṃn. Trong một tờ tŕnh gửi Hội đồng an ninh quốc gia, Harriman nhắc đến cuộc trao đổi qua điện thoại giữa ḿnh và Forrestal về vấn đề này, và dội gáo nước lạnh vào "hoạt động t́nh báo được kiểm soát chặt chẽ" mà Forrestal đề nghị. Harriman quyết tâm không cho MACV dính dáng vào Lào. Ông chụp mũ Forrestal, mô tả đề nghị rất khiêm tốn của Forrestal là bước đầu tiên dẫn đến sự sụp đổ của Hiệp định 19623.
    Cuối tháng 12, Harriman lại xuất hiện, lần này là qua trợ lư của ḿnh. Trong một tờ tŕnh do Harriman gợi ư, William Jorden tuyên bố đă xem xét mọi "chứng cứ hiện có về việc miền Bắc tiếp tục hỗ trợ người và của cho Việt Cộng" và thấy hoạt động đó giảm xuống. "Tỷ lệ (năm 1963) tỏ ra thấp hơn (1962) và thấp hơn 1961". Jorden nhận xét: "MACV ước tính có 7.600 người đă vào miền Nam kể từ tháng Giêng 1961"4, với hàm ư mọi lời báo động về Lào chẳng khác ǵ một cơn băo trong ấm pha trà mà thôi.
    Dường như Jorden đă bỏ qua các ước tính t́nh báo của MACV rằng 35.000 người đă trở vào Nam, tỉ lệ xâm nhập lớn hơn 5 lần so với tỉ lệ nêu trong báo cáo của Jorden gửi Harriman. Bản "Nghiên cứu thâm nhập" công bố mùa thu 1964 kết luận "tổng số có đến 45.000 kể từ 1959 đến nay”5.
    Theo chỉ thị của Harriman, một bản thường tŕnh tương tự như của Jorden được soạn thảo, bởi một trợ lư khác, William Sulivan, ngày 31-12. Mục đích cũng tương tự: vô hiệu hoá những người đang làm ầm ỹ về Lào. Cũng như Jorden, Sulivan t́m cách dội nước lạnh vào vấn đề quân đội miền Bắc xâm nhập vào Nam.
    Harriman được gọi là "Cá sấu" bởi v́ ông là người đấu tranh nội bộ lạnh lùng. Thực ra Harriman mới chỉ đánh tiếng, nếu có việc ǵ đó dính dáng đến Harriman, th́ đó là MACV không được vi phạm Hiệp định về Lào của ông.
    Theo nội dung kế hoạch Switchback, nhiệm vụ hoạt động qua giới tuyến ở Lào được chuyển cho quân đội6. Tuy nhiên, tại thời điểm đó người ta c̣n chưa biết giao cho ai trong MACV thực hiện nhiệm vụ này.
    Tháng 1-1964, Westmoreland nhận được một cú sốc từ Washington. MACV không được tiếp tục các hoạt động ngầm của CIA chống lại đường Hồ Chí Minh do "không đạt được sự nhất trí về khái niệm hoạt động và những hạn chế cần thiết để kiểm soát hoạt động đó v́ Hiệp định Giơnevơ 1962 cấm đưa quân đội nước ngoài vào Lào". V́ quy định này, không một nhân viên Mỹ nào "được phép đi kèm các hoạt động ngầm do Nam Việt Nam thực hiện ở Lào"7. Harriman là kiến trúc sư của chỉ thị này. Ông đang cố gắng để đảm bảo "sự cân bằng mong manh" ở Lào được giữ nguyên vẹn.
    Đầu 1964, báo cáo về hoạt động của miền Bắc tại Lào nhận được sự chú ư ở cấp cao tại Washington. Tại một cuộc họp tháng 4 của Hội đồng an ninh quốc gia, Giám đốc CIA John McCone báo cáo: tin tức t́nh báo cho hay "việc sử dụng Lào để chuyển quân và hàng tiếp tế từ Bắc vào Nam đang gia tăng". Trong cuộc họp, "tổng thống được xem nhiều bức ảnh chụp từ trên không cho thấy sự cải thiện to lớn của tuyến đường". Sự nhất trí về nhu cầu phải làm một việc ǵ đó ở Lào được lan rộng. Đúng lúc này, Harriman lại xuất hiện. Ông đề nghị cách để xử lư vấn đề là thúc đẩy uỷ ban giám sát quốc tế, cơ quan chịu trách nhiệm giám sát Hiệp định, "cử thanh tra đến". Sự có mặt của họ sẽ làm cho t́nh h́nh lắng dịu đi. Nếu không, Harriman sẽ "ủng hộ quân đội". Harriman không nhượng bộ việc cho cố vấn quân sự Mỹ tham gia các hoạt động tuần tra tại Lào. Đó là việc đánh lạc hướng rất thông minh. Leonard, lúc bấy giờ là Đại sứ ở Lào, cũng tham gia. Ông thông báo cho Hội đồng an ninh quốc gia ư muốn không để MACV vào Lào8. Bộ Ngoại giao xiết chặt đội ngũ của ḿnh.
    Các tham mưu trưởng kêu gọi McNamara băi bỏ lệnh cấm v́ “việc hạn chế qua biên giới đă làm giảm hiệu quả hoạt động quân sự ở Việt Nam". Tháng 3-1964, theo đề nghị của các tham mưu trưởng, McNamara xin phép được "truy đuổi nóng qua biên giới trong hoạt động tuần tra của lực lượng Nam Việt Nam"9.
    Việc này lại đụng chạm đến Harriman, nhưng khả năng ngăn chặn sự thay đổi chính sách của Harriman càng ngày càng trở nên mong manh. Tham mưu trưởng liên quân đang vận động cho "hoạt động qua giới tuyến" và McNamara cũng như McBundy - trợ lư đặc biệt về an ninh quốc gia của tổng thống - cảm thấy bị thuyết phục.
    Dẫu sao cũng phải xử lư quan hệ với Harriman, như Forrestal nói với Bundy hồi tháng 4. Johnson đă ngả theo việc ủng hộ "truy đuổi nóng" và Bundy sẽ điện báo cho Sài G̣n biết việc này. Micheal Forrestal, nhân viên thuộc Hội đồng an ninh quốc gia đề nghị Bundy thận trọng "nếu gửi bức điện mà không có ư kiến của Harriman th́ chẳng khác nào mang vạ vào người". Bức điện đă được tổng thống duyệt, nhưng thế chưa đủ. Nó cần sự ủng hộ của Harriman. Qua Sullivan, Forrestal biết rằng Harriman "không phản đối nội dung của bức điện, nhưng nếu cứ làm tới mà không có sự đồng thuận của ông th́ chẳng khác nào vuốt mặt không nể mũi10. Không ai muốn như thế, Forrestal nói với Bundy, và Bundy cũng biết điều đó từ kinh nghiệm riêng của ḿnh. Harriman được xoa dịu và miễn cưỡng tán thành "truy đuổi nóng".
    Báo cáo t́nh báo tháng 5-1964 đưa ra nhiều bằng chứng hơn về "các hoạt động rộng lớn của đối phương tại Lào". V́ vậy, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đề nghị "cho phép MACV... tiến hành vạch kế hoạch chung về các hoạt động qua biên giới tại Lào với chính phủ Cộng hoà Việt Nam và thực hiện một số điệp vụ t́nh báo hạn chế ở Lào". Cuối cùng các tham mưu trưởng có được cái họ muốn. Tuy nhiên những hạn chế do Washington áp đặt trong các hoạt động thu thập t́nh báo này cho thấy rơ rằng Bộ Ngoại giao vẫn là người trong cuộc. Hoạt động qua biên giới chỉ giới hạn trong "các khu vực ở Lào nằm giữa đường 9 và vĩ tuyến 17 giáp với biên giới, và vùng phía đông của Tchepone". Vùng này chỉ là một phần nhỏ của tuyến đường Hồ Chí Minh nhưng được coi là lối vào thiết yếu11. "Không có cố vấn Mỹ đi kèm" và những người Việt Nam thực hiện nhiệm vụ qua biên giới "không được mặc quân phục của Việt Nam cộng hoà" và chỉ đụng độ với đối phương khi "tự vệ”12.
    Ở MACV ai sẽ huấn luyện các toán này? Đó là thời điểm Russell được triệu tập đến cuộc họp tháng 4-1964 với tướng Westmoreland. Khi sếp của SOG bước vào văn pḥng của Westmoreland, McNamara, tướng Westmoreland, Đại sứ Lodge, và chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, tướng Taylor đă có mặt. Họ muốn biết "vào lúc nào SOG có thể thực hiện hoạt động tại Lào". Russell biết rằng họ muốn "có hoạt động dưới mặt đất để quan sát trực tiếp việc đối phương sử dụng con đường". Các toán phải sẵn sàng hoạt động trong ṿng một tháng. Russell không thông, theo ông, cố vấn Hoa Kỳ có vai tṛ quan trọng để lănh đạo các đơn vị Việt Nam. McNamara đồng ư, nhưng giải. thích là Ngoại trưởng Rusk "cho rằng vào lúc này chúng ta không nên để xảy ra nguy cơ lực lượng Mỹ bị lộ ở Lào"13. Harriman vẫn có cách của ḿnh.
    Trong khoảng 30 ngày, SOG đă chuẩn bị được một số toán sẵn sàng "qua giới tuyến" trong chiến dịch mang mật danh "Leaping Lena". Kết quả thật thảm hại, khẳng định nỗi lo sợ nhất của Russell. Cuối tháng sáu, 5 toán, mỗi toán gồm 8 người thuộc lực lượng đặc biệt Nam Việt Nam, được tung vào Lào dọc theo đường 9 phía đông Tchepone. Nhiệm vụ của họ là t́m ra hoạt động của đối phương, đặc biệt là sự di chuyển của quân đội và hàng tiếp tế của miền Bắc. Họ đă gặp cả hai. Nhưng chỉ có 5 trong tổng số 40 người trở về. Rơ ràng Hà Nội đang tăng cường sự có mặt quân sự tại Lào. Trong năm 1964, không một toán "Leaping Lena" nào nữa được tung đi.
    ____________________ _________________
    1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân "Nghiên cứu tài liệu MACV SOG", phần "Nhóm nghiên cứu và quan sát bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: ra đời, tổ chức và phát triển", tr. 146.
    2. "Quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ", 1961 - 1963: Việt Nam (Nhà in chính phủ, Washington DC, 1991) tập 4, tr. 699 - 700.
    3, 4. “Quan hệ đối ngoại của Hoa Kỳ", 1961-1963: Việt Nam (Nhà in Chính phủ. Washington DC, 1991), tr. 699-700, tr. 701.
    5. FRUS. 1964 - l968: Việt Nam, tập 1, trang 867.
    6, 7. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân “Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần “Hoạt động quan biên giới tại Lào", tr. 4.
    8. FRUS: 1964 - 1968: Việt Nam, tập 1 tr. 276.
    9. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 6.
    10. FRUS: 1964 - 1968: Việt Nam, tập 1, tr. 872.
    11. Plaster, "SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam", tr.13.
    12, 13. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 6-7, 8.
    Mọi chuyện là ở chi tiết
    Trong ṿng 15 tháng sau, SOG không được vào Lào do các cuộc căi cọ nội bộ vẫn tiếp diễn. Trong lúc đó, Hà Nội tăng cường sử dụng con đường. Hà Nội coi cuộc khủng khoảng 1963 ở miền Nam là một cơ hội vàng và khẩn trương tranh thủ cơ hội đó. Báo cáo t́nh báo khẳng định thực tế này, mô tả chiến lược xâm nhập miền Nam như "một nỗ lực được phối hợp và có kế hoạch chu đáo... biến miền Nam thành cuộc xâm lược quân sự ngầm". Báo cáo t́nh báo dự đoán: Hà Nội "sẽ tiếp tục hỗ trợ cho quân chủ lực của Việt Cộng thông qua việc đưa cán bộ, chuyên gia quân sự, chính trị và nhân lực"1.
    T́nh h́nh xấu ở việt Nam năm 1964 đặt ra cho Johnson một câu hỏi hắc búa. Đó là năm bầu cử tổng thống và ông đă cam kết "không đưa thanh niên Mỹ đến một nơi xa 9 -10 ngàn dặm làm những việc mà thanh niên châu Á phải tự làm lấy"2. Sau khi đă khắc hoạ bản thân là có thái độ cứng rắn nhưng linh hoạt trong vấn đề quân sự để trội hơn so với Barry Goldwater, người được ông mô tả là cực đoan, Johnson gạt Lào sang một bên. Binh sĩ Hoa Kỳ sẽ không vi phạm Hiệp định Giơnevơ 1962 - SOG không được đụng chạm đến đường ṃn Hồ Chí Minh.
    Lệnh ngăn cấm nhân viên quân sự Mỹ hoạt động bên kia giới tuyến tại Lào và Campuchia được truyền đạt một cách rơ ràng khi trung tá Ray Call, cố vấn lực lượng đặc biệt, đến nhận nhiệm vụ tại Nhóm dân vệ (CIDG) - một hoạt động do CIA khởi xướng để ngăn chặn Việt Cộng thâm nhập khu vực biên giới Việt Nam, nơi cư trú của các nhóm người thiểu số. MACV tiếp nhận hoạt động này năm 1963. Sau này Call kể lại rằng vào năm 1964, "biên giới là nơi bất khả xâm phạm. Một lần tôi phải cho máy bay trực thăng hạ xuống và yêu cầu nhân viên của tôi ngừng việc truy đuổi theo đối phương vượt qua biên giới". V́ sau một lần đổ bộ xuống bên kia chiến tuyến, Call được triệu đến gặp Westmoreland để tường tŕnh. Sau đó Call chỉ thị cho quân lính dưới quyền "tôi không muốn máy bay trực thăng hay bất cứ cái ǵ khác sang Lào hoặc Campuchia"3. Chiến tranh phải nhường bước cho chính trị của năm bầu cử.
    Năm 1965, sau khi đánh bại Goldwater, Johnson tập trung vào Việt Nam và nhận thấy t́nh h́nh c̣n ảm đạm và tồi tệ hơn. Chính quyền Nam Việt Nam ở trong t́nh trạng hỗn loạn, các vị tướng tiếp tục gây đảo chính và Việt Cộng giải phóng thêm nhiều đất đai ở nông thôn. Ngày 7-2, Hà Nội khiêu khích Mỹ bằng cuộc tấn công lớn vào căn cứ không quân Mỹ Lai, Plâycu - 9 quân nhân Mỹ bị giết và 128 bị thương. Johnson rất ngạc nhiên. McBundy, cố vấn an ninh của tổng thống, đang ở miền Nam và bay ra ngay Plâycu để thị sát t́nh h́nh thực tế. David Halberstam kể lại rằng Bundy "thăm hỏi số bị thương và khung cảnh đó gây ấn tượng mạnh cho ông". Chiến tranh không c̣n là vấn đề địa chiến lược trừu tượng. Nhiều tuần sau, khi được hỏi, Bundy "nói hàng tràng: thanh niên đang bị giết tại doanh trại, chúng ta phải làm điều ǵ đó, chúng ta không thể bỏ qua; chúng ta phải bảo vệ người của chúng ta"4.
    Lầu Năm Góc nhất trí, và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân kêu gọi dỡ bỏ ngăn cấm đối với hoạt động chống đường ṃn Hồ Chí Minh. Cuối cùng họ được toại nguyện. Tháng 3-1965, chiến dịch Rolling Thunder bắt đầu với mục đích ngăn chặn miền Bắc vận chuyển bộ đội và hàng hoá vào miền Nam bằng một chiến dịch ném bom. Các cuộc không kích nhằm vào đoạn đầu tiên của tuyến đường. Các tham mưu trưởng c̣n muốn làm ǵ đó với đoạn đường chạy ở lănh thổ Lào.
    Nhà Trắng chấp thuận, vào tháng Ba, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân được phép bắt đầu tiến hành hoạt động ngầm vượt qua giới tuyến sang Lào. SOG được giao nhiệm vụ đó. Khác với chiến dịch Leaping Lena, lần này nhân viên Mỹ sẽ lănh đạo các toán thám báo. Kế hoạch của SOG "vạch ra 3 giai đoạn hoạt động từ các điệp vụ thu thập t́nh báo ngắn ngày đến dài ngày hơn và phát triển thành đợt công tác lâu dài với nhiệm vụ tạo dựng nguồn chống đối"5.
    Đó là kế hoạch quá tham vọng và vấp phải sự phản đối của Bộ Ngoại giao. Mặc dù Lầu Năm Góc đă thuyết phục được Nhà Trắng dỡ bỏ lệnh cấm các hoạt động ở Lào, Bộ Quốc pḥng, Ngoại giao và CIA vẫn phải thảo luận với nhau về những chi tiết cụ thể. Các cuộc tranh luận kéo dài về các toán thám báo, cách thức xâm nhập họ, họ được đi bao xa, và được thực hiện nhiệm vụ nào.
    Vào lúc này, William Sulivan là đại sứ Mỹ tại Viêng Chăn, Lào. Tổng thống Kenedy đă có những bước củng cố quyền lực các đại sứ để đảm bảo họ phụ trách mọi vấn đề tại đại sứ quán Mỹ ở nước ngoài. Tổng thống muốn thắng cương cho CIA và Lầu Năm Góc, buộc họ phụ thuộc vào đại sứ. Năm 1962, tất cả mọi đại sứ đều nhận được thông báo này6.
    Dưới những chỉ dẫn trên, đại sứ có thể thực hiện quyền lực một cách thực sự. Sullivan, có biệt danh là một người "thích chi tiết" v́ sự quan tâm tỷ mỷ ở hoạt động của SOG ở Lào. Sullivan là người thành thạo đấu tranh nội bộ và đă có thời gian "thực tập" dưới sự hướng dẫn của "sư phụ” Harriman. Nếu như Sullivan cảm thấy có điều ǵ đó liên quan, hoạt động của SOG tại Lào sẽ bị hạn chế: Hoa Kỳ phải tuân thủ theo Hiệp định Giơnevơ 1962.
    Đầu năm 1965, tổng thống Johnson bổ nhiệm Harriman làm đại sứ lưu động phụ trách Đông Nam Á. Nhiệm vụ của ông gồm hai mặt: tạo ra sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc chiến tranh của Mỹ ở Nam Việt Nam và thăm ḍ khả năng thúc đẩy đàm phán hoà b́nh với Hà Nội. Cả hai việc này đều bất thành dẫn đến việc Harriman mất ḷng tin vào cuộc chiến tranh. Harriman ủng hộ Sullivan phản đối hoạt động của SOG tại Lào. Dẫu sao, đó là Hiệp định của ông và vị tân đại sứ lưu động phụ trách Đông Nam Á không muốn chiến tranh leo thang.
    Cuối mùa xuân 1965, Don Blackburn thay Russell giữ chức vụ chỉ huy trưởng của SOG và ngay lập tức bị kẹt vào giữa cuộc chiến tranh trên. Ông nghĩ phải làm điều ǵ đó để "ngăn chặn ḍng vận chuyển xuống phía Nam". Mặc dù có sự đồng ư của Westmoreland nhưng Blackburn nhận thấy công việc không được thúc đẩy đủ mạnh. Rơ ràng Westmoreland muốn ném bom con đường, nhưng ai là người chỉ ra mục tiêu? Phần lớn tuyến đường không thể nh́n thấy từ trên không- Blackburn quyết định đi Washington để vận động nới lỏng những quy định trong hoạt động của SOG, nhưng thất bại.
    Những giới hạn áp đặt cho "Shining Brass" - mật danh của hoạt động chống đường ṃn - cơ bản vẫn giữ nguyên. Sullivan nắm vai tṛ quyết định những ǵ các toán thám báo của SOG được hoặc không được làm ở Lào- Mối lo ngại của Sullivan vẫn vậy, "nhân viên quân sự Mỹ sẽ bị bắt trong các hoạt động này và được trưng bày như là những người vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơnevơ 1962"7. Các toán thám báo chỉ được xâm nhập vào Lào bằng đường bộ, việc xâm nhập bằng đường không bị cấm ngặt. Địa bàn hoạt động là khu vực sâu 5km và chỉ là một phần trong đường biên giới dài 200 dặm của Lào. Đó là địa bàn không rộng lớn ǵ khoảng chừng 50 dặm. Không quân Nam Việt Nam có thể đến tiếp tế hoặc sơ tán toán thám báo. Các mục tiêu do SOG xác định và được đại sứ quán ở Viêng Chăn duyệt cho ném bom nhưng chỉ các máy bay của Mỹ ở Thái Lan mới được thực hiện phi vụ8. Không có giới hạn chính thức về số lượng phi vụ thực hiện trong một tháng, nhưng mọi đề nghị phải qua Viêng Chăn. Do đó "Nguyên soái chiến trường", biệt danh của Sullivan, có quyền phủ quyết trên thực tế.
    Những quy định nói trên được hoàn chỉnh vào tháng Chín và chúng chẳng dễ dàng ǵ cho Bull Simon, người được Blackburn chọn để tổ chức một pḥng mới của SOG - OP35. Đầu mùa hè 1965, Simon nhận được một cú điện thoại của Blackburn. Ông muốn có ai đó điều hành hoạt động ngầm ở Lào. Simon được biết mục đích của các hoạt động này là ngăn chặn luồng giao thông trên đường ṃn Hồ Chí Minh- Simon phải bắt tay làm mọi việc từ đầu. Tuy nhiên đó mới chỉ là nửa công việc, Simon không biết Sullivan cho tới sau khi đă ở Sài G̣n.
    ____________________ ____________
    1. FRUS, 1964 - 1968: Việt Nam, tập 1, tr. 872.
    2. Trích trong Karnow, "Việt Nam: một lịch sử", tr. 395.
    3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 8-9.
    4. Hallberstam, "Những người xuất sắc và thông minh nhất", tr. 512.
    5. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào": tr. 10.
    6. Trích trong Newman, "JFK và Việt Nam", tr. 95.
    7. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân “Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG” phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 12.
    8. MACVSOG, Lịch sử chỉ huy 1966, Phụ lục M, tr. 97.
    BULL SIMON BẮT TAY VÀO VIỆC:
    TỔ CHỨC VUỢT QUA GIỚI TUYẾN
    Mỗi khi Lầu Năm Góc có nhiệm vụ bất khả thi đ̣i hỏi những biện pháp khác thường, đại tá Arthur D.Simon lại được triệu tập. Một số hoạt động "không thể tin được" cho đến ngày nay vẫn c̣n giữ bí mật. Tuy nhiên có một hoạt động nổi tiếng cho thấy ông được giao loại công việc nào trong sự nghiệp của ḿnh. Năm 1970, ông lựa chọn và huấn luyện 56 người bay 400 dặm từ Thái Lan đến một vị trí cách Hà Nội 20 dặm về phía Tây Bắc để cứu tù binh chiến tranh của Mỹ. Khi những người tập kích đến nơi lúc hai giờ sáng ngày 21-11, họ phát hiện tù binh ở trại Sơn Tây đă bị di chuyển. Tuy nhiên đây là một điệp vụ đặc biệt và được thực hiện gần như hoàn hảo. Những người tập kích khống chế t́nh h́nh, rút lui có trật tự và chỉ bị thương hai người. Nếu tù binh c̣n ở đó, Simon đă đưa được họ về nhà. Sơn Tây là dạng công việc dành cho ông. Simon tin rằng "công việc càng bất khả thi bao nhiêu, bạn càng có thể chắc chắn thực hiện được bấy nhiêu”1.
    Blackburn biết rằng Simon là người hoàn hảo cho công việc mới. Đây không phải là lần đầu tiên Blackburn cần sự giúp đỡ của Simon. Theo lời Ray Call: Mỗi khi có một công việc khó khăn và "muốn hoàn thành công việc khó khăn đó, người đầu tiên mà Blackburn gọi đến là Bull Simon". Những người biết Simon đều thấy ông “thông minh, biết cách chỉ huy và được tôn trọng. Ông không biết sợ, không hèn nhát... Ông không có bất kỳ bận tâm ǵ, rất cương quyết và thẳng thắn bất kể với lính mới hay cấp trên. Ông nói đúng sự vật như nó vốn có và giành được sự kính trọng. Cấp trên của ông, nếu muốn thực hiện công việc nào đó, thường yêu cầu Simon tham gia công việc lănh đạo"2.
    Bull Simon là sự lựa chọn rơ ràng, nhưng khi Blackburn gửi yêu cầu lên cấp trên câu trả lời là "không". Quân đội không nghĩ rằng Simon đủ tiêu chuẩn. Tướng Westmoreland đă quy định rằng tất cả đại tá công tác tại sở chỉ huy của MACV đều phải tốt nghiệp một trường quân sự nào đó và có thể xem xét phong lên cấp tướng.
    Simon chưa qua học viện quân sự; ông quá bận bịu thực hiện các nhiệm vụ khác thường và tuyệt mật. Ngay cả nếu có thời gian ông cũng không được trường tuyển chọn. Mặc dầu ông đủ năng lực làm chỉ huy, Simon chỉ là sĩ quan dự bị, người lựa chọn sự nghiệp tách rời quá xa khỏi ḍng quân đội chính thống. Ông có kinh nghiệm chiến đấu đặc biệt trong chiến tranh thế giới thứ hai, hoạt động lâu năm trong lực lượng đặc biệt và có kiến thức thực tế về Lào qua việc khi huấn luyện bộ tộc thiểu số chống lại quân đội miền Bắc đầu những năm 1960. Nhưng ông chưa qua trường lớp, v́ vậy không phù hợp với công việc. Blackburn giận dữ, điều đó thật nực cười. Nhưng cá nhân ông thừa hiểu quân đội nghĩ ǵ về nhân viên chiến tranh đặc biệt. Bản thân Blackburn không được nâng cấp hàm trong 20 năm. Vốn là đại tá trẻ nhất sau thế chiến thứ hai, nhưng vào năm 1965, không ai trong lứa của ông c̣n giữ cấp hàm đó nữa.
    Trên thực tế, không ai trong quân đội có tiêu chuẩn tốt hơn để tổ chức và chỉ huy hoạt động chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh so với Simon. Blackburn làm mọi việc để kéo Simon về với ḿnh, kể cả "tờ tŕnh đặc biệt về trường hợp ngoại lệ trái với chính sách của Westmoreland”3.
    Một khi ở Việt Nam, Simon không cần nhiều thời gian để h́nh dung rằng công việc của ḿnh rất khó khăn. Đối phương đă đi trước mở đường cách đó hai năm. Ray Call, phó của Simon, cho rằng Hà Nội đă tranh thủ sự lưỡng lự của Hoa Kỳ. "Trong thời gian sau khi tôi về nước, từ 1964 -1965, con đường được xây dựng khá nhanh... Họ bắt đầu sử dụng đường ṃn Hồ Chí Minh ráo riết hơn. Bạn có thể nh́n thấy những đoạn họ dùng máy húc để mở đường vượt đèo và xây cầu. Phần lớn con đường nằm dưới rừng rậm, nhưng một số đoạn th́ không. Con đường lấn khá sâu sang Lào”4.
    Việc miền Bắc mở rộng con đường tạo ra vô số mục tiêu cho các toán OP35 chỉ điểm để không kích. Hơn nữa, v́ miền Bắc đă sử dụng tự do trong thời gian gần hai năm, trên nhiều quăng đường họ hoạt động công khai. Điều đó làm cho họ dễ bị tổn thương. Nhưng việc có nhiều mục tiêu không hoàn toàn là điều hay, Ray Call nhận xét: "Họ chở quá nhiều thứ trên tuyến đường, vượt quá khả năng phá huỷ của các vụ không kích do các toán thám báo chỉ điểm. Chúng tôi càng phá, họ càng vận chuyển nhiều hơn. Có lẽ những ǵ chúng tôi cần phá huỷ là nguồn cung cấp viện trợ như Trung Quốc hoặc Liên Xô chẳng hạn. Một khi họ đă dỡ hàng, chúng tôi có một số lượng không hạn chế những mục tiêu không kích. Vấn đề là ở chỗ bạn muốn để bao nhiêu toán chấp nhận rủi ro"5.
    Thành lập các toán All Star - các ngôi sao
    Chỉ thị đầu tiên của Simon là chọn ra một nhóm chuyên gia để vạch kế hoạch và thực hiện điệp vụ chống phá đường ṃn. Lúc này, ông có thể lấy được những nhân viên chất lượng hơn so với thời điểm h́nh thành SOG. Simon bắt đầu từ trung tá Ray Call, một chuyên gia về chiến tranh không quy ước. Simon cần ai đó vạch kế hoạch, thành lập trung tâm chỉ huy kiểm soát ở Đà Nẵng và cùng đi với các toán Shining Brass đến thực địa. Ray Call có quá tŕnh công tác đúng như yêu cầu công việc. Ông.tham gia nhóm lực lượng đặc biệt 77 năm 1959 và được điều sang Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai và hai năm chiến đấu ở Triều Tiên... "v́ vậy, với hai cuộc chiến đằng sau, tôi nghĩ đă đến lúc phải làm điều ǵ đó thú vị hơn các đơn vị bộ binh”. Câu trả lời là lực lượng đặc biệt. Năm 1960, Call đưa một đội từ nhóm 77 đến Việt Nam để huấn luyện các đội đặc nhiệm người Việt Nam. Sau đó ông đến trường ngoại ngữ để "học tiếng Lào". Call dự kiến sẽ tham gia một trong những "toán White star ở Lào” của Simon. Với việc kư kết hiệp định Giơnevơ 1962, Call không bao giờ phải dùng tiếng Lào nữa6.

    ____________________ _________________

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P22




    Năm 1964, Call quay lại Việt Nam làm việc "an ninh biên giới... người Bắc Việt Nam đang tiến xuống qua biên giới Lào... rồi vào Việt Nam ở một số vị trí chiến lược. Phần lớn các vị trí này thuộc vùng III (nằm bên dưới cao nguyên, ngay phía nam Sài G̣n) nơi tôi đang làm việc. Tôi có 12 hoặc 13 đồn biên giới". Các đơn vị của Call là một phần của chương tŕnh Dân vệ. Binh lính của các nhóm này là "tạp pí lù từ người Thượng, người Nùng đến người ở đồng bằng"7. Call có được kinh nghiệm làm việc với người dân tộc Việt Nam từ các hoạt động thám báo này.
    Call đến làm việc cho Blackburn tại Chi nhánh chiến tranh đặc biệt của Bộ chỉ huy phát triển chiến đấu của lục quân. Đây chính là nơi mà Call được chọn cử đến SOG. Call nhận được thư của tướng Westmoreland cám ơn "đă t́nh nguyện quay trở lại Việt Nam". Call "không biết ǵ về việc này" - Blackburn đề cử ông cho OP358. Ông là sự lựa chọn đúng đắn cho việc vạch kế hoạch hoạt động thám báo và thành lập trung tâm chỉ huy và kiểm soát ở Đà Nẵng.
    Đà Nẵng cách biên giới Lào khoảng 50 dặm. Chỉ thị thứ hai vào mùa thu 1965 là thiết lập địa điểm tập kết hoặc căn cứ hoạt động tiền tiêu (FOB) cho các toán thám báo. Simon và Call chọn một trại giám sát biên giới của lực lượng đặc biệt ở Khâm Đức, chỉ cách Lào có 10 dặm. Để chỉ huy trại, họ chọn thiếu tá Charlie Norton, một "nguyên mẫu” của lực lượng đặc biệt từ những năm 1950 mà sự nghiệp đầy những công việc đặc biệt ở châu Âu, châu Á và ở Fort Bragg. Blackburn lôi Norton vào công việc này. Norton giải thích: "khi tôi đến (Việt Nam), tôi mới công tác được một ngày tại bộ phận huấn luyện của MACV. Khi Blackburn phát hiện ra điều này, ông đảo lộn mọi thứ và đưa tôi về SOG"9. Simon cũng biết Norton v́ cùng làm việc với nhau ở Trung tâm chiến tranh đặc biệt tại Fort Bragg.

    1. Trích trong Schemer, “Cuộc tập kích", tr. 80.
    2. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymalld Call, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACVSOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 26, 28.
    3. Schemer, "Cuộc tập kích", tr. 48.
    4. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Rayman Call, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 9- 10.
    5. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Rayman Call, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 25.
    6, 7, 8. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Rayman Call, Sđd, tr. 6.
    9. (Phỏng vấn lịch sử với trung tá Rayman Call, Sđd, tr.36.)
    Simon đă có người chỉ huy FOB - căn cứ hoạt động tiền tiêu và bắt đầu t́m kiếm một nhân viên điều hành tại Khâm Đức. Ông cần những người biết cách hoạt động sau lưng đối phương - một tay có kinh nghiệm đă từng làm thực tiễn, hiểu những ǵ liên quan và có thể chuẩn bị cho các toán thâm nhập vào Lào và hoạt động chống đường ṃn. Họ chọn đại uư Larry Thorne.
    Quá tŕnh công tác của Thorne như một cuốn tiểu thuyết. Sinh ở Phần Lan năm 1919, ông gia nhập quân đội Phần Lan năm 1938 và, trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai, tiến hành hoạt động không quy ước chống quân đội Xô viết. Sau khi phát xít chiếm đóng Ba Lan năm 1939, Stalin bắt đầu giải quyết mối lo ngại về an ninh ở vùng Ban tích. Các Hiệp ước pḥng thủ được kư với Latvia, Estonia, Litva và ngay sau đó Hồng quân được bố trí tại các nước này. Stalin muốn kư một hiệp ước tương tự với Phần Lan và có kế hoạch chiếm đóng vùng phía Nam Phần Lan. Người Phần Lan không chịu, từ chối kư hiệp ước và huy động lực lượng bảo vệ biên giới.
    Ngày 30-11-1939, một triệu Hồng quân tấn công. Phần Lan cố thủ với 300.000 quân, một nửa trong số đó là lực lượng dự bị. Người Phần Lan đă thực hiện xuất sắc việc pḥng thủ. Phải cần đến 54 trung đoàn đè bẹp họ và ngày 12-3-1940, Phần Lan thất thủ. 25.000 người Phần Lan bị chết và thương vong, của Hồng quân gấp khoảng 10-20 lần số đó.
    Larry Thorne chiến đấu trong cuộc chiến tranh 1939 - 1940 và tiếp tục chiến đấu du kích sau khi chiến tranh kết thúc. Đức xâm lược Liên Xô tháng 6-1941 và Phần Lan liên minh với Béclin. Thorne tiếp tục chiến đấu và thành tích của ông trở nên huyền thoại. Ví dụ, năm 1940 ông đưa một đội biệt kích thọc sâu vào hậu phương thiêu huỷ đoàn vận tải 300 người của Hồng quân mà không mất một người. C̣n có nhiều vụ tấn công tương tự trong vùng hậu phương của Hồng quân. Tháng 9-1944, Phần Lan đầu hàng Liên Xô nhưng Thorne th́ không - Thorne đi theo người Đức, theo học tại trường chiến tranh du kích và cùng chiến đấu với lính thuỷ cho đến khi chiến tranh kết thúc.
    Người Liên Xô muốn xử lư Thorne và buộc chính phủ Phần Lan phải giao nộp Thorne với tư cách là kẻ đồng loă với Đức trong thời gian chiến tranh. Họ có kế hoạch đưa Thorne về Moscow và xét xử về tội phạm chiến tranh. Thorne có kế hoạch khác: chạy trốn sang Hoa Kỳ và, với sự giúp đỡ của Bill Donovan, trở thành công dân Mỹ. Người đứng đầu OSS - Donovan - biết chiến tích của Thorne và h́nh dung chiến tranh cũng không khác ǵ việc kinh doanh ở Wall Street. Bạn sẵn sàng cho hai khả năng bằng việc đầu tư cho tương lai. Nước Mỹ cần những người "tài năng” như Larry Thorne trong những năm tới.
    Donavan giúp Thorne gia nhập quân đội Mỹ. Không mấy ngạc nhiên khi Thorne được cử đến nhóm lực lượng đặc nhiệm 77 và 1956 được thăng cấp trung uư. Với số lượng cố vấn gia tăng ở Việt Nam, Thorne được cử chỉ huy một đội lực lượng đặc biệt. Thorne đúng là mẫu người mà Bull Simon h́nh dungn trong đầu khi chọn sĩ quan điều hành tại Khâm Đức.
    Cuối cùng là nhân viên khác thuộc lực lượng đặc biệt - những người sẽ lănh đạo các toán thám báo "vượt qua giới tuyến". Từ cuối 1965 cho đến khi chấm dứt dính líu vào chiến tranh Việt Nam, họ cùng chiến đấu với người Nam Việt Nam tại Lào và Cam pu chia. Khó có thể t́m ra một nhóm người chịu đựng và dũng cảm hơn họ. Nhiều người được tặng huy chương danh dự. Thời gian trôi đi và điệp vụ thám báo càng trở nên nguy hiểm. Trong các toán thám báo của OP35, "Huân chương trái tim hồng (được tặng cho người bị thương trong chiến đấu) được trao tặng với tỉ lệ cao nhất trong tất cả các cuộc chiến tranh mà Mỹ tham gia trong thế kỷ này"1. Đó là giá phải trả khi phải đương đầu với quân đội miền Bắc.
    Người nổi bật nhất trong số đó là trung sĩ Dick Meadows. Ngày 6-6-1997, một tượng đài được dựng lên tại Ford Bragg để ghi nhận công lao của Meadows. Buổi lễ có sự tham gia của những nhân vật nổi tiếng nhất trong lực lượng đặc biệt của chiến tranh lạnh, trong đó có những người cùng công tác với Meadows tại SOG.
    Meadows sinh ra trong một căn hộ bụi bặm ở Virginia và đă khai tăng tuổi để gia nhập quân đội năm 1947. Là một lính dù, Meadows có những thành tích xuất sắc trong chiến tranh Triều Tiên. Năm 1953, công tác tại nhóm đặc biệt số 10 và ở lại với lực lượng đặc biệt cho đến cuối đời.
    Đầu những năm 1960, Meadows tham gia đề án White Star của Simon ở Lào huấn luyện bộ tộc Kha chống lại bộ đội Bắc Việt Nam và Pathet Lào. Năm 1966, Meadows được chọn cử đến nhận nhiệm vụ mới tại SOG. Meadows đúng là loại lănh đạo toán thám báo mà Simon đang t́m kiếm. Hai năm sau đó, Meadows lănh đạo các toán thám báo người Nùng gốc Trung Quốc luồn sâu qua biên giới tại Lào và miền Bắc. Những thành tích của Meadows thật đáng nể. Ví dụ, Meadows quay phim cảnh bộ đội chủ lực miền Bắc hành quân dọc tuyến đường, cung cấp chứng cứ rơ ràng về sự dính líu của miền Bắc tại Lào. Meadows trực tiếp báo cáo tướng Westmoreland và cho ông "xem phim". Meadows cũng chứng minh được Liên Xô trang bị pháo cho quân đội miền Bắc khi đang chỉ huy một toán thám báo tại vùng trú chân của bộ đội miền Bắc. Họ đă chụp ảnh và mang về những bức ảnh của pháo Liên Xô. Meadows cũng là người giữ kỷ lục về số lượng tù binh bắt giữ và đưa về căn cứ.
    Trong khi Meadows là trường hợp đáng chú ư nhất, SOG thu hút được nhiều nhân viên xuất sắc và dày dạn của lực lượng đặc biệt. Simon lôi kéo họ đến SOG. Trong ṿng năm năm, những con người này gây cho Hà Nội nhiều tổn thất.
    Các toán thám báo của SOG thường bao gồm 3 nhân viên Mỹ, 9 lính người dân tộc. Ở giai đoạn đầu số người này là người Nùng gốc Hoa, những người di cư từ Trung Quốc xuống Việt Nam vài thập kỷ trước. Đầu tiên họ định cư ở dọc theo vùng núi đông bắc và biên giới Việt - Trung cách Hà Nội khoảng 120 dặm2. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, người Pháp đă tuyển mộ họ và một số người dân tộc khác. Số này ở trong các đơn vị chống du kích do Pháp lănh đạo. Phần lớn số dân tộc ít người không có thiện cảm đối với số người đa số. Những người dân tộc thiểu số ở miền Bắc cũng vậy. Họ có thái độ thù địch với người Kinh3.
    Sau khi Pháp thất bại năm 1954, rất nhiều người Nùng di cư vào Nam. Họ là đối tượng lư tưởng cho các toán thám báo của SOG và sẵn sàng làm việc đó. Điều nực cười là chính phủ miền Nam lại coi họ không đủ tiêu chuẩn gia nhập quân đội Việt Nam cộng hoà. Ray Call có cách nh́n khác. Ông tin là số người Nùng gốc Hoa này "là những chiến binh tốt hơn nhiều so với một người lính người Việt trung b́nh... Họ là chiến binh tốt". Khi đến SOG, Call tuyển lựa số này và họ chiếm "đa số trong các toán thám báo"4.
    Khi Shining Brass được mở rộng, người Thượng được tuyển lựa cho các toán thám báo mới. Họ là dân tộc thiểu số lớn nhất ở miền Nam, sống chủ yếu ở vùng Tây Nguyên5. Cũng như người Nùng, người Pháp đă lợi dụng sự nghi ngại của người Thượng đối với người Kinh. Đây chính là chiến thuật chia để trị cổ điển. Pháp đă t́m cách khoét sâu ngăn cách giữa người Thượng và người Kinh.
    Khi chính quyền Kenedy mở rộng sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam, Tây Nguyên trở nên khu vực cực kỳ quan trọng. Đó là vùng thiết yếu của Việt Cộng, qua đó họ có thể chuyển quân và hàng tiếp tế. Việt Cộng đă rất cố gắng thuyết phục người Thượng đi theo sự nghiệp của ḿnh nhưng không mấy thành công6. Hoa Kỳ đầu tiên tuyển mộ người Thượng cho chương tŕnh chống bạo loạn 1961. CIA sử dụng họ để thu tin t́nh báo và pḥng vệ chống việc cộng sản khống chế Tây Nguyên, hoạt động sau này trở thành chương tŕnh pḥng vệ dân sự.
    Không có ǵ ngạc nhiên khi sếp của SOG Jack Singlaub được MACV chỉ thị gia tăng hoạt động ngầm chống lại đường ṃn, ông t́m đến người Thượng.
    Tổ chức của OP35
    OP35 chủ yếu là một tổ chức gắn thực địa với một sở chỉ huy nhỏ ở Sài G̣n. Bộ phận phối thuộc chỉ huy - kiểm soát được đặt tại Đà Nẵng có nhiệm vụ "giám sát các căn cứ hoạt động tiền tiêu - FOB - chuẩn bị thực hiện các điệp vụ phối hợp với các bộ phận hỗ trợ, phối hợp thông tin, hành chính và hỗ trợ hậu cần cho FOB”7. Để thực thi điệp vụ các toán biệt kích được xuất phát từ FOB - căn cứ hoạt động tiền tiêu gần biên giới Lào đầu tiên là ở Khâm Đức. Vào cuối 1965, năm toán thám báo: Iowa, Alaska, Idaho, Kansas và Dakota, được giao cho căn cứ này.
    Các toán thám báo chỉ được xâm nhập vào Lào bằng đường bộ và bị hạn chế trong việc có được vượt qua giới tuyến hay không. Biên với Lào - Việt từ khu phi quân sự đến biên giới Campuchia dài khoảng 200 dặm. Nhưng vào năm 1965, các toán thám báo chỉ được phép vượt qua giới tuyến ở một đoạn của đường biên giới cách khu phi quân sự 50 dặm về phía nam. Điều này cho thấy rơ ràng mức độ Bill Sullivan có thể tác động đến hoạt động ngầm chống lại đường ṃn. Những giới hạn của Sullivan trở nên quá mức đối với Simon, nhất là sau khi Sullivan thành công trong việc ngăn cản không cho các toán thám báo vào sâu quá 5km sang đất Lào năm 1966.
    Do những kết quả của OP35 năm 1966, Washingrton chỉ thị SOG tăng số điệp vụ và mở rộng hoạt động trên toàn tuyến biên giới 200 dặm. Nhưng hạn chế chiều sâu vẫn được duy tŕ. Simon phải tăng số toán thám báo từ 5 đến 20 và bổ sung một số đại đội phản ứng nhanh cho OP35. Nhiệm vụ của các đại đội này là tấn công các mục tiêu được các toán thám báo chỉ điểm. Căn cứ hoạt động tiền tiêu thứ hai được lập tại Kontum, c̣n căn cứ Khâm Đức được chuyển về Phú Bài, ngay cạnh Huế. Từ đây, các toán thám báo của SOG có thể xâm nhập mục tiêu ở Lào từ vĩ tuyến 17 đến thung lũng Asầu, tức là khoảng một nửa chiều dài biên giới. Nửa c̣n lại sẽ do căn cứ mới tại Kontum, Tây Nguyên đảm nhiệm 8.
    Hai bộ phận phối thuộc nữa là Trung tâm chỉ huy và kiểm soát miền Trung - CCC - ở Kontum và Trung tâm chỉ huy kiểm soát phía Nam - CCS - ở Ban-mê-thuật được bổ sung cho OP35 năm 1967 phản ánh yêu cầu gia tăng hoạt động ngầm chống lại đường ṃn Hồ Chí Minh của MACV. Mỗi một bộ phận phối thuộc phụ trách hai căn cứ hoạt động tiền tiêu. Trung tâm phía Bắc - CCN phụ trách khu vực từ vĩ tuyến 17 đến thung lũng Asầu, c̣n Trung tâm miền Trung - CCC - phụ trách phần c̣n lại của Lào. Trung tâm phía Nam, được chuyển giao cho OP35 năm 1967, phụ trách Campuchia9.
    Trong ṿng hai năm, tổ chức manh nha do Bull Simon thành lập đă phát triển nhanh chóng. Ba bộ phận phối thuộc có đến 110 sĩ quan và 615 nhân viên nghĩa vụ10. Hồ sơ không nói đến số lượng người địa phương phục vụ trong từng bộ phận phối thuộc, nhưng con số cũng khá lớn. V́ để đảm bảo cho mỗi bộ phận phối thuộc có được 30 toán, phải cần đến 800 người Nùng, Thượng và dân tộc thiểu số khác. Cộng với 6 đại đội phản ứng nhanh và 3 đại đội an ninh, số nhân viên người địa phương chắc chắn đạt đến hàng ngh́n. Số lượng đông đảo này đặt ra yêu cầu phải xây dựng một cơ sở đào tạo hoàn chỉnh để chuẩn bị cho họ tham gia hoạt động ngầm11.
    ____________________ ____________________ _
    1. Plaster, "SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam”. tr. 339.
    2. Người Nùng mang đặc trưng cấu trúc xă hội truyền thống của bộ tộc miền núi. Họ có cấu trúc gia đ́nh ḍng tộc rất chặt chẽ và cùng sinh sống trong một phạm vi địa lư nhất định.
    3. Kevin, "Lực lượng dân sự ở Việt Nam , tr. 445.
    4. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 20.
    5. Người Thượng bao gồm nhiều bộ tộc khác nhau như Sarai, Rhade, Sedang... Mỗi một tộc có lănh địa sinh sống riêng.
    6. Trích trong Damial S.Roger, "Người Thượng và người H'mông, những'chiến binh ở Đông Dương", luận văn thạc sĩ của trường Fletcher, 1997.
    7. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG” phụ lục D, phần "Nhóm nghiên cứu và quan sát hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 213.
    8. Các FOB được giao nhiệm vụ hỗ trợ hành chính, tiến hành huấn luyện, chuẩn bị, xâm nhập, đưa về các toán thám báo và đơn vị hỗ trợ.
    9. Theo tài liệu của SOG, các đơn vị phối thuộc được tổ chức theo mô h́nh tiểu đoàn bao gồm sở chỉ huy, một đại đội thám báo, hai đại đội hỗ trợ, và một đại đội an ninh (bảo vệ). Sau đội thám báo có 30 toán, mỗi toán có 3 cố vấn Mỹ và 9 toán viên người địa phương. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr. 311, 211, 212.
    10. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr. 211 - 212.
    11. OP35 thành lập chương tŕnh huấn luyện thám báo ở Long Thành. Theo hồ sơ, "Khi kiến nghị hoạt động qua biên giới được thông qua, kỹ thuật huấn luyện được vạch ra và trại Long Thành được sửa đổi cho phù họp với tính chất huấn luyện thám báo và lực lượng hỗ trợ”, khóa học hai tháng bao gồm: hành tiến trong vùng hậu phương đối phương, qua vùng rậm, sử dụng máy vô tuyến. Như trên, tr. 112.
    Các điệp vụ chống phá đường ṃn
    Một khi nhận được sự chấp thuận cho bắt đầu các hoạt động qua giới tuyến, nhiệm vụ mới này của SOG phản ánh những kế hoạch mà Blackburn có trong đầu. Blackburn muốn tạo ra bản sao của đề án White Star rất thành công của Simon.
    Bản kế hoạch đầu tiên của Blackburn đề ra một chương tŕnh ba giai đoạn. Thứ nhất các toán thám báo được đưa vào Lào để t́m kiếm căn cứ, doanh trại, và kho hàng của quân đội Bắc Việt Nam. Khi đă phát hiện, các mục tiêu này sẽ bị không kích. Giai đoạn hai liên quan đến việc triển khai lực lượng quy mô đại đội qua biên giới để tập kích các cơ sở của quân đội Bắc Việt Nam do các đơn vị thám báo phát hiện. Cuối cùng, người thiểu số ở địa bàn xung quanh đường ṃn sẽ được tuyển lựa và trở thành hạt nhân chống đối cho các hoạt động dài hơi chống quân đội miền Bắc1. Đó là một kế hoạch đầy tham vọng.
    Giai đoạn ba là sự lặp lại của đề án White Star có mục đích chính là huấn luyện dân tộc Kha chống lại Pathet Lào bằng chiến thuật du kích. White Star có kết quả. Theo Blackburn "Chúng tôi chiếm cao nguyên Bolovens cho đến Hiệp định Giơnevơ 1962. Trong đề án White Star chúng tôi đă nhét cái nút vào cổ chai và đó là lợi thế của chúng ta”2. Cao nguyên Bolovens là "vùng cổ chai của tuyến đường di chuyển Bắc - Nam ở Lào", Blackburn giải thích. "Lúc bấy giờ Pathet Lào kiểm soát Bolovens. Bull Simon triển khai một chiến dịch đẩy Pathet Lào ra khỏi cao nguyên"3. Nếu đă một lần mang lại kết quả, tại sao không thử lần nữa?
    Blackburn dự định "nhét nút chai vào cổ chai" và cắt đứt bộ đội Bắc Việt Nam tại Lào. Kế hoạch của Blackburn là "chuyển xuống phía sông Sê Công - cao nguyên Bolovens ở phía tây sông Sê Công. Khi bàn việc mở rộng đến sông Sê Công, chúng tôi phải làm việc với người Kha ở đó để ngăn cản việc Bắc Việt Nam ép buộc họ lao động hoặc làm việc khác trên đường ṃn. Như vậy, đó là cách ngăn không cho đối phương kiểm soát họ. Khi làm được điều đó, sẽ là lúc chuyển hoá họ thành phần tử du kích"4. SOG sẽ quay ngược kim đồng hồ để trở về với thời hoàng kim của White Star.
    Kế hoạch tổng thể của Blackburn chỉ c̣n một vấn đề: Sự chấp thuận của đại sứ Sullivan. Bản kế hoạch ba giai đoạn của Blackburn chết ngay tại Viêng Chăn. Sullivan phản đối bất kỳ vai tṛ nào của SOG tại Lào. Sau khi Blackburn nhận được sự chuẩn y cho hoạt động chống phá đường ṃn, vị đại sứ đă thực hiện thành công cuộc chiến pḥng ngự bằng việc đề ra càng nhiều hạn chế đối với hoạt động của SOG càng tốt. Ông không thể chấp thuận chương tŕnh ba giai đoạn. Theo Blackburn "đại sứ Sullivan không ngả theo bản kế hoạch" và ngăn chặn nó5. Đây không phải là lần cuối cùng Sullivan có hành động như vậy với SOG.
    Trách nhiệm của Ray Call, sếp phó của OP35, là thực hiện giai đoạn một của Blackburn "chúng tôi không đi chiến đấu… chúng tôi có mặt ở đó để t́m kiếm mục tiêu và gọi máy bay đến không kích"6. Khi Call đến SOG mùa thu 1965, phần c̣n lại của kế hoạch tổng thể của Blackburn đă trở thành dĩ văng. Call nhớ lại "trong nhiệm kỳ của ḿnh, chúng tôi không được giao cho tiến hành bất cứ nội dung ǵ (của kế hoạch Blacburn)... không có mục tiêu dài hạn mà chúng tôi phải đạt tới. Những ǵ chúng tôi được chỉ thị là ngăn chặn con đường Hồ Chí Minh bằng biện pháp thám báo và xác định mục tiêu cho không kích. Không có bất kỳ ư định nào cho chúng tôi thực hiện nhiệm vụ tổ chức chống đối"7.
    Việc xem xét chiến dịch Shining Brass cho thấy nhiệm vụ chủ yếu vẫn là ngăn chặn đường ṃn bằng các toán thám báo xác định mục tiêu cho không kích. Tuy có thêm một số nhiệm vụ khác: bắt cóc bộ đội đối phương - được gọi là "chộp" trong ngôn ngữ của SOG. Mặc dù việc bắt giữ là rất khó, các tù binh có thể cung cấp tin tức t́nh báo cập nhật quư giá, ví dụ như ư đồ của một đơn vị cụ thể.
    Các toán thám báo c̣n tiến hành đánh giá thiệt hại sau các vụ B52 rải bom ở Lào. Họ chụp ảnh và đếm số binh sĩ của đối phương bị chết. Các toán c̣n nghe trộm điện thoại, ghi âm các cuộc điện đàm, chủ yếu là từ trung tâm chỉ huy tới các đơn vị chiến đấu.
    Đến tháng 6-1967, theo chỉ thị của McNamara, một đề án mang tên Mussel Shoals được khởi xướng. Đề án này liên quan tới việc sử dụng các thiết bị cảm ứng để giám sát sự di chuyển của đối phương ở vùng rừng rậm. Ở Lào, việc ứng dụng biện pháp kỹ thuật điện tử này là nhằm cắt đứt luồng giao thông trên đường Hồ Chí Minh. Đề án này triển khai hàng ngh́n đầu cảm ứng điện tử và trung tâm điều hành được vi tính hoá ở Nakhon Phanom, Thái Lan. Khi phát hiện được sự di chuyển, thông tin đó được chuyển cho không quân để tiến hành oanh tạc. Các đầu cảm ứng được triển khai chủ yếu bằng máy bay, một số ít do các toán thám báo của SOG trực tiếp mang đi.
    Các toán biệt kích cũng được sử dụng để cứu nhân viên Mỹ đang chạy trốn hoặc đă bị bắt làm tù binh. Tháng 9-1966, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương thành lập Trung tâm giải cứu nhân viên hỗn hợp (JPRC) tại SOG. Hoạt động này có hai dạng "dạng tập kích vào các vị trí trại giam hoặc nghi có trại giam giữ tù binh chiến tranh"; và "t́m kiếm khu vực đă biết hoặc nghi là nơi nhân viên Mỹ đang trốn chạy hoặc trốn trại8. Những hoạt động này có tên "Bright Light".
    Ngoài các toán thám báo, OP35 thành lập các đại đội phản ứng nhanh có nhiệm vụ chặn phá đường, phục kích và tập kích, ứng cứu các toán thám báo, phá huỷ kho băi.
    ____________________ __________________
    1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Nhóm nghiên cứu và quan sát hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 11.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, "MACVSOG, phỏng vấn lịch sử với chỉ huy của SOG", tr.16 - 17, 35.
    4, 5. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, Sđd, tr. 17, 18.
    6, 7. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với các sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr.10, 13, 21.
    8. MACV SOG, "Lịch sử chỉ huy 1966", phụ lục M, tr.104 - 105.
    Hệ thống chỉ huy và "Nguyên soái chiến trường"
    Các thủ tục và quy tŕnh phê chuẩn điệp vụ của OP35 cũng tương tự như các bộ phận khác của SOG. V́ thế, hàng tháng OP35 chuẩn bị danh mục điệp vụ cho 30 ngày. Bản danh mục được gửi đến Westmoreland và sau đó là Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương. Sau đó, nó được gửi tới văn pḥng trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt (SACSA) ở Lầu Năm Góc, nơi tŕnh tiếp danh mục lên Bộ Quốc pḥng, Bộ Ngoại giao, CIA và Nhà Trắng. Ngay sau khi danh mục điệp vụ được phê chuẩn, quá tŕnh giám sát chưa chấm dứt. Một quá tŕnh tương tự được lặp lại khi thực hiện từng điệp vụ. Ngoài quy tŕnh đă hết sức rối rắm này, đề án Shining Brass c̣n gặp phải một trở ngại nữa: phải có ư kiến nhất trí của đại sứ Mỹ ở Viêng Chăn, điều hoá ra là bước khó khăn nhất trong tiến tŕnh phê duyệt. Ví dụ, Blackburn phải mất gần một năm đấu tranh để có thể mở rộng Shining Brass ra toàn bộ đường biên giới của Lào.
    Nếu cái khó nằm ở chi tiết th́ Sullivan là bậc thầy của tṛ chơi này, như đánh giá của ba sếp của SOG. Những ǵ "Sullivan muốn làm để hạn chế chúng tôi là giam các toán thám báo vào hai ô nhỏ", Don Blackburn, sếp của SOG 1965, nhớ lại. "Tôi không hiểu tại sao ông ta chỉ cho chúng tôi chỗ này một ô 20 dặm x 5 dặm chỗ kia một ô 25 dặm x 5 dặm, tôi không bao giờ hiểu điều đó"1.
    Jack Singlauh, người thay thế Blackburn 1966, cũng phàn nàn về Sullivan. "ông ta khăng khăng cho rằng ḿnh kiểm soát mọi thứ ở phía bên kia biên giới, kể cả hoạt động Shining Brass. Dĩ nhiên, đường biên giới vẫn chưa được phân định rơ ràng". Tuy nhiên, nếu Sullivan cảm thấy hoạt động của SOG vi phạm các hạn chế, "ông ta sẽ làm ầm lên là tôi đang hoạt động ngoài sự kiểm soát, và xâm nhập vào vùng lănh thổ không được phép. Ông ta thổi phồng vấn đề và buộc tội chúng tôi cố t́nh vi phạm quy định". Singlauh gặp "đại sứ Sullivan ít nhất một tháng một lần. Đôi khi có vấn đề nào đó, chúng tôi gặp nhau nhiều hơn. Thường là, tướng Westmoreland cùng dự". Singlaub nhớ lại sau một buổi gặp căng thẳng "Tướng Westmoreland nhận xét" là Sullivan "làm cứ như là chúa đất"2.
    Sullivan vẫn ở đó khi Steve Cavanaugh đến chỉ huy SOG năm 1968. Mọi điệp vụ vẫn phải thông qua Viêng Chăn. Một lần, Cavanaugh nhớ lại, ông đang xin phép để đưa các toán thám báo sâu hơn vào Lào "vượt qua giới hạn... Mỗi lần như vậy, tôi lại phải có sự đồng ư của Sullivan. Đôi khi tôi được phép, đôi khi không"3. Cavanaugh "đến Viêng Chăn nhiều lần" và thấy đại sứ quán "rất rắn trong vấn đề cho phép. Nếu anh muốn đi sâu hơn, hăy cho chúng tôi biết và chúng tôi sẽ đồng ư, nhưng theo nguyên tắc từng điệp vụ một". Sau đó, Cavanaugh đề nghị SACSA giúp đỡ cho phép "tiến sâu hơn vào Lào". Nhưng "chẳng có hồi âm ǵ hết"4.
    Vào năm 1966, t́nh h́nh có vẻ quá mức mà Bull Simon có thể tiêu hoá được. Sullivan thường xuyên kêu ca về các vụ vi phạm của các toán thám báo. Sullivan thường gửi "khiếu nại" đến MACV. Theo Ray Call, "MACV phát sợ ông ta"5. Mặc dù không thể thắng được Sullivan trong cuộc tranh luận về hạn chế cấm đoán, Simon có cách khác để đưa các toán thám báo vào sâu hơn ở Lào. Đơn giản bằng cách kẻ lại đường biên giới Lào - Nam Việt Nam.
    Theo Call, "chúng tôi gặp Bull ở một khách sạn tại Sài G̣n. Bull treo bản đồ lên bảng rồi nói "chúng ta sẽ thay đổi biên giới v́ hiện nay nó cũng chỉ là tương đối". Bull lấy thước kẻ và dịch đường biên giới về phía tây khoảng 20km bằng cách "chấm những chấm đó dọc theo biên giới rồi nối chúng lại với nhau. Sau khi làm xong, Bull nói: "Tôi sẽ yêu cầu vẽ lại bản đồ này cho các anh trong ṿng ba ngày". Bull đưa bản đồ đến cho chuyên gia đồ hoạ và họ vẽ ra bản đồ mới trong đó biên giới cũ biến mất thay vào đó là đường biên mới, lấn vào Lào 20km"6.
    Simon thoát khỏi giới hạn. Khi hỏi liệu đại sứ quán ở Viêng Chăn có biết điều đó không, Call trả lời: "Họ không bao giờ nói với tôi việc ấy cả... Nếu có th́ tôi phải biết. V́ vấn đề khá nghiêm trọng do vậy họ sẽ yêu cầu chúng tôi chấm dứt"7.
    ____________________ ________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với chuẩn tướng Donald Blackburn, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy của SOG", tr .31.
    2. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Jonh K. Singlaub, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy của SOG", tr.48.
    3, 4. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Stephen E. Cavanaugh, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy của SOG", tr.88, 101.
    5, 6, 7. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG" tr. 14, 17, 18.
    ĐỤNG ĐỘ VỚI QUÂN ĐỘI MIỀN BẮC TRÊN ĐƯỜNG M̉N
    Vào mùa thu 1965, mọi chi tiết đă được thống nhất và năm toán thám báo sẵn sàng "vượt qua giới tuyến". Nhiệm vụ hoàn toàn bí mật, các toán xâm nhập được "vệ sinh" sạch sẽ. Họ không mặc quân phục hoặc đeo phù hiệu và quần áo được đặt may riêng cho SOG. Vũ khí mang theo không do Hoa Kỳ sản xuất, chúng được lấy từ nguồn bí mật để không thể truy ra xuất xứ. Các toán không có bất cứ một thứ ǵ để từ đó xác định được họ là ai.
    Giới lănh đạo MACV và Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương thúc giục tiến hành hoạt động càng sớm càng tốt. Họ đang chờ kết quả. Từ tháng mười cho đến hết năm, bảy điệp vụ thám báo được thực hiện. Những hoạt động đầu tiên này, theo Ray Call, đúng vào lúc đối phương không pḥng bị, do đó SOG có được yếu tố bất ngờ1. Kết quả là đáng khích lệ Các toán thám báo đă phát hiện và chỉ điểm nhiều mục tiêu cho máy bay ném bom. Một trong những điệp vụ đầu tiên, toán thám báo đă phát hiện một kho hàng lớn của quân đội miền Bắc. Trong một điệp vụ khác, một toán thám báo đă phát hiện ra băi đỗ xe vận tải và một cơ sở cấp phát xăng. Sau khi máy bay A37 đến ném bom, hàng loạt vụ nổ vẫn tiếp tục xảy ra. Các điệp vụ khác phát hiện được cầu, băi đỗ xe phụ, kho xăng, địa điểm lưu trữ hàng và các cơ sở khác của quân đội miền Bắc. Báo cáo kết quả ném bom tỏ ra rất hứa hẹn, thông thường là "phá huỷ 80-100%"2 mục tiêu. Bull Simon đă khởi động Shining Brass một cách nhanh chóng. Tuy nhiên thành công không phải là không có giá. Trong một điệp vụ đầu tiên vào tháng mười, một toán thám báo được đưa đi trinh sát địa điểm nghi là nơi cất giấu hàng hoá. Hai chiếc trực thăng H-34 chở họ đến khu vực hạ cánh dọc theo biên giới, sau đó họ xâm nhập vào Lào bằng đường bộ. Tin tức t́nh báo cho biết có đối phương đang hoạt động mạnh trong vùng. Cộng với thớ tiết xấu một chiếc trực thăng H-34 nữa được cử đến để pḥng t́nh huống xấu. Larry Thorne ở trên chiếc thứ ba này.
    Bất chấp sương mù, với sự trợ giúp của nhân viên không lưu trên chiếc máy bay OV10, toán biệt kích đổ bộ thành công xuống địa điểm định trước. Khi trời dần tối và sương mù phủ kín, hai chiếc trực thăng quay về căn cứ Khâm Đức Thorne ở lại trên chiếc thứ ba chờ đợi tín hiệu an toàn của toán thám báo. Khi nhận được tín hiệu cho biết cả toán vẫn an toàn, Thorne ra lệnh cho phi công quay về căn cứ. Lúc đó sương mù gần như bịt kín tầm nh́n. Chiếc H-84 và Thorne biến mất vào bóng đêm và từ đó không ai biết được tin tức ǵ về Thorne.

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P23



    Việc lục soát kỹ lưỡng hiện trường không t́m thấy bất kỳ dấu vết nào về Thorne, viên phi công và chiếc máy bay trực thăng. Hoạt động qua biên ải có giá đắt. Một con người huyền thoại đă ra đi. Có nhiều lời đồn đoán về những ǵ xảy ra với Thorne, dựa trên cơ sở quá khứ chống quân đội Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai. Một sĩ quan của SOG đoán rằng "quá khứ của Thorne vẫn là sự quan tâm đặc biệt của người Nga. Rất có thể là thiếu tá Thorne bị phục kích hoặc buộc phải hạ cánh và bị bắt sống đưa về Liên Xô"3. Không có bằng chứng nào chứng minh cho nhận định này. Tuy nhiên, có một sự thật là SOG không t́m thấy ǵ về vết tích của Thorne.
    Thành công và mở rộng hoạt động : 1966 - 1967
    Những thành tích ban đầu của SOG rất gây ấn tượng cho giới lănh đạo quân sự. V́ vậy, họ đă mở rộng địa bàn hoạt động của Simon ở Lào và giao cho ông nhiệm vụ tăng số điệp vụ trong năm 1966. Giới lănh đạo cao cấp của MACV muốn tấn công "hệ thống hậu cần và đường liên lạc của đối phương ở Bắc Lào"4. Tác động quân sự của việc Hà Nội mở rộng con đường cuối cùng đă trở nên rơ ràng. Con đường cho phép bộ đội miền Bắc đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam.
    Các toán thám báo mang về những chứng cứ hiển nhiên về hoạt động của Bắc Việt Nam mà ảnh chụp từ máy bay khó có thể phát hiện được. Westmoreland muốn dỡ bỏ những hạn chế đang áp đặt lên hoạt động của Simon. Ông "đề nghị sử dụng trực thăng để xâm nhập" các toán biệt kích. "Mặc dù những điệp vụ ban đầu dường như là thành công, việc xâm nhập lại rất nông. Với sự hỗ trợ của trực thăng... hiệu quả hoạt động sẽ được nâng lên đáng kể"5. Đô đốc Grant Sharp, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Thái B́nh Dương cũng muốn thả lỏng SOG. Tương tự Westmoreland, Grant Sharp rất ấn tượng với thành quả của các toán biệt kích. Theo Ray Call, Sharp gửi nhiều bức điện "biểu dương" sau khi đọc báo cáo hoạt động 6.
    Đại sứ Sullivan lại có ư kiến khác. Ông sẽ không từ bỏ những cấm đoán do ông đề ra đối với hoạt động chống phá đường ṃn. Trong các cuộc đàm phán sau đó, có một số hạn chế ban đầu được nới lỏng. Vào tháng Tư, Bộ Quốc pḥng và Ngoại giao nhất trí sữa đổi như sau: "Phê chuẩn việc sử dụng trực thăng để xâm nhập". Tuy nhiên "máy bay trực thăng không được vào Lào sâu quá 5km". Các toán thám báo được phép vào sâu thêm 5km nữa bằng đường bộ. Như vậy, địa bàn hoạt động giờ đây là 10km bên trong Lào dọc theo toàn bộ đường biên giới 200 dặm7. Sullivan phải nhượng bộ 5km.
    Giới chỉ huy quân sự c̣n muốn "thành lập ba tiểu đoàn người Nùng mỗi tiểu đoàn gồm 540 người có nhiệm vụ hỗ trợ cho Shining Brass... Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương kiến nghị: nên đồng ư"8. Lực lượng này có hai mục đích. Một là họ sẽ bảo vệ an ninh cho các địa điểm tập kết - FOB - chống lại việc đối phương tấn công. Hai là: tiến hành tấn công mục tiêu ở Lào đă được thám báo chỉ điểm. Họ c̣n có thể giúp ứng cứu các toán biệt kích gặp trục trặc9. Sự phê chuẩn của Nhà Trắng Westmoreland nói với Sharp, phụ thuộc vào "Đại sứ quán ở Viêng Chăn"10.
    Sullivan nhân nhượng nhưng với điều kiện "hoạt động của lực lượng hỗ trợ chỉ giới hạn ở quy mô trung đội và tối đa là 3 cố vấn Mỹ. Phạm vi xâm nhập là 10km, thời gian hoạt động giới hạn trong 5 ngày; 48 giờ trước khi thực hiện điệp vụ, SOG phải thông báo trước cho đại sứ Mỹ tại Viêng Chăn"11.
    Bất chấp những giới hạn trên, Bull Simon có một năm 1966 tốt lành. Tất cả có 111 điệp vụ thám báo được thực hiện, và đạt "15 điệp vụ một tháng vào tháng Chín" 12. Các toán thám báo dưới sự chỉ huy của Charles Norton, người điều hành căn cứ hoạt động tiền tiêu Khâm Đức, phát hiện một số lượng đáng kể kho tàng và cơ sở của đối phương bên kia biên giới: "Chúng tôi phát hiện được rất nhiều, gây cho họ nhiều thiệt hại và khó khăn". Norton tin là "nếu hoạt động này được tiến hành dọc theo toàn tuyến đường chúng ta đă có thể cắt đứt nó"13.
    Đó là sự khởi đầu tốt đẹp, nhưng với những giới hạn cấm đoán, Norton cảm thấy hoạt động thám báo "chỉ là sự khó chịu qua loa đối với Hà Nội"14.
    ____________________ _________________
    1. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, Sđd tr. 25.
    2. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG” phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 16.
    3. Trích trong “Chiến tranh trong bóng tối”, (Boston: Boston Publishing Company, 1988), tr. 87.
    4, 5. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 17.
    6. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 15.
    7, 8. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, Sđd, tr. 18.
    9, 10, 11, 12. MACV SOG, "Lịch sử chỉ huy 1966", phụ lục M, tr.97, 18.
    13, 14. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tá Charles Norton, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr.56.)
    Ngoài việc xác định mục tiêu cho không kích, các toán thám báo c̣n thực hiện các nhiệm vụ khác. Ví dụ, trong năm 1966, các toán này đă 'bắt được 15 tù binh"1. Nhiều tù binh trong số này là do Mick Meadows bắt được, thậm chí có một lần Meadows bắt được hai người2. OP35 c̣n thực hiện nhiệm vụ giải cứu phi công bị bắn rơi hoặc tù binh Mỹ. Chuyến giải cứu đầu tiên được thực hiện ở miền Bắc ngày 1- 10 và do Mick Meadows chỉ huy. Họ đă không kịp. Viên phi công bị bắt trước đó và chỉ cách toán của Meadows không đến một dặm. Trong năm 1966, tất cả có bốn cuộc giải cứu phi công: một ở miền Nam, hai ở miền Bắc và một ở Lào. Vụ cuối cùng đă cứu được phi công3. Cuối cùng, lực lượng hỗ trợ thực hiện 13 điệp vụ, tất cả đều ở quy mô trung đội đúng theo điều kiện của đại sứ Sullivan4.
    Phần lớn điệp vụ của các toán thám báo kéo dài khoảng 3-5 ngày: Nếu "gặp đối phương hoặc phát hiện được mục tiêu họ sẽ yêu cầu sự hỗ trợ của máy bay chiến thuật thông qua nhân viên kiểm soát không lưu - FAC" toán trưởng sẽ “hướng dẫn không kích thông qua FAC". Đến thời điểm rút về "có các toán hỗ trợ việc rút lui". Các toán hỗ trợ có thể là một trung đội người Nùng, nhất là khi có sự đụng độ với đối phương tại thời điểm rút ra5. Nếu có giao tranh ác liệt, máy bay chiến thuật được gọi đến để đẩy lùi quân đội Bắc Việt. Mặc dầu mỗi toán chỉ có 12 người, một điệp vụ có sự hỗ trợ rộng răi của nhiều lực lượng.
    Bổ sung vào thành công của hoạt động trong năm 1966 là tỷ lệ thương vong thấp, mặc dù công việc rất nguy hiểm, tuy nhiên điều này thay đổi trong những năm sau. Theo hồ sơ, số "thương vong gồm 3 người Mỹ và 16 người Việt Nam bị chết; 5 người Mỹ và 25 người Việt Nam mất tích"6. Ray Call cho rằng tỷ lệ thấp là do yếu tố bất ngờ. "Người Bắc Việt Nam không hề biết rằng có ai đó có mặt và gọi máy bay đến ném bom”7, Charlie tán thành “Tôi thật sự nghĩ rằng họ không phát hiện ra chúng tôi ở những nơi chúng tôi đi qua"8. Đó thực sự là một lợi thế. Tất nhiên, phải tranh thủ lợi thế và đó là khi Bull Simon phát huy tốt nhất sở trường của ḿnh.
    Thành công trong năm 1966 làm cho Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương hối thúc việc "mở rộng địa bàn hoạt động thám báo tại Lào" trong năm 1967. MACV cũng muốn vậy, và vào tháng Hai đă kiến nghị một số thay đổi về giới hạn hoạt động của Shining Brass. Thứ nhất, chiều sâu hoạt động tăng lên 20km cho các toán biệt kích và máy bay trực thăng chuyên chở họ. Hai là, quy mô của lực lượng hỗ trợ trong các điệp vụ không c̣n giới hạn ở cấp trung đội, MACV muốn triển khai nhiều trung đội "để tấn công mục tiêu phù hợp, các tuyến đường hiểm yếu, và ngăn chặn mặt đất"9. Cuối cùng, tăng số lượng các toán thám báo để có thể "thực hiện 42 điệp vụ một tháng. Những thay đổi này được ban hành tháng Ba, thời điểm Shining Brass được đổi tên thành Prairie Five. Những thành tích của OP35 đă làm suy yếu khả năng khống chế của Sullivan.
    Những thay đổi trên đă tạo ra sự khác biệt. Theo báo cáo cuối năm của SOG, những hoạt động trong năm 1967 "đánh dấu bởi sự mở rộng về quy mô và nhịp độ, việc đưa ra những biện pháp mới và việc xoá bỏ những giới hạn ngăn cản việc khai thác tối đa tiềm năng trước đây"10. Bản báo cáo kết luận tỉ lệ thương vong cao hơn là giá phải trả để có được sự phát triển.
    Các toán thám báo thực hiện 187 điệp vụ. Việc xác định mục tiêu cho không kích vẫn là nhiệm vụ chủ yếu của OP35. Ngoài ra, 68 điệp vụ hỗ trợ được thực hiện11. Trung tá Jonathan Carney, sếp phó của OP35 năm 1967, tin là "chúng tôi gây thiệt hại cho miền Bắc... chúng tôi giết được nhiều người và buộc họ tiêu tốn nhiều năng lực để ngăn cản hoạt động của chúng tôi. Điều đó làm tổn hại đáng kể cho nỗ lực hậu cần của họ"12. Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương và MACV cũng thấy như vậy và hối thúc có nhiều hoạt động hơn. Hà Nội cũng đă nhận ra và bắt đầu triển khai nhiều biện pháp đối phó để bảo vệ khoản đầu tư vào Lào của ḿnh.
    OP35 mở rộng hoạt động vượt ra những ǵ đă thực hiện trong năm 1966 và trở thành một phần của hệ thống chống xâm nhập của Bộ trưởng McNamara. "Vào tháng 12-1966, Bộ trưởng Quốc pḥng chỉ thị triển khai một hệ thống điện tử để ngăn chặn sự xâm nhập của người và phương tiện từ miền Bắc và Lào xuống miền Nam. Hệ thống này mang tên: Hệ thống chống xâm nhập Mussel Shoalss. C̣n được biết đến với tên "Hàng rào McNamara", hệ thống này gồm các thiết bị cảm ứng địa chấn và âm thanh để phát hiện sự di chuyển của đối phương. Khi những "chiếc mũi" này đánh hơi thấy mục tiêu, máy bay sẽ được gọi đến để ném bom tiêu diệt. Các toán của SOG mang các thiết bị cảm ứng này cài cắm ở Lào. Họ không thích ǵ nhiệm vụ này v́ thiết bị cảm ứng nặng và cồng kềnh. Thông thường họ phải di chuyển thật nhanh v́ đối phương truy đuổi sát đằng sau. Loại thiết bị này làm giảm tốc độ của họ.
    Sự thay đổi lớn nhất trong năm 1967 là việc bổ sung Campuchia vào địa bàn hoạt động của SOG. Hoạt động của miền Bắc ở Campuchia bắt đầu gây lo ngại cho MACV từ 1965. Các tư lệnh chiến trường của Westmoreland cảm nhận rơ ràng là Bắc Việt Nam đă triển khai các tuyến xâm nhập, sở chỉ huy, căn cứ vào cơ sở tiếp tế ở đó. Thực chất của vấn đề là đường ṃn Hồ Chí Minh không dừng lại tại biên giới. Bộ đội và hàng hoá Bắc Việt Nam tiếp tục thẳng tiến. Các toán thám báo chứng kiến điều này, nhưng một khi đối phương đă qua biên giới họ không thể yêu cầu không kích. Campuchia ở ngoài tới hạn hoạt động và trở nên nơi cư trú an toàn hơn ở Lào.
    Dĩ nhiên, Hà Nội không coi trọng đường biên giới địa lư như Washington. Toàn bộ Đông Dương là khu vực chiến tranh chứ không phải chỉ ở miền Nam. Hơn nữa, việc mở rộng đường ṃn sang Campuchia chỉ là một nửa vấn đề, miền Bắc mua một số lượng lớn gạo của chính quyền Sihanouk và chở vũ khí qua cảng Shihanoukville tới các đơn vị bộ đội đang chiến đấu tại miền Nam.
    ____________________ ____________________ __
    1. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1966. Phụ lục M, tr. 98.
    2. Câu chuyện này được kể trong các cuộc trao đổi giũa tác giả và Plaster trong quá tŕnh nghiên cứu viết cuốn sách này.
    3. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1966. Phụ lục M, tr. 24.
    4. Theo Ray Call, phần lớn những hoạt động lớn này "h́nh thành phạm vi pḥng ngự xung quanh mục tiêu trong khi người chúng tôi có nhiệm vụ phá hủy mục tiêu đó" hoặc "bảo đảm khu vực đổ bộ để rút toán thám báo ra". Khác với các toán thám báo có thể ở Lào đến 5 ngày, lực lượng hỗ trợ không bao giờ ở đâu quá 3 giờ. Họ được đưa đến, làm xong công việc rồi về", phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 30.
    5. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, Sđd, tr. 24.
    6, 7. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 26, 34.
    8. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tá Charles Norton, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 50.
    9. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tá Charles Norton, Sđd, tr. 28.
    10, 11. MACVSOG: "Lịch sử chỉ huy 1967 , phụ lục G, tr.G-IV-1.
    12. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Jonathan Carney trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 85, 86.
    Ngay từ đầu 1965, MACV đă yêu cầu được phép tiến hành biện pháp quân sự "mỗi khi quân đội Hoa Kỳ hoạt động ở vùng giáp biên giới Campuchia". Phải làm điều ǵ đó đối với nơi cư trú và địa bàn tập kết của đối phương. Westmoreland muốn được sử dụng pháo và máy bay tấn công các trận địa vũ khí đặt ở Campuchia vẫn bắn vào các đơn vị Hoa Kỳ, cử quân đội vượt qua biên giới tiến hành truy kích, sử dụng máy bay để "làm nhiệm vụ trinh sát theo dải đất 10km dọc biên giới phía Campuchia"1. MACV lư luận rằng "họ cần tiến hành các biện pháp trên v́ chúng cần thiết cho việc bảo vệ miền Nam"2. Đối với giới chỉ huy quân sự ở Sài G̣n, đó là một yêu cầu thoả đáng.
    Washington bác bỏ. Bộ Ngoại giao không nhất trí. Mặc dù Thái tử Sihanouk chơi với Hà Nội, các nhà tư duy địa chính trị ở Bộ Ngoại giao tin rằng có thể lôi kéo được ông qua đàm phán khéo léo. Ngay cả khi chứng cứ hoạt động của miền Bắc tại Campuchia ngày càng nhiều trong năm 1966, Bộ Ngoại giao vẫn đề nghị Johnson giữ Campuchia ngoài vùng hoạt động. Họ nói đang đạt được tiến bộ với Thái tử. Hơn nữa, Bộ Ngoại giao lập luận, chứng cứ về sự dính líu của Hà Nội tại Campuchia c̣n sơ sài. Johnson bị thuyết phục. Ông cũng e ngại những bất lợi chính trị trong nước nếu mở rộng chiến tranh sang Campuchia.
    Năm 1967, tướng Westmoreland một lần nữa gây sức ép yêu cầu cho phép SOG cử các toán thám báo sang Campuchia làm nhiệm vụ trinh sát. Ít nhất, theo Westmoreland, họ có thể "cảnh báo trước về sự di chuyển của đối phương", cho phép "triển khai lực lượng kịp thời để đối phó". Bộ Ngoại giao không chịu, nhưng lần này phần thua về họ. Tháng Năm, SOG nhận được chỉ thị tiến hành hoạt động qua giới tuyến ở Campuchia. Nhiệm vụ này có mật danh Dannial Boong với mục đích "thu thập t́nh báo, chủ yếu là vùng ngă ba biên giới" Lào, Việt Nam và Campuchia3.
    Đó là chiến thắng lớn đối với SOG, nhưng cần phải vạch ra chi tiết cụ thể. Các nhà địa chính trị ở Bộ Ngoại giao không lùi bước và tỏ ra cứng rắn không kém Sullivan khi thảo luận các chi tiết nhỏ. Theo một tài liệu được giải mật, "có nhiều giới hạn"4 thậm chí c̣n chặt chẽ hơn những quy định được áp dụng tại Lào. Đầu tiên, địa bàn hoạt động chỉ giới hạn ở vùng đông bắc Campuchia, từ biên giới Lào, giáp với vùng Tây Nguyên kéo xuống vùng mỏ vẹt ở Campuchia. Khu vực này tập trung nhiều lực lượng của đối phương, trong đó có cơ sở chỉ huy chính của quân đội Bắc Việt, được biết đến dưới cái tên "Trung ương Cục miền Nam"- COSVN5. Phía nam của vùng lưỡi câu là ngoài địa bàn hoạt động của SOG. Một khi đă qua biên giới, các toán biệt kích không được đi sâu quá 5km.
    Đó mới chỉ là một phần của những ǵ mà Bộ Ngoại giao đạt được. Các toán của SOG phải đi bộ vào hoặc ra khỏi Campuchia. Trực thăng chỉ được sử dụng "để kéo ra trong trường hợp khẩn cấp”. Các vụ không kích bằng máy bay chiến thuật hoặc sử dụng lực lượng hỗ trợ đều không được phép. Một khi đă qua biên giới, các toán thám báo tự lo liệu cho ḿnh bất kể t́nh huống nguy hiểm như thế nào. Thời gian hoạt động "giữ" ở mức tối thiểu cần thiết cho việc trinh sát. Các toán "tránh va chạm" và chỉ "đụng độ khi không c̣n cách nào khác để tránh bị bắt giữ". Cuối cùng, số lượng điệp vụ "không vượt quá 10 trong thời gian 30 ngày”6.
    Những giới hạn trên làm cho những ǵ Sullivan đă áp đặt trở nên khiêm tốn và hạn chế rất nhiều thành quả của Dannial Boone. Vào mùa hè, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương và MACV thúc giục tháo bỏ chúng. Họ cho rằng nhiều mục tiêu thiết yếu của đối phương bị bỏ lỡ. Đối với các toán của SOG, tiến hành chiến tranh theo kiểu đó thật ngớ ngẩn, nhưng họ đâu phải người theo trường phái địa chính trị. Những giới hạn áp dụng đối với hoạt động của SOG ở Campuchia thật khó hiểu nếu xét đến cách thức tiến hành chiến tranh của Hà Nội.
    Vào tháng Tám, Lầu Năm Góc ép Bộ Ngoại giao phải có một số nhượng bộ. "Việc triển khai các toán biệt kích bằng trực thằng sâu vào 20km dọc theo toàn tuyến biên giới Campuchia" được phê chuẩn. Nhưng "các giới hạn hoạt động khác vẫn được duy tŕ”7. Vào cuối năm, các nhân viên không lưu - FAC - được phép "trinh sát khu vực mục tiêu, lựa chọn điểm đổ quân, trung chuyển thông tin và kiểm soát các máy bay trực thăng trong quá tŕnh xâm nhập và rút ra"8.
    Dannial Boone mang lại lợi nhuận bất chấp những trở ngại trên. Các toán thám báo phát hiện sự có mặt thực sự của quân đội Bắc Việt tại Campuchia. Hà Nội đă kéo dài đường ṃn Hồ Chí Minh xuống phía Nam Lào và bố trí bộ đội, căn cứ, kho cung cấp, kho vũ khí, sở chỉ huy và Trung ương cục miền Nam (COSVN) dọc theo đường ṃn. Các toán của SOG cung cấp tin t́nh báo về hoạt động của đối phương mà các nguồn khác không thể thu thập được. Từ 1-7 đến 31-12, "99 toán thám báo đă được đưa vào vùng ngă ba biên giới... 63 toán xâm nhập thành công vào Campuchia"9.
    Nh́n chung, 1967 là một năm tốt lành nữa với OP35. Số lượng điệp vụ thành công tăng lên gấp đôi. Ở Lào, các toán của SOG phát hiện mục tiêu; c̣n ở Campuchia, họ cung cấp tin t́nh báo cho phép MACV h́nh dung ra bức tranh về hoạt động của Hà Nội. Tuy nhiên, thành công tăng lên kèm theo sự gia tăng của mất mát. Số lượng người Mỹ chết trong những điệp vụ này tăng từ 3 người năm 1966 lên 43 vào cuối 1967, 14 người khác bị mất tích10. Nhân viên của SOG thấy ḿnh rơi vào cuộc hỗn chiến trên đường ṃn. với đối phương đông hơn nhiều lần. Đó là những ǵ mà trung uư George Sislers đối mặt trong một điệp vụ đánh giá kết quả không kích tháng 1-1967. Vừa đổ bộ xuống Lào, toán của Sisler bị một đại đội tấn công. T́nh thế nhanh chóng trở nên tuyệt vọng. Sisler vừa đẩy lùi các cuộc tấn công vừa hoa tiêu cho trực thăng đến cứu hộ. Cuối cùng trung uư Sisler đă chết trong trận chiến”11.
    Các báo cáo chính thức của Prairie Fire và Dannial Boone chứa đầy những chi tiết và số liệu rất ấn tượng. OP35 đă mở rộng quy mô và nhịp độ, áp dụng những biện pháp mới. Tuy nhiên các bản báo cáo bỏ qua một câu hỏi lớn: OP35 có gây thiệt hại thực sự cho đối phương không? Không nghi ngờ ǵ nữa, OP35 đang có tác động và được tŕnh bày một cách chi tiết trong một bản báo cáo của MACV: "Những hoạt động của Prairie Fire là có hiệu quả và thu được kết quả đáng kể trong việc quấy phá và làm chậm tốc độ của đối phương. Họ đă buộc đối phương phải thay đổi một số tuyến đường nằm xa miền Nam hơn, do đó phải mất thêm thời gian trung chuyển và tạo cơ hội cho không quân chiến thuật tấn công". Thêm nữa, đối phương trở nên "lo lắng về đường liên lạc và buộc phải giảm bớt nguồn lực lẽ ra được triển khai ở Nam Việt Nam"12.
    Các biện pháp đối phó mà quân đội miền Bắc triển khai cho thấy hoạt động do Simon thực hiện đă làm Hà Nội lo ngại. Con đường ṃn là trọng tâm chiến lược của Hà Nội, và do vậy câu hỏi thật sự không phải là liệu OP35 có gây thiệt hại cho Hà Nội không. Có đấy, nhưng vấn đề ở đây là ở mức độ nào? Có tác động cực mạnh không? Trước đây Charlie Norton mô tả tác động chỉ là "sự phiền toái qua loa đối với Hà Nội". Có lẽ Ray Call đă tóm tắt một cách chính xác nhất khi ông đề cập đến sự không cân sức giữa SOG và quân đội miền Bắc trên tuyến đường ṃn. Hà Nội bắt đầu làm đường từ 1959 và đến 1964 công việc đó được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Như Call nhận xét, sự thay đổi là rất đáng kể.
    Bull Simon gây bất ngờ đối với quân đội miền Bắc tại Lào và phát đi tín hiệu rằng việc sử dụng tự do con đường đă kết thúc. Bức thông điệp là rơ ràng: lực lượng không quân Hoa Kỳ sẽ đến thăm bạn. Và đúng vậy, trong suốt hai năm 1966 và 1967, các máy bay chiến thuật liên tục tấn công các mục tiêu do SOG chỉ điểm. Tuy nhiên, khi Hà Nội đă biết thủ đoạn hoạt động của thám báo và triển khai hàng loạt biện pháp đối phó, cuộc chiến rơ ràng là không cân sức. SOG gặp những khó khăn lớn hơn trong hoạt động qua giới tuyến trong những năm 1968 và 1969.
    ____________________ ______________
    1, 2. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MAEV SOG" phụ lục D phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào", tr. 3, 4.
    3, 4. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr. 1.
    5. Harny Sommers, "Almanae về chiến tranh Việt Nam", tr. 105.
    6, 7, 8. Harny Sommers: Sđd, tr.10,12,13.
    9. MACV SOG "Lịch sử chỉ huy 1967”, Phụ lục C, tr. G-IV-4.
    10. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới tại Lào, tr. 39.
    11. Về chi tiết của câu chuyện này xin xem Plaster: "SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tài Việt Nam, tr. 78-79.
    12. Báo cáo của MACV trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần "Hoạt động qua biên giới ở Lào", tr. 38-39.
    Mở rộng nhiệm vụ và biện pháp đối phó của Hà Nội: 1968 - 1969
    Ở Việt Nam, tuần đầu của Tết Nguyên đán là thời gian quan trọng của hội hè. Người Việt Nam tin rằng giai đoạn của sự tưởng nhớ, chào đón và tâm linh này sẽ quyết định sự may mắn cho cả năm. Giới lănh đạo Hà Nội hy vọng có chiến thắng lớn trong năm 1968 và phát động cuộc tổng tấn công trong dịp đón Tết Nguyên đán. Những sự kiện của tuần Tết, bắt đầu từ 30-1 lan ra khắp miền Nam. Đó là điềm báo những ǵ sẽ tới. Đối với Washington, cuộc tấn công Tết Mậu Thân báo trước Mỹ sẽ phải chịu tổn thất nghiêm trọng trong năm 1968 và những năm sau đó. 1968 đă trở thành năm chia rẽ của chính quyền Johnson.
    Hai năm trước Mậu Thân, giới lănh đạo quân, dân sự Hoa Kỳ lạc quan cho rằng chiến tranh đang tiến triển tốt. Chỉ mấy tháng trước Tết, tướng Westmoreland tuyên bố: t́nh thế quân sự ngày càng có lợi cho Hoa Kỳ và chỉ hai năm sau, việc rút quân đội sẽ bắt đầu. Westmoreland đă "nh́n thấy ánh sáng cuối đường hầm". Tết Mậu Thân xé toang sự lạc quan đó, mặc dù về mặt kỹ thuật đó là một thắng lợi quân sự lớn của Hoa Kỳ. Vào tháng Hai, kỳ vọng của Westmoreland rơ ràng đă trở thành ảo vọng. Tết Mậu Thân giáng một đ̣n chí tử vào Nhà Trắng và làm công luận Mỹ choáng váng. Thậm chí những người từng ủng hộ chiến tranh cũng khuyên Johnson rút lui khỏi Việt Nam. Ngày 27-2 Walter Knoukite, phát thanh viên nổi tiếng ở Mỹ kêu gọi chính quyền ngừng can thiệp. Tuyên bố đó là một đ̣n đau với Johnson, người đă từng nhận xét, "nếu tôi mất Knoukite, tôi mất cả miền trung nước Mỹ"1.
    Vào tháng Ba, Mỹ bị một đ̣n mạnh nữa khi một nhóm các nhà ngoại giao dày dạn và cựu quan chức, nhóm "những người khôn ngoan" được chính quyền triệu tập để giúp Johnson quyết định sẽ làm ǵ với Việt Nam, kêu gọi Johnson rút lui. Thế là quá đủ với Johnson. Ngày 31-3, trước khán giả truyền h́nh toàn quốc, Johnson tuyên bố đơn phương ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam, t́m cách đàm phán với Hà Nội và không ra tái tranh cử tổng thống. Trong thời gian c̣n lại của nhiệm kỳ, Johnson t́m mọi cách để thúc đẩy đàm phán hoà b́nh ở Paris. Đầu tháng 11, chính quyền chấp nhận điều kiện "giá cho hoà b́nh" của Hà Nội để bắt đầu cuộc đàm phán. Đó là sự thay đổi to lớn trong chiến lược và chính sách của Mỹ.
    Năm 1968, cũng là bước đáng nhớ của SOG. Việc Johnson sẵn sàng chấp nhận điều kiện của Hà Nội có nghĩa hoạt động chống phá miền Bắc của SOG bị chấm dứt. Hoạt động ngầm chống phá đường ṃn tại Lào và Campuchia cũng chịu tác động trong năm 1968. Trong sáu tháng đầu năm, các toán biệt kích và lực lượng hỗ trợ được triển khai chủ yếu bên trong biên giới của Nam Việt Nam để hỗ trợ lực lượng Mỹ đẩy lùi cuộc tấn công Mậu Thân. Sau khi đă yên ổn, OP35 tái tập trung vào bên kia biên giới và nhận thấy t́nh h́nh ở đó đă khác hẳn. Những lợi thế chiến thuật họ từng tận dụng không c̣n nữa do Hà Nội triển khai nhiều biện pháp đối phó. Trong hai năm, các toán của SOG đă sử dụng yếu tố bất ngờ, đánh lạc hướng, kỹ xảo hoạt động để chiến thắng quân đội miền Bắc trên đường ṃn. Tuy nhiên, vào năm 1968, theo lời của một cựu toán trưởng, "sự pḥng thủ của đối phương tại Lào" đă trở nên "dày đặc, nhiều tầng lớp và có chiều sâu”2. Hà Nội biết rằng họ không thể duy tŕ chiến tranh ở miền Nam nếu không được sử dụng liên tục con đường ṃn và đă triển khai các biện pháp để bảo vệ.
    Khi triển khai các biện pháp đối phó, miền Bắc không có công nghệ tinh vi mà McNamara bố trí ở Lào chống lại việc sử dụng đường ṃn của Bắc Việt Nam. Các thiết bị cảm ứng địa chấn và âm thanh không nằm trong số quân cờ chiến tranh của Hà Nội. Những ǵ họ có chỉ là con người.
    Bước đầu tiên của Hà Nội là bố trí một hoặc hai người tại vô số điểm dọc theo biên giới Lào để phát hiện máy bay trực thăng chở thám báo. Công việc này bắt đầu năm 1966, theo Ray Call, "đó là lúc Bắc Việt Nam tiến hành giám sát các tuyến đường vào ra. Họ biết chúng tôi từ đâu tới. Có những người báo tin nằm ngay trên đỉnh núi nơi trực thăng bay qua để vào Lào. Họ có hệ thống liên lạc bằng điện đài hoặc bằng trống. Các toán của chúng tôi c̣n có thể nghe thấy tiếng trống ở bên dưới"3.
    Sau đó, Hà Nội bố trí người ở những địa điểm có khả năng là nơi đổ bộ của các toán thám báo. Theo Call, đối .phương đă sử dụng biện pháp thông thường. "Họ bố trí người ở những nơi trực thăng có thể hạ cánh... Họ biết các toán biệt kích không thể ở lâu và cũng không thể đi quá xa. Họ biết chúng tôi phải sử dụng những vị trí như vậy để giảm bớt quăng đường toán biệt kích phải đi bộ. Nếu đường ṃn Hồ Chí Minh cách biên với Lào 10 hoặc 15km, họ biết rằng chúng tôi không đi bộ hết quăng đường đó mà sẽ được đổ bộ trong phạm vi 5km"4. Toán của Charlie Norton cho biết người thiểu số sống dọc theo đường ṃn bị ép buộc làm người báo tin. Mặc dù không phải kỹ thuật cao nhưng đó là một hệ thống thông tin khá chắc chắn. Khi có toán xâm nhập, họ dùng mọi công cụ để báo tin, như chuông, cồng chiêng, trống"5.
    Miền Bắc nghiên cứu quy luật hoạt động của SOG, vạch ra tuyến đường xâm nhập và có được sự hiểu biết về điều kiện thời tiết cần thiết để chở các toán đi xâm nhập. Sếp của SOG, Jack Singlaud chỉ ra là "họ không mất nhiều thời gian để nắm được giai đoạn nào của trăng là phù hợp nhất cho điệp vụ do vậy họ không cần phải cử người quan sát liên tục. Họ t́m cách nắm được biện pháp hoạt động của chúng tôi. Họ có hệ thống quan sát máy bay bằng mắt thường, bằng người ở trên cây hoặc từ các cḥi đặt cao trên rừng để nghe tiếng động cơ máy bay"6.
    Để bảo vệ tuyến đường, căn cứ chỉ huy, băi đỗ xe, kho xăng, nơi cất trữ hàng và các cơ sở tiện nghi khác dọc theo đường ṃn, Hà Nội cử một số đơn vị quân đội làm nhiệm vụ an ninh hậu phương7. Đây là một giải pháp công nghệ thấp cần rất nhiều bộ đội. Vào thời điểm tổng tấn công Mậu Thân, đối phương đă triển khai 25.000 quân để bảo vệ các khu căn cứ đóng quân trên đường ṃn Hồ Chí Minh”8. Vào mùa thu 1968, sếp của SOG lúc bấy giờ là Cavanaugh nhận xét việc bảo vệ đường ṃn được củng cố và trở nên "một hệ thống an ninh phức tạp mà chúng tôi không bao giờ hiểu nổi"9.
    Đó là hệ thống bảo vệ nhiều tầng lớp dày đặc, nhưng Hà Nội không dừng ở đó. Họ đưa ra một số biện pháp pḥng thủ tích cực. Họ bắt đầu săn lùng các toán biệt kích. Đầu tiên, Bắc Việt Nam dùng người thiểu số v́ họ là những người đi săn có kinh nghiệm và thông thuộc địa h́nh. Họ phối hợp với các đơn vị quân đội có nhiệm vụ phục kích các toán thám báo. Sau đó, Bắc Việt Nam h́nh thành đội săn lùng riêng và bố trí họ tại các vị trí then chốt dọc theo đường ṃn để có thể sử dụng ngay khi cần đến.
    Bắc Việt Nam c̣n triển khai lực lượng hoạt động đặc biệt tấn công các toán thám báo. Lực lượng này tách ra từ đơn vị không vận đầu tiên của quân đội miền Bắc, lữ đoàn không vận 305, thành lập 1965. Theo Douglas Pike, tác giả cuốn: "Quân đội nhân dân Việt Nam", "v́ không biết sử dụng vào việc ǵ, nên đơn vị này được chuyển thành lữ đoàn Công binh 305". Sau đó được sáp nhập vào Bộ tư lệnh Công binh, và trở thành một đơn vị nổi tiếng của Quân đội Việt Nam được biết đến với cái tên "Lực lượng đặc công". Để trở thành đặc công không dễ dàng ǵ: "tiêu chuẩn tuyển chọn rất chặt chẽ: được một đảng viên giới thiệu và hai đảng viên khác đồng ư; tư tưởng trong sạch; trẻ; và có một số tố chất nhất định (dũng cảm, sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm)10. Khi Lữ đoàn 305 được giao cho Bộ tư lệnh Công binh, một số bộ phận được huấn luyện thành "đơn vị đặc nhiệm chống thám báo có nhiệm vụ săn lùng và tiêu diệt các toán thám báo của SOG"11.
    Các toán của SOG mà gặp các đơn vị đặc nhiệm này thường không có chỗ lùi và bị tiêu diệt không thương xót. Một toán thám báo đă rơi vào t́nh cảnh như vậy. Vừa đổ bộ xong cũng là lúc họ bị bao vây chặt bởi một lực lượng đối phương mạnh hơn nhiều lần, trong đó có đội chống thám báo. Charles Wilklow, người duy nhất sống sót đă chứng kiến “bộ đội miền Bắc mang đi nhiều xác lính Mỹ". Bị thương ở nhiều nơi, Wilklow cố ḅ ra một chỗ trống với hy vọng các máy bay trực thăng ứng cứu nh́n thấy. Nhưng máy bay không xuất hiện. Trong bốn ngày đêm, Wilklow lết được một quăng đường gần hai dặm đến một khoảng đất trống khác và được máy bay đưa về12. Wilklow sống sót nhưng sự kiện bi thảm này là sự báo trước những ǵ đang chờ đợi các toán thám báo tại Lào.
    Các biện pháp đối phó khác bao gồm khuyến khích vật chất cho người tiêu diệt được thám báo. Theo Larry Trapp, người phục vụ hai nhiệm kỳ ở OP35, Hà Nội "treo phần thưởng” nếu ai giết hoặc bắt sống được trưởng toán thám báo13.
    Biện pháp cuối cùng và không kém phần quan trọng là sử dụng gián điệp. Thông qua đó, Hà Nội t́m cách biết trước kế hoạch hoạt động của các toán thám báo. Để làm việc này miền Bắc tập trung vào người miền Nam để xâm nhập, tuyển mộ, cài cắm được điệp viên vào vị trí càng cao càng tốt. Như Singlaub nhận xét "chỉ cần một con cá to là đủ”. Khi c̣n chỉ huy SOG, Singlaub tin rằng OP35 "có vấn đề về an ninh" và là nguyên nhân làm cho khả năng Hà Nội phát hiện thời gian và địa điểm xâm nhập của các toán thám báo được cải thiện nhanh chóng. Các toán vừa chạm đất đă bị đối phương tấn công. Singlaub không biết Bắc Việt Nam có được thông tin bằng cách nào nhưng ông tin chắc rằng nó có liên quan đến vấn đề an ninh của SOG.

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P24



    Vài năm sau chiến tranh, ông t́m ra câu trả lời, hoặc ít nhất là một phần của câu trả lời thực sự. Cuối những năm 80, Singlaub biết rằng, "miền Bắc khen thưởng cho một đại tá người đă thâm nhập thành công vào Phủ Thủ tướng”. Singlaub giải thích: “với vai tṛ là sếp của SOG, ông chỉ báo cáo tóm tắt cho tướng Cao Văn Viên về các hoạt động nhậy cảm này". Viên cam kết với Singlaub rằng sẽ trực tiếp chuyển thông tin đến cho Tổng thống Việt Nam cộng hoà. Đối với Singlaub, vấn đề an ninh là rất đảm bảo...
    Nhưng sếp của SOG không biết rằng Viên c̣n chia sẻ thông tin với thủ tướng Nam Việt Nam. "Ông ta không muốn thủ tướng bị bất ngờ, do vậy đă t́m cách thông tin một cách không chính thức cho thủ tướng... C̣n thủ tướng th́ đem theo vị đại tá mà ông tin cậy?" Cuối cùng viên đại tá đó chính là người được Hà Nội khen thưởng cuối những năm 1980. Singlaub đă cho thấy hoạt động xâm nhập nội bộ của miền Bắc tinh vi như thế nào: "Họ có cách liên lạc cho phép báo động Hà Nội trong thời gian ngắn nhất. Tôi có thể hiểu được cách họ báo cho Hà Nội về một điệp vụ diễn ra một tuần sau đó. Nhưng, lạy Chúa, các hoạt động này chỉ được thông báo trước 48 giờ đồng hồ"14. Con cá lớn mang lại giá trị lớn.
    Nhưng không phải lúc nào cũng có sẵn con cá lớn như vậy. Bắc Việt Nam hiểu điều đó và tập trung hoạt động gián điệp cả hai phía, cấp cao và cấp thấp. Cá nhỏ cũng có thể gây thiệt hại đáng kể.
    ____________________ ___________________
    1. Plaster "SOG cuộc chiến tranh "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG", tr. 80.
    2. Trích trong Philip Davidson, "Việt Nam trong chiến tranh. Lịch sử 1946 - 1975", (Norato, Clif Residio Press, 1991), tr. 486.
    3, 4. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Raymand Call, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 26.
    5. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tá Cherles Norton, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 50.
    6. Phỏng vấn lịch sử với Thiếu tướng John K. Singlauh, trong "MACV SOG: phỏng vẫn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG , tr. 69.
    7, 8. Plaster "SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam", tr. 81,83.
    9. Phỏng vấn lịch sử với Đại tá Stephen E.Cavanaugh, trong "MACV SOG phỏng vấn lịch sử các chỉ huy của SOG", tr. 99.
    10. Douglass Pike "Quân đội nhân dân Việt Nam" (Novato, Calif Presidio Press, 1968 ), tr. 108 - 109.
    11, 12. Plaster "SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam", tr. 95, 90-94.
    13. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Lawren Trapp, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 30.
    14. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng John K.Singlaub, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan trọng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 70.
    Năm 1968, trung tá Lauren Overby là chỉ huy trưởng căn cứ hoạt động tiền tiêu số 4 – (FOB4), ở phía nam Đà Nẵng. Ngay sau khi ông rời khỏi đây, FOB4 bị tấn công dữ dội bởi lực lượng đặc công. 12 người bị chết và nhiều người khác bị thương. Lực lượng tấn công biết chính xác cách bố trí của căn cứ. Ngoài việc tiêu diệt lực lượng, họ c̣n phá huỷ hầm chỉ huy và các cơ sở kỹ thuật quan trọng khác. Đó là cuộc tấn công chuẩn xác như một ca phẫu thuật. Tại sao họ làm được như vậy?
    Theo Overby, bộ đội Bắc Việt Nam đă "lập mô h́nh FOB4 trong rừng" mà sau này SOG phát hiện ra. Mô h́nh đó chỉ có thể lập được với sự hiểu biết nội bộ và t́nh báo do điệp viên cài cắm của Hà Nội cung cấp. "Đó là một phụ nữ, một trong những người lao công", sau vụ tấn công, người phụ nữ đó biến mất. Nhân viên lao công là người có thể quan sát mọi thứ bên trong FOB4. Người phụ nữ này đi lại trong căn cứ và ghi nhớ các lớp bảo vệ. Các chiến sĩ đặc công biết rơ ḿnh phải làm ǵ1.
    Ví dụ này chỉ ra t́nh trạng mất an ninh nghiêm trọng mà SOG không giải quyết được và bị đối phương lợi dụng. SOG biết người miền Bắc sẽ cài cắm điệp viên vào đối tác- Tổng nha kỹ thuật chiến lược -STD. Để đề pḥng khả năng đó, lănh đạo của SOG đă gạt STD ra khỏi quá tŕnh vạch kế hoạch hành động và không cho tiếp cận với thông tin nhậy cảm. Mọi cựu nhân viên của SOG khi được phỏng vấn đều cho là STD đă bị đối phương xâm nhập. Khi được hỏi đối tác STD có được tham gia vạch kế hoạch hoạt động của FOB4 không, Overby khẳng định "không, họ không được tham gia vào đó". Overby tin là miền Bắc đă cài "một số điệp viên vào STD"2.
    V́ SOG giữ khoảng cách với STD, Bắc Việt Nam t́m cách xâm nhập khác. Đó là số nhân viên lao công phù hợp với chiến lược gián điệp của Hà Nội. SOG cần một số người Việt làm các công việc hỗ trợ tại các căn cứ, sở chỉ huy, bộ phận phối thuộc. Người Việt Nam nấu cơm, làm vệ sinh, và giặt giũ, là nhân viên lái xe, thư kư, văn thư. Tuy nhiên Overby chỉ ra là SOG không "thẩm tra an ninh đối với những người địa phương làm tại các cơ sở (của "SOG")3. Công việc này là của đối tác Việt Nam. Đó là con đường hoàn hảo để xâm nhập vào các cơ sở của SOG mà Hà Nội đă triệt để khai thác. Có nhiều ví dụ cho thấy như vậy.
    Thiếu tá Pat Lang đến công tác tại SOG năm 1972 khi SOG đang chuẩn bị bàn giao hoạt động cho STD và giải thể. Lang là một nhân viên t́nh báo. Một hôm, Lang nhận được một số lượng lớn hồ sơ điều tra phản gián. Năm 1971, nhiều người Việt Nam làm việc tại các cơ sở của SOG bị nghi ngờ. Khi lần đọc số hồ sơ, những thông tin trong đó làm Lang giật ḿnh. Lang kể lại nhiều cá nhân bị điều tra rất phù hợp với h́nh mẫu gián điệp mà cơ quan t́nh báo đối phương hay cài cắm. Cuộc điều tra năm 1971 đă mang lại những sự thật đáng phiền ḷng, chủ yếu là từ máy phát hiện nói dối. Ví dụ, một lái xe được cử đến làm việc tại sở chỉ huy của SOG. Anh ta đưa sếp của SOG đi xung quanh Sài G̣n. Kết quả kiểm tra nói dối cho thấy người lái xe này không trung thực. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục lái xe cho sếp. Lang tổ chức đưa người lái xe đi kiểm tra nói dối một lần nữa. Lần này kéo dài trong ba ngày và kết quả c̣n xấu hơn trước. Điều sửng sốt nhất là tiểu sử do anh ta khai có nhiều điểm khác với những ǵ đă khai với nhân viên điều tra năm 1971. Người lái xe đó là một gián điệp của miền Bắc có nhiệm vụ vừa lái xe và lắng nghe. SOG chuyển giao điệp viên đó cho Nam Việt Nam.
    Một hồ sơ khác là của nhân viên quầy bar làm việc ở vị trí không b́nh thường. Anh ta làm ở một toà nhà ở Sài G̣n dưới sự giám sát của SOG. Được biết đến dưới cái tên "Nhà 10” House Ten - đây là nơi nghỉ ngơi, thư giăn cho các toán biệt kích của SOG. Tương tự như người lái xe, nhiệm vụ của nhân viên quầy bar là lắng nghe. Cũng ở nhà 10, tại quầy bar c̣n có hai nhân viên nữ hấp dẫn khác. Kết quả kiểm tra bằng máy nói dối cả ba người cho thấy họ đều nói dối4. Rất dễ dàng h́nh dung ra các thông tin chiến thuật hữu ích họ có thể nghe được khi các nhân viên thám báo chuyện tṛ về những điệp vụ đă thực hiện. Ví dụ, các biện pháp xâm nhập mới, loại thiết bị mới dùng để đánh lạc hướng các đơn vị chống thám báo Bắc Việt Nam có thể được nói ra trong khi tán gẫu.
    Trong khi tập trung vào đối tượng người miền Nam để t́m hiểu kế hoạch hoạt động của OP35, t́nh báo miền Bắc không quên t́m kiếm thông tin tương tự từ người Mỹ. Ít nhất trong một trường hợp, dường như họ đă dùng biện pháp t́nh báo được biết đến với cái tên "bẫy t́nh". Cách thực hiện thủ đoạn này khá đơn giản. Cơ quan t́nh báo đối phương cử một phụ nữ hoặc nam giới hấp dẫn làm mồi nhử đối tượng. Một khi dính bẫy, mục tiêu bị xúi giục hoạt động gián điệp.
    Theo các nhân viên phục vụ tại SOG, một lính nghĩa vụ Mỹ làm văn thư của SOG bị mắc "bẫy t́nh". Pete Hayes biết nhân viên văn thư trẻ đó trong nhiệm kỳ hai tại SOG cuối thập kỷ 1960. Sau khi kết thúc nhiệm kỳ, Pete Hayes biết tin nhân viên văn thư đó bị phát hiện và xác nhận đă chuyển tài liệu cho đối phương. Hayes không biết chuyện ǵ xảy ra với anh ta sau đó5.
    Trong năm 1968, những ngày tốt lành mà các toán thám báo được hưởng trong hai năm 1966 - 1967 đă chấm hết. Thứ nhất, Tết Mậu Thân làm cho một số hoạt động của các toán biệt kích tiến hành ở Lào phải chuyển vào trong nước. Trong số 546 điệp vụ do SOG tiến hành, có tới 236 điệp vụ (43%) là ở trong nước và chỉ có 310 điệp vụ (57%) là tiến hành ở Lào. So với 275 điệp vụ tại Lào trong năm 1967, con số này tăng lên không đáng kể. Giới lănh đạo quân sự của MACV và Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương mong đợi nhiều hơn thế trong năm 19686.
    Cũng do tác động của cuộc tấn công Mậu Thân, hoạt động của OP35 tại Campuchia - Dannial Boone - tập trung nhiều hơn vào bên trong giới tuyến. OP35 "tiến hành 726 điệp vụ trong đó 286 (39%) là qua giới tuyến, 439 (61%) là trong giới tuyến. Hơn nữa, phần làm điệp vụ qua giới tuyến chỉ diễn ra sau khi cuộc tổng tiến công Mậu Thân đă lắng xuống. Theo hồ sơ "Dannial Boone trở lại nhiệm vụ chủ yếu là vượt qua giới tuyến vào tháng 10 và 53 điệp vụ được thực hiện tại Campuchia. Trong ba tháng cuối năm, trung b́nh mỗi tháng có 48 điệp vụ qua biên giới"7.
    Cuộc tấn công Tết Mậu Thân không chỉ điều chỉnh trọng tâm hoạt động của OP34 vào trong nước, mà quân đội miền Bắc c̣n chiếm căn cứ hoạt động tiền tiêu ở Khe Sanh, chặn đứng hoạt động của SOG ở một phần năm địa bàn hoạt động ở phía Bắc từ tháng Một đến tháng Sáu và làm cho khoảng 600 nhân viên của SOG phải thực hiện vai tṛ tấn công. Sau đó “việc mất căn cứ hoạt động tiền tiêu Khâm Đức ngày 12-5-1968 làm suy giảm hơn nửa năng lực hoạt động của SOG tại Lào". Căn cứ Khâm Đức " phụ trách gần 1/3 địa bàn hoạt động tại Lào trong đó có những mục tiêu trọng yếu”8.
    Không chỉ riêng cuộc tấn công Mậu Thân làm giảm hiệu quả của SOG tại Lào. Chúng ta hăy xem xét sự đánh giá về xu hướng hoạt động sau: "Trong năm, có sự gia tăng đáng kể các yếu tố an ninh của đối phương để bảo vệ các tuyến đường nằm trong địa bàn hoạt động. Các toán thám báo đối mặt sự đối phó ngày càng tăng... Tỉ lệ đụng độ với quân chính quy của miền Bắc gia tăng một cách đều đặn. Trong năm, có sự ghi nhận về việc tập trung pháo pḥng không lớn hơn và sâu xuống phía Nam hơn trước đây"9.
    Việc chấm dứt ném bom ở miền Bắc cũng giúp Bắc Việt Nam củng cố an ninh dọc trên đường ṃn. Miền Bắc "sử dụng một số lượng lớn nhân viên để mở rộng và bảo vệ tuyến đường, căn cứ, và địa bàn tập kết ở Lào"10. Đối với nhân viên của SOG, việc này không khác ǵ xát muối vào vết thương chưa lành. Việc đối đầu với các biện pháp an ninh của đối phương trên đường ṃn đă quá đủ đối với họ, và liệu Washington có cần thiết phải làm cho công việc của Hà Nội dễ dàng hơn bằng việc ngừng ném bom hay không? Hơn nữa, họ tự hỏi, việc chấp nhận những điều kiện của Hà Nội trước khi bắt đầu đàm phán hoà b́nh thật sự có ư nghĩa không? Các nhà tư duy địa chính trị ở Washington đang làm ǵ vậy?
    Tác động thật sự của các biện pháp đối phó có thể nhận biết qua sự suy giảm hiệu quả hoạt động và sự gia tăng thương vong của các toán biệt kích. Xu hướng này là đáng báo động. Larry Trapp, cựu phó chỉ huy trưởng OP35, nhớ lại trong năm 1968, Bắc Việt Nam "triển khai một lực lượng lớn ở Lào để truy t́m các toán thám báo. Chúng tôi phải áp dụng hàng loạt biện pháp đánh lạc hướng, nhưng thời gian hoạt động cứ ngắn dần. Đồng thời chúng tôi nhận ra là khi phát hiện ra toán thám báo, họ bao vây xung quanh và chờ đợi... Họ biết rằng chúng tôi sẽ đến. Họ bố trí súng cao xạ vây xung quanh"11.
    Tại FOB4, trung tá Lauren Overby gặp phải thời kỳ ác liệt nhất trong năm 1968. Trong khi các toán thám báo của Overby t́m kiếm mục tiêu cho không kích, họ thường bị tấn công ngay sau khi xâm nhập. Overby nhận xét "gần như không thể để thám báo hoạt động dưới mặt đất. Có thể ở Campuchia hiệu quả hơn... tôi không biết điều đó... Địa bàn hoạt động của tôi trở nên vô cùng khó khăn. Căn cứ tiền tiêu chỉ cách biên giới có 6km. Có lẽ họ thường xuyên có người giám sát căn cứ của chúng tôi"12.
    Đối với các toán thực hiện điệp vụ tại Lào (Prairie Fire), 1968 là một năm tồi tệ về mặt thương vong. Con số liên tục tăng. Ở Lào 18 người bị chết, 101 bị thương, 23 mất tích. V́ SOG c̣n tham gia hoạt động trong nước, do có con số thương vong được bổ sung thêm như sau: 21 bị giết, 78 bị thương và 6 mất tích. Các toán thám báo thực hiện điệp vụ ở Campuchia (Dannial Boong) không bị thiệt hại nặng như vậy, nhưng cũng có 17 người chết, 56 bị thương và 3 mất tích. Điều làm cho con số thương vong cao như vậy là vào năm 1968, OP35 có đến 100 sĩ quan Mỹ và 600 lính nghĩa vụ13.
    ____________________ ____________________
    1, 2. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Lawren Trapp, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 110.
    3. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Lawren Trapp, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 103.
    4. Phỏng vấn đại tá Pat Lang (10-1997).
    5. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Ernest (Pete) Hayes, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 189. 190.
    6. MACSOG: Lịch sử chỉ huy 1968, phụ lục F, tr.IV-6.
    7, 8, 9, 10. MACSOG: Lịch sử chỉ huy 1968, phụ lục F, tr.IV-7.
    11. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Lawren Trapp, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG”, tr.128.
    12. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Lauren Overby, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG" tr.110.
    13. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1968, Sđd, tr. IV-A-1.
    Năm 1969, mọi việc ở Lào cũng không khả quan ǵ hơn. Nhưng OP35 không lùi bước. Số lượng điệp vụ vượt qua hàng rào tăng lên gần 40%. Tổng số "452 điệp vụ được thực hiện, trong đó 404 ở quy mô toán thám báo và 44 là lực lượng hỗ trợ. B́nh quân, Prairie Fire thực hiện 38 điệp vụ trong một tháng”1. Các sếp muốn nhiều hơn và SOG thực hiện đúng như vậy.
    Hồ sơ của Prairie Fire năm 1969 cho biết "trong tất cả các chỉ số thống kê, kết quả hoạt động đều tăng so với 1968. Nhất là số binh lính của đối phương bị giết tăng lên gấp đôi và vũ khí thu được tăng gấp ba. Những điệp vụ thành công hơn cả là ngăn chặn đường ở vùng ngă ba biên giới". Các toán thám báo cũng phát hiện hoạt động sửa chữa đường ṃn đáng kể tại Lào. Ví dụ, họ phát hiện ra đường ống dẫn dầu. Bắc Việt Nam không những có những xưởng sửa chữa ôtô dọc theo tuyến đường mà c̣n mở các trạm cấp phát xăng. Sau đó là ǵ? Ngay sau đó họ phát hiện quân đội Bắc Việt Nam lắp đặt hệ thống thông tin liên lạc nhiều kênh dọc con đường.
    Các toán thám báo cung cấp cho MACV những "phần lớn các tin t́nh báo xác thực về việc Bắc Việt Nam và Việt Cộng sử dụng đường ṃn làm địa bàn tập kết và xâm nhập". Đặc biệt là, họ đă cung cấp chứng cứ có giá trị về việc đối phương mở rộng vùng ngă ba biên giới thành "tuyến đường chính để vận chuyển quân đội và phương tiện vào Cộng hoà miền Nam". Tại một số địa điểm thuộc địa bàn hoạt động của Prairie Fire, các toán thám báo "là nguồn t́nh báo duy nhất về hoạt động hậu cần của đối phương”2.
    Đó không phải là tin tốt lành, và thật không may là có quá nhiều tin xấu đối với các toán thám báo hoạt động ở Lào năm 1969. Họ vẫn phải tuân theo các giới hạn mà Sullivan áp đặt. Mặc dầu đă được nới lỏng, các toán vẫn bị hạn chế về chiều sâu xâm nhập, c̣n đối phương th́ không có bất kỳ giới hạn nào. Năm 1969, Bắc Việt Nam cải thiện các biện pháp đối phó, bao gồm "tăng khả năng phản ứng nhanh chóng đối với hoạt động trực thăng vận". Theo báo cáo năm 1969 của SOG, "điều đó gây ra mối đe doạ đáng kể đối với hoạt động qua giới tuyến”3. Các toán Prairie Fire "tiếp tục gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ của đối phương". Dường như ngày càng có nhiều bộ đội được giao nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho đường ṃn. Cuối cùng bản báo cáo nhận định: hoạt động bảo đảm an ninh đường ṃn được hỗ trợ bởi “việc ngừng ném bom miền Bắc". Việc ngừng ném bom “giúp đối phương gia tăng xâm nhập và củng cố vị trí của lực lượng an ninh, bao gồm việc bổ sung thêm các trận địa pháo pḥng không - trong địa bàn hoạt động của Prairie Fire". V́ miền Bắc không cần pháo pḥng không nữa4.
    Đó là t́nh h́nh khi đại tá Jack Isler kế thừa chức chỉ huy trưởng của SOG năm 1969. Đây là nhiệm kỳ đầu tiên của Isler ở Việt Nam. Isler được chuyển từ đơn vị bộ binh sang lực lượng đặc biệt đầu những năm 60 và là phó của Cavanaugh khi ông này chỉ huy nhóm lực lượng đặc biệt số 10 ở châu Âu. Khi Cavanaugh chỉ huy SOG năm 1968, ông đề nghị Isler đến "cùng làm việc”5. Khi tiếp nhận công việc, Isler nhận ra "có quá nhiều trói buộc... chúng tôi không thể thực hiện những ǵ lẽ ra phải làm... không ai giải thích cho tôi các giới hạn đó nhằm mục đích ǵ và tại sao chúng tôi lại không thể vượt qua giới hạn nhất định tại Lào”6. Sau đó Isler được biết đó là thành quả của vị đại sứ mới rời khỏi Lào, Bill Sullivan.
    Các toán của Isler rất khó vượt qua giới hạn đó. Thời gian trên mặt đất trong mỗi điệp vụ "cứ co ngắn lại... và càng khắc nghiệt hơn". Quân đội miền Bắc làm cho "việc tung các toán thám báo đi và để họ hoạt động trên mặt đất khó khăn hơn nhiều. Một số toán trụ lại được nhưng rất vất vả. Họ dường như ở ngay trên đất của chúng tôi”7. Khi bắt đầu hoạt động chống phá đường ṃn, Bull Simon vạch kế hoạch cho các toán lưu lại ở Lào tứ năm đến sáu ngày. Vào năm 1969, các toán của Isler "không ở lại được quá hai ngày - Rất nhiều lần chỉ có sáu giờ. Vừa tung toán thám báo đi là phải quay ngay lại để đưa về. Có quá nhiều lực lượng an ninh của miền Bắc, các toán của chúng tôi luôn gặp phải họ”8. Việc ngừng ném bom chẳng giúp ích ǵ. "Mỗi khi chúng ta ngừng ném bom, họ lại huy động nhiều hơn. Ngừng ném bom chỉ gây hại cho chúng ta”9.
    Khi hiệu quả của các biện pháp đối phó tăng lên, khả năng gây thiệt hại của quân đội miền Bắc cho các toán thám báo cũng tăng theo. Trong năm 1969 "con số thương vong của Mỹ là 50% trên số điệp vụ so với 44% năm 1968, và 39% năm 1967”10. Trung b́nh trong mỗi điệp vụ ở Lào, một thám báo viên bị chết, bị thương hoặc mất tích. Với 452 điệp vụ được thực hiện, số thương vong của Mỹ là 19 người chết, 199 bị thương, và 9 mất tích. Các hoạt động của Prairie Fire do Trung tâm chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng và Trung tâm chỉ huy miền Trung (CCC) ở Kontum chịu trách nhiệm. Vào năm 1969, mỗi trung tâm được biên chế 72 sĩ quan Mỹ và 409 lính nghĩa vụ11. Nếu tính đến thực tế là nhân viên Mỹ trong các toán thám báo phần lớn là sĩ quan điều hành - con số thương vong thật đáng sợ. Có quá nhiều huân chương "trái tim hồng” tặng cho người bị thương trong một đơn vị nhỏ như vậy.
    Các toán SOG ở Campuchia dễ thở hơn v́ sự có mặt của quân đội miền Bắc không lớn. Trong năm 1969, "tỉ lệ thương vong trên số điệp vụ là 13%", thấp hơn nhiều so với 50% của hoạt động tại Lào12. Tuy nhiên do giới hạn áp đặt cho hoạt động ở Campuchia, giờ đây được đổi sang mật danh "Salem House", hoạt động thám báo không mang lại kết quả đúng theo khả năng của họ.
    Trong năm 1969, có 454 điệp vụ thám báo được thực hiện ở Campuchia, với mục đích chủ yếu là thu thập tin t́nh báo. Bộ Ngoại giao không cho phép làm ǵ hơn thế. MACV đă đề nghị "được sử dụng không quân chiến thuật ở Campuchia cùng với các đơn vị hỗ trợ" để tấn công mục tiêu "do các toán thám báo phát hiện". Đối với MACV làm như vậy mới có ư nghĩa về quân sự. V́ "việc Bắc Việt Nam tăng cường sử dụng Campuchia tạo ra nguy cơ tấn công thường trực đối với lực lượng đồng minh và các căn cứ của quân đội Cộng hoà Việt Nam. Mối đe dọa này là rơ ràng ở vùng ngă ba biên giới... Việc xe bọc thép của đối phương mới xuất hiện ở vùng này đă nhấn mạnh tầm quan trọng của Campuchia với vai tṛ là nơi cư trú an toàn của đối phương". MACV muốn tấn công quân đội miền Bắc ở Campuchia và buộc họ “phải tăng cường lực lượng làm nhiệm vụ pḥng thủ và giảm khả năng tấn công vào Cộng hoà Việt Nam”13. Dường như đó là một đề nghị hợp lư.
    Bộ Ngoại giao lại không nghĩ như vậy. Họ đang cố "nối lại quan hệ ngoại giao... với Sihanouk” và lập luận rằng đề nghị của MACV sẽ làm rối tiến tŕnh này. "Quyết định mở rộng hoạt động chiến đấu sang Campuchia... bằng quân đội Hoa Kỳ như trong đề nghị là không khôn ngoan". V́ thế, Bộ Ngoại giao không chấp thuận đề nghị của MACV, và Bộ trưởng Quốc pḥng quyết định "không nên theo đuổi đề nghị đó”14.
    Có ít nhất một ngoại lệ và SOG phải trả giá đắt. Một trong những trưởng toán thám báo dày dạn nhất, trung sĩ Jerry Shiver, bị giết. Năm 1969 là năm thứ ba Shiver hoạt động chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh. Ngày 24-4, Shiver là một thành viên của lực lượng thám báo xâm nhập Campuchia để tập kích vào sở chỉ huy bí mật của Trung ương cục miền Nam.
    Cuộc tấn công bi thảm đó bắt đầu bằng B52 rải bom, nhưng chẳng gây hề hấn ǵ cho lực lượng đối phương đang chờ sẵn. Không có đủ trực thăng để chở toàn bộ thám báo xâm nhập, hơn nữa một chiếc lại bị trục trặc không đi được. Ngay sau khi đổ bộ, họ bị giam tại chỗ bởi hoả lực của đối phương. Trong t́nh cảnh đó, một ḿnh Shiver đánh thẳng vào lực lượng phục kích của đối phương để giải cứu cho số đang bị vây.
    Không rơ những ǵ xảy ra với Shiver. Một số người tham gia trận đánh cho rằng Shiver bị giết tại chỗ. Người khác cho rằng Shiver bị bắt và đưa ra Hà Nội. Phải cần đến một lực lượng không kích lớn để đưa lực lượng tả tơi của SOG trở về15.
    Năm 1969 kết thúc, và những ngày Hoa Kỳ c̣n ở Việt Nam không nhiều. Việc rút lui số lượng lớn quân đội sắp diễn ra khi Washington thực hiện chính sách Việt Nam hoá. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh trên đường ṃn Hồ Chí Minh vẫn tiếp diễn và SOG vẫn đụng độ với quân đội miền Bắc.
    ____________________ ________________
    1. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1968, Sđd, tr. IV-4-7.
    2. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1969. Phụ lục F, tr. 8 - 9.
    3, 4. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1969, Phụ lục F, tr. 8 - 9, 9.
    5, 6. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Jack Isler, trong "MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với sĩ quan từng phục vụ trong OP35 của SOG", tr. 144, 146.
    7, 8, 9. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Jack Isler, Sđd, tr. 144, 150, 155, 156.
    10. Như trên, Sđd, tr.111-4-8.
    11. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG", phần "Nhóm nghiên cứu và quan sát của MACVSOG", tr. 211 – 212
    12. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr. 10.
    13. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần, "Hoạt động qua biên giới tại Campuchia", tr. 29.
    14, 15. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG" phụ lục D, phần, "Hoạt động qua biên giới tại Campuchia", tr. 29, 30.
    SOG tiếp tục chiến đấu trong khi Hoa Kỳ rút ra khỏi chiến tranh (1970 -1972)
    Đầu năm 1969, tổng thống Ricchard Nixon nói với các trợ lư cao cấp của ḿnh: "Tôi sẽ chấm dứt chiến tranh. Một cách rất nhanh chóng"1. Tất cả không chỉ có thế. Tổng thống muốn rút lui khỏi cuộc chiến trong danh dự mà không có biểu hiện ǵ của thất bại hoặc bán đứng đồng minh. Nixon cho rằng có thể thuyết phục Hà Nội chấp nhận kế hoạch chấm dứt thù địch của Mỹ. Dù sao th́ trước đây Hà Nội quan hệ với một tổng thống phản đối việc sử dụng tối đa sức mạnh quân đội. Nhưng những ngày sử dụng lực lượng hạn chế đă qua đi. Nixon sẽ trực tiếp giáng đ̣n nếu Hà Nội không chấp nhận đề nghị của Mỹ.
    Để đạt được mục đích này, Nixon gửi một thông điệp ra Bắc tuyên bố nguyện vọng chân thành của ḿnh về hoà b́nh và đề nghị bước đầu tiên là hai bên cùng rút quân đội khỏi miền Nam. Để tạo ấn tượng là sẽ có hậu quả nghiêm trọng nếu Hà Nội không nghe theo, tổng thống phát động đợt không kích bí mật tấn công nơi trú ẩn của quân đội Bắc Việt Nam ở Campuchia. Tốt hơn là chấp nhận điều kiện chấm dứt chiến tranh của Nixon, nếu không, Hà Nội sẽ phải trả giá đắt. Để giữ yên t́nh h́nh trong nước, chính quyền tuyên bố "một kế hoạch hoà b́nh toàn diện”, làm cho nhân dân Mỹ hiểu rơ mục đích chấm dứt sự dính líu của Mỹ vào chiến tranh. Để làm dịu t́nh h́nh hơn nữa, Nixon tuyên bố rút 25.000 quân khỏi Việt Nam.
    Những đề nghị trên không mấy ấn tượng đối với Hà Nội. Đă từng đương đầu với 500.000 quân Mỹ cùng với vũ khí hiện đại và chịu đựng nhiều mất mát tổn thất, Hà Nội thấy lời hăm doạ và pha tŕnh diễn ở Campuchia của Nixon kém thuyết phục. Phái đoàn miền Bắc tại Hội nghị hoà b́nh ở Paris bác bỏ đề nghị của Mỹ và coi đó là một "tṛ hề". Để làm rơ hơn thái độ của ḿnh, trưởng đoàn đàm phán miền Bắc tuyên bố họ sẵn sàng ngồi tại Paris "cho đến khi ghế bị mục" th́ mới chấp nhận điều kiện như vậy2. Nixon giận dữ về cái ông gọi là "sự khước từ lạnh lùng"3 của Hà Nội. Tổng thống ra lệnh cho cố vấn an ninh Herry Kissinger triệu tập nhóm nghiên cứu đặc biệt đề ra một chiến dịch ném bom hàng loạt ở các thành phố lớn và phong toả các cảng quan trọng của miền Bắc. Nixon muốn cho miền Bắc một đ̣n "trừng phạt tàn bạo”4. Nếu họ không biết điều. Nixon sẵn sàng xắn tay áo.
    Nhóm nghiên cứu đặc biệt của Kissinger tập trung làm rơ tác động của chiến dịch ném bom "tàn bạo" đối với ư chí của Hà Nội. Kết luận của họ không phải là điều Nixon muốn nghe. Chiến dịch ném bom hàng loạt và phong toả sẽ không ép buộc được Hà Nội chấp nhận điều kiện của Nixon. Giới lănh đạo Hà Nội đă chiến đấu rất lâu và không thể nhượng bộ dưới sức ép của một chiến dịch ném bom. Họ sẽ không khoan nhượng. Hơn nữa, chiến dịch ném bom chưa chắc làm suy giảm đáng kể khả năng tiếp tục chiến đấu ở miền Nam của Hà Nội. Năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống sắp hết mà Nixon vẫn chưa có thể "chấm dứt chiến tranh. Một cách nhanh chóng”.
    Vào thời điểm này, Nixon và Kissinger quay lại coi "Việt Nam hoá" là lối thoát - Hoa Kỳ sẽ hồi sức và hiện đại hoá quân đội Việt Nam cộng hoà để có thể đương đầu với cuộc chiến tranh. Đây chẳng phải ư tưởng mới mẻ ǵ. Từ những năm 1950, người Pháp đă từng áp dụng chính sách này mà họ gọi là "Jaunissement", hay nhuộm vàng, nhưng cũng chẳng ăn thua ǵ. Khi Hoa Kỳ tham gia chiến tranh năm 1965, mục đích chính lúc bấy giờ là giúp quân đội Việt Nam cộng hoà có thời gian phát triển lực lượng để có thể tự gánh vác chiến tranh. Nhưng từ 1965 - 1968, tiến bộ là không đáng kể.
    Tại sao chính quyền nghĩ rằng chính sách này sẽ có kết quả? V́ Robert Thomson, chuyên gia chống bạo loạn của Anh, nói với họ rằng thời gian đă chín muồi cho Việt Nam hoá. Là một chuyên gia nổi tiếng trong chống chiến tranh du kích, Thompson đóng vai tṛ chủ chốt trong việc đánh bại du kích quân ở Malaysia cuối những năm 1950. Chính quyền Kenedy đề nghị Thompson dẫn đầu một nhóm người Anh đến Sài G̣n năm 1961. Thompson ở lại Việt Nam đến năm 1965 nhưng ư tưởng "giành trái tim và khối óc" của dân chúng thông qua b́nh định không đi tới đâu. Khi Johnson quyết định tiếp nhận chiến tranh từ người Nam Việt Nam, Thompson lưu ư cần thận trọng với việc coi sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ là giải pháp duy nhất.

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P25



    Tháng 10-1968, Thompson báo cáo với Nixon là Nam Việt Nam "sẽ mạnh hơn. Và nếu Hoa Kỳ tiếp tục cung cấp viện trợ quân sự kinh tế với quy mô lớn th́ trong từ 1-2 năm họ sẽ đủ mạnh để chống lại cộng sản mà không cần sự giúp đỡ từ bên ngoài"5. Nixon háo hức chấp nhận đánh giá của Thompson. Những người ủng hộ Việt Nam hoá cho rằng cơ hội đă đến v́ Hà Nội và Việt Cộng vừa phải chịu đựng tổn thất trong tổng tiến công Mậu Thân. Với việc đối phương chuyển sang chiến lược pḥng thủ và hạn chế hoạt động quân sự, thời điểm cho Việt Nam hoá đă đến.
    Chuyển hoá quân đội Việt Nam cộng hoà thành quân đội chuyên nghiệp và hiện đại trong hai năm để có thể đương đầu với quân đội Bắc Việt Nam là một nhiệm vụ quá khó, vượt ra ngoài trí tưởng tượng. Hoa Kỳ sẽ cung cấp một số lượng lớn vũ khí hiện đại nhất để trang bị cho đội quân một triệu người6. Chi phí cho việc đó không thành vấn đề, chỉ là một giọt nước trong biển cả mà thôi. Tổng phí tổn cho sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam tính từ thời chính quyền Truman là hơn 150 tỉ đô la. Ở vùng nông thôn, chính sách Việt Nam hoá t́m cách thúc đẩy b́nh định nhằm mở rộng sự kiểm soát của chính phủ, tăng cường an ninh ấp xóm thông qua lực lượng dân vệ và cải thiện đời sống. Quân đội Hoa Kỳ sẽ kiềm chế lực lượng của miền Bắc và Việt Cộng ở miền Nam. Cuối cùng là các nơi đồn trú của đối phương tại Lào và Campuchia. Đó là nơi SOG cần xuất hiện.
    Với hạn định thời gian như vậy, Việt Nam hoá chỉ là giấc mơ viển vông. Thậm chí ngay trong điều kiện lư tưởng, hai năm cũng không đủ. Những nhược điểm của chiến lược này nhanh chóng bộc lộ khi Nixon quyết định rút 150.000 lính chiến đấu trong năm 1970. MACV cảnh báo việc đó sẽ làm suy yếu nghiêm trọng Việt Nam hoá v́ hạn chế khả năng duy tŕ cân bằng lực lượng của Hoa Kỳ. Quả đúng vậy. Vào cuối năm 1970, năng lực tổ chức hoạt động tấn công của lực lượng Mỹ đă suy giảm nghiêm trọng. Ngay sau đó, MACV chuyển sang chiến lược bảo vệ các vùng đất gần căn cứ và thành phố lớn. Điều đó có nghĩa Hoa Kỳ phải dựa vào quân đội Nam Việt Nam để kiểm soát nông thôn.
    Quyết định rút quân của Nixon năm 1970 không ảnh hưởng ǵ đến nhịp độ hoạt động của OP35. Các toán thám báo tiếp tục đụng độ với quân đội miền Bắc trên đường ṃn. Họ thực hiện 441 điệp vụ, trong đó 95% là hoạt động thám báo. Việc sử dụng các đơn vị hỗ trợ trở nên phức tạp v́ những khó khăn trong việc đưa một đơn vị lớn vào rồi rút ra khỏi lănh thổ Lào dưới hoả lực của đối phương. Khi lực lượng quy ước của Hoa Kỳ tiếp tục cắt giảm hoạt động và rời Việt Nam, các toán Prairie Fire hầu như không giảm hoạt động.
    Đại tá Dan Schungel đến chỉ huy OP35 tháng 2 năm 1970. Ông là cựu nhân viên của lực lượng đặc biệt đă từng đến Việt Nam giữ chức phó chỉ huy nhóm lực lượng đặc biệt số 5. Với cương vị đó, Schungel giúp chỉ đạo chương tŕnh pḥng vệ dân sự. Sau đó ông được chuyển về Fort Bragg chỉ huy nhóm lực lượng đặc biệt số 7 và ở cương vị này đến 1970.
    Mặc dù các toán của Schungel thực hiện 441 điệp vụ chống phá đường ṃn, số lượng điệp vụ được ông coi là có hiệu quả ngày càng ít đi. Theo ông "một toán thám báo được coi là thành công nếu có thể hoạt động trong toàn bộ thời gian của điệp vụ mà không trực tiếp đụng độ với đối phương. Tất nhiên quan sát bằng mắt thường là rất tốt... nếu bạn có thể nh́n thấy đội h́nh của đối phương mà không cần đụng độ, gọi máy bay đến không kích, gây rối loạn hoặc tiêu diệt hoàn toàn đội h́nh đối phương - đó là phần thưởng thực sự đối với một toán thám báo". Trong năm 1970, rất ít toán thám báo trực tiếp nh́n thấy đối phương, mà ngược lại quân đội miền Bắc trực tiếp đụng độ với họ. Chỉ huy trưởng OP35 nhớ lại "ngày càng có nhiều trực thăng của chúng tôi bị đối phương phục kích hoặc là các toán biệt kích vừa đổ bộ xong đă bị lực lượng an ninh của đối phương tấn công... thường là các toán thám báo phải chiến đấu ác liệt và cần rất nhiều lực lượng yểm trợ để đưa họ trở về. Đó là việc rất tốn kém"7.
    Đối với Schungel, các biện pháp đối phó của đối phương rơ ràng trở nên khá hiệu quả. Ví dụ, vào năm 1970, Bắc Việt Nam thiết lập một "hệ thống thông tin phức tạp cho phép họ giám sát việc xâm nhập các toán biệt kích, hướng dẫn lực lượng săn lùng đến nơi và do vậy ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian hoạt động của các toán thám báo, nhất là ở phía bắc địa bàn hoạt động". Để gia tăng hoạt động này, "các toán săn lùng cơ động của miền Bắc được bố trí ở các vị trí quan sát cao" dọc theo biên giới Lào8.
    Năm 1970, Pete Hayes trở lại SOG, lần này với cương vị chỉ huy trưởng Trung tâm chỉ huy phía Bắc - CCN. Các toán thám báo nhận thấy hoạt động của họ bị vô hiệu hoá với tỉ lệ đáng báo động, thường là bị tấn công ngay khi vừa chạm đất ở Lào. Một lần, Hayes nhớ lại, đơn vị phục kích của Bắc Việt Nam đă "gọi tên của toán và đặt tên cho từng toán viên". Trong một trường hợp khác, toán biệt kích bị "phục kích và họ nói quân phục của lực lượng phục kích vẫn khô nguyên mặc dù trời mưa. Như vậy họ đă biết trước và chờ sẵn"9. Những câu chuyện đáng sợ như vậy thường xuyên được lưu truyền trong các toán thám báo hoạt động ở Lào năm 1970.
    Trước những diễn biến này, điều đáng ngạc nhiên là các toán Prairie Fire chịu ít tổn thất hơn so với 1969. Các toán của Schungel có 12 người Mỹ bị giết, 98 bị thương và 4 mất tích. Trong năm 1969, trung b́nh mỗi điệp vụ có một toán viên người Mỹ bị chết, bị thương hoặc mất tích. Năm 1970, tỉ lệ này giảm xuống c̣n một cho bốn điệp vụ.
    Nếu các toán biệt kích bị đối phương phát hiện ít nhất vẫn ở tỉ lệ như năm 1969, tại sao số thương vong lại giảm xuống? Nguyên nhân của điều dường như là mâu thuẫn này chính là khả năng giải thoát các toán thám báo một cách an toàn của SOG, thậm chí khi đối phương đă tiến rất gần. Schungel đă nhận xét là các toán "chiến đấu ác liệt” và nhận được "yểm trợ mạnh mẽ" để đưa họ về. SOG có thể gọi không quân đến hỗ trợ để giải cứu các toán gặp khó khăn. Schungel ghi nhận “rất nhiều toán thám báo được đưa ra dưới làn đạn. Đó là khi phải trả giá đắt v́ máy bay trực thăng và người giải cứu phải lượn ṿng và trở thành mục tiêu tấn công hấp dẫn. Chúng tôi mất một số trực thăng. Nhiều người của chúng tôi bị giết hoặc bị thương khi thực hiện các vụ giải cứu nóng này"10.
    Để bảo vệ trực thăng cứu hộ, SOG có sự yểm trợ của không quân chiến thuật đầy ấn tượng để chia cắt lực lượng đối phương đang áp sát các toán thám báo. Pete Hayes, chỉ huy trưởng CCN năm 1970, luôn luôn nhận được sự yểm trợ cần thiết cho hoạt động giải cứu: "tôi có Bộ chỉ huy không quân chiến thuật và nhân viên kiểm soát không lưu thật tuyệt vời, c̣n hoả lực từ trực thăng rất tốt"11. Khi nhiệm vụ quá khó khăn, Hayes có thể sử dụng "hơi cay trong địa bàn hoạt động” nhưng chỉ "trên cơ sở từng trường hợp cụ thể"... để giúp việc rút các toán ra"12.
    ____________________ ___________________
    1. H.R. Haldeman, "Kết thúc của sức mạnh" (New york: Times books, 1978), tr.219.
    2. Robert Shaplen, "Con đường tới chiến tranh", (New York: Happerand Row, 1970), tr.301.
    3. Richard Nixon, "Hồi kư của Richard Nixon (New York, Wiley and sows, 1979), tr.223.
    4. Creorge Herring "Cuộc chiến tranh dài nhất của Hoa Kỳ: Hoa Kỳ và Việt Nam 1950 – 1975”, ( New York, Wiley & Sons, 1979), tr.223.
    5. Creorge Herring, Sđd, tr.225.
    6. Hoa Kỳ gửi "1 triệu súng M.16, 12.000 súng máy M60, 40.000 súng phóng lựu M79, 2.000 khẩu pháo các loại" Quân đội Nam Việt Nam c̣n được cung cấp "Tàu chiến, máy bay và trực thăng", các trường quân sự được mở rộng, hệ thống cấp bậc chuyên nghiệp hóa, mức lương tăng và chế độ cựu chiến binh tăng lên. Creorge Herring, Sđd, tr.226.
    7. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Daniel Shungel, Sđd, tr. 208 -209.
    8. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1970, phụ lục B, tr. B-III.36.
    9. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Ernert “Pete" Hayes, trong "Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG", tr. 197.
    10. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Daniel Schungel, Sđd, tr. 208.
    11. Phỏng vấn lịch sử với trung tá Ernert “Pete" Hayes, Sđd, tr.195.
    12. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1970, phụ lục B. tr. B-19.
    Một cựu toán trưởng thám báo từng công tác tại SOG ba nhiệm kỳ tóm tắt các hoạt động tại Lào trong năm 1970 như sau: "đọ súng ác liệt với số đông quân đội miền Bắc"1. Mặc dù vậy, các toán thám báo "đóng góp phần lớn những chứng cứ cụ thể về việc Hà Nội và Việt Cộng sử dụng Lào làm căn cứ tập kết"2. Những tin t́nh báo như vậy ngày càng có giá trị nếu xét đến việc Nixon quyết định rút 150.000 lính chiến đấu trong năm 1970. Với một lực lượng ít hơn trong tay, việc biết trước đ̣n tấn công của đối phương có ư nghĩa sống c̣n. Các toán SOG cũng buộc một số lượng lớn bộ đội phải ở lại Lào làm nhiệm vụ bảo vệ đường ṃn.
    Trong khi các toán Frairie Fire vẫn giữ nguyên hoạt động chống quân đội miền Bắc trong năm 1970, có những diễn biến đáng lo ngại báo trước điều tồi tệ sắp xảy ra. Các toán thám báo và lực lượng hỗ trợ thực hiện 50 điệp vụ trong biên giới3. Đây là số lượng lớn v́ nó báo hiệu đối phương đă tiến lại gần hơn khi quân Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh.
    Ở Campuchia, hoạt động thám báo có những thay đổi lớn trong năm 1970. Trong bốn tháng đầu năm, đối phương tiếp tục sử dụng Campuchia làm nơi trú quân để tấn công vào miền Nam. Các toán thám báo xác định được vị trí đóng quân, tuyến đường xâm nhập và cơ sở hậu cần của đối phương. Họ vẽ ra một bức tranh chi tiết về t́nh h́nh quân đội miền Bắc ở đó.
    Nixon đă "bí mật" ném bom Campuchia từ đầu năm 1969 để giữ cân bằng khi ông rút quân. Việc ném bom không có tác động như mong muốn, trái lại, đă gây ra bất ổn trong nội bộ Campuchia. Ngày 18-3-1970, Thái tử Sihanouk bị truất ngôi, Lon Nol lên nắm quyền. Nixon quyết định phải có hành động đối với nơi trú quân của Hà Nội. Lực lượng hỗn hợp Mỹ và Nam Việt Nam vượt qua biên giới và phá huỷ các căn cứ đó. Mang mật danh B́nh Tây, chiến dịch này không mang lại kết quả rơ ràng, mặc dù giúp kéo dài thời gian cho Việt Nam hoá chiến tranh và ít nhất là tạm thời các cơ sở trú chân của Việt Cộng không sử dụng được.
    Cuộc tấn công c̣n gây ra hậu quả ngoài ư muốn khác. Thứ nhất, chính quyền Nixon phải gánh vác thêm một chính phủ bù nh́n yếu đuối ở Đông Nam Á. Chính phủ Lon Nol, người tổ chức vụ đảo chính tháng 1-1970 lật đổ Sihanouk không được ủng hộ ở Campuchia và không phải là đối thủ của Khơme đỏ. Washington duy tŕ sự sống cho chính phủ này nhưng một khi Hoa Kỳ rút lui, sự tồn tại của nó chỉ c̣n đếm từng ngày. Năm 1975, chính phủ Lon Nol sụp đổ và ông ta chạy đến Hawaii.
    Thứ hai, ở trong nước, chiến dịch Campuchia đă gây ra sự phản ứng chính trị to lớn. Chính quyền Nixon không lường trước được phản ứng này. Sinh viên trong toàn quốc biểu t́nh phản đối việc leo thang chiến tranh. Ngày 1-5-1970, sinh viên ở Bang Ohio diễu hành chống chiến tranh và một số người có hành vi bạo lực. T́nh h́nh tiến triển nhanh chóng dẫn đến việc lực lượng cảnh vệ quốc gia giết chết 4 sinh viên. Sự kiện này châm ng̣i cho các cuộc biểu t́nh và diễu hành khổng lồ ở Washington. Do những diễn biến này, ngày 30-6, hoạt động quân sự trên mặt đất ở Campuchia bị huỷ bỏ và mọi nhân viên Mỹ được lệnh rút về. Đối với SOG, họ "không c̣n được phép triển khai các toán thám báo do Mỹ chỉ huy ở Campuchia". Chỉ có các toán người địa phương là được phép "vượt qua giới tuyến"4. Trong năm 1970, các toán xâm nhập Campuchia - thực hiện 557 điệp vụ, trừ 19 điệp vụ, c̣n lại là điệp vụ trinh sát. Đại đa số điệp vụ do các toán 100% người địa phương thực hiện. Sau tháng 5-1970, lực lượng không quân chiến thuật có thể được sử dụng để tấn công mục tiêu do các toán này chỉ điểm.
    Do cuộc tấn công qua biên giới của Nixon, "kết quả chung của hoạt động qua biên giới ở Campuchia ghi nhận sự gia tăng cả về số lượng điệp vụ và thời gian hoạt động của từng điệp vụ so với con số thống kê năm 1969". Đó là một năm tốt đẹp. Chiến dịch "B́nh Tây" thành công trong việc buộc đối phương phải tái bố trí địa điểm tập kết lực lượng và hoạt động hậu cần. Các căn cứ biên giới của đối phương phần lớn không c̣n sử dụng được và đến cuối 1970 họ mới tái chiếm được. “Quân đội miền Bắc và Việt Cộng vẫn c̣n đó nhưng phải chuyển ra xa hơn" vào bên trong Campuchia. Tháng 12, họ bắt đầu "tái thiết lập nơi trú chân ở biên giới”5. V́ vậy năm 1971 không c̣n là năm thu hoạch của các toán Salem House bên trong Campuchia.
    15 tháng cuối cùng của OP35 đánh dấu bằng mối nguy hiểm ŕnh rập các toán thám báo. Khi Nixon đẩy nhanh lịch tŕnh rút quân và giảm quân số xuống c̣n 75.000 người vào cuối năm 1971, SOG hầu như không bị ảnh hưởng bởi lệnh rút quân này. Quân số vẫn được duy tŕ và nhịp độ hoạt động vẫn như hai năm trước đó. Mặc dù những biện pháp đối phó của quân đội miền Bắc chưa biến Lào thành nơi bất khả xâm nhập, việc duy tŕ hoạt động dưới mặt đất là cực kỳ khó khăn. Vị sếp cuối cùng của SOG, đại tá Kip Sadler giải thích rằng vào cuối 1970 "chỉ có 40% toán của SOG ở Lào được quá 24 giờ... quân đội miền Bắc quá mạnh. Họ phục sẵn ở vị trí, họ biết chúng tôi đang đến... và đó là thực đơn của tử thần".
    V́ vậy, SOG mất đi những người Mỹ tốt nhất, trong đó có trung sĩ David Mixter. Là con trai của một gia đ́nh New England nổi tiếng, David Mixter có mọi cơ hội tốt nhất mà nước Mỹ có thể có. Mùa hè 1966, ở tuổi 17, Mixter tham gia một "khoá học về thách thức ngoài biên giới tại Main”. Khoá học 26 ngày này có "tác động sâu sắc đến chàng David Mixter trẻ tuổi". Kết thúc khoá học Mixter viết rằng "Chương tŕnh đă giúp tôi có cảm giác tự tin mà tôi chưa từng có. Khi một nhiệm vụ dường như bất khả thi được thực hiện, trong tôi xuất hiện một cảm giác tuyệt vời không bút nào tả xiết. Tôi mong có được cảm giác ấy... từ mọi công việc tôi làm trong tương lai". Mixter kết thúc bằng việc nêu phương châm trong công việc: "Điều đầu tiên và quan trọng nhất đối với tôi là danh dự”6.
    Thay v́ theo học trường đại học New England danh tiếng, David Mixter tham gia lực lượng đặc biệt của quân đội. Năm 1970, Mixter t́nh nguyện đến công tác tại SOG và nhận được huân chương sao bạc - Silver Star - v́ ḷng dũng cảm. Ngày 29-1-1971, khi đang thực hiện điệp vụ thám báo tại Lào, trung sĩ Mixter bị chết trong một cuộc đấu súng với bộ đội miền Bắc.
    David Mixter là nhân viên thám báo cuối cùng bị chết tại Lào. Tại nghĩa trang quốc gia Arlington, một ngồi mộ đá được lập ra để tưởng nhớ sự hy sinh và ḷng dũng cảm của David Mixter.
    Bất chấp sự mất mát, các toán Prairie Fire tiếp tục mang về tin tức t́nh báo quư giá. Vào cuối 1970, họ phát hiện ra sự gia tăng nhanh chóng lực lượng quân đội miền Bắc tại Lào. Hà Nội có sự di chuyển một số lượng lớn người và vũ khí, tạo ra mối đe doạ nghiêm trọng đối với các tỉnh phía bắc của Nam Việt Nam. Với việc lính Mỹ đă rút lui khỏi khu vực này, thời điểm tấn công là chín muồi.
    Nixon quyết định phải có hành động tại Lào. Ông cho rằng Hà Nội đang chuẩn bị cuộc tấn công lớn vào chiến dịch tái bầu cử của Nixon năm 1972. Một cuộc tấn công qua biên giới vào những địa điểm trú quân sẽ vô hiệu hoá mọi điều bất ngờ mà Hà Nội có trong đầu và kéo dài thêm thời gian cho Việt Nam hoá bằng việc gây rối loạn địa bàn tập kết và hệ thống cung cấp ở hậu phương của quân đội miền Bắc. Nixon tin rằng một động thái tương tự đă thành công ở Campuchia và có thể sẽ lại thành công ở Lào. Chỉ có một vấn đề trong lập luận của Nixon: T́nh h́nh ở Lào hoàn toàn khác. Sự hiện diện của quân đội miền Bắc lớn hơn rất nhiều và, như các toán thám báo đă chỉ ra, c̣n đang được tăng cường. Đồng thời, quân đội Việt Nam cộng hoà phải tự gánh vác sứ mạng chiến đấu. Tuy Hoa Kỳ có thể trợ giúp không quân, thông tin nhưng binh sĩ và cố vấn Mỹ không được đi kèm quân đội miền Nam. Quốc hội ngăn cấm điều đó - kết quả của phản ứng của quốc hội đối với việc xâm lược Campuchia và thái độ thù địch ngày càng tăng đối với chính sách Việt Nam của Nixon.
    Khi công việc chuẩn bị đang diễn ra, mục tiêu của cuộc tấn công khá tham vọng, bao gồm việc cắt đứt đường ṃn Hồ Chí Minh ở Lào dọc theo đường 9 và phá huỷ cơ sở hạ tầng của quân đội Bắc Việt Nam trong khu vực này. Để làm điều đó, lực lượng Việt Nam cộng hoà phải khống chế được khu vực từ biên với Lào đến Tchepone. Cắt đứt đường Hồ Chí Minh từ lâu đă là mơ ước của các nhà lănh đạo quân sự Mỹ. Trên thực tế, tướng Reighton Abrams, Tư lệnh MACV, là người đề ra mục tiêu trên cho chiến dịch Lam Sơn 719, mật danh của cuộc tấn công. Đó là một kế hoạch táo bạo nhưng nguy hiểm. Quân lực Việt Nam cộng hoà cử những đơn vị tinh nhuệ nhất cho Lam Sơn 719.
    Lănh đạo SOG cho rằng Lam Sơn 719 là không thể thực hiện được. Theo Skip Sadler, kế hoạch đó chỉ mang lại thảm hoạ. Dựa trên sự quan sát trực tiếp bằng mắt thường của các toán biệt kích, Sadler đến báo cáo với tướng Hoàng Xuân Lăm, tư lệnh của quân đội Nam Việt Nam và trung tướng James Suthurland, người sẽ tiến hành yểm trợ bằng không kích và pháo kích từ lănh thổ Việt Nam, về những thực tế xác đáng ở Lào. Trong buổi báo cáo, Sutherland cho rằng vấn đề lớn nhất của Lam Sơn 719 là đưa lực lượng Nam Việt Nam vào các vị trí ở Lào để cắt đứt đường ṃn. Mặc dù thừa nhận đó là việc không dễ dàng, Sadler lưu ư tướng Lăm rằng mối "lo ngại nhất" lại là việc rút ra bằng cách nào"7. SOG tỏ ra rất chính xác.
    Trong việc chuẩn bị cho chiến dịch, SOG thực hiện hàng loạt động thái đánh lạc hướng để thu hút sự chú ư của đối phương. Ở vùng phía tây của Khe Sanh, họ thả dù có gắn thuốc nổ và giả tạo ra các vụ xâm nhập biệt kích. Ngoài ra, SOG c̣n bố trí các toán thám báo và các đơn vị hỗ trợ vào khu vực này. Trong suốt chiến dịch Lam Sơn 719, các toán của SOG tiếp tục hoạt động nghi binh ờ thung lũng A Sầu để giam chân lực lượng miền Bắc và thu thập t́nh báo. Con đường 922 chạy qua A Sầu là một phần tuyến đường rút lui của quân đội Nam Việt Nam. Tướng Giáp, Tổng tư lệnh quân đội Bắc Việt Nam đă chuẩn bị kỹ để đón quân đội Nam Việt Nam. Ông biết rơ lực lượng của Sài G̣n đi đâu và không bị mắc lừa các hoạt động nghi binh của SOG.
    Lam Sơn 719 bắt đầu ngày 8-2. Những lời cảnh báo của SOG không được ai để ư và chiến dịch là một thảm bại lớn. Lực lượng quân đội Nam Việt Nam bị lực lượng Bắc Việt Nam đón sẵn đánh tơi bời. Đối phương biết rơ địa h́nh và khai thác tối đa lợi thế đó. Các trinh sát pháo binh của Bắc Việt Nam, v́ nắm rơ địa h́nh địa vật, hướng dẫn pháo bắn chính xác vào đội h́nh tấn công của Nam Việt Nam.
    T́nh h́nh trên cùng với thời tiết xấu đă hạn chế sự di chuyển của quân đội Nam Việt Nam và ngăn cản sự yểm trợ của không quân Hoa Kỳ. Trong sáu tuần giao tranh, quân đội chủ lực miền Bắc nghiền nát các đơn vị tinh nhuệ nhất của miền Nam, trong đó, một số đơn vị bị tổn thất tới 50%. Điều tệ hại hơn là thất bại này mở cửa cho Hà Nội khống chế phần phía tây quân khu I. Đường đă rộng mở đến Huế. Trong thời gian c̣n lại của 1971, quân đội miền Bắc tiếp tục được tăng cường để chuẩn bị cho cuộc tấn công 1972.
    Ở Hoa Kỳ, thông tin đại chúng mô tả cuộc xâm lấn sang Lào là một thảm bại. H́nh ảnh trên truyền h́nh về sự rút lui hoảng loạn của binh lính miền Nam chứng minh một cách sinh động rằng Việt Nam hoá chiến tranh không có hiệu quả. Thất bại này, được phản ánh bằng h́nh ảnh lính Việt Nam cộng hoà bám vào càng trực thăng một cách tuyệt vọng, là khó có thể chối bỏ. Tuy nhiên, chính quyền cố gắng bằng mọi cách để tuyên bố Lam Sơn 719 là thắng lợi. Trong buổi truyền h́nh trực tiếp toàn quốc ngày 7-4-1971, Tổng thống Nixon tuyên bố “hôm nay tôi nói với các bạn là Việt Nam hoá đă thành công"8. Cuối cùng, chỉ có SOG c̣n ở lại để đối mặt với t́nh h́nh ở Nam Việt Nam.
    ____________________ __________________
    1. Plaster: "SOG cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam", tr.318.
    2. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1970, phụ lục B, tr.B-II - 32.
    3. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1970, phụ lục B, tr. B-II – 33.
    4. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1970, phụ lục B, tr. B-II – 4.
    5. MACVSOG: Lịch sử chỉ huy 1970, phụ lục B, tr. B-II - 41.
    6. Sarah Botton "Thách thức: Trường hướng ngoại Island Hurricane" (không có ngày in), tr.8.
    7. Plaster, "SOG: Cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Hoa Kỳ tại Việt Nam", tr. 318.
    8. Karnow, "Việt Nam một lịch sử”, tr.630.
    Do Lam Sơn 719 thất bại, địa bàn hoạt động của Prairies Fire được mở rộng ra vùng phía bắc của Nam Việt Nam. Sài G̣n đă để mất vùng này vào tay đối phương. Ở miền Nam, các toán thám báo được triển khai để "xác định, ngăn chặn và tiêu diệt binh sĩ và phương tiện trên con đường xâm nhập và đường thông tin liên lạc giáp ranh với biên giới Lào"1. Ở Lào, nhiệm vụ của OP35 được giao cho các toán người địa phương. Một sản phẩm phụ của Lam Sơn 719 là các toán thám báo do Mỹ chỉ huy bị cấm không cho hoạt động bí mật qua giới tuyến. Chính quyền Nixon cảm thấy họ không thể để cho bất kỳ lính Mỹ nào bị bắt giữ ở Lào thêm nữa v́ e ngại sự chống đối của quốc hội.
    Từ 1-1-1971 đến 31-3-1972, OP35 thực hiện 474 điệp vụ trong địa bàn hoạt động. Việc phân loại các điệp vụ cho thấy ảnh hưởng của thất bại Lam Sơn. Trong số các điệp vụ thực hiện, 278 được thực hiện bên trong giới tuyến do nhân viên Mỹ chỉ huy. Tin tức cho biết Bắc Việt Nam đă chuyển dịch căn cứ hậu phương qua biên giới Lào vào Việt Nam. Như các toán thám báo đă khẳng định việc gia tăng lực lượng vẫn được tiếp tục trong thời gian c̣n lại của 1971
    Thông thường, các toán hoạt động hai bên biên giới trong năm 1971 phải chiến đấu để bảo toàn sinh mạng. Họ như là con thú bị săn đuổi. Trong 15 tháng cuối cùng, rất nhiều toán thám báo bị đối phương vô hiệu hoá. Trên thực tế một toán trưởng thám báo báo cáo vào mùa thu 1971 là "bảy trên chín toán thực hiện điệp vụ phải chiến đấu bảo vệ tính mạng"2.
    Đại tá Roger Pezzelle chỉ huy OP35 trong những tháng cuối cùng. Đó là công việc mà Pezzelle đă t́m kiếm năm 1969. Theo chính lời của Pezzelle, "ông là một trong những ngướ t́nh nguyện của lực lượng đặc biệt năm 1952". Ông đă là "toán trưởng của Nhóm lực lượng đặc biệt số 10" và từ đó "chuyển từ công việc đặc biệt này sang công việc đặc biệt khác"3. Tháng 1-1969, Pezzelle "được đề cử đến OP35 để thay thế Bill Johnson". Ông rất thích "công việc đó và vận động để được chọn... dự kiến tôi sẽ thay Bill Johnson vào ngày 22-6-1969 nhưng sau đó, kế hoạch bị đảo lộn". Jack Isler được sếp của SOG, Cavanaugh lựa chọn. Pezzelle "tức điên lên" v́ cảm thấy ḿnh xứng đáng với nhiệm vụ4.
    Pezzelle tiếp nhận chỉ huy từ mùa hè 1971. Ông điều hành việc giải thể OP35 trong khi các toán thám báo tiếp tục giao tranh với đối phương cho đến ngày cuối cùng. Vào lúc bấy giờ, "mọi người đang trở về nhà", Pezzell kể lại, "trừ SOG. SOG vẫn tiến hành công việc chăm chỉ như hoặc hơn trước đây v́ chúng tôi phải bù vào số đă rút ra khỏi địa bàn". Việc cắt giảm lực lượng Mỹ có nghĩa "yểm trợ không quân bắt đầu giảm xuống". Pezzelle "gặp nhiều khó khăn trong yểm trợ, nhất là cho trung tâm chỉ huy phía Bắc - CCN. Đoàn không quân 101 được giao nhiệm vụ hỗ trợ trực thăng cho chúng tôi. Trong vài trường hợp, tôi phải đến tận nơi báo cáo với viên tướng tư lệnh rằng những máy bay mà chúng tôi yêu cầu đă được tướng Braham phê chuẩn bằng văn bản cho mỗi giai đoạn 30 ngày". Sự yểm trợ của không quân chiến thuật cũng "khó hơn" vào năm 19715.
    Những tháng cuối cùng thật là cực h́nh đối với các toán thám báo do Mỹ chỉ đạo và của người địa phương hoạt động ở Lào và phần phía bắc của Nam Việt Nam. "Mọi thứ đều khắc nghiệt", theo lời của sếp cuối cùng của OP35. Sự đối phó của đối phương "là rất nhanh. Các toán có người Mỹ, mặc dù rất kinh nghiệm, cũng bị tấn công ngay lập tức. Ở khu phi quân sự - DMZ, hoặc ngay phía nam của MDZ, họ có khả năng ứng phó với xâm nhập trong thời gian vài phút với các đơn vị quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn. Tháng 8, tôi tung Kansas vào ngay phía nam của DMZ và, trong ṿng ít phút, họ đă bị một trung đội tấn công và sau đó là cả một đại đội tiếp sau nữa là một tiểu đoàn". Những ǵ mà toán Kansas gặp phải là "sự ứng phó phổ biến của quân đội miền Bắc ở địa bàn này, vùng phía bắc của Nam Việt Nam và ở Lào"6.
    Pezzelle "cảm giác rằng sự thiếu động cơ của các toán đă góp phần vào việc giảm sút hiệu quả hoạt động”. C̣n có một số nguyên nhân khác, trong đó có việc "Bắc Việt Nam đang di chuyển một lượng quân đội lớn... hàng đoàn xe tải chạy xuống phía nam, để tiếp tế cho quân đội của họ”. Các căn cứ ở miền Nam đă được phát triển tốt đến mức các toán thám báo phát hiện ra xe tăng của đối phương ở đối diện với Kontum. Không ai tin chúng tôi, v́ vậy chúng tôi phải chụp ảnh"7.
    Dấu hiệu của việc tăng cường lực lượng bộ đội Bắc Việt Nam là việc gần đây các toán thám báo là "đối tượng chính của họ, v́ những người Mỹ khác đă trở về nhà. Do vậy, "Bắc Việt Nam xây dựng được năng lực ứng phó với hoạt động của SOG rất tốt... Họ quan sát địa h́nh để t́m ra nơi chúng tôi có thể đổ bộ và lặng lẽ quan sát để t́m hiểu kỹ thuật hoạt động của chúng tôi. Họ có thể tấn công chúng tôi cả ở trên không cũng như trên mặt đất"8. Pezzelles cho rằng đó là do quy mô lực lượng được bố trí để đảm bảo an ninh cho con đường là "rất lớn. Toàn bộ con đường được phát triển trong t́nh trạng an ninh tốt. Tôi cho là lực lượng làm việc đó là rất lớn, cả pḥng không lẫn trên mặt đất". Dĩ nhiên, Pezzelles bổ sung việc ngừng ném bom đă làm cho công tác bảo vệ an ninh đường Hồ Chí Minh trở nên dễ dàng hơn và "cho họ rất nhiều lợi thế"9.
    Ngoài các biện pháp đối phó, Pezzelles chỉ ra vấn đề cố hữu là gián điệp của đối phương. Ông nhớ lại khi Sadler c̣n là sếp của SOG, "họ đă chứng minh chúng tôi có một tên nội gián. Tôi nghĩ họ đă phát hiện ra anh ta và cho anh ta đi nơi khác. Anh ta bị nghi ngờ v́ họ liên tục mất các toán thám báo"10.
    Góp Phần vào khó khăn trong hoạt động của các toán này là giới hạn do Washington áp đặt, viên chỉ huy cuối cùng của SOG vẫn phải tuân theo những giới hạn trước đây. "Mỗi một điệp vụ thám báo ở Lào và Campuchia đều phải đệ tŕnh. Chúng tôi tŕnh kế hoạch hoạt động lên Tư lệnh Thái B́nh Dương qua MACV và lên Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trong ṿng ba ngày nếu không có ư kiến ǵ, chúng tôi được phép thực hiện điệp vụ đó". Khi được hỏi ông nghĩ ǵ về việc phải xin phép từng điệp vụ tới tận Nhà Trắng, Pezzelles mở to mắt: "thật là quá lố, anh có thấy thế không"11.
    Khi năm 1971 dần kết thúc, OP35 có một đóng góp cuối cùng cho chiến tranh. Dựa trên các báo cáo t́nh báo, Pezzelles cung cấp cho MACV những dấu hiệu rơ ràng về cuộc tấn công mùa xuân 1972 sẽ diễn ra ở đâu. Theo quan điểm của Pezzelles, SOG đă nói rất đúng. Ngày 30-3-1972, Hà Nội tiến hành cuộc tấn công theo quy ước có quy mô lớn vào Nam Việt Nam. Cuộc tấn công, dẫn đầu bằng xe tăng của Liên Xô và theo đó là 120.000 bộ đội tràn qua khu phi quân sự, vào Tây Nguyên và qua biên giới Campuchia vào tây bắc Sài G̣n.
    Tin tức cho thấy quân đội Bắc Việt đă "tạo ra bất ngờ", c̣n Hoa Kỳ th́ "phán đoán sai lầm về thời gian, quy mô và nơi tấn công"12. Mặc dù SOG đă cung cấp nhiều căn cứ cho thấy một cuộc tấn công lớn đang được chuẩn bị, nhưng họ không chỉ ra được thời gian và địa điểm của cuộc tấn công đó. Tại sao? V́ MACV SOG ngừng hoạt động. Ngày 30-4-1972, SOG chính thức giải thể theo chỉ thị của Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương và các chương tŕnh c̣n lại sẽ được chuyển giao cho Tổng nha kỹ thuật chiến lược Nam Việt Nam. Tuy nhiên, quá tŕnh giải thể đă diễn ra trước đó sáu tháng. V́ vậy trong giai đoạn quan trọng từ tháng Một đến tháng Ba, tai mắt của MACV bên trong lănh thổ đối phương không c̣n nữa. Hoạt động thám báo của SOG đă kết thúc.
    Cái giá của thất bại t́nh báo này, ít nhất trong giai đoạn đầu của cuộc tấn công, là thắng lợi ngoạn mục của đối phương. Hà Nội tiến dần đến chiến thắng. Mặc dù không quân Mỹ đă cứu Nam Việt Nam khỏi sụp đổ vào mùa Xuân 1972, cuộc tấn công đó là cánh chim báo tin cho những sự kiện của 1975. Lúc đó, lực lượng quân đội Mỹ và cả SOG nữa đă ra đi từ lâu.
    ____________________ _________________
    1. MACVSOG, Lịch sử chỉ huy 1971 - 1972, phụ lục B, tr B - 3 - 21.
    2. Karnow, Sđd, tr.318.
    3. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Roger Pezzelle, Sđd, tr.222.
    4, 5. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Roger Pezzelle, Sđd, tr.224, 232 - 234.
    6, 7, 8, 9. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Roger Pezzelle, Sđd, tr.235, 237, 241.
    10, 11. Phỏng vấn lịch sử với đại tá Roger Pezzelle, Sđd, tr.247, 239.
    12. Herting "cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ: Hoa Kỳ và Việt Nam, 1950 - 1975", tr.240.

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P26




    CHƯƠNG BẢY
    KHOẢNG CÁCH LỚN:
    SOG VÀ CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ CỦA MỸ
    Ngày 13-6-1942, bất chấp sự phản đối của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, cơ quan t́nh báo chiến lược (OSS) được thành lập. Các vị tham mưu trưởng không tin là một tổ chức như OSS có thể đóng góp điều ǵ đó cho chiến tranh. Họ cũng ngán William Donovan, giám đốc của OSS người được ví như khẩu đại bác, và đă thuyết phục tổng thống Roosevelt giao cho quyền hạn lớn trong hoạt động lật đổ trong chiến tranh. Là một người hoạt động chính trị khôn khéo, Donovan là một nhà hoạt động bí mật và tin rằng các thủ đoạn lừa bịp có thể tạo ra sự khác biệt1. Quan niệm trên đặt Donovan vào thế đối đầu với giới lănh đạo quân sự cấp cao. Theo họ, Donovan chỉ là một thường dân dám xâm phạm vào lĩnh vực của người khác và cổ vũ cho hoạt động quân sự theo kiểu không chính thống, mà dưới con mắt của họ, chỉ là một ư tưởng bốc đồng. Nhưng Donovan được Roosevelt lắng nghe và thuyết phục được tổng thống về tầm quan trọng của lực lượng biệt kích bí mật và các đơn vị du kích trong thời chiến. Trong lúc đó các tham mưu trưởng dùng mọi cách để ngăn cản OSS.
    Để giành ủng hộ của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Donovan đưa ra lư luận là tất cả mọi hoạt động của OSS đều đặt dưới sự giám sát của giới lănh đạo quân sự cao cấp. Đây là một động thái chiến thuật khôn khéo và có sức hấp dẫn đối với các tham mưu trưởng. Nếu không ngăn cản được hoạt động của OSS, ít nhất họ cũng muốn có biện pháp kiểm soát nào đó. Nhưng đề nghị của Donovan không đơn thuần chỉ là một thủ đoạn chính trị, ông thực sự tin vào điều đó.
    Trong chiến tranh, OSS tiến hành mọi thủ đoạn có trong hoạt động ngầm - lật đổ, phá hoại, tập kích, chiến tranh tâm lư và hợp tác với các lực lượng du kích. Các công việc này được thực hiện dưới sự giám sát của quân đội và nhằm hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh chung. Điều này mang lại kết quả, OSS đóng góp phần quan trọng vào chiến thắng của đồng minh. Bây giờ nh́n lại, luận điểm của ông là không thể bác bỏ. Trong thời chiến, OSS hoặc SOG cần được gắn kết với chiến lược chiến tranh chung. Donovan coi đây là nguyên tắc cơ bản.
    Trong chiến tranh Việt Nam, giới lănh đạo quân sự Mỹ không đếm xỉa ǵ đến luận điểm trên của Donovan và thậm chí c̣n chưa từng biết đến luận điểm ấy. Lầu Năm Góc không coi chiến tranh bán quân sự của SOG là một bộ phận của chiến lược giành chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Theo ba sếp đầu tiên của SOG, nguyên tắc cơ bản của Donovan c̣n lạ lẫm đối với tướng Westmoreland và các tướng lĩnh khác đang chiến đấu với Việt Cộng và quân đội miền Bắc”.
    Sếp của SOG, Blackburn hiểu rất rơ thái độ trên. Đối với Westmoreland và các tư lệnh dưới quyền, “SOG rất nhỏ bé, là một bộ phận không đáng kể của bức tranh chung”. Họ (Lầu Năm Góc và MACV) “quá thiên về chiến tranh thông thường và SOG không mấy quan trọng đối với họ”. Blackburn nói tiếp, “không chỉ có Westmoreland, mà c̣n Taylor, Harkin, những người trước Westmoreland rồi Abram... Họ không biết SOG có thể đóng góp được ǵ”. Rồi Blackburn dẫn chứng: “Tôi sống cùng khu với viên phó của Westmoreland một năm trời nhưng anh ta không bao giờ hỏi tôi một câu nào về hoạt động của SOG”. Hơn nữa Blackburn giận dữ cho rằng anh ta đă “ngăn cản việc thăng hàm. Mặc dù chính con người đó đề nghị tôi đến Việt Nam, nhưng khi tôi xuất hiện trong danh sách thăng hàm, anh ta bỏ phiếu chống lại tôi”2.
    Blackburn cho rằng với lănh đạo quân sự cao cấp không có cái nh́n chiến lược về chiến tranh như đối thủ của họ ở Hà Nội. Đối với Westmoreland, chiến tranh là cuộc chiến theo quy ước ở miền Nam. Đối với tướng Giáp, đó là một cuộc đấu tranh vũ trang, trong đó mọi biện pháp quân sự đều được sử dụng trong toàn Đông Dương. Theo Blackburn, Westmoreland “đến đó để chỉ huy các lực lượng thông thường ở Nam Việt Nam. SOG trực thuộc sự chỉ huy của MACV nhưng các điệp vụ của nó không thuộc thẩm quyền chỉ đạo của ông”3. Việc không phải chịu trách nhiệm này càng làm cho Westmoreland bỏ qua những ǵ SOG có thể đóng góp. Blackburn nhận xét rằng, quan điểm trên của Westmoreland được phản ánh trong thái độ không nhiệt t́nh thúc đẩy các hoạt động ở Lào, ngoài phạm vi hoạt động của các đơn vị quân đội Mỹ. “Tôi nghĩ ông ta cho rằng Lào không phải là vấn đề của ḿnh... ông ta không để tâm đến Lào v́ chẳng làm ǵ được ở đó cả... ông ta không được giao nhiệm vụ giải quyết vấn đề đó”4. Mối quan tâm của Westmoreland nằm ở “lực lượng Mỹ đông đảo ở Nam Việt Nam, và thường xuyên yêu cầu tăng cường thêm quân. V́ thế, tôi rất khó xin được sự yểm trợ cần thiết để đưa người chúng tôi sang Lào... đó là cuộc đấu tranh”5.
    Kinh nghiệm chỉ huy SOG của Jack Singlauh cũng tương tự. Mặc dù có mối quan hệ công tác tuyệt vời với tướng Westmoreland và các tư lệnh dưới quyền, điều đó cũng không giúp mấy vào việc làm cho họ có hiểu biết thêm về khả năng của SOG. Jack Singlauh mô tả như sau: “Thiếu sự hiểu biết về khả năng mà lực lượng đặc biệt có thể trợ giúp cho hoạt động thông thường. Khi lực lượng thông thường đă được triển khai, người ta cho rằng, họ có thể hoàn thành mọi mục tiêu. Mọi người đều lạc quan: điều cần thiết là một vài tiểu đoàn Mỹ, sau đó chúng ta sẽ chộp được đuôi của đối phương. Nhưng mọi chuyện đă không diễn ra như vậy”6.
    Singlauh là sếp của SOG khi tướng Creighton Abrams thay thế Westmoreland tháng 7-1968. So với người tiền nhiệm, Abrams có quan điểm c̣n nặng nề hơn về lực lượng đặc biệt và chiến tranh đặc biệt. Westmoreland tỏ ra khoan dung nhưng không đặt nhiều hy vọng vào SOG. C̣n thái độ của Abrams th́ khó có thể nói là khoan dung. Theo Singlauh, Abrams thực sự cho là “lực lượng đặc biệt đă lấy đi những nhân viên tốt nhất tập trung vào một nơi, tách rời họ khỏi đơn vị cũ”, và như vậy “làm suy yếu các đơn vị chủ lực”7.
    Hơn nữa, nếu so với các đơn vị thông thường, SOG có thể làm được ǵ? Theo Abrams, câu trả lời là không đáng kể. Theo lời của Jack Singlaub, ông là “người phản đối lực lượng đặc biệt, chống đối hoạt động ngầm... Đối với ông, hoạt động ngầm chỉ là các vụ tập kích mà ông đă chỉ huy trong thế chiến thứ hai khi đơn vị đặc nhiệm của ông tấn công trại giam tù binh... Đó là hành động dũng cảm, nhưng ông cho rằng một đơn vị xe bọc thép cũng có thể thực hiện xuất sắc nhiệm vụ như vậy. Quan điểm này phản ánh cách Abrams nh́n nhận SOG”8.
    Steve Cavanaugh chỉ huy SOG hai năm, sau khi Singlaub ra đi tháng 9-1968. Khi được hỏi trong thời gian chỉ huy SOG, ông có nhận thấy giới chỉ huy của MACV có hiểu biết ǵ về quan điểm của Donovan hay không, câu trả lời của Cavanaugh là không, lư do là “họ coi đó là cuộc chiến tranh thông thường... không đánh giá hết giá trị của hoạt động đặc biệt... Lực lượng đặc biệt không được coi trọng”9. Ông cho rằng “riêng về MACV, họ không thể coi nhẹ SOG hơn được nữa và “họ không phải là người ủng hộ tôi”10.
    Blackburn, Singlauh và Cavanaugh đều cho thấy chững điều dường như trái với ưu tiên của tổng thống Kenedy khi giao cho quân đội hoạt động đặc biệt chống lại miền Bắc năm 1961. Tại sao SOG không nhận được hỗ trợ của lănh đạo quân đội? Tại sao Lầu Năm Góc và MACV không gắn kết SOG vào chiến lược quân sự trong chiến tranh Việt Nam? Câu trả lời nằm ở thái độ của giới quân sự cao cấp đối với chiến tranh đặc biệt và cho thấy kể từ khi Donovan đề ra nguyên tắc cơ bản cho hoạt động này, thái độ đó không mấy thay đổi.
    ____________________ ___________________
    1. Là một anh hùng trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Donovan nhận Huân chương Danh dự. Sau chiến tranh ông thành lập một hăng kinh doanh ở Wall-street và phát triển nó thành một doanh nghiệp đầy sức mạnh. Mặc dù việc kinh doanh giúp ông trở nên giàu có và đưa ông vào giới có ảnh hưởng lớn nhất, mối quan tâm chủ yếu của Donovan là vai tṛ của Mỹ trong thế giới ngày càng nguy hiểm của những năm 1930.
    2, 3. Phỏng vấn lịch sử chuẩn tướng Donald Blackburn, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy trưởng của SOG , tr. 36-37, 38.
    4, 5. Phỏng vấn lịch sử chuẩn tướng Donald Blackburn, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy trưởng của SOG”, tr. 37, 38-39.
    6. Phỏng vấn lịch sử thiếu tướng John K. Singlauh, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy trưởng của SOG”, tr. 75.
    7, 8. Phỏng vấn lịch sử thiếu tướng John K. Singlaub, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy trưởng của SOG”, tr. 75, 60.
    9, 10. Phỏng vấn lịch sử đại tá Stephen E. Cavanaugh, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy trưởng của SOG”, tr. 114, 112.
    LẦU NĂM GÓC PHẢN ĐỐI CÁCH NH̀N VỀ
    CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA KENEDY
    Thái độ miễn cưỡng của Lầu Năm Góc trong việc coi trọng giá trị có ư nghĩa của SOG là một phần của sự phản đối đối với chỉ thị xây dựng năng lực chiến tranh đặc biệt của Kenedy. Mệnh lệnh đó thách thức mọi thứ mà giới quân sự chính thống bảo vệ.
    Lư do tồn tại của các quân binh chủng vũ trang Hoa Kỳ được h́nh thành trên kinh nghiệm của thế kỷ XX. Họ đă giành chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh thế giới và tiến hành thành công cuộc chiến tranh hạn chế ở Triều Tiên. Trong mỗi cuộc chiến tranh đó, lực lượng và chiến lược chiến tranh theo quy ước được sử dụng, và do vậy dần h́nh thành tư duy chiến tranh quy ước trong quân đội Hoa Kỳ. Sự phát triển công nghệ về khả năng cơ động và hoả lực đă củng cố thêm tư duy này.
    Như Kenedy nh́n nhận, vấn đề là bản chất của chiến tranh đang thay đổi. Nếu quân đội Mỹ tiếp tục theo con đường thông thường th́ họ sẽ rơi vào t́nh trạng được chuẩn bị kỹ cho cuộc chiến tranh ít có khả năng xảy ra nhất và, ngược lại ít được chuẩn bị cho cuộc xung đột dễ xảy ra và phải can dự nhất. Từ những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống, John F. Kenedy đă rung hồi chuông cảnh báo trên. Mặc dù Lầu Năm Góc có thể đánh bại Liên Xô ở biên giới nước Đức, công việc thực sự của họ là chống các cuộc chiến tranh du kích ở thế giới thứ ba. Kenedy đă nói trước lớp sinh viên tốt nghiệp Westpoint năm 1962 như sau: “Đây là một loại chiến tranh khác, mới mẻ về cường độ, cổ xưa về nguồn gốc, cuộc chiến tranh của du kích, lật đổ, bạo loạn, ám sát; cuộc chiến tranh trong đó phục kích thay cho chiến đấu (trên chiến trường)... Nó đ̣i hỏi... một chiến lược... hoàn toàn mới, một lực lượng hoàn toàn mới, và v́ vậy, một chương tŕnh đào tạo hoàn toàn mới và khác biệt”1.
    Đó là bức thông điệp không lọt tai giới quân sự chính thống. Kenedy không nhân nhượng, và tiếp tục thúc đẩy việc mở rộng lực lượng đặc biệt để đối phó với thách thức lật đổ bạo loạn. Người em của tổng thống, Robert Kenedy, c̣n đi xa tới mức hỏi Maxwell Taylor: “Tại sao chúng ta lại không biến toàn bộ quân đội thành lực lượng đặc biệt?” - một quan điểm mà giới quân sự thấy đáng báo động và thiếu thận trọng2.
    Chính quyền Kenedy tiến hành nhiều biện pháp để đưa các quân chủng và nhất là lục quân, vào việc xây dựng năng lực chống bạo loạn lật đổ. Tổng thống c̣n đi xa tới mức triệu tập cuộc họp với các tư lệnh chủ yếu của lục quân tại Pḥng bầu dục. Được biết tổng thống đă phát biểu: “Tôi muốn các anh làm điều đó. Tôi biết lục quân sẽ không phát triển lĩnh vực chống bạo loạn và làm những việc mà tôi cho là cần phải làm trừ khi chính bản thân lục quân muốn làm điều đó”3.
    Kenedy không thuyết phục được các tướng lĩnh. Sự chống đối chiến tranh đặc biệt là rất lớn. Bắt đầu từ Maxwell Taylor, người nghỉ công tác để trở thành đại diện quân sự đặc biệt của Kenedy. Năm 1962, Taylor trở lại giữ chức Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân. Taylor là người thiên về hoả lực và các hoạt động bằng lực lượng thông thường được trang bị đầy đủ. Ông cho rằng sự nhiệt t́nh của Nhà Trắng đối với chống bạo loạn “thực sự không cần thiết”4. Lực lượng thông thường với khả năng cơ động cao sẽ đủ sức đối phó với du kích quân. Người tiền nhiệm của Taylor, tướng Lyman Lemnitzer, cho rằng chính quyền Kenedy tuyên truyền “quá mức về chống bạo loạn. Tướng Earl Wheeler, tham mưu trưởng lục quân từ 1962-1964 và là người kế nhiệm của Taylor, cũng nhất trí như vậy5.
    Các tướng lĩnh lục quân xiết chặt đội ngũ chống lại chiến tranh đặc biệt. Họ làm mọi thứ để vô hiệu hoá các ư tưởng của tổng thống. Tham mưu trưởng lục quân, tướng George Decker, tuyên bố năm 1962: “bất kỳ một người lính tốt nào cũng có thể đối phó với du kích”6. Với một chút huấn luyện thêm, lính bộ binh thông thường có thể hoàn thành nhiệm vụ chống bạo loạn. Đó không phải là những điều mà tổng thống muốn nghe và cho thấy hạn chế trong tư duy chính thống.
    Lầu Năm Góc cũng có quan điểm tương tự về chiến tranh đặc biệt bí mật. Trong khi Kenedy chỉ thị cho quân đội tiếp nhận và mở rộng hoạt động của CIA chống lại miền Bắc năm 1963, Lầu Năm Góc tỏ ra không hăng hái ǵ về nhiệm vụ mới này. Tương tự như cánh ứng phó với OSS trước đây, nếu như không thể trốn tránh được, ít nhất, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân muốn có sự kiểm soát nào đó, nhất là sau thảm bại vịnh Con lợn.
    Sau thất bại ở Cu Ba, Kenedy yêu cầu Taylor lănh đạo cuộc điều tra để xác định nguyên nhân. Vào lúc bấy giờ, Taylor đang là Chủ tịch Trung tâm Lilcon về nghệ thuật ở thành phố New York. Ông tập trung nhiều hơn vào các yếu tố chỉ huy, kiểm soát so với các vấn đề hoạt động. Sự phê phán nặng nề nhất của Taylor nhằm đúng vào Nhà Trắng: “sự chỉ đạo ở cấp cao nhất được đưa ra tại các cuộc họp của một nhóm nhỏ các quan chức cao cấp... mà không hề cân nhắc đến kế hoạch hành động bằng văn bản và không có ǵ ghi nhận lại kết luận và quyết định đạt được trong cuộc họp đó”7. Dường như Nhà Trắng chỉ đạo hoạt động Cu Ba như là kẻ nghiệp dư. Quá tŕnh giám sát của chính quyền, theo Taylor, là “không đầy đủ để có thể xem xét đúng mức tất cả mọi tác động quân sự”8. Điểm cuối cùng này thật sự bất ngờ. Nó đặt ra câu hỏi liệu các chuyên gia quân sự - Hội đồng tham mưu trưởng liên quân - có được tham gia tiến tŕnh đó không? Tại sao họ không có vai tṛ trung tâm?
    Các tham mưu trưởng vắng mặt bởi v́ họ bị gạt ra ngoài quá tŕnh vạch kế hoạch của CIA. Điều này được phản ánh trong báo cáo về chiến dịch Cu Ba do Lyman Kirkpatrick, tổng thanh tra CIA, hoàn thành năm 1962. Lyman phê phán mạnh mẽ hoạt động của CIA. Trong nội bộ CIA, báo cáo này được coi là đ̣n phá huỷ do người trong cuộc tạo ra. Trên thực tế, bản báo cáo có tính nhạy cảm đến mức giám đốc CIA cất nó vào tủ riêng của ḿnh cho đến khi được giải mật năm 1998.
    Theo Kirpatrick, “CIA bị cuốn quá nhiều vào hoạt động quân sự đến mức không c̣n khả năng đánh giá được cơ hội thành công trên thực tế”. Trong tương lai, CIA phải “điều hành hoạt động với chính sách được xác định rơ ràng, kế hoạch được vạch ra kỹ lưỡng và tham gia phối hợp đầy đủ với Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc pḥng khi thích hợp... Theo quan điểm của chúng tôi, các cơ quan đặc biệt có xu hướng nhận nhiệm vụ vượt quá năng lực của chính ḿnh và không xem xét đầy đủ khả năng các cơ quan khác của chính phủ cùng thực hiện hoặc tham gia vào những hoạt động này”9.
    Hội đồng tham mưu trưởng liên quân không cần Kirpatrick nói cho họ những ǵ đă biết. Họ bị đẩy vào t́nh thế khó khăn. CIA sử dụng nguồn lực của Lầu Năm Góc, kể cả binh sĩ, nhưng không tham khảo ư kiến của họ về chiến dịch Cu Ba.
    Để ngăn ngừa việc tái diễn, các tham mưu trưởng muốn kiểm soát mọi sự dính líu của quân đội vào hoạt động ngầm trong tương lai. Tuy nhiên, muốn kiểm soát không đồng nghĩa với việc các tham mưu trưởng ủng hộ một chương tŕnh hoạt động ngầm mạnh mẽ. Họ phản đối ngay từ ư tưởng và đánh giá thấp sự đóng góp của hoạt động ngầm. Điều này thể hiện rơ ràng trong cách Lầu Năm Góc tiếp nhận sự bàn giao hoạt động ngầm chống miền Bắc từ CIA.
    Quyết định chuyển giao này khởi nguồn từ cuộc họp do tướng McNamara chủ tŕ tháng 7-1962 tại trại Smith ở Hawai. Với sự tham gia của đại diện Bộ Quốc pḥng, Ngoại giao, Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương, CIA và MACV, mục đích của cuộc họp là triển khai việc chuyển giao các chương tŕnh bán quân sự mà CIA thực hiện ở Việt Nam sang Lầu Năm Góc. Dưới tác động của sự kiện vịnh Con lợn và chỉ thị 57 của Hội đồng an ninh quốc gia, rơ ràng là giới chức lănh đạo dân sự muốn giao cho Bộ Quốc pḥng vai tṛ lớn hơn trong các cuộc hoạt động “đen”.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P27


    Lầu Năm Góc đă cố thoái thác nhiệm vụ này vào mùa thu 1962. Viện cớ Nhà Trắng lại đang bận rộn với hoạt động ngầm, tân chủ tịch tham mưu trưởng liên quân Maxwell Taylor đề nghị Uỷ ban 303 - cơ quan giám sát mọi hoạt động ngầm của Hội đổng an ninh quốc gia - rằng “cần đẩy mạnh việc mở rộng chương tŕnh chống miền Bắc Việt Nam của CIA”. Tuy nhiên, ông không đề nghị việc leo thang này sẽ do quân đội thực hiện. Thay vào đó Taylor tham mưu: “cần chỉ đạo CIA xúc tiến nỗ lực ngầm có cường độ lớn hơn chống các mục tiêu ở Bắc Việt Nam”. Thậm chí Taylor c̣n chỉ ra những mục tiêu cụ thể. Đó là một tṛ khá trơ trẽn để đùn đẩy trách nhiệm. Nhà Trắng không nghe và “không chấp nhận kiến nghị đó”10.
    Tháng 1-1963, Taylor cử một nhóm sĩ quan cao cấp do tham mưu trưởng Lục quân, tướng Earl Wheeler dẫn đầu sang Việt Nam thu thập thông tin làm căn cứ cho Hội đồng tham mưu trưởng đánh giá yêu cầu quân sự và bán quân sự ở Nam Việt Nam. Ngày 1-2, Wheeler đệ tŕnh bản báo cáo. Taylor rất thích nội dung bản báo cáo và chỉ thị “báo cáo tổng thống”11.
    Wheeler kêu gọi “mở rộng hoạt động tập kích và phá hoại chống rniền Bắc”. Kiến nghị này găi đúng chỗ ngứa của Nhà Trắng nhưng tỏ ra mập mờ: “nỗ lực không theo quy tắc này cần được phối hợp với các hoạt động t́nh báo bí mật của CIA”12. Taylor và các tham mưu trưởng vẫn cố đùn đẩy nhiệm vụ.
    Mọi việc bị níu kéo sang phần lớn năm 1963. Tháng 5-1963, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân chỉ thị Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương bắt đầu soạn thảo kế hoạch. Do vốn đă ủng hộ hoạt động tập kích vào các mục tiêu ven bờ miền Bắc, đô đốc Felt thực hiện rất nhanh chóng và gửi Kế hoạch 34A cho Taylor ngày 17-6.
    Bản thảo kế hoạch này nằm ở văn pḥng của Taylor ba tháng trước khi được kư gửi đi. Tại sao lại bị om lâu như vậy? Đô đốc Felt rất muốn thực hiện phần liên quan đến hải quân nêu trong kế hoạch nhưng không có ư kiến của Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân. V́ vậy, mùa hè qua đi mà không có động tĩnh ǵ. Taylor phê duyệt Kế hoạch 34A ngày 9-9 nhưng một lần nữa giữ lại bản kế hoạch để nghiên cứu thêm hai tháng rưỡi nữa mới tŕnh lên Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara ngày 20-11. Tại sao Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân phải chờ lâu đến thế?
    Có hai lư do. Lư do thứ nhất liên quan đến quan điểm của ông lúc bấy giờ là sáng kiến chiến tranh đặc biệt của Nhà Trắng là “không thật cần thiết”. Maxwell Taylor thuộc giới quân sự chính thống và tin ở phương pháp theo quy ước trong chiến tranh. Blackburn đă nói rất đúng: “không chỉ có Westmoreland, mà c̣n Maxwel Taylor... Harkins, Abrams... Họ đều thiên về chiến tranh quy ước”. Blackburn nói thêm: “Tôi cho rằng Taylor là một quân nhân xuất sắc”, nhưng băn khoăn khi nói đến Việt Nam và SOG: “Chẳng biết ông ta đóng góp được ǵ? Trong đầu ông ta có những ǵ?”13. Lư do thứ hai cho sự chậm trễ đó là Taylor muốn cố tránh trách nhiệm và sợ mang tiếng thất bại. Nếu không tiếp nhận hoạt động đặc biệt, quân đội sẽ không bị đổ lỗi khi có sai sót xảy ra như sự kiện Vịnh Con lợn.
    Ngay cả khi Kế hoạch 34A được Nhà Trắng phê duyệt tháng 1-1964, giới lănh đạo quân sự tiếp tục thể hiện sự ít quan tâm đến kế hoạch này. Điều đó đă làm giảm hiệu quả của SOG từ giai đoạn h́nh thành. Ví dụ, Hội đồng tham mưu trưởng không cử một sĩ quan cấp tướng chỉ huy SOG. Theo một tài liệu được giải mật về “Sự phát triển, tổ chức và h́nh thành” của SOG, các nhà soạn thảo kế hoạch 34A coi SOG “là Bộ tư lệnh hỗ trợ tương đương với một Bộ tư lệnh chiến trường và đặt dưới sự chỉ đạo của Tư lệnh MACV tướng Westmoreland”14. Ở Việt Nam, MACV có bốn Bộ tư lệnh hỗ trợ hay lực lượng chiến trường mang kư hiệu vùng I, II, III và IV. Tư lệnh chiến trường có cấp hàm trung tướng và là người giúp Westmoreland chỉ đạo chiến tranh.
    Nếu SOG có vai tṛ như một Bộ tư lệnh hỗ trợ của MACV, sếp của SOG phải được cả Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và tư lệnh MACV chấp nhận nhưng điều đó đă không xảy ra. Lầu Năm Góc không hề có ư định cử một sĩ quan cấp tướng đến chỉ huy một đơn vị như SOG. Để hoàn thành công việc, tư lệnh của SOG phải có khả năng giao thiệp với cấp cao và được chấp nhận là thành viên trong câu lạc bộ đó. Không thể phí phạm sĩ quan cấp tướng ở SOG. V́ vậy, chỉ huy trưởng của SOG thường rơi vào ví trí rất khó khăn. Với những khó khăn mà Blackburn gặp phải khi xin phép được tiến hành hoạt động chống đường ṃn Hồ Chí Minh, rơ ràng ông không được coi là hội viên của câu lạc bộ chính thống.
    Điệp vụ tại Lào không phải là ví dụ duy nhất về sự thiếu hỗ trợ của lănh đạo Lầu Năm Góc dành cho SOG. Điều đó c̣n được thể hiện trong sự thua thiệt thường xuyên của SOG trong những lần đối đầu với Bộ Ngoại giao và CIA. Tại sao lại như vậy? Trước hết, hai vị Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân, Taylor và sau đó là Wheeler, không muốn có cuộc tranh căi chính trị về các đề nghị của SOG v́ họ c̣n có những vấn đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam quan trọng hơn. Đối với tham mưu trưởng liên quân, SOG nằm ở ngoài lề và không liên quan đến hoạt động chiến tranh chủ yếu. Nhà Trắng đă gán nó cho Lầu Năm Góc. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân bất đắc dĩ phải chấp nhận nhưng đó là tất cả những ǵ họ muốn làm. Quan niệm tương tự cũng tồn tại ở MACV, nơi tướng Westmoreland thấy SOG không mấy giá trị.
    ____________________ _________________
    1. “Tài liệu công khai của Tổng thống Hoa Kỳ, John. F. Kenedy” (Washington, DC: Nhà in Chính phủ, 1962). tr.453.
    2, 3. Trích dẫn trong Krepinevich, “Lục quân và Việt Nam”, tr.35,31.
    4, 5, 6. Trích dẫn trong Krepinevich, “Lục quân và Việt Nam”, tr. 37.
    7, 8. Trích theo Ranelagh, “Cơ quan CIA”, tr. 379.
    9. “Bản điều tra của Tổng thanh tra về hoạt động Cu Ba và các tài liệu kèm theo”, (Washington DC: Hồ sơ an ninh quốc gia, 1998), tr.143, 145- 146.
    10, 11, 12. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 96, 96-97.
    13. Phỏng vấn lịch sử với thiếu tướng Donald Blackburn, trong “MACV SOG: phỏng vấn lịch sử với chỉ huy trưởng của SOG”, tr. 36.
    14. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển , tr. 216.
    TƯỚNG WESTMORELAND VÀ SOG
    William C. Westmoreland mang đặc trưng của ḍng Lục quân chính thống cả về kinh nghiệm công tác và quan điểm nghề nghiệp. Westmoreland nhập trường Westpoint năm 1932 và bốn năm sau tốt nghiệp với cấp hàm đại uư. Trong thế chiến thứ hai, Westmoreland công tác tại Bắc Phi trước khi trở thành tham mưu trưởng tiểu đoàn bộ binh số 9 và tham gia cuộc tấn công châu Âu năm 1944.
    Ở Triều Tiên, đại tá Westmoreland chỉ huy trung đoàn bộ binh không vận 187. Kinh nghiệm công tác ở đây củng cố thêm sự tin tưởng của Westmoreland vào tính cơ động và hoả lực và coi đó là những phương tiện hữu hiệu nhất trong chiến tranh. Trong những năm 1950, Westmoreland chỉ huy trung đoàn không vận con cưng 101 và sau đó làm trưởng khoa tại trường Westpoint. Đầu những năm 1960, Westmoreland được cử đến chỉ huy lực lượng phản ứng nhanh của lục quân, sư đoàn không vận số 18. Trung đoàn không vận số 101 và sư đoàn không vận 18 là sự biểu hiện cụ thể của lư luận của lục quân về hoả lực và hoạt động trên cơ sở lực lượng thông thường áp đảo. Những tiến bộ công nghệ chỉ củng cố và làm sâu sắc hơn quan điểm này của giới lục quân chính thống.
    Năm 1964, khi Westmoreland với tư cách là tư lệnh của MACV bắt đầu vạch ra phương cách tiến hành chiến tranh Việt Nam, không lấy ǵ ngạc nhiên khi hoả lực và sự áp đảo là hai yếu tố cốt lơi trong chiến lược của ông. Westmoreland chỉ thị cho quân đội tiến hành hoạt động t́m và diệt ở khắp miền Nam nhằm tiêu diệt, làm bị thương hoặc bắt giữ một số lượng quân đội đối phương lớn hơn là số được thay thế.
    SOG nằm ở vị trí nào trong kế hoạch chiến tranh của Westmoreland? Ông không tin SOG có thể làm được ǵ nhiều và v́ vậy không mấy để ư đến SOG. Ông c̣n khẳng định lại quan điểm của ḿnh khi được phỏng vấn cho cuốn sách này. Westmoreland nhớ lại là ông “biết khá rơ” về việc Washington đ̣i hỏi đẩy mạnh leo thang hoạt động ngầm chống miền Bắc Việt Nam. Nhưng ông nhận xét tại thời điểm đó làm như vậy không mang lại mấy lợi ích: “hoạt động ngầm không có mấy tác động sâu sắc. Nó là loại hành động cùng lắm cũng chỉ tạo ra sự khó chịu trong tư tưởng của đối phương. Nhưng nó quá nhỏ và trọng tâm lại quá hẹp. Những người tham gia công việc này cứ nghĩ là họ quan trọng và họ có thể chiến thắng trong chiến tranh. Họ hoàn toàn phóng đại về tầm quan trọng của họ”1.
    Westmoreland không chỉ phê phán những người vạch kế hoạch và thực hiện hoạt động ngầm chống lại Hà Nội. Ông cho rằng: “những người xuất sắc và thông minh nhất” ở Nhà Trắng đă đặt niềm tin quá lớn và không đúng chỗ vào những ǵ mà hoạt động ngầm có thể mang lại. Cụ thể, Westmoreland nêu đích danh McNamara. “Tôi nghĩ điều đó không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Tôi cho là ông ta đă đánh giá quá mức (về hoạt động ngầm)”. Các “giáo sư - những người được đưa vào chính quyền Kenedy” và giữ nguyên vị trí trong chính quyền Johnsons - cũng đánh giá quá cao như vậy2. Lời nhận xét này là nhằm vào Mac Bundy, nguyên hiệu trưởng trường đại học Harvard và Walt Rostow, nguyên giáo sư kinh tế của Học viện kỹ nghệ Mattsachusetts, cả hai đều cổ vũ cho hoạt động ngầm. Nhưng Westmoreland có cái nh́n khác hẳn. “Tôi nghĩ, tầm quan trọng (của hoạt động ngầm) đă được phóng đại trong đầu óc của rất nhiều người ở Washington vào lúc đó”3.
    Thế c̣n SOG th́ sao? Ít nhất nó cũng đă cung cấp những tin t́nh báo quư giá về hoạt động của đối phương trên đường ṃn Hồ Chí Minh - những thông tin không thể thu được từ các nguồn khác như chụp ảnh trên không và đột nhập vào mạng lưới thông tin của miền Bắc? Westmoreland phản đối và giảm bớt ư nghĩa của hoạt động thu tin t́nh báo của SOG bằng câu khen nhạt nhẽo: “À, nó có ích ở chỗ họ có thể tập hợp các nhóm lực lượng đặc biệt rồi đưa họ đến nơi có thể quan sát đường ṃn Hồ Chí Minh. Họ có thể nh́n thấy những người vận chuyển hành quân dọc theo con đường... nhưng không biết đang vận chuyển ǵ... Ư tôi muốn nói là kế hoạch đó rất nghiêm túc và có cung cấp cho chúng tôi một số tin t́nh báo. Nhưng giá trị t́nh báo không lớn, không giúp cho việc giành thắng lợi hoặc thất bại trong chiến tranh”4.
    Westmoreland cũng có nhận xét tương tự về các hoạt động khác mà SOG tiến hành chống con đường ṃn. Nhiệm vụ chính của SOG là xâm nhập các toán thám báo nhỏ vào Lào t́m kiếm bộ đội, đoàn xe, căn cứ, kho trạm, băi đỗ xe, kho vũ khí, hầm chỉ huy của đối phương và các mục tiêu khác cho các vụ không kích chiến thuật. cựu tư lệnh của MACV đánh giá tác động của những hoạt động này lên đối phương chỉ là “sự khó chịu” mà thôi. SOG làm nổ cầu, đúng thế, nhưng “đối phương dịch xuống phía hạ lưu một hoặc hai dặm và sử dụng cầu mới... v́ vậy nếu đặt vào trong bối cảnh chung th́ nó chỉ gây ra sự khó chịu5.
    Thế c̣n các hoạt động ngầm ở miền Bắc th́ sao? Westmoreland đáp thẳng thừng “về cơ bản đó là sự phí phạm”. Ông cho rằng việc tung gián điệp, biệt kích ra miền Bắc là vô dụng và “rơi vào điều khiển của đối phương”6. Khi hỏi tại sao không chuyển trọng tâm sang việc tổ chức phong trào chống đối, như Russell, Blackburn và Singlauh đă đề nghị, vị cựu tư lệnh của MACV giải thích: “đó là quyết định từ Washington. Lyndon Johnson không phải là người ủng hộ mở rộng chiến tranh. Mà đề nghị đó được coi là hành động mở rộng chiến tranh”7.
    Theo nhận xét của Westmoreland, giới chức vạch kế hoạch ở Washington được cảnh báo rằng việc tạo ra t́nh trạng bất ổn ở Bắc Việt Nam có thể buộc Trung Quốc phải can thiệp. Họ không muốn có một Triều Tiên thứ hai. “Nếu chúng ta mở rộng chiến tranh... tới mức nào th́ Trung Quốc mới can thiệp?”. Đó là một câu hỏi lớn đối với Nhà Trắng. Westmoreland tin rằng: “chúng ta chơi các con bài đến dưới mức để Trung Quốc dính líu vào cuộc chiến tranh”8.
    Trong suy nghĩ của Westmoreland, SOG không có sự đóng góp chiến lược nào: “Xét từ giác độ quân sự, đó chỉ là màn phụ… sự đóng góp là, nhỏ nhoi”9. Thế có vai tṛ ǵ cho SOG không? Westmoreland không nghĩ vậy: “không, nếu bạn suy nghĩ ở tầm giành thắng lợi trong chiến tranh”10.
    Westmoreland thừa nhận Washington đă áp đặt nhiều giới hạn trong hoạt động của SOG qua đó hạn chế những ǵ SOG có thể đóng góp. Giả sử như mọi chuyện khác đi, giả sử như ông có toàn quyền sử dụng SOG theo ư muốn, liệu sự đóng góp của SOG có lớn hơn không? Sau một hồi suy nghĩ, Westmoreland trả lời: “có thể, SOG có thể được sử dụng có hiệu quả hơn nhưng theo tỉ lệ khoảng 10%”. Westmoreland nhắc lại là SOG “không quan trọng lắm”. Ngừng một chút, Westmoreland thay đổi ư kiến “tôi đang nói đến khoảng gia tăng độ 5% (của sự đóng góp)”11.
    Nếu được làm lại, liệu ông có gắn kết SOG vào chiến lược chiến tranh chung không? Westmoreland vẫn không dứt khoát “tối không nghĩ là nó có tác động ǵ lớn... lĩnh vực chiến tranh mà anh nói tới chỉ là màn phụ”12. Westmoreland nói thêm các hoạt động của SOG diễn ra ở miền Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia - đều ở ngoài địa bàn phụ trách của ông. Trong hệ thống chỉ huy, các địa bàn này do Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương phụ trách. Westmoreland nhận xét: “Tôi không bao giờ coi đó là vấn đề... như nói rằng nó thuộc phạm vi trách nhiệm của tôi chứ không phải của họ, bởi v́ kết luận chung là SOG không làm được điều ǵ ghê gớm. Tác động của nó là hoàn toàn ngẫu nhiên”13.
    ____________________ ____________________ _
    1. Phỏng vấn tướng William Westmoreland tại nhà riêng ở Charleston (3-10-1997), tr. 1.
    2, 3. Phỏng vấn tướng William Westmoreland tại nhà riêng ở Charleston (3-10-1997), tr. 1, 2, 3.
    4, 5, 6, 7. Phỏng vấn tướng William Westmoreland tại nhà riêng ở Charleston (3-10-1997), tr. 3-4, 5, 10-11, 10.
    8, 9, 10, 11, 12. Phỏng vấn tướng William Westmoreland tại nhà riêng ở Charleston (3-10-1997), tr.20,3,19,15-16,17.
    13. Phỏng vấn tướng William Westmoreland tại nhà riêng ở Charleston (3-10-1997), tr. 16.
    CHIẾN LUỢC CHIẾN TRUỜNG VÀ SOG
    Lời nhận xét của Westmoreland về giới hạn địa lư của phạm vi ông phụ trách đă chỉ ra một lư do quan trọng khác làm cho SOG không được gắn kết vào chiến lược của MACV. Cách thức Washington giao nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường Đông Nam Á hoàn toàn đi ngược lại nguyên tắc thống nhất. Hoa Kỳ không có chiến lược quân sự để giành thắng lợi trong chiến tranh Việt Nam. Nếu có, đó sẽ bao gồm nhiều chiến dịch được phối hợp với nhau nhằm vào từng bộ phận của chiến trường trong đó Hà Nội tiến hành các hoạt động chiến tranh.
    Các chiến dịch phải nhằm vào mục tiêu hay mục đích chiến lược và phải có sự gắn bó hữu cơ giữa chiến dịch và mục tiêu quân sự. Chiến lược đề ra trọng tâm cho chiến dịch và, ngược lại, mọi chiến dịch phải hướng tới mục đích chiến lược. Điều đó cho thấy có mối quan hệ qua lại giữa chính sách, do giới lănh đạo dân sự vạch ra, và chiến lược quân sự và chiến dịch hoạt động, lĩnh vực của giới quân sự. Chính sách đặt ra mục tiêu mà chiến lược cần đạt tới. Chiến dịch chỉ có ư nghĩa khi được gắn kết vào chiến lược.
    Chiến lược tiến hành chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ không theo một phương hướng nào ở trên. Trái lại, luôn có sự không hài hoà và thiếu phối hợp thống nhất. Một phần nguyên nhân của t́nh trạng này là do không có sự thống nhất về phạm vi chiến trường. Tướng Westmoreland chỉ là tư lệnh mọi lực lượng trên chiến trường miền Nam. Ông không có quyền hạn ǵ ở bên ngoài biên giới. Trong phạm vi chiến trường do ḿnh phụ trách, Westmoreland vạch chiến lược tiến hành chiến tranh chống quân đội Bắc Việt Nam và Việt Cộng. Mặc dù chủ trương hoạt động phải được Washington và Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương thông qua, về cơ bản ông là người quyết định cách thức tiến hành chiến tranh trên bộ. Trong Lầu Năm Góc, các chủ trương của Westmoreland thường được Hội đồng tham mưu trưởng liên quân chấp nhận v́ về bản chất đó là cách tiếp cận của trường phái chính thống. C̣n Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương, đứng đầu là một đô đốc hải quân, thường ít can thiệp. Liệu một vị đô đốc th́ biết ǵ về việc chiến đấu trên mặt đất?
    Về mặt kỹ thuật, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương có trách nhiệm quân sự về toàn bộ chiến trường Đông Nam Á. Tuy nhiên trên thực tế, trách nhiệm chủ yếu của ông là chỉ huy các đơn vị không quân và hải quân Hoa Kỳ thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu ở Nam Việt Nam, Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia.
    Đô đốc Grant Sharp và Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương từ 1964 -1972, John McCain xin ư kiến Washington về mọi hoạt động ném bom. Mặc dù cũng phải làm tương tự, tư lệnh của MACV có khả năng linh hoạt hơn trong việc h́nh thành chủ trương hoạt động so với Grant và McCain, ít nhất là cho đến khi t́nh h́nh trở nên tồi tệ năm 1968. Các chiến dịch ném bom do Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương bị Washington kiểm tra gắt gao hơn so với chiến dịch trên bộ. Một phần là do chiến tranh trên không dễ hiểu và h́nh dung hơn. Gần như mọi buổi sáng, tại văn pḥng của Bộ trưởng và Thứ trưởng Quốc pḥng đều treo một sơ đồ cỡ lớn cho thấy những mục tiêu bị tấn công đêm hôm trước và mục tiêu dự kiến sẽ không kích vào ngày hôm sau. Không có cách tương tự để thể hiện hàng chục cuộc đụng độ trên bộ xảy ra ở miền Nam trong cùng thời gian đó. Khía cạnh này của chiến tranh được kiểm soát chặt chẽ nhất bởi v́ các chiến dịch không kích được thu gọn và dễ hiểu như một cuốn truyện tranh.
    Ở Lào và Campuchia, Sharp và McCain phải tính đến vai tṛ của vị đại sứ đầy quyền lực. Để kiềm chế Lầu Năm Góc và CIA ở nước ngoài, tổng thống Kenedy đă có những bước đi tăng cường quyền lực cho các vị đại sứ của ḿnh nhằm đảm bảo họ hoàn toàn phụ trách mọi hoạt động của Mỹ ở nước sở tại. V́ vậy, trong khi Lào có vai tṛ cực kỳ quan trọng trong chiến lược tiến hành chiến tranh của miền Bắc, đó là vùng cấm đối với MACV và Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương. Muốn làm ǵ ở đó đều phải qua đại sứ Sulivan. Ở Campuchia cũng tương tự: đại sứ Mỹ đầu tiên là Leonard Urger năm 1964 là một người đầy quyền lực trong việc cho phép các hoạt động quân sự công khai hoặc bí mật được tiến hành ở đó.
    Tuy nhiên, trên đây không phải là những yếu tố duy nhất hạn chế việc sử dụng công cụ ngầm chống Hà Nội của giới lănh đạo quân sự. Ngoại trừ đô đốc Felt, tư lệnh Bộ chỉ huy quân đội Thái B́nh Dương trong thời kỳ 6 tháng đầu của SOG, không có chứng cứ ǵ cho thấy giới lănh đạo quân sự ở Honolulu quan tâm nhiều đến hoạt động ngầm. Trong trường hợp của Felt, sự quan tâm của ông giới hạn trong các hoạt động ngầm trên biển chống phá miền Bắc. Vào lúc bấy giờ, đó là một trong số ít sự lựa chọn sẵn có cho tư lệnh chiến trường. Khi sự dính líu của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam lên đến đỉnh cao vào năm 1965, đô đốc Sharp người thay thế Felt không để ư đến hoạt động của SOG. Giờ đây, Việt Nam là cuộc chiến tranh theo kiểu Mỹ với lực lượng lớn và chiến lược theo quy ước. Hoạt động ngầm không c̣n hấp dẫn đối với giới lănh đạo hải quân cao cấp và Sharp là dẫn chứng của quan điểm này. Tốt nghiệp học viện hải quân 1927, ông chỉ huy một tàu khu trục trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, con đường dẫn ông đến vị trí đô đốc bốn sao là công tác trong lực lượng hải quân chính thống.
    Thái độ của Sharp đối với SOG được phản ánh trong nhận xét của William Murray, sĩ quan hành động của Pḥng hoạt động đặc biệt thuộc Văn pḥng trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt (SACSA). Murray chịu trách nhiệm đệ tŕnh các yêu cầu điệp vụ trên biển của SOG lên với lănh đạo dân sự và quân sự ở Washington sau khi đă có ư kiến của Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương.
    Murray từng công tác với Sharp trước đó và biết ông rất rơ. Khi đô đốc đến Washington, họ thường gặp nhau vào bữa tối, và thảo luận về kế hoạch 34A và SOG. Từ những cuộc trao đổi này, Murray có được sự hiểu biết về quan điểm của Sharp về chiến tranh bí mật chống Hà Nội.
    Murray nhớ lại, Sharp rất lo ngại về hoạt động đó v́ nếu hoạt động của SOG phạm sai lầm và bị lật tẩy th́ “ông ta sẽ bị phê phán”. Hoạt động ngầm có thể gây phiền toái, Murray nhớ lại “Sharp cảm thấy SOG được thả lỏng tự do. T́nh trạng đó đă kéo dài và Sharp muốn đưa SOG vào trong ṿng kiềm toả” khi được hỏi vị tư lệnh Thái B́nh Dương có bao giờ nhắc đến sự đóng góp của SOG trong các bữa ăn tối không? Murray trả lời ngay không ngần ngừ: “không, tôi không nghĩ như vậy. Ít nhất là ông không bao giờ nói với tôi”1. Các tài liệu giải mật cũng cho thấy đô đốc Sharp không làm ǵ để thúc đẩy sáng kiến tăng cường hoạt động ngầm chống lại miền Bắc hoặc sử dụng nó theo cách có hiệu quả hơn. Murray cho biết rơ là Sharp không quan tâm và không muốn tiêu phí vốn liếng vào SOG2 .
    Nói tóm lại, SOG không chỉ là người không được hoan nghênh trong giới lănh đạo quân sự chính thống của MACV và Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương, mà c̣n là đứa con mồ côi của hệ thống chỉ huy v́ thái độ thờ ơ của lănh đạo cấp cao. Không một viên tướng hoặc đô đốc ở chiến trường muốn có SOG v́ họ thấy hoạt động đó ít có giá trị - “một kiểu màn phụ”. Các tướng lĩnh quan tâm đến SOG ít nhất nếu có thể được. Chính sự lănh đạm này đă làm cho hoạt động của SOG không được hoà nhập vào chiến lược chiến tranh quân sự của Hoa Kỳ.
    ____________________ _________________
    1, 2. Phỏng vấn đại úy William Murray, tr.1-2, 36.
    BÊN TRONG LẦU NĂM GÓC: CUỘC CHIẾN ĐỂ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG NGẦM
    Người ủng hộ nhiệt t́nh nhất chiến tranh đặc biệt của Tổng thống Kennedy ở Lầu Năm Góc là chuẩn tướng Edward Lansdale. Lansdale đă gây ấu tượng cho Kenedy từ những ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống khi báo cáo trước Hội đồng an ninh quốc gia ngày 28-1-1961. Từ nội dung tŕnh bày, John F.Kenedy cảm nhận rơ ràng là viên tướng không quân khác người này có hiểu biết sâu sắc về Việt Nam và chiến tranh đặc biệt. Sau đó, theo Lansdale, Kenedy nói rằng: “Tôi muốn anh sang đó (Nam việt Nam) làm đại sứ”1.
    Các nhà ngoại sao chuyên nghiệp tại Bộ Ngoại giao lặng đi v́ sửng sốt và quyết liệt phản đối việc cử Lansdale làm đại sứ ở Nam Việt Nam. Chỉ riêng việc ông là quân nhân đă đủ tệ rồi, nhưng Lansdale c̣n là nhân viên CIA ở Phillipines và Nam Việt Nam; tệ hơn nữa là những thành tích của ông khi c̣n ở CIA đă được viết thành cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ có tên: “Người Mỹ xấu xí”2. Bên trong Bộ Ngoại giao, tất cả những yếu tố này củng cố cho nhận định là Lansdale không phù hợp với cương vị đại sứ ở bất kỳ nước nào chứ không riêng ǵ vị trí rất nhậy cảm như Sài G̣n. Các nhân viên chuyên nghiệp gây sức ép để ngăn cản việc bổ nhiệm và cuối cùng thuyết phục được Ngoại trưởng Rusk nói với tổng thống rằng nếu Lansdale được bổ nhiệm làm đại sứ, “tổng thống sẽ phải tự t́m vị Bộ trưởng Ngoại giao mới”3. Điều này đặt dấu chấm hết cho triển vọng ngoại giao của Lansdale.
    Sau đó, Kenedy cho đô đốc Arleigh Burke ở Hội đồng tham mưu trưởng liên quân biết ông muốn cử Lansdale sang Việt Nam làm tham mưu trưởng nhóm cố vấn viện trợ quân sự Hoa Kỳ. Để đủ tiêu chuẩn cho chức vụ này, Lansdale phải được thăng cấp hàm từ tướng một sao lên tướng ba sao. Ư kiến này cũng không được thực hiện. Các tham mưu trưởng liên quân coi Lansdale đứng ngoài giới quân sự chính thống, mang đầy ư tưởng khó hiểu về chiến tranh đặc biệt và niềm tin vào chiến tranh tâm lư vốn bị giới quân sự coi là mất thời gian. Việc phong Lansdale từ chuẩn tướng lên trung tướng không thể đặt ra.
    Lansdale làm các tham mưu trưởng lo ngại. Những ư tưởng về chiến tranh đặc biệt của ông phản ánh quan điểm của Nhà Trắng và ông đă giành được sự tin tưởng của Kenedy. Hơn nữa, Lansdale c̣n là người biết tận dụng sân khấu chính trị tại Washington. Lansdale nổi bật trong việc tuyên truyền ư tưởng của ḿnh về Việt Nam và chiến tranh đặc biệt. Các tham mưu trưởng thuộc Hội đồng tham mưu trưởng liên quân lo sợ rằng sự ầm ỹ về biện pháp tiến hành chiến tranh mới có thể tuột ra ngoài tầm kiểm soát và quyết định làm cho Lansdale im lặng. Đô đốc Burke gửi một công văn cho Lansdale nêu ra những câu hỏi về các bài phát biểu và tuyên bố của Lansdale về Việt Nam. Bức thông điệp là rất rơ ràng, Lansdale được nhắc nhở phải giữ mồm miệng4.
    Giành lợi thế so với Hội đồng tham mưu trưởng liên quân.
    Mặc dù Lansdale là người không được giới lănh đạo quân sự cấp cao ở Lầu Năm Góc hoan nghênh, ông nhận được sự ủng hộ từ phía nhân viên dân sự của Bộ Quốc pḥng trong đó có thứ trưởng Rosewell Gilpatric. Trong công thư ngày 24-2-1961 gửi Chủ tịch tham mưu trưởng liên quân, tướng Lemnitzer, Gilpatrick chỉ thị: chuẩn tướng Lansdale được giao nhiệm vụ thành lập và lănh đạo Văn pḥng trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng (OATSD). Trên cương vị này, Lansdale phụ trách các vấn đề của ủy ban 5412; hoạt động quân sự đặc biệt được Bộ trưởng Quốc pḥng phê duyệt, và quan hệ với CIA trong những vấn đề Bộ trưởng Quốc pḥng quan tâm”5.
    Trên thực tế, Lansdale sẽ là sĩ quan điều hành sự dính líu của quân đội vào hoạt động ngầm của McNamara. Cấp trên trực tiếp của Lansdale, thứ trưởng quốc pḥng Gilpatric, là đại diện của McNamara tại Uỷ ban 5412 (sau này đổi tên thành Uỷ ban 303) - cơ quan giám sát mọi chương tŕnh hoạt động ngầm của Mỹ. Điều này đă đặt Lansdale vào trung tâm của cuộc chơi.
    Một tuần sau, Gilpatrre t́m cách củng cố vị trí của Lansdale: ông thông báo cho Lemnitzer rằng: “Tướng Lansdale, với tư cách là ATSD (trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng) sẽ hỗ trợ tham mưu cho mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của Uỷ ban 5412”.
    Với cương vị này, tướng Lansdale sẽ “chuẩn bị những vấn đề cần phải thảo luận và giám sát các hoạt động tiếp theo sau khi đă có quyết định”6. Gilpatric chỉ đạo Lemnitzer cử “sĩ quan cấp tướng và thấp hơn từ Hội đồng tham mưu trưởng liên quân sang làm cố vấn và hỗ trợ tướng Lansdale trong việc thi hành công vụ”7.
    Các diễn biến trên không được Hỏi đồng tham mưu trưởng liên quân tiếp nhận một cách vui vẻ. Ngay sau đó một cuộc đấu căng thẳng để giành quyền kiểm soát hoạt động ngầm diễn ra. Lansdale nổ phát súng đầu tiên bằng việc gửi công văn cho giám đốc văn pḥng Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, trung tướng Earl Wheeler, trong đó mô tả “những biện pháp hiệu quả nhất để có được sự hỗ trợ của Hội đồng đối với nhiệm vụ (của Lansdale)”. Với Lansdale, làm việc dưới sự chỉ đạo của Gilpatric và trên đó là Bộ trưởng McNamara, giọng điệu của công văn là rơ ràng - Wheeler và Văn pḥng hội đồng phải làm việc cho Lansdale. Bản công văn viết: “một nhóm nhỏ được thành lập trong Văn pḥng hội đồng dưới sự chỉ đạo của thiếu tướng David Ray, trưởng pḥng hoạt động bổ trợ. Các thành viên của nhóm, trong khi vẫn chịu trách nhiệm trước cấp trên, sẽ làm việc trực tiếp và đầy đủ với văn pḥng của tướng Lansdale”8. Đó là tṛ chơi quyền lực không úp mở của Lansdale.
    Lansdale không phải là người duy nhất ra đ̣n nặng tay. Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng, tướng Lemnitzer, trong bản phúc tŕnh số 14 gửi Bộ trưởng McNamara giải thích lại những ǵ Lansdale cho là chỉ thị của Galpatric. “Hội đồng tham mưu trưởng, mong muốn và hoàn toàn khả thi, nhận trách nhiệm xử lư các yêu cầu của CIA về những hỗ trợ trong thời b́nh đối với các hoạt động ngầm nêu trong công văn của tướng Lansdale”9. Hay nói một cách khác, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân sẽ không làm việc cho Lansdale. Hội đồng tham mưu trưởng sẽ trực tiếp tham mưu cho giới lănh đạo dân sự của Lầu Năm Góc về mọi vấn đề liên quan đến sự tham gia của quân đội trong hoạt động ngầm.
    Lansdale trả lời bằng công văn ngày 27-3 trong đó nêu cụ thể cách thức Hội đồng tham mưu trưởng cung cấp “hỗ trợ cho ông để thực hiện nhiệm vụ trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng”. Để làm điều đó, “một thành tố nhỏ trong văn pḥng của Hội đồng tham mưu trưởng được thành lập để cung cấp sự hỗ trợ này. Bộ phận hoạt động đặc biệt đó phải nhanh chóng đáp ứng yêu cầu có liên quan đến trách nhiệm của Trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng về hoạt động đặc biệt và những hoạt động mà Bộ trưởng Quốc pḥng quan tâm”10.
    Hội đồng tham mưu trưởng tăng tiền đặt cọc vào ván bài vào cuối tháng Bảy. Đưa Lansdale về đúng chỗ chỉ là một trong hai lư do dẫn đến lo ngại đang gia tăng của họ. Lư do thứ hai là sự kiện vịnh Con lợn. Các tham mưu trưởng rất bực tức về việc họ bị CIA gạt ra ngoài tiến tŕnh vạch kế hoạch và quyết tâm không để t́nh trạng đó tái diễn. Hơn nữa, họ không muốn để Lansdale chịu trách nhiệm về mọi sự tham gia của quân đội vào chiến tranh bí mật đặc biệt, kể cả “quan hệ với CIA mà Bộ trưởng Quốc pḥng đặc biệt quan tâm”11. Nếu không, các vị tham mưu trưởng chỉ c̣n biết tưởng tượng ra những ǵ mà Ed Lansdale và CIA soạn thảo đằng sau lưng ḿnh.
    Trong tờ tŕnh ngày 29-7, gửi Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara và Giám đốc CIA McCone, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân tuyên bố thành lập “một pḥng hành động đặc biệt thuộc Cục 5 của Hội đồng tham mưu trưởng”12. Người phụ trách pḥng này được thông báo về mọi hành động có liên quan tới quân đội mà Uỷ ban 5412 đang xem xét các tham mưu trưởng cho rằng bước đi này sẽ đưa họ trở lại tiến tŕnh vạch kế hoạch, đẩy Lansdale về dưới sự kiểm soát của Hội đồng, đồng thời chấm đứt sự tự do hành động của Lansdale.
    Ngày 7-8, McNamara cho ư kiến hoàn toàn khác: “Rơ ràng là có sự hiểu nhầm về vai tṛ của Pḥng hành động đặc biệt trong việc hỗ trợ Trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng”.
    McNamara không chấp thuận ư kiến của Hội đồng tham mưu trưởng về việc thông báo đầy đủ cho Trưởng pḥng hoạt động đặc biệt mà Hội đồng tham mưu trưởng mới thành lập về mọi hành động đang được Uỷ ban 5412 xem xét. Hơn nữa, Bộ trưởng Quốc pḥng không cần phải thông báo cho Hội đồng tham mưu trưởng thông qua Cục 5 về mọi vấn đề hoạt động ngầm mà Bộ trưởng Quốc pḥng đang cân nhắc13. Như vậy, một lần nữa, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân bị gạt ra ŕa.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P28


    Ngày 12-9-1961, tiếp theo ư kiến của McNamara, Lansdale gửi một công văn nữa cho Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân xát thêm muối vào vết thương c̣n chưa lành. Lansdale tuyên bố: “Mọi vấn đề liên quan tới sự hỗ trợ trong hoà b́nh của Bộ Quốc pḥng cho hoạt động của CIA sẽ do Văn pḥng của Trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng trực tiếp giám sát”. Văn pḥng của Lansđale sẽ quyết định việc Hội đồng tham mưu trưởng có được tham gia thảo luận về hoạt động ngầm cụ thể hay không “tuỳ thuộc vào bản chất của yêu cầu từ CIA”. Cuối cùng Lansdale yêu cầu “phải có biện pháp sửa đổi hoặc thu gọn những hướng dẫn thực hiện mà Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đă ban hành cho phù hợp với ư kiến trên”14.
    Trên thực tế, Lansdale muốn Hội đồng tham mưu trưởng liên quân công khai vứt bỏ bản phúc tŕnh ngày 29-7 lên McNamara và tuân thủ theo hướng dẫn nêu trong công văn tháng Chín của Lansdale. Khi năm 1961 dần kết thúc, Lansdale đang ở thế thượng phong.
    ____________________ ___________________
    1. Currey “Edward Lansdale: Một người Mỹ không trầm lặng”, tr. 227.
    2. William Ledever và Engene Burdik, “Người Mỹ xấu xí”, (New Yook: Norton, 1958).
    3. Currey “Edward Lansdale: “Một người Mỹ không trầm lặng, tr. 228.
    4. Trích trong công văn, sách đă dẫn, tr. 229.
    5, 6, 7. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7/1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 49.
    8, 9, 10, 11, 12. (Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” ( tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 50, 51.
    13, 14. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 50, 54-55.
    Hội đồng tham mưu trưởng rút ruột Lansdale
    Lansdale có thể chiến thắng ở hiệp một, nhưng Hội đồng tham mưu trưởng chưa đầu hàng v́ có quá nhiều quyền lợi sát sườn với họ. Họ lường trước việc cơn sốt chiến tranh đặc biệt từ Nhà Trắng lây lan vượt ra khỏi sự kiểm soát nếu họ không giám sát các hoạt động đó. Tuy nhiên ở thời điểm này, mặc dù sức ép chống lại Kenedy là rất lớn, các tham mưu trưởng có hành động chậm răi. Họ giống như những kẻ phá ngang và John F. Kenedy đă cho họ biết thái độ không hài ḷng của ḿnh về sự chậm chạp của họ. Trong một công thư gửi McNamara, tổng thống tuyên bố ông “không hài ḷng về Bộ Quốc pḥng nhất là Lục quân v́, không dành sự chú ư và nỗ lực cần thiết cho mối đe doạ nổi loạn và chiến tranh du kích”1.
    Đồng thời, chỉ thị 57 của Hội đồng an ninh quốc gia tác động mạnh mẽ đến Lầu Năm Góc. Bản chỉ thị quy định cụ thể “mọi hoạt động bán quân sự có quy mô lớn, bí mật một phần hoặc hoàn toàn, đ̣i hỏi phải có một số lượng đáng kể nhân viên được đào tạo về quân sự và vũ khí quân sự” sẽ là “trách nhiệm chủ yếu của Bộ Quốc pḥng với CIA giữ vai tṛ hỗ trợ”2. Cho đến khi Kenedy nhận chức, Lầu Năm Góc đă tránh mọi dính líu có quy mô lớn vào hoạt động ngầm. Thảm bại vịnh Con lợn và chỉ thị 57 làm đảo lộn tất cả. Chiến lược thoái thác và lẩn tránh không c̣n tác dụng nữa. Khi năm 1962 bắt đầu, Văn pḥng Trợ lư Bộ trưởng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động nêu trong chỉ thị 57. Các tham mưu trưởng ghét cay ghét đắng điều này. Lansdale ở ngoài ṿng kiểm soát và các nỗ lực tự tung tự tác của Lansdale đă chứng tỏ điều đó. Theo đánh giá của các tham mưu trưởng, Lansdale là một sự sai lạc lập dị. Tồi tệ hơn, các nhà vạch chính sách lại đang nghe anh ta. Để làm suy yếu xu thế phát triển này, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân sử dụng chiến lược mới: hợp tác để lôi kéo.
    Các tham mưu trưởng phản ứng bằng cách lập ra một bộ máy tổ chức nhằm tạo ra ấn tượng Lầu Năm Góc có thái độ nghiêm túc đối với chiến tranh đặc biệt, đồng thời đảm bảo các hoạt động đó được đặt dưới sự giám sát của tướng lĩnh quân đội. Trong một động thái khôn ngoan, “Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân chỉ thị thành lập Văn pḥng trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt - SACSA từ ngày 23-2-1962. Toàn bộ nhân viên và chức năng của Pḥng hành động đặc biệt thuộc Cục 5 được chuyển cho SACSA”3.
    Điều khôi hài là SACSA, như tên viết tắt được dùng tại Lầu Năm Góc, cuối cùng lại giữ vai tṛ hỗ trợ cho SOG ở cấp Washington. Mặc dù lư do để tạo ra SACSA là nhằm làm chậm chứ không phải ủng hộ hoặc thúc đẩy chính sách chiến tranh đặc biệt của chính quyền Kenedy.
    Cơ quan mới này có hai nhiệm vụ: Ngăn ngừa các hoạt động tương tự như chiến dịch Cu Ba của CIA và làm suy yếu vai tṛ của Lansdale như là chuyên gia hàng đầu của Lầu Năm Góc về chống bạo loạn và chiến tranh không quy ước. Để lănh đạo cơ quan mới, với sự phê chuẩn của Nhà Trắng, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đă chọn thiếu tướng thuỷ quân lục chiến Victor Krulak. Sau này, Krulak trở thành “người thông thạo việc hành chính nhất của quân đội” và “một nhân vật có tầm quan trọng to lớn trong cuộc tranh căi thường xuyên về Việt Nam”4. Nh́n lại giai đoạn 1962 - 1964, người ta chỉ c̣n biết thán phục sự tham gia của vị tướng hai sao này vào chính sách Việt Nam ở cấp cao. Vai tṛ của ông vượt xa phạm vi của một viên thiếu tướng và minh chứng cho sự nhạy bén chính trị của Krulak.
    Vào thời điểm đó, Krulak có quan điểm theo trường phái chính thống về Việt Nam và không phải là người cổ động cho chiến tranh đặc biệt mà Lansdale đang thúc đẩy. Từ 1962 - 1964, Krulak liên minh với chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, tướng Maxwell Taylor và người được Taylor che chở ở Nam Việt Nam, tướng Harkin tư lệnh MACV. Trong cuốn “Những người xuất sắc và thông minh nhất”, David Halberstam viết rằng “những ǵ mà ông ta (Krulak) đă làm chính là việc giữ vai tṛ là người đưa tin giữa Sài G̣n và Lầu Năm Góc và đại diện cho quân đội trong các cuộc họp liên ngành, tại đó nhiệm vụ đặc biệt của ông là xoá bỏ mọi thái độ bi quan về chiến tranh”5. Bức thông điệp của Harkin, đồng thời cũng là của Taylor, là Hoa Kỳ đang giành thắng lợi trong chiến tranh. Krulak bảo vệ lập trường này trong các cuộc chiến tranh luận với các cơ quan khác về Việt Nam.
    Krulak c̣n leo lên vị trí là người thân cận của chính quyền Kenedy bằng cách sử dụng con bài đă từng chiến đấu trong chiến tranh thế giới thứ hai với Kenedy. Sau khi tái giới thiệu ḿnh với Tổng thống, Krulak có quan hệ bạn bè với em trai tổng thống Bob Kenedy và cố vấn quân sự của họ, tướng Maxwell Taylor. Krulak c̣n giành được tín nhiệm của Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara, người hay nhắc đến quan hệ đặc biệt của Krulak với tổng thống.
    V́ những lư do này, Krulak được chọn là trợ lư đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt. Việc lựa chọn này không dựa trên quá tŕnh công tác và kinh nghiệm hoạt động trong chiến tranh đặc biệt mà Krulak chưa hề trải qua. Là SACSA, Krulak là người giữ cổng mà Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cần đến. Trong lĩnh vực chống bạo loạn, ông bác bỏ sự chỉ trích của các sĩ quan Mỹ trên chiến trường, những người ủng hộ việc sử dụng giải pháp chống bạo loạn cho cuộc chiến tranh. Thay vào đó, Krulak đi theo chính sách của Taylor và Harkin năm 1962 rằng Hoa Kỳ đang thành công v́ đă tuân theo các biện pháp chiến tranh thông thường6.
    Krulak bất đồng mạnh mẽ với Lansdale về hành động đặc biệt và hoạt động ngầm và đóng vai tṛ chủ yếu trong việc xoá bỏ Văn pḥng Trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng cũng như việc nghỉ hưu sớm của Lansdale, người làm cho tổng thống Kenedy nhớ lại h́nh ảnh của nhân vật Jame Bone trong tiểu thuyết của Ian Fleming. Tuy nhiên cần ghi nhận rằng chính Lansdale cũng góp phần vào việc tự huỷ hoại ḿnh. Cách Lansdale khăng khăng buộc Hội đồng tham mưu trưởng phục tùng ư chí của ḿnh là một ví dụ. Dần dần McNamara, Gilpatric và những người khác coi Lansdale là người thích được chú ư, một con sói đơn độc, và là người tự huyễn hoặc ḿnh. Quan điểm của Lansdale, vốn trái với chính sách của chính quyền, cũng góp phần vào kết cục cuối cùng của ông.
    V́ vậy, ảnh hưởng của Lansdale đối với chính sách Việt Nam giảm đi trông thấy. Một trong những sai lầm lớn nhất của Lansdale là căi cọ với Macxwell Taylor. Vào mùa thu 1961, Lansdale được cử tham gia một đoàn t́m hiểu thực tế tại Nam Việt Nam do Taylor, cố vấn quân sự của tổng thống làm trưởng đoàn. Taylor coi đó là chuyến thăm của ḿnh, c̣n Lansdale cho rằng ḿnh đă quay trở lại với giới vạch chính sách về Việt Nam. Tại cuộc họp chuẩn bị cho chuyến đi 13-10, Lansdale nhận được một lời nhắc nhở thô lỗ.
    Tại cuộc họp, Lansdale đưa cho Taylor một danh sách những người Việt Nam, trong đó có tổng thống Diệm, mà Lansdale có quan hệ cá nhân và dự định qua họ để t́m hiểu những ǵ đang diễn ra. Taylor không đồng ư và cho biết mọi hoạt động của Lansdale ở Nam Việt Nam sẽ bị kiểm soát và không được phép gặp người bạn cũ - tổng thống Diệm. Ngược lại, Lansdale được giao nhiệm vụ xem xét khả năng lập một hàng rào điện tử dọc biên giới Nam Việt Nam để ngăn chặn sự xâm nhập của đối phương, một ư tưởng mà Lansdale coi là ngu xuẩn.
    Lansdale tŕnh bày với Taylor rằng ḿnh có thể phục vụ cho nhiệm vụ chung của đoàn tốt nhất bằng việc gặp gỡ với Diệm và một số người Việt Nam có ảnh hưởng khác mà ông biết từ chuyến thăm trước. Taylor phớt lờ. Khi đến Sài G̣n, Lansdale được thư kư riêng của Diệm lặng lẽ đưa đến dinh tổng thống dự cơm tối. Trong thời gian c̣n lại của chuyến thăm, Lansdale tiếp xúc với rất nhiều người trong bản danh sách đă đưa cho Taylor và bỏ mặc vấn đề hàng rào điện tử. Đó là kiểu hoạt động của con sói đơn độc mang đậm dấu ấn tính cách của Lansdale.
    Những việc làm trên đến tai Taylor, người sau đó lại khoác lên ḿnh bộ quân phục và giữ chức Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân, và đó là tất cả những ǵ Taylor cần biết. Trong Lầu Năm Góc, Taylor giữ vai tṛ chính trong việc chuyển Lansdale ra khỏi mảng chính sách Việt Nam và chuyển sang lĩnh vực hoạt động tại Cu Ba. Tại đây con người sắc sảo về hoạt động ngầm của Lầu Năm Góc được giao chỉ đạo “Chiến dịch Mongoose” - mật danh được Bob Kenedy đặt cho các hoạt động tiếp tục lật đổ Fidel Castro. Mongoose chiếm mất rất nhiều thời gian của Lansdale trong khi quyền hạn của SACSA liên tục mở rộng sang nhiều khía cạnh của chiến tranh đặc biệt mà trước đó được giao cho văn pḥng của ông. Dĩ nhiên là Lầu Năm Góc rất vui sướng.
    Ví dụ, chính SACSA và Krulak là người tham gia vào việc soạn thảo Kế hoạch 34A dẫn đến việc h́nh thành SOG chứ không phải Lansdale. Hồi tưởng lại sự thất sủng của Lansdale, Krulak phác hoạ bức tranh về sự suy giảm uy tín của Lansdale trong chính quyền Kenedy: “Một số người đánh giá cao anh ta, số khác lại có ư kiến ngược lại. Anh ta giỏi lợi dụng những người đánh giá cao ḿnh. Tôi không được biết McNamara cảm nhận về Lansdale như thế nào. Nếu cho tôi phỏng đoán, th́ tôi nghĩ ông ấy trở nên nghi ngờ”. Krulak nhận xét: “đúng là trong thời gian đầu, Lansdale giành được tín nhiệm của chính quyền nhưng tín nhiệm đó không kéo dài. Tôi không nghĩ là giám đốc CIA tin tưởng vào Lansdale. Tôi nghe ông ta nói như vậy ở trên sân gôn”7.
    Trong chuyến thăm tháng 5-1963 đến nhiều nước Mỹ Latinh, Lansdale bị giáng cú đ̣n cuối cùng. Lầu Năm Góc đă ra quyết định để ông nghỉ hưu. Lansdale chưa bao giờ nghĩ đến điều này và trước đó cũng không đề xuất xin nghỉ. Vào thời điểm quay về Mỹ ngày 1-6-1963, Lansdale không c̣n là một quân nhân nữa. Ngày 31-10, Lansdale được gọi trở lại làm việc tạm thời để kết thúc các công việc c̣n dang dở8.
    Giới quân sự chính thống đă loại ra ngoài một trong những người có hiểu biết nhất về hoạt động đặc biệt với một thái độ cực kỳ ác cảm. Kể từ đó, SACSA chủ tŕ mọi công việc của văn pḥng Lansdale. Trong công thư gửi Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân 30-9-1963, Thứ trưởng Quốc pḥng Gilpatric, một thời ủng hộ Lansdale, chính thức giao mọi nhiệm vụ của Trợ lư Bộ trưởng Quốc pḥng cho SACSA. Đặc biệt là SACSA sẽ “chịu trách nhiệm tham mưu cho việc vạch kế hoạch và chỉ đạo ở cấp Washington về các hoạt động đặc biệt mà Bộ Quốc pḥng tham gia”. Ngoài ra, SACSA c̣n là người “Cung cấp trợ giúp tham mưu... trực tiếp cho Bộ trưởng Quốc pḥng và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân về các trách nhiệm của họ trong Uỷ ban 5412”9. Các tướng lĩnh đă thua một hoặc hai hiệp, nhưng cuối cùng đă hạ đo ván Lansdale.
    ____________________ _________________
    1. Trích theo Krepinevich, trong “Lục quân và Việt Nam”, tr. 31.
    2. Các chỉ thị của Tổng thống về an ninh quốc gia từ Truman đến Clinton” NSDINDEX, hồ sơ số 185.
    3. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của MACV SOG” (tháng 7-1970), phụ lục A, phần “Tóm tắt nghiên cứu tài liệu của MACV”, tr. 49.
    4. Olson, “Từ điển về chiến tranh Việt Nam”, tr. 244.
    5. Halberslam, “Những người xuất sắc và thông minh nhất”, tr. 276.
    6. Có lẽ ví dụ tốt nhất về việc này là câu chuyện của John Paul Vann và kinh nghiệm của ông với Krulak. Xem Sheehan, “Lời nói dối tỏa sáng , quyển bốn.
    7. Phỏng vấn tướng Victor Krulak, tr.1, 2.
    8. Currey, “Edward Lansdale: Người Mỹ không trầm lặng”, tr. 255.
    9. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 56.
    SACSA VÀ SOG
    Khi Kế hoạch 34A đang được soạn thảo năm 1963, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân giao nhiệm vụ giám sát kế hoạch này cho SACSA và Krulak. Sau khi SOG được thành lập SACSA giám sát mọi hoạt động của SOG từ 1964 đến 1972. Nhân viên của SACSA đă phải chạy, theo đúng nghĩa đen của từ này, để đưa các đề nghị hoạt động của SOG qua các cấp chỉ huy đến tận Nhà Trắng. Theo ngôn ngữ của Lầu Năm Góc, thủ tục phê duyệt này được gọi là "ống khói ḷ sưởi". Các cấp trung gian hành chính thông thường bị bỏ qua để đảm bảo bí mật cho các hoạt động của SOG và sự kiểm soát chặt chẽ của giới chỉ huy quân sự.
    Krulak trực tiếp tham gia vào những diễn biến này ngay từ ngày đầu và vào cuối năm 1963 tham gia cuộc họp của Uỷ ban 5412 quyết định phê chuẩn Kế hoạch 34A. Krulak nhớ lại "Boby Kenedy là người có cá tính mạnh mẽ và ảnh hưởng rất lớn đến 34A. Ngoài ra, c̣n có ảnh hưởng của Thứ trưởng Quốc pḥng Gilpatric". Thế McGeorge Bundy th́ sao? Krulak cho rằng Bundy có sự quan tâm "mạnh mẽ" đối với 34A và nói thêm một cách đầy ẩn ư là Bundy "không bao giờ để cho sự kém cỏi làm rối vấn đề"1. Như Krulak chỉ ra, quyết định leo thang chiến tranh bí mật chống Hà Nội khởi nguồn từ anh em Kenedy. Họ muốn làm suy yếu miền Bắc tương tự như cách Hà Nội đang thúc đẩy hoạt động du kích chống lại chính phủ Nam Việt Nam. Tổng thống Kenedy thể hiện quan điểm này tại cuộc họp của Hội đồng an ninh Quốc gia chỉ vài ngày sau khi bước vào Nhà Trắng. Krulak nhớ lại "Body cũng nói như vậy tại Uỷ ban 5412"2.
    Khi hồi tưởng lại, Krulak phê phán sự say mê leo thang hoạt động ngầm chống Hà Nội của các nhà vạch chính sách cấp cao. Ông cho rằng họ không hiểu biết mấy về tác động có liên quan. "Càng xa rời thực tiễn bao nhiêu, họ càng nhiệt t́nh bấy nhiêu”, Krulak nhận xét và nói tiếp "Halberstam viết một cuốn sách trong đó những người mà chúng ta vừa nhắc đến được gọi là xuất sắc và thông minh nhất. Nhưng chẳng ai trong họ được như vậy"3.
    Là người đầu tiên phụ trách SACSA, Krulak có nhiệm vụ thành lập tổ chức này. Vào thời điểm Kế hoạch 34A được hoàn chỉnh vào cuối 1963, SACSA có bốn pḥng: kế hoạch, học thuyết và nguồn lực; chương tŕnh và giám sát; kế hoạch đặc biệt; và hoạt động đặc biệt. Mặc dù có nhiều sự thay đổi về tổ chức, pḥng hoạt động đặc biệt được giữ nguyên và đó là nơi chịu trách nhiệm về SOG.
    Giám sát SOG
    SACSA quản lư quá tŕnh phê duyệt và thực hiện tất cả các đề xuất hoạt động của SOG. SACSA chỉ thông báo hoạt động của SOG cho một số ít quan chức dân sự và quân sự cao cấp ở Lầu Năm Góc. Theo lời của Krulak, "ư tưởng ở đây là chúng tôi chỉ cho một số ít người biết"4. Mô h́nh "ống khói ḷ sưởi" "không theo phong cách quản lư của quân đội nhưng đó là theo ư muốn của McNamara. Và Maxwell Taylor cũng muốn như vậy"5.
    Tuân thủ theo yêu cầu này, số sĩ quan hành động của pḥng hoạt động đặc biệt - SACSA - chính xác là 3 người, là những người duy nhất xử lư công việc hàng ngày của SOG. Các điệp vụ của SOG nhạy cảm đến mức họ phải.làm việc trong "hầm" kín tại tầng hầm của Lầu Năm Góc6. Họ phải kư vào bản tuyên thệ không được để lộ bất cứ một thông tin nào về những việc họ đang làm cho bất kỳ ai không cần biết về hoạt động đó.
    Một sĩ quan lục quân công tác tại Pḥng hoạt động đặc biệt mô tả môi trường làm việc như sau: "SACSA và nhất là Pḥng hoạt động đặc biệt làm việc khép kín trong bộ phận. Bạn thật sự không biết những ǵ đang diễn ra ở buồng bên cạnh... Bạn chỉ biết những ǵ đang xảy ra trong phạm vi nhỏ bé của chính bạn. Và bộ phận chúng tôi có lẽ là bí mật nhất và khép kín hơn bất cứ ai ở SACSA"7. Đó là công việc của những bóng ma.
    Trong hai năm 1964 - 1965, ba sĩ quan hành động là: chỉ huy trưởng William Murray, trung tá Harold Bentz và trung tá John Van Dyn. Công việc cho phép họ có mối quan hệ trực tiếp với Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, tướng Wheeler, Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara; Bộ trưởng Ngoại giao Dan Rusk; Cố vấn an ninh quốc gia Bundy và các viên phó của họ. Đối với sĩ quan có cấp hàm như các sĩ quan hành động, việc giao tiếp và báo cáo trực tiếp cho các quan chức cấp cao của chính phủ Mỹ là rất khác thường, đồng thời giúp họ có sự hiểu biết rộng răi về một trong những sáng kiến chính sách bí mật nhất của chính quyền Johnson.
    Bill Murray đến nhận nhiệm vụ tại SACSA tháng 6-1964 và trong suốt hai năm sau đó là trung tâm của mọi vấn đề liên quan tới SOG ở Washington. Murray chưa từng trải qua hoạt động ngẩm đặc biệt. Tất cả các công vụ Murray thực hiện đều ở trên tàu nổi. Tuy nhiên, trước đó, khi làm việc tại trung tâm nghiên cứu hải quân, Murray phụ trách "việc phát triển các thiết bị bơi ngầm dưới nước và các thiết bị điện tử sử dụng trong hoạt động ngầm"8. Có lẽ, điều đó đủ để Murray được chuyển tới SACSA.
    Điều hành công việc của SOG là một vị trí đặc biệt đối với một sĩ quan hải quân. Murray nhớ lại “chúng tôi không liên quan ǵ tới Cục 1, 3, 5 Của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân nơi xem xét các đề nghị hoạt động thông thường. Chúng tôi không theo cách đó. Các hoạt động của SOG không bao giờ thông qua bất kỳ ai ở Hội đồng tham mưu trưởng liên quân ngoài SACSA và từ đó trực tiếp đến văn pḥng của Chủ tịch Hội đồng”. Từ đó, theo Murray các đề nghị hoạt động được đưa trực tiếp đến Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara9.
    Các thủ tục của quá tŕnh phê duyệt được Thứ trưởng Quốc pḥng Cyrus Vance đề ra trong công thư ngày 30-9-1964 có sơ đồ kèm theo10. Sơ đồ này phản ánh tŕnh tự phê duyệt cho các hoạt động ngầm trên biển nhưng dần được áp dụng cho cả bốn bộ phận nghiệp vụ của SOG (Sơ đồ 3, trang 284). Tuy nhiên, sơ đồ chưa hoàn toàn chính xác. Ví dụ CIA chỉ trở thành một phần của quá tŕnh phê duyệt vào cuối 1965 khi SOG bắt đầu thực hiện điệp vụ chống đường ṃn Hồ Chí Minh tại Lào. CIA không tham gia vào tiến tŕnh phê duyệt hoạt động của các bộ phận nghiệp vụ khác của SOG.
    Không thể hiểu được sự vận hành của tiến tŕnh phê duyệt này nếu chỉ nh́n vào sơ đồ và biểu bảng, mà cần phải qua con mắt của các sĩ quan hành động, những người quản trị các vấn đề của SOG. Bill Murray nhớ lại, mọi đề nghị cho phép thực hiện “cả gói” điệp vụ của SOG “thường đi qua một hệ thống mật mă riêng đến thẳng SACSA”. SACSA sẽ thể hiện đề nghị đó “theo mẫu thông thường của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và gửi cho một số lượng hạn chế các quan chức... tất cả công việc này được hoàn thành trong một thời gian ngắn khó tin nếu so với thủ tục thông thường của Hội đồng tham mưu trung liên quân”. V́ vậy, khi thiếu tướng Ronald Anthis, người thay thế Krulak ở SACSA, duyệt kư tờ tŕnh do Pḥng hoạt động soạn thảo, tờ tŕnh đó được gửi trực tiếp lên Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, tướng Wheeler.
    Sau khi xem xét tờ tŕnh, Wheeler có thể kư duyệt ngay hoặc trao đổi với các tham mưu trưởng trước khi kư. Không rơ lư do tại sao Wheeler mặc dù có thể kư duyệt ngay nhưng lại chuyển cho các tham mưu trưởng xem xét.
    Khi Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân kư duyệt, sĩ quan hành động của SACSA trực tiếp mang tờ tŕnh lên cho Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara hoặc Thứ trưởng Quốc pḥng Cyrus Vance. Trong năm 1964, phần lớn đề nghị của SOG được tŕnh lên McNamara, và “thông thường ông kư duyệt ngay”11. Murray nhớ lại lúc bấy giờ McNamara c̣n hăng hái đối với SOG và không khi nào gây cản trở. Hồi tưởng những diễn biến của giai đoạn này, Murray cảm thấy McNamara cần kiềm chế hơn trong việc thúc đẩy hoạt động ngầm. Bản thân Murray cũng có nghi ngờ về SOG. “Những người được cử đến SOG lấy từ lực lượng đặc biệt nh́n chung là kỷ luật kém... họ là những người tin rằng chỉ cần một số ít đơn vị mũ nồi xanh là có thể chiếm đóng cả khu vực Đông Nam Á”. Murray thấy lạ lùng là “trong một thời gian dài, McNamara cũng tin vào điều này”12.
    Cuối năm 1964, McNamara tỏ ra đă giảm bớt nhiệt t́nh đối với hoạt động ngầm và được thay thế bằng Vance trong quy tŕnh phê duyệt - như thể hiện trong sơ đồ. Là đại diện của Bộ quốc pḥng tại Uỷ ban 303 (Uỷ ban 5412 trước đây) Vance phải xử lư các vấn đề liên quan tới SOG ở đó. Vance có nhiệt t́nh đối với hoạt động ngầm chống lại miền Bắc như sếp của ḿnh không? Murray không nghĩ như vậy: “không, Vance thường khó chịu về hoạt động đó... họ có làm được không? Có an toàn không? Chúng ta có đưa họ về được không? Điều ǵ xảy ra nếu họ bị bắt? Ông ấy rất lo lắng về sự an toàn về con người”13. Tuy nhiên, Vance ít khi ngăn cản đề nghị của SOG.
    Sau khi có sự phê duyệt của Lầu Năm Gốc, chặng dừng chân thứ hai của sĩ quan hành động năm 1964 là Nhà Trắng chứ không phải CIA. Ngay sau khi McNamara hoặc Vance kư vào tờ tŕnh, Murray “lên xe chờ sẵn ở cửa ra vào và đi qua sông Potomac sang Bộ Ngoại giao” và tŕnh bản đề nghị lên cho Ngoại trưởng Rusk. Ông nhớ lại một lần “khi Ngoại trưởng Rusk đang rời văn pḥng đến dự một hoạt động chính thức, tôi đuổi theo ông ta dọc hành lang. Tầm quan trọng của các điệp vụ này được thể hiện qua sự thật là Rusk dừng lại, xem xét những ǵ tôi mang theo và chúng tôi cùng vào một nơi thuận tiện để Rusk đọc và kư duyệt”14.
    Khi Rusk đă bổ sung thêm chữ kư của ḿnh, Murray quay lại xe tô v́ chặng dừng chân tiếp theo là văn pḥng của McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia. Nói chung Murray trực tiếp tŕnh đề nghị cho Bundy, sau đó Bundy thường hỏi một vài câu đơn giản, đọc bản đề nghị và kư duyệt”. Tuy nhiên, mọi việc đến đây chưa hẳn đă xong. Trong nhiều trường hợp, Bundy nói với Murray hoặc sĩ quan hành động khác: “Anh hăy quay về văn pḥng và khi lấy được ư kiến phê duyệt ở tầng trên, tôi sẽ gọi anh. Những chữ kư này chưa đủ để cho phép hành động cho đến khi nhận được điện thoại của tôi, điện thoại của tôi anh nghe rơ chưa?”15.
    Murray quay về văn pḥng và chờ tiếng chuông điện thoại. Khi được hỏi Bundy có đưa các đề nghị của SOG ra trong cuộc họp của Uỷ ban 303 hay không, Murray trả lời: “ồ không, bản đề nghị được tŕnh lên cho tổng thống Johnson xem xét”16. Với những ǵ đă biết về sự quản lư vi mô cuộc chiến tranh của Johnson, việc tổng thống đích thân phê duyệt đề nghị của SOG là điều dễ hiểu. Chỉ đến khi đó, sĩ quan hành động “đưa bức điện đến trung tâm thông tin và điện khẩn sang cho SOG”17.
    Việc quản lư vi mô c̣n được thể hiện trong tờ tŕnh của Micheal Forrestal, nhân viên hội đồng an ninh quốc gia lên Ngoại trưởng Rusk ngày 8-8-1964 về việc nối lại hoạt động theo Kế hoạch 34A sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ... Trong tờ tŕnh, Forrestal đề cập đến việc phê chuẩn hai điệp vụ cụ thể - việc tấn công vào trạm ra đa Vĩnh Sơn và một vụ tập kích ban đêm. Forrestal giải thích: hai điệp vụ chiến thuật nhỏ này đă được người đứng đầu cơ quan hành pháp phê duyệt “tôi cùng với Cyrus Vance và McBundy đă kiểm tra. Cả hai cho tôi biết hai điệp vụ này đă được Nhà Trắng phê duyệt vào ngày chủ nhật trước, ngày 2-8”.
    ____________________ ___________________
    1, 2. Phỏng vấn tướng Victor Krulak, tr. 3, 19.
    3, 4, 5. Phỏng vấn tướng Victor Krulak, tr. 10,11,14,18.
    6. Bản nhận xét đại úy William Murray đưa cho tác giả trong khi phỏng vấn tại nhà riêng (13-10-1967).
    7. Phỏng vấn trung tá Harold Bentz qua điện thoại (16-10-1997), tr.3.
    8, 12, 14, 15, 17. Bản nhận xét của đại úy William Murray.
    9. Phỏng vấn đại úy Murray, tr.7.
    10. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 280-281.
    11. Phỏng vấn đại úy William Murray.
    13. Phỏng vấn đại úy William Murray, tr.10, 26.
    16. Phỏng vấn đại úy William Murray, tr. 17
    Qua con mắt của sĩ quan hành động
    Hội đồng tham mưu trưởng liên quân thành lập SACSA để làm nhiệm vụ kiểm tra chặt chẽ những người tham gia vào các hoạt động ngầm do Lầu Năm Góc bảo trợ. Đó là chủ trương của giới lănh đạo quân đội, đại tá Albert Brownfield, phó chỉ huy SACSA trong hai năm từ 1964 đă cho biết như vậy.
    Trong nhiệm kỳ của ḿnh, Brownfield thường xuyên tiếp xúc với tướng Wheeler, vị Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng này muốn có sự kiểm soát và theo Brownfield, “chúng tôi ngày nào cũng có mặt tại văn pḥng Chủ tịch... ông ấy muốn biết những ǵ đang diễn ra... tôi có thể nói rằng khoảng 70% thời gian ở đó là báo cáo về những ǵ đă xảy ra và xem xét hoạt động của SOG... Nếu có điều ǵ mới mà trước đó chưa thực hiện, ông ấy muốn sớm có quyết định”. Brownfield không nhớ Wheeler có chuyển đề nghị hành động của SOG cho các tham mưu trưởng không. “Tôi không nhớ có trường hợp nào ông ấy yêu cầu có thêm thời gian để có thể trao đổi với ai đó. Tôi cho rằng Hội đồng tham mưu trưởng đă uỷ quyền cho ông toàn quyền xem xét hoạt động của SOG”1.
    Trong khi Hội đồng tham mưu trưởng liên quân muốn SACSA là người giám sát, đối với rất nhiều người công tác tại pḥng hoạt động đặc biệt của SACSA, SOG trở thành sự say mê nghề nghiệp. Ba sếp sau Krulak, thiếu tướng Anthis, William Peers, và Wilham Depuy đều ủng hộ hoạt động của SOG. Đối với Peers đây là sự kế tiếp kinh nghiệm từ thời OSS. Peers đă từng tổ chức người thiểu số ở Miến Điện thành một lực lượng du kích lớn làm đau đầu quân Nhật. Murray khái quát Peers là “một trong những nhân viên hoạt động xịn... Peers nắm vững những ǵ có thể làm được”2.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc chiến bí mật chống Hà Nội
    Richard H.Shultz, Jr
    P29


    Mùa xuân 1967, Depuy thay thế Peers. Trước khi nhận công việc mới, Depuy chỉ huy trung đoàn bộ binh số 1 ở Việt Nam. Đầu những năm 1960, Depuy là giám đốc chiến tranh đặc biệt tại Văn pḥng Phó tham mưu trưởng lục quân về hoạt động và kế hoạch. Đầu tiên, Depuy ủng hộ SOG nhưng sau đó, theo một sĩ quan hành động dưới quyền, “ông ấy thay đổi, quay ra chống lại SOG”3.
    Depuy có quan hệ đặc biệt với Wheeler và tự gọi ḿnh là “Trợ lư cho Chủ tịch hội đồng về Việt Nam”4 với “trách nhiệm rộng lớn hơn việc chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt”. Trong cuộc phỏng vấn 1988, Depuy nói “tôi trở thành trợ lư mọi việc (cho Wheeler). Ví dụ, khi Wheeler thực hiện chuyến thăm nổi tiếng sang Việt Nam ngay sau Mậu Thân, tôi là người duy nhất của Hội đồng tham mưu trưởng đi cùng ông”5. Wheeler chưa từng ủng hộ SOG và trong năm 1968 ông có thái độ chỉ trích SOG mạnh hơn. Thái độ của Depuy cũng góp phần vào sự thay đổi trên của Wheeler.
    Trên thực tế, Anthis, Peers và Depuy (cho đến khi thay đổi thái độ năm 1968), biến đổi SACSA từ cơ quan giám sát sang cơ quan ủng hộ SOG ở trong Lầu Năm Góc. Đây chính là cách đại tá Brownfield, phó cho cả Anthis và Peers, nhận thấy vai tṛ của ḿnh: “Chúng tôi tự coi ḿnh là người cố gắng thúc đẩy bất kỳ điệp vụ ǵ mà SOG đề nghị giúp đỡ. Chúng tôi cố tháo gỡ vật ngáng đường”6.
    Đại uư Buke Dunning, sĩ quan hành động và là trưởng pḥng hoạt động của SACSA từ 1966 đến 1969, chia sẻ quan điểm với Brownfield. “Nếu là người giám sát th́ chúng tôi không phải là người giám sát dữ dằn. Chúng tôi theo dơi mọi chương tŕnh của SOG và đảm bảo chúng nằm trong thẩm quyền được phép... và không đi quá xa. Đồng thời, từ giác độ của sĩ quan hành động, phần lớn công việc của chúng tôi là hỗ trợ. Chúng tôi cố gắng bảo vệ SOG và các chương tŕnh hoạt động v́ chúng tôi tin vào chúng”7.
    Mặc dù những sĩ quan hành động trở thành người ủng hộ SOG, họ không gặp thái độ hỗ trợ tương ứng của giới lănh đạo Lầu Năm Góc. Thông qua kinh nghiệm và tiếp xúc trực tiếp, họ cho biết giới lănh đạo quân đội duy tŕ hoạt động ngầm của SOG chủ yếu là do sức ép từ Nhà Trắng v́ họ nghi ngờ về khả năng đóng góp của những hoạt động đó vào cuộc chiến tranh. Đó là t́nh h́nh mà trung tá Robert Rheault biết được không lâu sau khi đến SACSA tháng 7-1966. Sau đó, khi đến nhận nhiệm vụ chỉ huy nhóm lực lượng đặc biệt số 5 ở Việt Nam năm 1969, Rheault trực tiếp cảm nhận sự thù nghịch thực sự trong thái độ của các sĩ quan quân đội theo ḍng chính thống đối với nhân viên đặc biệt. Rheault tốt nghiệp trường Westpoint năm 1946, sau đó rời bỏ ḍng lục quân chính thống và chuyển sang lực lượng đặc biệt vào cuối năm 1950. Rheault nhanh chóng trở thành ngôi sao đang lên và dự kiến sẽ đưa lên cấp tướng. Khi đến công tác tại SACSA, Rheault được giao nhiệm vụ quan trọng: theo dơi hoạt động qua giới tuyến chống đường ṃn Hồ Chí Minh tại Lào. Rheault nhớ lại: “ở đó chức năng của tôi là làm việc trực tiếp với Peers và Depuy... tôi điều hành chiến dịch Shining Brass và tôi trực tiếp làm việc với họ... tôi tiếp nhận đề nghị hành động từ SOG... sau đó thông qua Peers và Depuy. Rồi tôi liên hệ với các binh chủng, thường là gặp ở cấp chuẩn tướng để họ đồng ư”8.
    Lư do của sự thay đổi trong tiến tŕnh phê duyệt này là các đề nghị của OP35 được tŕnh xin “phê duyệt ở trong hầm”- pḥng bảo mật của Lầu Năm Góc nơi các tham mưu trưởng trao đổi công việc. Theo Rheault, “thường th́ một trung tá không được trực tiếp mang ǵ đến đó mà phải thông qua sĩ quan cao cấp hơn. Nhưng để đẩy nhanh việc xử lư đề nghị của OP35, tôi thường trực tiếp mang đề nghị tới hầm. Các tham mưu trưởng xem qua rất nhanh, hỏi một vài câu và sau đó cho ư kiến đồng ư”. Chủ tịch hội đồng cũng cho ư kiến nhất trí9.
    Sau đó Rheault đưa đề nghị đến văn pḥng của Vance. “Vance là người lịch lăm. Ông thường chấp thuận. Sau đó tôi mang đến cho Colby... ông ta là người tốt và không bao giờ bác bỏ đề nghị”. Xong tôi đến “Bộ Ngoại giao và đó là nơi hay gặp rắc rối”. Rheault nhận thấy các nhà địa chiến lược ở Bộ Ngoại giao hay phản bác đề nghị của SOG. “Đó là nơi tiến tŕnh bị cắt ngang v́ có sự bất đồng giữa Bộ Quốc pḥng - nơi Thứ trưởng Vance và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đă đồng ư - với Bộ Ngoại giao - người trả lời: không”. Nếu điều đó xảy ra, Rheault cho biết: “Chúng tôi phải quay về, báo cáo cho Peers và Depuy và sau đó là Hội đồng tham mưu trưởng để xem họ có cách ǵ không”10. Sự bất đồng này đôi khi biến thành cuộc căi vă thật sự và Bộ Ngoại giao thường thắng nhiều hơn thua.
    Trong các chuyến đi đến căn hầm, Rheault không nhận thấy bất kỳ sự nhiệt t́nh nào của các tham mưu trưởng đối với SOG. Khi được hỏi Hội đồng tham mưu trưởng liên quân có coi SOG là một phần giá trị của hoạt động chiến tranh không, Rheault trả lời: “Tôi nghĩ là không... những người thuộc giới quân sự chính thống đang ở vị trí kiểm soát ở Washington và họ phản đối lực lượng đặc biệt... Tôi nghĩ do có quan hệ đặc biệt với Wheeler, Depuy có thể tranh thủ được sự hỗ trợ cho các hoạt động không quy ước của SOG. Nhưng tôi không nghĩ rằng Hội đồng tham mưu trưởng, với tư cách là một nhóm người, tin tưởng vào khả năng tác động đến chiến tranh của SOG”. Thái độ của các tham mưu trưởng là “hăy để SOG hoạt động nhưng phải kiểm soát nó”.
    Theo Rheault và các sĩ quan hành động khác, hoạt động duy nhất mà các tham mưu trưởng quan tâm là của OP35. Tại sao vậy? Theo Rheault “v́ với tư cách là sĩ quan quân đội họ thấy được tầm quan trọng của việc có người đi tuần tra, thu thập thông tin và có thể tiến hành một số hoạt động ngăn chặn. C̣n giới không quân sẽ vui hơn nếu có người chỉ điểm mục tiêu không kích chứ không phải thả bom xuống rừng rậm”. Tuy nhiên, ngay cả với hoạt động này, các tham mưu trưởng cũng muốn có sự kiểm soát chặt chẽ.”. Cách diễn ra trên thực tế là mỗi tham mưu trưởng giao cho một người xem xét từng đề nghị một cách kỹ lưỡng. Hay nói một cách khác, ở mọi quân chủng có một thiếu tướng cân nhắc đề nghị do tôi thảo ra trên cơ sở các thông tin từ SOG”11.
    Sau hai năm ở SACSA, Rheault được phong lên đại tá và cử sang chỉ huy Nhóm lực lượng đặc biệt số một ở Okinawa. Nhiệm vụ tiếp theo là chỉ huy đơn vị đặc biệt quan trọng nhất lúc bấy giờ, Nhóm lực lượng đặc biệt số năm ở Nam Việt Nam. Tại đây, Rheault biết được tướng Abram thực sự nghĩ ǵ về nhân viên đặc biệt.
    Một trong những hoạt động của Nhóm lực lượng đặc biệt số năm lúc đó là Đề án Gamma nhằm thu tin t́nh báo bí mật về quân đội miền Bắc và Việt Cộng ở Campuchia. Các toán điệp viên gồm những người địa phương được đưa qua biên giới. Đầu năm 1969, những người phụ trách Gamma nhận thấy một số lượng đáng kể các điệp vụ bị vô hiệu hoá và điệp viên không trở về. Chẳng phải mất nhiều thời gian lắm để suy ra là có gián điệp nằm trong đề án. Mùa xuân 1969, một số tài liệu tuyệt mật của đối phương thu giữ được cho thấy có một điệp viên như vậy. Thông tin này cộng với việc rà soát lại các hoạt động bị vô hiệu hoá đă giúp xác định được đối tượng đó. Anh ta bị bắt và đưa đi kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối.
    Rheault phân vân chưa biết xử lư điệp viên đó như thế nào. Trung tâm CIA gợi ư nên thủ tiêu12. Đó cũng không phải ư kiến đặc biệt ǵ v́ trong thời chiến, gián điệp thường bị bắn chết. Điệp viên đó bị bắn và ném xác xuống Vịnh Nha Trang. Một câu chuyện ngụy trang được dựng lên để giải thích cho sự biến mất của người đó. Tuy nhiên, khi biết chuyện, tướng Abrram rất giận dữ. Sự vụ này khẳng định thêm định kiến của ông về lực lượng đặc biệt là nhóm người bất cẩn. Ông ra lệnh bắt giữ Rheault và một số sĩ quan chỉ huy khác của Nhóm lực lượng đặc biệt số năm và sau khi kết thúc điều tra, buộc tội họ đă giết một công dân Việt Nam không xét xử. Sự kiện này xuất hiện trên trang nhất của các phương tiện thông tin đại chúng của Mỹ và thế giới vào lúc đó.
    Và một sự trùng hợp ngẫu nhiên đặc biệt xảy ra. Ngày 25-8, một toán thám báo của OP35, vượt biên giới vào phía đông bắc Campuchia. Thật không may, họ gặp phải một đơn vị săn lùng của đối phương có sử dụng chó. Trong khi trốn chạy, toán thám báo này gặp hai sĩ quan quân đội miền Bắc thuộc đơn vị khác. Cả hai bị giết tại chỗ, trong đó có một sĩ quan cấp cao, có thể là đại tá mang theo xà cột da. Ngay sau khi chạy thoát về Việt Nam, số tài liệu thu giữ được đưa về Sài G̣n. Đó quả là “của trời cho: chiếc xà cột da chứa một phần danh sách các điệp viên và gián điệp đang hoạt động ở miền Nam. Trong danh sách có tên điệp viên bị xử bắn theo lệnh của đại tá Rheault”13.
    Ngày 29-9, Thứ trưởng lục quân Stanley Resor tuyên bố rút bỏ lời cáo buộc chống Rheault. Đối với Bob Rheault giá trị mà hoạt động của SOG mang lại là điều không thể phủ nhận. Chính hoạt động đó đă cứu thoát ông. Tuy nhiên sự kiện đó đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp quân ngũ của Rheault mặc dù đầu 1969 ông đă được chọn phong lên chuẩn tướng.
    Trong khi nỗi khổ đau của Rheault mang hơi hướng của tiểu thuyết gián điệp của Le Carré, kinh nghiệm quan hệ với giới lănh đạo quân đội trong khi c̣n làm ở SACSA của Rheault cũng giống như bất kỳ sĩ quan hành động nào trước đó như Murray chẳng hạn. Khi được hỏi trong thời gian hai năm chuyển các đề nghị của SOG lên cho các tham mưu trưởng, ông có nhận thấy thái độ nhiệt t́nh của họ không, Murray trả lời không chút ngập ngừng, “không, tôi không bao giờ thấy điều đó”. Họ cứ để mọi thứ diễn ra chừng nào họ “cảm thấy hoạt động đó không gây phiền toái cho quân đội”14.
    Trung tá George Maloney được cử đến SACSA đầu năm 1967 và ở lại đó đến cuối 1969. Maloney không chỉ gặp phải sự lănh đạm và thiếu nhiệt t́nh như Murray, Rheault và các sĩ quan hành động khác đă trải qua, mà c̣n cả thái độ thù địch rơ ràng của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, đặc biệt là Phó tổng tham mưu trưởng hoạt động -J3. “Trong phần lớn thời gian tôi ở đó, J3 là trung tướng không quân J.C. Meyer được giới thuộc quyền gọi là chúa Jêsu Meyer15. Meyer cho chúng tôi biết rơ là ông không coi trọng hoạt động của SOG. Ông nói: tôi không muốn dội nước lạnh vào công việc của bạn nhưng tôi nghĩ công việc đó chẳng mấy giá trị. Ông ta là người có quan điểm rằng không lực có thể khuất phục Hà Nội”16.
    Maloney cũng nhận thấy tướng Wheeler bắt đầu đặt ra nhiều câu hỏi hơn về giá trị của SOG. Đầu năm 1968, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân chỉ thị cho Depuy tiến hành xem xét tổng thể SOG. “Ông ấy nói với Depuy là muốn có một sĩ quan xem xét kỹ SOG từ trên xuống dưới và tôi phải mất tám tuần để làm việc đó”. Bản đánh giá tập trung vào hoạt động gián điệp - biệt kích. Trước đó Wheeler đă biết kết quả đánh giá về phản gián của chương tŕnh cũng như đánh giá tiêu cực của Bob Kingston. Bản đánh giá của Maloney cũng như vậy. Đó là tất cả những ǵ Wheeler muốn nghe. Maloney nhớ lại rằng đă xuất hiện “một sự không hài ḷng chung” với SOG17.
    Sau đó, Wheeler ra lệnh cho MACV tiến hành đánh giá về SOG. Đoàn công tác do cựu phó trợ lư của SACSA, đại tá Albert Brownfield, lúc này là trợ lư của MACV dẫn đầu. Bản báo cáo cũng rất nặng nề. Cuối cùng, ngày 7-1-1969 Wheeler và các tham mưu trưởng liên quân giao cho SACSA nhiệm vụ tiến hành cuộc đánh giá SOG kéo dài một năm. Việc đánh giá này được coi là cuộc giải phẫu tử thi của SOG, vào lúc này đang hấp hối do quyết định của chính quyền Johnson ngừng các hoạt động qua biên giới vào Bắc Việt Nam tháng 11-1968, trừ các hoạt động chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh.
    ____________________ ____________________
    1. Phỏng vấn chuẩn tướng Albert Brownfield qua điện thoại (28-10-1997), tr.2-3.
    2. Phỏng vấn đại úy William Murray, tr. 17.
    3, 4. Phỏng vấn đại úy Bruce Dunning tại Washington DC (19-9-1997), tr.20.
    5. “Thay đổi lục quân, lịch sử bằng lời của tướng William E. Depuy” (Washington DC, Trung tâm lịch sử quân sự Lục quân Hoa Kỳ, 1988), tr. 169.
    6. Phỏng vấn chuẩn tướng Albert Brownfield, tr. 11.
    7. Phỏng vấn đại úy Bruce Dunning, tr.8.
    8, 9. Phỏng vấn đại tá Robert Rheault tại Rockland, Maine (11-9-1997), tr.4.
    10. Phỏng vấn đại tá Robert Rheault tại Rockland, Maine (11-9-1997), tr.6.
    11. Phỏng vấn đại tá Robert Rheault tại Rockland, Maine (11-9-1997), tr. 13.
    12. Homer Bigort: “Công việc lính mũ nồi xanh tiến triển như thế nào”. Thời báo New York (6-10-1969).
    13. Plaster, “SOG: cuộc chiến tranh biệt kích bí mật của Mỹ tại Việt Nam”, tr. 243.
    14. Phỏng vấn đại úy William Murray, tr. 19-20.
    15. Ở đây có sự chơi chữ, J.C. đồng thời là chữ cái viết tắt của Jesus Chirst - tức chúa Jêsu - ND.
    16, 17. Phỏng vấn trung tá George Maloney tại Washington, (19-9-1997), tr.5,7-8.
    Việc giám sát liên ngành đối với hoạt động của SOG: Không có sự hỗ trợ của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân.
    Việc SOG không được cưng chiều ở cấp cao hơn SACSA là một trở ngại nghiêm trọng. SACSA thường xuyên là kẻ bại trận trong các cuộc đấu tranh liên ngành ở Washington với Bộ Ngoại giao và CIA. SACSA chỉ là cấp tướng hai sao trong Lầu Năm Góc, mảnh đất của những vị tướng bốn sao đầy quyền lực. Sau khi thiếu tướng Depuy hết nhiệm kỳ ở SACSA, cương vị này bị hạ xuống thành nơi trú chân cho cấp chuẩn tướng. Sự lănh đạm và thiếu quan tâm đối với SOG của Wheeler và các tham mưu trưởng chỉ làm tăng thêm sự bất lực của SACSA.
    Quyết định lựa chọn hoạt động nào trong Kế hoạch 34A được thực hiện đầu tiên vào 1964 minh chứng cho điều đó. Cần nhắc lại rằng bản kế hoạch ban đầu rất tham vọng và có những khuyến nghị rất nhạy cảm và táo bạo, trong đó vấn đề gây tranh căi nhất là việc phát triển phong trào chống đối trong ḷng miền Bắc.
    Những ǵ xảy ra với đề nghị này là ví dụ thấy rơ sự thiếu quan tâm và thiếu hiểu biết về chiến tranh không quy ước của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Tháng 12-1963, sau khi đồng ư với bản dự thảo Kế hoạch 34A, đô đốc Felt, Tư lệnh Bộ tư lệnh Thái B́nh Dương nêu ra hai vấn đề. Thứ nhất, nếu “Bắc Việt Nam và Trung Quốc cộng sản gia tăng chiến tranh vượt quá khả năng của Nam Việt Nam” để đối phó với 34A, liệu các tham mưu trưởng có “sẵn sàng can thiệp quân sự không?”. Thứ hai, Felt “bày tỏ sự nghi ngờ liệu các hoạt động (của Kế hoạch 34A) có tác động lâu dài hoặc nghiêm trọng đối với giới lănh đạo Hà Nội không”1. Hai vấn đề này định hướng cho việc xem xét của Lầu Năm Góc và ảnh hưởng lớn đến kết luận của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân về 34A. Trung Quốc luôn làm cho các tham mưu trưởng lo lắng về khả năng tái diễn một cuộc chiến tranh Triều Tiên. Họ đồng ư về đánh giá của Felt về tác động của 34A. Các tham mưu trưởng không tin là các hoạt động đă đạt được nhiều kết quả.
    Sau đó, ngày 19, 20-12-1963, Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara và Giám đốc CIA McCone cùng nghe báo cáo về kế hoạch và ư kiến đánh giá của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Cả hai chuyển quả bóng về cho Uỷ ban 5412 và nêu thêm câu hỏi: “Có nên tổ chức hoạt động qua biên giới từ Nam Việt Nam vào Lào không?”. Và việc gia tăng sức ép đối với miền Bắc bằng hoạt động ngầm (tức là phong trào chống đối) như trong đề xuất của dự thảo 34A nên được thực hiện đến mức nào? McNamara và McCone nêu hai vấn đề này khi báo cáo kế hoạch 34A cho tổng thống Johnson ngày 21-12. Tại cuộc họp này, Johnson giao cho McNamara và McCone nhiệm vụ thành lập “Uỷ ban liên bộ (Ngoại giao, Quốc pḥng, CIA) để chọn từ kế hoạch ra những hoạt động có tính khả thi nhất, hứa hẹn mang lại kết quả lớn nhất với rủi ro thấp nhất”2. Johnson phát ra tín hiệu cho thấy tổng thống sẽ có bước đi thận trọng trong việc sử dụng hoạt động ngầm, nhất là trong bối cảnh 1964 là năm bầu cử.
    Các yêu cầu trên của Nhà Trắng tạo ra khuôn khổ tham chiến mà hệ quả của nó là những hoạt động táo bạo, có tính chiến lược nhất của Kế hoạch 34A bị loại bỏ. Uỷ ban liên bộ do thiếu tướng Krulak làm Chủ tịch và có cả Bill Sulivan, người được Arevell Harriman bảo trợ ở Bộ Ngoại giao. Với thành phần này có thể thấy trước kết quả thảo luận của Uỷ ban, khi Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại giao đều muốn cắt bớt kế hoạch 34A.
    Việc rà soát liên bộ đă loại bỏ khỏi 34A tất cả những nội dung liên quan đến phong trào chống đối, mặc dù các nhà soạn thảo coi đó là yếu tố chủ chốt trong kết cấu chung của bản kế hoạch. Tại sao lại bị gạt bỏ? Theo thiếu tướng Krulak, chính ông đă dội nước lạnh vào ư tưởng này tại cuộc thảo luận ở Uỷ ban, v́ cảm thấy hoạt động đó “không tốt không mang lại kết quả”. Cựu Trợ lư SACSA tiếp tục “trước sau tôi không tin việc gây dựng sự chống đối trong nội bộ. Người dân phải muốn làm việc đó. Họ phải muốn làm điều đó đến độ sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm, nhất là trong xă hội như miền Bắc. Tôi không tin chúng ta có những con người như vậy ở đó”3.
    Khi được hỏi làm sao biết được điều đó, Krulak trả lời: “Tôi không biết. Dĩ nhiên, đó là một giả thiết”. Krulak nói thêm, ông “cũng có những ư kiến khác về tin t́nh báo cần phải có trước khi gây dựng phong trào chống đối. Tôi thật sự không tin là chúng ta đă có đủ tin t́nh báo. Và bây giờ cũng vậy”4.
    Krulak và lănh đạo Lầu Năm Góc không đơn độc trong việc đánh ch́m ư tưởng về phong trào chống đối. Đại sứ Sullivan và Bộ Ngoại giao cũng chống lại ư tưởng này. Các nhà địa chiến lược ở Bộ Ngoại giao phản đối bởi v́ mục đích của phong trào chống đối là gây mất ổn định ở miền Bắc, trái với chính sách công khai của Mỹ. Lập luận này được sử dụng để bác bỏ các đề nghị thành lập tổ chức chống đối trong các năm 1965, 1966 và 1968 của SOG. Ư kiến của Bộ Ngoại giao thường thắng thế, và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân thừa nhận thất bại trong công văn trả lời đề nghị của SOG như sau: “kết luận cuối cùng, chính sách quốc gia của Mỹ loại trừ việc phát triển tổ chức đó... chính sách quốc gia không cho phép tiến hành chiến tranh du kích và chống đối”5.
    Đó là đ̣n kết liễu ư tưởng về phong trào chống đối. Những kiến nghị của Uỷ ban Krulak trở thành nền tảng của chính sách của Hoa Kỳ. Ngày 16-1-1964, một bức điện liên ngành Bộ Quốc pḥng - Ngoại giao - CIA tuyên bố “Các đề nghị của Uỷ ban liên bộ đă được Tổng thống phê chuẩn”. Trong một văn thư cũng vào thời điểm đó, Krulak thông báo cho Vance biết “Tổng thống đă phê chuẩn nó (báo cáo của Uỷ ban Krulak)”6. Wheeler và các tham mưu trưởng từ chối không đề nghị lên trên xem xét lại quyết định ban đầu đó, mặc dù SOG kiến nghị như vậy. Bản thân họ cũng thấy hoạt động tạo dựng phong trào chống đối không có giá trị ǵ. Quyết định đó là không thể đảo ngược.
    Uỷ ban Krulak c̣n xử lư các vấn đề của Lào và Campuchia. Có nên tiến hành hoạt động qua giới tuyến chống đường ṃn không? Đây cũng là vấn đề mà giới lănh đạo cao cấp ở Lầu Năm Góc không thích thú ǵ. Với Sullivan là một thành viên của Uỷ ban liên bộ, và Harriman, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao về các vấn đề chính trị, đứng sừng sững phía sau, kết quả là rơ ràng. Bản báo cáo của Krulak cảnh báo “sự cân bằng quân sự, chính trị mong manh ở Lào có thể bị đảo lộn” nếu lănh thổ Lào bị sử dụng cho các hoạt động chống lại Bắc Việt Nam”7. Điều lạ lùng là bản báo cáo không đả động đến việc Bắc Việt Nam sử dụng Lào vào các hoạt động ở miền Nam Việt Nam.
    Không có sự quan tâm của Lầu Năm Góc, Lào là vùng cấm đối với SOG trong gần hai năm. Trong suốt thời gian này, SACSA kiến nghị Bộ trưởng Quốc pḥng và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đ̣i các nhà vạch chính sách đảo ngược quyết định này. Nguyên phó trợ lư SACSA, đại tá Brownfield nhớ lại, “tôi đă nhiều lần cố đưa chúng ta sang Lào để thu thập t́nh báo và tiến hành chống phá đường ṃn Hồ Chí Minh... nhưng không bao giờ thành công”8.
    Ngay cả sau khi SOG được phép vượt qua giới tuyến vào mùa thu 1965, Bob Rheault ghi nhận có sự đối đầu gay gắt với Bộ Ngoại giao, người chỉ muốn hạn chế các hoạt động này càng nhiều càng tốt. Peers như húc đầu vào đá, Rheault nhớ lại, “Tôi nhớ Peers dùng từ “Shove” sau khi có va chạm với Bộ Ngoại giao. Peers nói ở đó chỉ rặt một lũ “Shove”. Rheault hỏi lại “Shove là ǵ?” - “À, là một giống lai giữa chim bồ câu và rác rưởi”, Peers trả lời”9.
    Mỗi lần mang đề nghị của SOG đến Bộ Ngoại giao, Rheault thường chứng kiến sự chống đối các hoạt động ở Lào. Rheault nhận thấy rằng Bộ Ngoại giao có quyền phủ quyết và thường hay sử dụng nó. Khi điều đó xảy ra, “mọi thứ quay trở về bàn soạn thảo... Chúng tôi phải nghĩ ra cái ǵ đấy để vừa tháo gỡ được sự phản đối của Sullivan vừa thúc đẩy bản đề nghị lọt qua họ”. Depuy có đề nghị Wheeler can thiệp không? Rheault ghi nhận “Có, nhưng liệu anh có thể đưa chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng xuất hiện thường xuyên không. Hơn nữa, nếu Bộ Ngoại giao không muốn một hoạt động nào đó, và cảm thấy là sắp phải nhượng bộ, họ sẽ điện báo cho Sullivan để đưa lư do phản đối”10.
    ____________________ ___________________
    1. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 152.
    2. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd tr.157.
    3. Phỏng vấn tướng Victor Krulak, tr. 17, 20.
    4. Phỏng vấn tướng Victor Krulak, tr. 21,23.
    5, 6. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 236, 169.
    7. Sđd tr.158.
    8. Phỏng vấn chuẩn tướng Albert Brownfield, tr. 7.
    9, 10. Phỏng vấn đại tá Robert Rheault, tr. 2, 27.
    Theo George Maloney, sĩ quan hành động của SACSA phụ trách hoạt động của SOG tại Campuchia, kinh nghiệm quản lư thủ tục phê duyệt cũng giống như của Rheault. Maloney khái quát hoá: “đó là quá tŕnh tương đối dài”1. Tiến tŕnh đó liên quan tới “việc tranh đấu từng chi tiết với Bộ Ngoại giao” v́ họ sợ “bị dính vào cuộc chiến tranh lớn hơn và muốn đủ mọi thứ hạn chế đối với hoạt động của SOG. Họ muốn coi Lào và Campuchia là những quốc gia trung lập”2. Mọi hạn chế mà SACSA tháo gỡ được chính là kết quả của các cuộc xung đột kéo dài này với Bộ Ngoại giao.
    SACSA c̣n va chạm với CIA về SOG. Cũng như các cuộc căi vă với Bộ Ngoại giao, chiến thắng là rất ít. Theo chỉ thị 57, CIA được giao việc hỗ trợ cho các hoạt động ngầm lớn đo Lầu Năm Góc thực hiện. SACSA và SOG cho rằng sự hỗ trợ đó bao gồm cả nhân sự của CIA. Bản đề nghị đầu tiên của SOG về nhân sự tháng 2-1964 là 31 nhân viên CIA. Đề nghị này “được Hội đồng tham mưu trưởng liên quân phê duyệt tháng 7-1964” và gửi sang CIA3.
    CIA tỏ ra “chậm trễ trong việc cử nhân viên” v́ tin rằng “CIA sẽ rút ra khỏi chương tŕnh 34A trong ṿng 6 tháng.”4. Đó là sự khởi đầu của cuộc tranh luận kéo dài hai năm giữa một bên là SACSA-SOG và bên kia là CIA về việc hỗ trợ nhân sự. Tháng 1-1965, số lượng 31 người ban đầu bị CIA giảm xuống c̣n 13. “Tháng 2-1966, CIA đề nghị giảm số lượng từ 13 xuống 9”. Sự cắt giảm này “là chủ đề của các cuộc thảo luận trước đó vào tháng 10 và 11-1965. Cả Tư lệnh Thái B́nh Dương và MACV đều không nhất trí với sự thay đổi này”5. Sự không tán thành đó tỏ ra không có hiệu lực và số lượng nhân viên CIA cử đến SOG chỉ c̣n 9. CIA lập luận một cách thành công rằng “t́nh h́nh ở Nam Việt Nam và những nơi khác đă tạo ra sự thiếu hụt nghiêm trọng số nhân viên đủ năng lực hiện vốn ít ỏi để đáp ứng cho các nhiệm vụ đó”6. Không có dấu hiệu ǵ cho thấy Hội đồng tham mưu trưởng liên quân cân nhắc việc can thiệp vào cuộc căi giữa hai bên.
    Các nhân viên CIA được cử đến SOG hầu như là từ bộ phận hoạt động chiến tranh tâm lư của Cục hành động, đó là một bộ phận mà nhân viên không mấy khi được bổ nhiệm lên vị trí cao trong CIA. Trong các cuộc va chạm về vấn đề nhân sự SACSA-SOG yêu cầu cử những người “có năng lực chuyên môn” ở cấp cao “thuộc lĩnh vực hoạt động chung”. Người mà họ cần là một nhân viên thuộc hệ thăng tiến nhanh của Cục kế hoạch hành động, người có thể tham mưu và nắm bắt toàn bộ các chương tŕnh hoạt động của SOG. CIA không chấp nhận và nhân viên được phân bổ cho SOG là “người có năng lực chuyên môn thuộc lĩnh vực hoạt động chiến tranh tâm lư”7. SACSA không thể làm ǵ để đảo ngược quyết định hỗ trợ nhân viên này.
    Nhân sự không phải là vấn đề duy nhất có sự bất đồng giữa SACSA và CIA. Một vấn đề nữa là thẩm quyền tiến hành hoạt động gây dựng phong trào chống đối và du kích.
    Giữa năm 1964, SACSA chuyển tiếp đề nghị của Russell cho phép SOG tiến hành các hoạt động này như đă nêu trong kế hoạch 34A. Bản đề nghị đă đi được chặng đường dài đến Uỷ ban 303. Tuy nhiên, tại cuộc họp của Uỷ ban, Giám đốc CIA McCone lập luận một cách thuyết phục rằng “việc h́nh thành lực lượng du kích trong người H' Mông và dân tộc ít người khác ở Bắc Việt Nam là chức năng của CIA8. Ủy ban 303 hậu thuẫn ư kiến này.
    Tương tự, CIA và SOG c̣n va chạm về việc khởi động chiến dịch “Shining Brass” ở Lào mùa thu 1965. CIA cho rằng việc đó đi quá xa ngoài nhiệm vụ ban đầu của 34A và nêu ư kiến phản đối. Cuối tháng 12-1965 SACSA báo cáo cho Cyrus Vance biết “CIA từ chối không tích cực hỗ trợ SOG vạch kế hoạch và xâm nhập các toán mới... v́ họ cho là việc đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chương tŕnh của họ (tại Lào)”. Don Blackburn, sếp của SOG, cũng nói như vậy vào tháng 1-1966: “hoạt động của Shining Brass không được CIA hỗ trợ”9.
    Tại Lào, hoạt động của CIA đặt dưới sự kiểm soát của “Nguyên soái chiến trường”, Đại sứ Bill Sullivan. Sullivan và CIA h́nh thành nên một liên minh đầy quyền lực để hạn chế hoạt động của SOG trong những năm sau đó. Trong cuộc chiến đấu liên ngành ở Washington, SACSA luôn bị qua mặt.
    Nói tóm lại, tuy SACSA trở thành người ủng hộ SOG nhưng là kẻ yếu trong nền chính trị quyền lực của Washington. Trong các trận đấu, SACSA không thể với đến những nhân vật thật sự có quyền lực ở Lầu Năm Góc - Chủ tịch và các tham mưu trưởng - đến yểm trợ và cùng chiến đấu. Nhiều nhất, giới lănh đạo quân sự cũng chỉ là người bảo trợ lưỡng lự. Chủ tịch và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân biết rơ cách chiến đấu trong nền chính trị Washington nhưng không làm như vậy. Hoạt động của SOG chưa đủ tầm quan trọng.
    ____________________ __________________
    1, 2. Phỏng vấn trung tá George Maloney, tr.15, 16, 6.
    3, 4, 5, 6. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr. 270, 271, 266.
    7, 8. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, “Nghiên cứu tài liệu của SOG” (tháng 7-1970), phụ lục B, phần “Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy viện trợ quân sự và Tổng nha kỹ thuật chiến lược: h́nh thành, tổ chức và phát triển”, tr.271, 234.
    9. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Sđd, tr.264.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 31
    Last Post: 14-10-2012, 06:13 AM
  2. Replies: 2
    Last Post: 18-05-2012, 08:17 PM
  3. Replies: 10
    Last Post: 01-10-2011, 09:55 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 14-02-2011, 10:26 PM
  5. Replies: 6
    Last Post: 12-09-2010, 02:55 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •