Page 69 of 121 FirstFirst ... 195965666768697071727379119 ... LastLast
Results 681 to 690 of 1204

Thread: "Pháp nạn 1963" đang được khởi động lại tại Hải ngoại

  1. #681
    Cao Cầu
    Khách

    Thằng Khùng

    NDTV là dư đảng Cần lao, cuồng tín đến điên dại, mù loà, luôn cố t́nh chạy tội cho nhà Ngô, trích dẫn mấy câu viết không phải của Cao Cầu. Bây bạ quá ! NDTV nên đọc kỷ trước khi trích dẫn.
    Mời bà con đọc lại đoản văn THẰNG KHÙNG của Phùng Quán để tưởng nhớ những anh hùng bất khuất. Lần trước Cao Cầu đă giới thiệu về khí tiết của một ông Thầy, lần nầy là về một ông Cha. Những anh hùng nầy có ai mà không kính phục?
    ]

    Thằng Khùng
    Tác giả : Phùng Quán
    (Viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân)

    Anh ta vào trại trước ḿnh khá lâu, bị trừng phạt v́ tội ǵ, ḿnh không rơ. Người th́ bảo anh ta phạm tội h́nh sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội ḿnh đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Ḿnh có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nh́n anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao ḷng kḥng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
    Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu ḿnh cứ tưởng anh ta bị câm v́ suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện tṛ với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái ǵ đó làm ḿnh đặc biệt chú ư, cứ muốn làm quen… Nhiều lần ḿnh định bắt chuyện, nhưng anh ta nh́n ḿnh với ánh mắt rất lạ,
    rồi lảng tránh sau khi đă cúi chào cung kính.
    Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đ́nh tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
    Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đă từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
    Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái ǵ đó không ai nghe rơ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược găy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.
    Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống ǵ, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đă hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
    Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
    - Thằng tù chết ấy là cái ǵ với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
    Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
    - Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn th́ vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó t́m cách làm hại cán bộ. Lúc hắn c̣n sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
    Thằng khùng nói có lư. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu th́ khóc. Nhưng ḿnh không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan ḥa nước mắt. Cả thân h́nh gầy guộc của anh ta run rẩy. Ḿnh có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Ḿnh thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay
    người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
    Thế rồi, một lần, ḿnh và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Băi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên băi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và ḿnh phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. V́ mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
    - Anh Tuân này - không rơ anh ta biết tên ḿnh lúc nào - sống ở đây anh thèm cái ǵ nhất?
    - Thèm được đọc sách - ḿnh buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
    - Nếu bây giờ có sách th́ anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
    - Voltaire! - một lần nữa ḿnh lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire th́ cũng chẳng khác ǵ nói với gốc cây mủng mà ḿnh đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện tṛ bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe ḿnh, hiểu ḿnh hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong ḷng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.
    Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
    - Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
    Ḿnh sửng sốt nh́n anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ư nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đă ngồi thay vào chỗ anh ta… Ḿnh lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng pḥng hồi c̣n ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
    Ḿnh trả lời anh ta:
    - Tôi thích nhất là Candide.
    - Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
    Không đợi ḿnh trả lời, anh ta nói tiếp:
    - Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
    Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm răi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy ḿnh ở trường Providence. Ḿnh trân trân nh́n cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nh́n phép lạ. C̣n anh ta, mắt vẫn không rời ḍng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
    Anh đọc đến câu cuối cùng th́ kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
    - Chúng ḿnh lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
    Lội ra đến giữa sông, ḿnh hỏi anh ta:
    - Anh là ai vậy?
    Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
    - Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
    Rồi anh ta tiếp:
    - Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
    Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
    Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngă bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau ḿnh mới biết.
    Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn ḿnh ngoẻo, sẽ không c̣n được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
    Ḿnh gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
    Giám thị hỏi:
    - Trước kia anh có quen biết ǵ thằng này không?
    Ḿnh nói:
    - Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
    Giám thị đồng ư cho ḿnh đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
    Ḿnh cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nh́n ḿnh. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt ḿnh tự nhiên trào ra rơi lă chă xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
    - Tuân ở lại, ḿnh đi đây… Đưa bàn tay đây cho ḿnh…
    Anh ta nắm chặt bàn tay ḿnh hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tṛn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào ḷng bàn tay ḿnh một chữ nho. Chữ NHẪN.
    Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
    Người lính canh dẫn ḿnh lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
    Giám thị hỏi:
    - Cái h́nh nguệch ngoạc này có ư nghĩa ǵ? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
    Ḿnh nói:
    - Thưa cán bộ, thật t́nh tôi không rơ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
    Nghe ra cũng có lư, giám thị trại tha cho ḿnh về lán…

    Phùng Quán
    ________
    Ghi Chú:
    (*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đă kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
    Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….

    Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
    Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
    Tấm gương can trường.
    Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
    Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện B́nh Lục, tỉnh Hà Nam.
    Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quư yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
    Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges .
    Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
    Ngài học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và ḥa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đă làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”
    Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ư chí sắt son.
    Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập ḍng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
    Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đă bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập ḍng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
    Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đ̣i đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới ḷng nhà thờ. V́ ḷng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
    Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đă chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
    Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
    Ngài tổ chức lớp học giáo lư cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại pḥng khách Ṭa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động v́ lư do an ninh.
    Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lănh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
    Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đă đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà c̣n có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
    Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội t́m cha Vinh tham khảo ư kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
    Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
    Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đă sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh tŕnh bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
    Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài c̣n viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
    Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
    Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đ̣i nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
    Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ư, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
    > Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu c̣ng tay số 8, và nói lớn:
    “Tự do thế này à!”
    Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Ṭa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
    Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố t́nh vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
    Sau phiên ṭa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Ḷ, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
    Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài c̣n được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, v́ thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
    “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
    Ngài đáp:
    “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, c̣n sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận ḿnh!”
    Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp
    cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lư Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù h́nh sự thân ái gọi ngài là “Bố.”
    Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngă khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi vơ, mọi người phải nể v́.
    Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ư, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
    V́ không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lư án lệnh nào, đă biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.
    Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lư Nhà Chung: “Ông Vinh đă chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
    Suốt đời ḿnh, trong mọi t́nh huống cha Chính Vinh làm tṛn trách vụ của ḿnh. Ngài đă mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
    Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
    TGP Hà Nội - 2013
    BBT (Theo HĐGMVN)

  2. #682
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    NDTV là dư đảng Cần lao, cuồng tín đến điên dại, mù loà, luôn cố t́nh chạy tội cho nhà Ngô, trích dẫn mấy câu viết không phải của Cao Cầu. Bây bạ quá ! NDTV nên đọc kỷ trước khi trích dẫn.
    Mời bà con đọc lại đoản văn THẰNG KHÙNG của Phùng Quán để tưởng nhớ những anh hùng bất khuất. Lần trước Cao Cầu đă giới thiệu về khí tiết của một ông Thầy, lần nầy là về một ông Cha. Những anh hùng nầy có ai mà không kính phục?
    ]
    Thôi mà, Cao Cầu

    Cao Cầu đă qúa rơ là thành viên của Giao Điểm, bè lũ Việt Gian tay sai cuả Trung Cộng. Chủ trương vu khống Vatican với những tội danh tưởng tượng đẻ kích động giáo dân Công Giáo VN làm áp lực để Giáo Hội Công Giáo VN đoạn tuyệt với Vatican để thành một giáo hội Công giáo quốc doanh ấy mà

    Đă có một giáo Hội Phật Giáo quốc doanh rồi. Nhưng Công Giáo chưa có nên Cao Cầu và đồng đảng vẫn phải thi hành chính sách của bọn việt gian tay sai Trung cộng là kích động giáo dân Công Giáo thù hận Vatican ấy mà

  3. #683
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Vua Tự Đức - không phải tín đồ Công Giáo - đă chủ động để nghị kư Hoà ước bán nước Nhâm Tuất 1862. Phản bội....

    ..phong trào kháng Pháp và tiếp tay cho Pháp đàn áp phong trào .

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    đa phần các tín đố Chúa làm chỉ điểm cho Pháp
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2...E1%BA%A5t_1862)

    Giữa lúc quân Pháp không ngờ nhất, th́ thiếu tá Simon đang công tác ở ngoài khơi Trung Kỳ trở về Sài G̣n báo tin là vua Tự Đức vừa đề nghị mở cuộc giảng ḥa[5]. Tháng 4 năm Nhâm Tuất, đô đốc Bonard liền phái Simon mang chiến hạm Forbin có bố trí đại bác, ba chiếc thuyền gỗ cùng 200 lính đến cửa Thuận An (Huế), để đưa ra ba yêu sách là: Gửi sứ thần có thẩm quyền quyết định vào Gia Định, bồi thường chiến phí và phải nạp trước 100.000 Franc để đảm bảo thiện chí cầu ḥa.
    .................... .................... .................... .................... .................... .................... ...

    Giám đốc Sở Nội vụ Paulin Vial cũng đă viết:

    -Trung tá Simon từ Bắc trở về báo cho quan đô đốc (Bonard) rằng người An Nam muốn điều đ́nh...là một tin mừng giữa lúc có nhiều lo âu quan trọng...Người ta ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đă từng bác bỏ các ư định giảng ḥa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều kiện h́nh như đắt giá với họ [20].

    .................... .................... .................... .................... .................... .................... ....

    Kư xong ḥa ước, Bonard tự coi là đă thành công một cách oanh liệt. Về phía Việt Nam, nhất là sĩ dân miền Nam rất bất b́nh v́ tại Nam Kỳ bị tổn thất quá nhiều...Nhưng dù căm phẫn thế nào với Pháp, triều đ́nh Tự Đức vẫn không thể chiều ư sĩ dân miền Nam mà tái chiến với Pháp. Họ khuyên Trương Định hạ khí giới. Trương Định không chịu. Tự Đức phải cách chức Trương Định cho khỏi phiền phức với Pháp

    .................... .................... .................... .................... .................... .................... ....

    theo nhà giáo Ca Văn Thỉnh th́ đây là một "hàng ước", c̣n theo giáo sư Trần Văn Giàu th́ "đây là một sự phản bội đối với những người kháng chiến", v́ sau hiệp ước này phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Việt khó khăn hơn trước: nghĩa quân sẽ phải đơn độc đối phó với đối phương. Quan trọng hơn nữa là triều đ́nh không chỉ ra lệnh băi binh, mà lại c̣n tiếp tay truy lùng các thủ lĩnh cho họ![26]
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 01-03-2013 at 01:19 AM.

  4. #684
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Vua Tự Đức - không phải tín đồ Công Giáo - đă CHỦ ĐỘNG để nghị kư Hoà ước bán nước Nhâm Tuất 1862. Trong đó có ....

    ..điều khoản cho phép người Pháp được TỰ DO TRUYỀN ĐẠO CÔNG GIÁO TẠI VN ( KHÔNG HỀ DO PHÁP ÉP BUỘC )

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    đa phần các tín đố Chúa làm chỉ điểm cho Pháp
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2...E1%BA%A5t_1862)

    Các điều khoản quan trọng

    Ḥa ước Nhâm Tuất có 12 khoản, trừ các điều khoản có tính cách ngoại giao, th́ 8 khoản sau đây được coi là quan trọng hơn cả:

    .................... .................... .................... .................... .................... .................... ............

    Khoản 2: Thần dân hai nước Pháp và Tây Ban Nha được hành đạo Gia Tô ở nước Đại Nam, và bất luận người nước Đại Nam ai muốn theo đạo Gia Tô, đều sẽ được tự do theo, nhưng những người không muốn theo đạo Gia Tô th́ không được ép họ theo.

  5. #685
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Vị Vua + Những người kư Hoà Ước bán nước Giáp Tuất 1874 chấp nhận Nam Kỳ thuộc Pháp đều không phải là người Công Giáo

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    đa phần các tín đố Chúa làm chỉ điểm cho Pháp
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2...A5t_%281874%29)

    Ḥa ước Giáp Tuất (1874)

    Hoà ước Giáp Tuất 1874 là bản hiệp định thứ hai giữa triều Nguyễn và Pháp, được kư vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 với đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn - Chánh sứ toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phó sứ toàn quyền đại thần và đại diện của Pháp là Dupré - Toàn quyền đại thần, Thống đốc Nam Kỳ. Hoà ước gồm có 22 điều khoản với nội dung chính là thay thế bản Ḥa ước Nhâm Tuất 1862, công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ, lệ thuộc về chủ quyền ngoại giao, mở cửa cho Pháp tự do buôn bán tại các cảng biển và trên sông Hồng cùng tự do truyền đạo.

    Nguyên nhân kư hoà ước

    Sau khi kư Hoà ước Nhâm Tuất 1862, Pháp chiếm đóng và cai trị 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ và quyết định xâm chiếm và lấy nốt 3 tỉnh miền Tây c̣n lại của Nam Kỳ, đến năm 1867 họ đă lấy nốt thành công 3 tỉnh c̣n lại sau khi Kinh lược sứ Phan Thanh Giản biết không chống đỡ nổi đă quyết định giao các thành cho Pháp

  6. #686
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Vị Vua+Các quan đại thần kư Ḥa ước bán nước Quư Mùi 1883,xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam...

    ..đều không phải là tín đồ Công Giáo

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    đa phần các tín đố Chúa làm chỉ điểm cho Pháp
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2..._M%C3%B9i_1883)

    Ḥa ước Quư Mùi, 1883


    Hoà ước Quư Mùi (1883) hay c̣n có tên gọi là Hoà ước Harmand được kư kết vào ngày 25 tháng 8 năm 1883 tại kinh đô Huế giữa đại diện của Pháp là François Jules Harmand - Tổng ủy (tiếng Pháp: commissaire général), đại diện ngoại giao cho nước Cộng hoà Pháp và đại điện của triều Nguyễn là Trần Đ́nh Túc - Hiệp biện Đại học sĩ (chánh sứ), Nguyễn Trọng Hợp - Thượng thư Bộ Lại (phó sứ). Hoà ước có tất cả 27 điều khoản với nội dung chính là xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Hiệp ước này chính thức đánh dấu thời kỳ, 1883-1945, toàn bộ Việt Nam trở thành thuộc địa của Thực dân Pháp (thời Pháp thuộc).

  7. #687
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Vua Đồng Khánh thân Pháp và hai tên Việt Gian tay sai chỉ điểm cho Pháp bắt Vua Hàm Nghi đều không phải là...

    ..các tín đồ Công Giáo .

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    đa phần các tín đố Chúa làm chỉ điểm cho Pháp
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0m_Nghi)

    Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và 3 bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đă định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh B́nh nhưng cũng không thành. Nhà vua thường nói ḿnh ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong ṿng cương tỏa của người[6]. Tại căn cứ địa lănh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ, cùng đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau pḥng thủ và tấn công lực lượng Pháp trong vùng.

    Tháng 9 năm 1888, suất đội Nguyễn Đ́nh T́nh ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá. Nguyễn Đ́nh T́nh lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đ́nh T́nh và Trương Quang Ngọc t́nh nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9 1888[8], vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi đó, ông mới 17 tuổi, chống Pháp được ba năm. Nhà vua đă chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng:

    "Mi giết ta đi c̣n hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây".

    Từ đêm hôm đó ở bờ khe Tá Bào, huyện Tuyên Hóa (nay là huyện Minh Hóa) tỉnh Quảng B́nh, Trương Quang Ngọc mang vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng 11 năm 1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất long trọng nhưng vua đă tỏ ra không hiểu, không nhận ḿnh là Hàm Nghi. Viên trung uư chỉ huy quân đội Bonnefoy đă chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua ném lá thư xuống bàn và làm như không có can hệ ǵ đến ḿnh. Viên đề đốc Thanh Thuỷ là Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để thăm hỏi và nhận mặt th́ nhà vua giả như không hay biết. Nhưng khi thầy học cũ là Nguyễn Nhuận đến xem th́ nhà vua vô t́nh đứng dậy vái chào. Đến lúc đó th́ người Pháp mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi qua Bố Trạch rồi vào Đồng Hới và tới cửa Thuận An ngày 22 tháng 11 năm 1888.

  8. #688
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    NDTV là dư đảng Cần lao, cuồng tín đến điên dại, mù loà, luôn cố t́nh chạy tội cho nhà Ngô, trích dẫn mấy câu viết không phải của Cao Cầu. Bây bạ quá ! NDTV nên đọc kỷ trước khi trích dẫn.
    Mời bà con đọc lại đoản văn THẰNG KHÙNG của Phùng Quán để tưởng nhớ những anh hùng bất khuất. Lần trước Cao Cầu đă giới thiệu về khí tiết của một ông Thầy, lần nầy là về một ông Cha. Những anh hùng nầy có ai mà không kính phục?
    ]


    Cao Cầu chửi bới, vu khống TT Diệm + Giám Mục Thục muốn biến VN thành một Vatican thứ hai, tiêu diệt dân VN mà đại đa số theo Tam Giáo đồng quy Phật;Khổng;Lăo.. y hệt luận điệu Giao Điểm.

    Cũng là đồng đảng với nhau cả, ai cũng qúa rơ rồi; chối làm ǵ .

  9. #689
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Các vị Đại Thần không phải tín đồ Công Giáo theo lệnh Pháp ép Vua Thành Thái yêu nước thoái vị. Trừ Ngô đ́nh Khả

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    đa phần các tín đố Chúa làm chỉ điểm cho Pháp
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_Th%C3%A1i)

    Thành Thái

    Vua Thành Thái (chữ Hán: 成泰; 14 tháng 3 năm 1879 – 24 tháng 3 năm 1954) là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907. Do chống Pháp nên ông, cùng với các vua Hàm Nghi và Duy Tân, là 3 vị vua yêu nước trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc bị đi đày tại ngoại quốc.
    .................... .................... .................... .................... .................... .................... ...........

    Bị ép thoái vị

    Ngày 29 tháng 7 năm 1907, nhân dịp Thành Thái không phê chuẩn việc bổ nhiệm một số quan lại đă được Khâm sứ Lévêque và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận, Lévêque đă tuyên bố truất quyền và quản thúc Thành Thái trong Đại nội. Một Hội đồng Phụ chính do Trương Như Cương cầm đầu được thành lập.

    Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị, có chữ kư của các đại thần (trừ Ngô Đ́nh Khả), với lư do sức khoẻ không bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái chỉ cười, ghi ngay hai chữ "phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.

  10. #690
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Thượng Thư Hồ Đắc Trung- một người không phải tín đồ Công Giáo, đă ra lệnh xử tử các lănh tụ Việt Nam Quang Phục Hội ..

    ..và xử đày vị Vua yêu nước Duy Tân .

    Quote Originally Posted by Cao Cầu View Post
    đa phần các tín đố Chúa làm chỉ điểm cho Pháp
    (http://vi.wikipedia.org/wiki/Duy_T%C3%A2n)

    Dự định khởi nghĩa với Việt Nam Quang Phục Hội

    Việt Nam Quang Phục Hội được Phan Bội Châu thành lập từ 1912. Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục Hội quyết định móc nối. Hai lănh đạo của hội là Trần Cao Vân và Thái Phiên bỏ tiền vận động người tài xế riêng của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, một thành viên của hội.

    Tháng 4 năm 1916, khi vua Duy Tân ra băi tắm Cửa Tùng nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư của hai lănh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Duy Tân đọc thư và muốn gặp hai người này. Ngày hôm sau, ba người cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ư cùng tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa dự định được tổ chức vào 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5.

    Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội ở Quảng Ngăi là Vơ An đă làm lộ tin. Chiều ngày 2 tháng 5, thực dân Pháp ra lệnh thu súng ở các trại lính người Việt cất vào kho và cấm trại không cho một người lính Việt nào ra ngoài.

    Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo lối thường dân đi cùng hai người hộ vệ là Tôn Thái Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ tới làng Hà Trung, lên nhà một hội viên Việt Nam Quang Phục hội để chờ giờ phát lệnh bằng súng thần công ở Huế. Nhưng chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đă thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng Quảng Nam, Quảng Ngăi. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1916, họ bị bắt.

    Khâm sứ tại Huế và Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ư:


    "Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, th́ hăy coi tôi như là một ông vua đă trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ư kiến với chính phủ Pháp."


    Pháp bắt Triều đ́nh Huế phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Trần Cao Vân khi đó bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ Đắc Trung xin được lănh hết tội và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 người Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu. Bốn người bị chém đầu ở An Ḥa. Vua Duy Tân bị đày đi đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương cùng với vua cha Thành Thái vào năm 1916.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 6 users browsing this thread. (0 members and 6 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 11
    Last Post: 14-07-2012, 11:05 PM
  2. Replies: 57
    Last Post: 08-12-2011, 09:43 PM
  3. Replies: 3
    Last Post: 16-08-2011, 10:37 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 31-10-2010, 03:53 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •