Page 2 of 8 FirstFirst 123456 ... LastLast
Results 11 to 20 of 72

Thread: Cuộc Triệt Thoái Lớn Nhất của Quân Lực VNCH

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc triệt thoái tuyệt vời - Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang




    Thủ Đô Sài G̣n trong những giờ phút hấp hối, khi các đại đơn vị CSBV áp sát tất cả bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, sau khi SĐ 18 BB và Bộ Tư Lệnh QĐ III cùng các đơn vị trực thuộc di tản về Sài G̣n từ đêm 28 tháng 4, 1975.
    Xung quanh thủ đô Sài G̣n hàng chục SĐ CSBV hiện diện, những trận mưa pháo vào phi trường Tân Sơn Nhất, nội thành Sài G̣n và các đơn vị đồn trú trong lănh thổ của Biệt Khu Thủ Đô. Sài G̣n náo loạn, chính phủ mới của “Đại Tướng” Dương Văn Minh không biết phải làm ǵ để đối phó với t́nh h́nh nguy kịch này. Lúc bấy giờ nhiều phái đoàn của cái gọi là thành phần thứ ba, các nghị sĩ, dân biểu gọi là thiên tả, đối lập hay x́u x́u ển ển, thường chống chính quyền và kể cả phái đoàn chánh thức của chánh phủ Dương Văn Minh-Vũ Văn Mẫu, chạy tới chạy lui vào Camp Davis trong khu vực phi trường Tân Sơn Nhất để xin yết kiến xin xỏ VC t́m giải pháp. Nhưng, VC trên đà chiến thắng, họ không “quởn” nói chuyện với các phái đoàn đó.
    Trong bối cảnh, các đơn vị lớn nhỏ QLVNCH đang hiện diện trong nội thành Sài G̣n và vùng ngoại ô, không nhận được lệnh lạc ǵ của cấp trên, Bộ Tổng Tham Mưu hay của chính phủ mới. Các đơn vị trưởng c̣n bám trụ ở đơn vị, không vọt đi ra biển hay đi bằng phi cơ th́ tùy nghi quyết định lấy số phận của đơn vị ḿnh, tiếp tục chiến đấu đến viên đạn cuối cùng hay bỏ đơn vị về nhà hay t́m cách vượt thoát ra biển Đông...
    Ngày 29 tháng 4, 1975 Sài G̣n hỗn loạn, cảnh người chen chúc đến Ṭa Đại Sứ Mỹ để hy vọng được lên trực thẳng di tản hay người ta đổ xô xuống các bến tàu t́m chỗ để ra đi khỏi Sài G̣n đang ngột ngạt giẫy chết.
    Trong khi đó, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân, ông mới về đảm nhận chức vụ này chỉ được một thời gian rất ngắn. Với tầm nh́n của vị tướng lănh sáng suốt, sau khi Quân Khu II ... I thất thủ, đô đốc đă tự hoạch định một phương cách bảo toàn lực lượng để có thế ứng phó với cơn dầu sôi lửa bỏng đang ầm ập lao tới. Với tư cách là Tư Lệnh Hải Quân mới, ông thường xuyên mở những cuộc họp tham mưu và những cuộc họp lớn có tất cả các đơn vị trưởng các hạm đội, vùng duyên hải, vùng sông ng̣i... đang có mặt tại 4 quân khu để đô đốc nắm chắc những ǵ hải quân sẽ sử dụng hiệu quả khi có biến cố, cần tới.
    Qua bài viết của Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang được phổ biến trên các diễn đàn sau khi Đô Đốc Chung Tấn Cang qua đời ngày 24 tháng 1 năm 2007 tại thành phố Bakersfield-California, hưởng thọ 82 tuổi, chúng ta đọc không khỏi ngậm ngùi thương cảm cho một vị tướng hải quân kỳ tài v́ có quá ít thời gian phục vụ ngành chuyên môn của ḿnh.
    Đô Đốc Chung Tấn Cang dù phục vụ trong hải quân, thời gian chỉ có 5% cuộc đời binh nghiệp của ông, như Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang viết, nhưng, Tướng Cang biểu tỏ thiên tài của ông về sự chỉ huy, điều động các đơn vị hải quân dưới quyền. Tướng Quân Cang tâm sự với người viết bài này, cách đây 6 năm khi đến thăm ông v́ t́nh thầy tṛ trong quân đội, ông nói rằng rất tiếc, BTL Hải Quân đặt tại một địa điểm nhỏ hẹp tại thủ đô Sài G̣n, cách biển khá xa mà hải quân là quân chủng cần vẫy vùng hoạt động hữu hiệu ở vùng sông nước, biển cả.
    Lúc bấy giờ, tôi có ư nghĩ, cấp lănh đạo quốc gia chưa có tầm nh́n đúng về khả năng tinh nhuệ của quân chủng Hải Quân, họ phải hoạt động ở trên mặt nước, khi đưa hải quân lên bờ là chặt tay chặt chân họ. Đô Đốc Cang có ư ám chỉ về số phận của ông, là một phó đô đốc (Tướng Lănh 3 sao), cấp bậc cao nhất trong quân chủng Hải Quân lại phải xa rời màu nước xanh biên biếc của biển cả, ông không được phục vụ hay chỉ huy ngành chuyên môn của ḿnh một thời gian quá dài.
    Cuộc chính biến 1 tháng 11, 1963, Tư Lệnh Hải Quân, Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị quân đảo chánh giết và quân chủng Hải Quân là đại đơn vị không được quân đảo chánh tin dùng v́ sợ c̣n trung thành với chế độ của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm.
    Vật đổi sao dời, có một thời gian ngắn, Đô Đốc Chung Tấn Cang cũng được về làm Tư Lệnh Hải Quân và sau đó ông bị cho “lên bờ,” ông đi lang thang trên bộ, giữ những chức vụ như Chỉ Huy Trưởng Trường Chỉ Huy Tham Mưu ở tận Đà Lạt, cách xa Sài G̣n và xa biển cả mênh mông. Sau đó, Đô Đốc Cang được đổi về làm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm Tổng Trấn Sài G̣n-Gia Định vài năm mà người viết bài này được may mắn làm việc dưới quyền của một vị tướng mà tôi kính trọng nhất trong cuộc đời binh nghiệp 13 năm của ḿnh. Đô Đốc Chung Tấn Cang đă chứng tỏ, đặc biệt là cựu chiến sĩ QLVNCH, rất hănh diện có một vị tướng tài, có tầm nh́n chiến thuật, chiến lược sâu rộng và Đô Đốc Cang xứng đáng là vị tướng tài nhất trong QLVNCH về phương diện hành quân triệt thoái thành công và tuyệt vời nhất
    Mới đây, trước ngày Trung Tướng Nguyễn Văn Minh tức Tướng Minh Đờn ra đi ngày 24 tháng 11, 2006 ở thành phố San Diego-California, khoảng hơn một tuần trước đó, tôi có dịp đi viếng thăm ông thầy cũ, Đô Đốc Chung Tấn Cang sau nhiều lần đi bệnh viện về, dưỡng bệnh tại nhà riêng ở thành phố Bakersfield, một thành phố buồn hiu so với miền Nam Cali.
    Trong một ngôi nhà khiêm nhường, cũ kỹ tuổi thọ của ngôi nhà cũng 3, 4 chục năm. Phu nhân của Đô Đốc tuổi cũng vào hàng gần 80, bà c̣n khỏe mạnh chuẩn bị sẵn bữa ăn trưa để đăi khách. Chúng tôi, gồm có cựu Trung Tướng Đặng Văn Quang, bà Đặng Văn Quang, ông Đỗ Bá Ngữ, một người bạn đồng môn cùng học Trường Hàng Hải Thương Thuyền với Đô Đốc Cang và cùng khóa với cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào thập niên 40, lại đồng tuế tuổi Bính Dần, năm 1926, và đồng cư ngụ ở Sài G̣n cạnh nhau hàng mấy chục năm dài và vợ chồng tôi là đàn em của các vị ấy. Trước đây, hễ mỗi lần vợ chồng chúng tôi đến thăm viếng Đô Đốc Cang, phu nhân của ông đều mời chúng tôi ăn, đúng đặc trưng của người gốc miền Nam chân chất, thành thật và hiếu khách.
    Đô Đốc Chung Tấn Cang mời khách uống rượu vang mà thứ rượu quư ông cất giữ lâu ngày. Gặp bạn xưa là ông Đỗ Bá Ngữ, ông vui gọi xưng mầy tao giữa hai ông cụ già 82 tuổi, tôi nghe sao dễ thương như thấm vào tim ḿnh và sẽ viết về t́nh thâm giao của hai cụ cao niên này trong một bài khác.
    Trở lại cuộc triệt thoái của Quân Chủng Hải Quân, tất cả hạm đội được Đô Đốc Chung Tấn Cang ra lệnh “Lên Neo,” nghĩa là sẵn sàng tham dự cuộc hành quân triệt thoái vĩ đại nhất của Quân Chủng Hải Quân và điểm hẹn là đảo Côn Sơn và Phú Quốc. Lệnh hành quân triệt thoái lịch sử được ban ra vào ngày N tức là sáng sớm ngày 29 tháng 4 năm 1975 trong khi chính phủ Dương Văn Minh-Vũ Văn Mẫu hết có thuốc chữa, ngăn chận được sự tiến quân bôn tập của CSBV về cưỡng chiếm thủ đô Sài G̣n.
    Lúc này, Đô Đốc Chung Tấn Cang không nhận được bất một lệnh lạc ǵ của chính phủ của Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Quân Chung Tấn Cang chứng tỏ khả năng nh́n xa hiểu rộng của một vị tướng tài trong QLVNCH, ông đă có kế hoạch sẵn sàng chờ lệnh là thi hành, nhưng lệnh không có th́ không lẽ ông bó tay chờ CSBV đến tiếp thu BTL Hải Quân mà ông đang ngồi ở đó. Đô Đốc Chung Tấn Cang tự ư ra lệnh cho hạm đội của quân chủng Hải Quân “Lên Neo” và tất cả những chiến hạm, tàu tuần duyên, các giang đoàn c̣n khiển dụng nhổ neo ra khơi theo lệnh của ông để khi được lệnh của thượng cấp là quay tàu về giải cứu Sài G̣n mà bài viết “Một Thoáng Suy Tư” của Hải Quân Đại Tá Nguyễn Bá Trang, nguyên tư lệnh đơn vị Đặc Nhiệm Thủy Bộ 211 đă mô tả chi tiết về cuộc hành quân triệt thoái này.
    Đô Đốc Cang tâm sự với tôi rằng, đến bây giờ (nghĩa là 6 năm trước đây), ông tự cho ḿnh là một quân nhân vô kỷ luật, không chờ lệnh thượng cấp, tự ư ban lệnh hành quân triệt thoái cho các đơn vị dưới quyền. Đô đốc vừa nói đến đó. bỗng ông nở một cười tươi dù ḿnh vô kỷ luật nhưng đă cứu được hơn 40 chục ngàn nhân mạng được các chiến hạm Hải Quân VNCH chở ra khơi và đến bến bờ tự do an toàn.
    Đô Đốc Cang sau khi uống thêm một ngụm rượu vang nữa, ông cười tươi hơn, ông nh́n tôi nói thật t́nh với ḷng ông: “Chú nghĩ coi, tôi đă bảo toàn được hầu hết các chiến hạm, tàu thuyền của Hải Quân QLVNCH, đưa đi an toàn, nếu trị giá bằng đô la Mỹ, các tàu chiến cũng trị giá hàng triệu triệu, người Mỹ để vậy hoặc tân trang lại viện trợ cho các nước khác mà họ cũng tính ra bằng đô la. Nếu người Mỹ biết điều, họ thưởng cho chúng tôi, Hải Quân VNCH chừng vài ngàn hay vài chục ngàn đô mỗi chiếc tàu chiến, chắc ngày nay cuộc sống của tôi và anh em Hải Quân không phải cơ cực làm việc lao động tầm thường như tôi đă trải qua.”
    Những lời nói chân t́nh của Đô Đốc Chung Tấn Cang, dù nói chơi hay nói thật cũng làm cho chúng ta suy nghĩ. Chính phủ Mỹ lúc bấy giờ không muốn cho nhiều người VN di tản ồ ạt sang Hoa Kỳ, họ muốn bỏ lại tất cả tài sản và QLVNCH cũng phải làm như vậy. Một hay hai ngày trước cuộc triệt thoái 29 tháng 4, 1975, một phụ tá Bộ Quốc Pḥng Mỹ cùng đi với một người Mỹ nói tiếng Việt rất giỏi đến thuyết phục đô đốc ra đi bằng chiếc trực thăng họ đă lái tới đậu ở BTL Hải Quân. Nếu Đô Đốc Chung Tấn Cang chỉ biết ḿnh mà không lo đến sự an toàn sinh mạng của các chiến sĩ dưới quyền và đồng bào, thân nhân của Hải Quân, lấy chiếc trực thăng cùng với gia đ́nh bay ra khơi, an toàn cho gia đ́nh ông, dễ dàng quá.
    Nếu thế, chúng ta không có ǵ để phải nói nhiều về Đô Đốc Chung Tấn Cang. Chính đô đốc là người anh hùng bảo toàn được tài sản quư giá hàng triệu triệu Mỹ kim của quốc gia VNCH và của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không để lọt vào tay địch. Quan trọng hơn, có trên 40 ngàn người VN đă được di tản an toàn đến bến bờ tự do, biết bao gia đ́nh nhờ có cuộc ra đi của vị chỉ huy “vô kỷ luật” chưa có lệnh của thượng cấp mà tự ư cho lệnh “Lên Neo” mà ngày nay nhiều gia đ́nh ăn nên làm ra.
    Chúng ta hăy hiệp ư cầu nguyện hương linh Gioan Baotixita Chung Tấn Cang sớm về hưởng Nhan Thánh Chúa nơi cơi Thiên Đàng.
    Anh Phương Trần Văn Ngà

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Triệt Thoái Quân Đoàn 2, cuộc hành quân phá sản



    Một ngày trước khi Tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất thủ, hôm 12-3 -1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết cắt 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc cho Việt Nam Cộng Hoà do Tổng Thống Ford đệ tŕnh Quốc Hội, Đại sữ Mỹ Martin cũng thông báo cho Tổng thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không được chuẩn chi, như thế có nghĩa họ bỏ rơi miền Nam hoàn toàn, Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa chỉ c̣n đủ đạn dược để đánh trận trong ṿng một vài tháng.

    Tại Pleiku Liên đoàn 4 BĐQ chưa thể giải tỏa được quốc lộ 19, Sư đoàn 22 BB tại gần Qui nhơn chiến đấu dữ dội với Sư đoàn 3 Sao Vàng CS, phi trường Cù Hanh bị pháo kích, 3 phi cơ A-37 bị phá hủy.

    Sư đoàn 10 CS sau khi chiếm Ban Mê Thuột tiến về tuyến Phước An, tại đây ta chỉ c̣n 700 người và 4 khẩu 105 ly.

    Hôm 11-3 Tổng thống Thiệu họp Hội đồng Tướng lănh gồm các Tướng Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang để tŕnh bầy kế hoạch mà ông gọi là “Tái phối trí lực lượng”, với t́nh h́nh vũ khí đạn dược như hiện nay ta không thể giữ cả 4 Quân khu, mà chỉ đủ lực lượng giữ Quân khu 3, Quân khu 4 và một phần duyên hải Vùng 2, Quân khu 1 chỉ giữ Huế và Đà Nẵng, sẽ rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng, bỏ những vùng xương xẩu để về giữ những vùng mầu mỡ. Hội đồng Tướng lănh đồng ư, không ai phản đối.

    Mất Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thiệu nay biết rơ địch mạnh hơn hồi 1968, và Mùa hè đỏ lửa 1972. CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris, Đồng Minh ngoảnh mặt làm ngơ trước t́nh h́nh nguy khốn, ông Thiệu mất tinh thần, đưa ra kế hoạch táo bạo trong một phiên họp tại Cam ranh ngày 14-3. Trong Hội nghị này có Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Sau phiên họp Tướng Phú kể lại cho Phạm Huấn, người kư giả chiến trường này đă ghi lại trong Cuộc Trịêt Thoái Cao Nguyên 1975.

    Ông Thiệu cho biết Quốc Hội Mỹ cắt giảm quân viện khiến ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, Mỹ hủy bỏ cam kết yểm trợ bằng không lực khi Cộng Sản vi phạm Hiệp định Paris, lănh thổ pḥng thủ quá rộng lớn, ta thiếu thốn đạn dược, tiếp liệu, áp lực địch rất mạnh… Ông cho biết Tướng Phú phải đem hết chủ lực quân, chiến xa, pháo binh của Quân đoàn về pḥng thủ duyên hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku, Kontum..

    Nghe thế Tướng Phú bèn xin cho toàn bộ Quân đoàn ở lại chiến đấu, ông thoáng nh́n thấy sự sụp đổ miền Nam sẽ diễn ra do kế hoạch “tái phối trí” của TT Thiệu.

    “- Thưa Tổng thống, cho tôi được “tử thủ” Pleiku, giữ cao nguyên.
    Tướng Thiệu cười nhạt:
    – Tử thủ? Với quân số, đạn dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản?
    – Thưa Tổng thống từ 40 đến 60 ngày!
    – Rồi sao nữa?

    Tướng Phú khựng lại, đưa mắt nh́n tướng Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú đáp:
    – Tôi sẽ chiến đấu đến cùng, cho đến khi không c̣n được tiếp tế súng đạn, lương thực nữa!
    . . . . .
    . . . . . . . . . .
    … Tướng Phú vẫn liều lĩnh nói với giọng hơi lớn:
    – Thưa Tổng thống, thưa quí vị tướng lănh,
    Nếu rút khỏi cao nguyên năm nay, th́ một cuộc tấn công khác của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ mất duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến sĩ của tôi có chết ở Cao nguyên bây giờ cũng không khác ǵ chết ở Sài G̣n trong năm tới!”

    (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 85)

    Tổng Thống Thiệu bác bỏ ư kiến Tướng Phú, ông nói đây là kế hoạch chung của Hội Đồng Tướng Lănh mà ông đă bàn thảo.

    “- Tôi ra lệnh cho anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay …về pḥng thủ Duyên hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
    . . . .. . . . . . . . . . .
    – Lệnh này, từ cấp tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết.
    – Thưa Tổng thống…
    – Có nghĩa là các lực lượng Địa phương quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh 3 tỉnh.Pleiku, Kontum, Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với tỉnh trưởng, quận trưởng như thường lệ.
    . . . . . . . . . . .
    – Quyết định mang tất cả chủ lực quân chiến xa, pháo binh, máy bay của Quân đoàn II khỏi Pleiku, Kontum, tôi đă thảo luận với các tướng lănh. Đây cũng là một quyết định chung của Hội đồng Tướng lănh, như quyết định hôm qua cho Tướng Trưởng ngoài quân đoàn I.

    Pḥng họp im phăng phắc, không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ôngThiệu một câu gần như lạc đề:

    – Thưa Tổng Thống, nếu chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi làm sao Địa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân 2 tỉnh Pleiku, Kontum và gia đ́nh anh em binh sĩ?
    – Th́ cho thằng Cộng Sản số dân đó! Với t́nh h́nh nặng nề hiện tại, ḿnh phải lo pḥng thủ, giữ được vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ… hơn là bị “kẹt” quá nhiều quân trên Vùng Cao nguyên…”

    (CTTCN1975, trang 85, 86)

    Về buổi họp này, ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối Của VNCH) thuật lại cũng gần giống như Phạm Huấn, theo ông Tổng Thống Thiệu cho biết phải chiếm lại Ban Mê Thuột, Tướng Phú xin thêm quân tiếp viện, ông Thiệu hỏi Tướng Viên có đủ quân tiếp viện cho Tướng Phú không, Tướng Viên trả lời không c̣n quân trừ bị. Khi ấy ông Thiệu đứng trước bản đồ miền Nam nói Ban Mê Thuột quan trọng hơn Pleiku, Kontum nhập lại về kinh tế, dân số, nhiệm vụ Quân đoàn 2 phải tái chiếm Ban Mê Thuột, ông hỏi Tướng Phú dùng đường nào để đem quân về tái chiếm Ban Mê Thuột, Tướng Phú đề nghị theo đường số 7.

    Văn Tiến Dũng cũng đă ghi lại lời khai của Chuẩn Tướng BĐQ Phạm Duy Tất bị CS bắt trong hồi kư của y. Tướng Tất cho biết chiều 14-3 Thiếu Tướng Phạm Văn Phú sau khi dự Hội nghị Cam Ranh về đă họp Bộ Tham Mưu Quân đoàn và kể lại diễn tiến buổi họp. Ông Thiệu hỏi Tướng Viên c̣n quân trừ bị không, Tướng Viên nói không c̣n, ông Thiệu hỏi Tướng Phú nếu không có quân tăng viện th́ giữ được bao lâu, Tướng Phú nói có thể giữ được một tháng nếu có yểm trợ không quân, tiếp tế bằng không vận về đạn dược, vật liệu và bổ sung quân số bù lại thiệt hại vừa qua, ông sẽ ở lại Pleiku chiến đấu và chết ở đó.

    Ông Thiệu nói không thoả măn được các điều kiện đó, CS th́ rất mạnh nên phải rút khỏi Kontum, Pleiku đưa quân về giữ đồng bằng duyên hải. Sau đó ông Thiệu hỏi rút bằng đướng số 19 được không, Tướng Viên trả lời đường này rất nguy hiểm, ông Thiệu hỏi đường số 14 đi được không, Tướng Viên đáp đường 14 không thể đi được. Cuối cùng chỉ c̣n đường số 7 ( CSBV gọi là đường số 7B) từ lâu không dùng tới nhưng tạo được sự bất ngờ. Tướng Phú cũng cho biết theo lệnh ông Thiệu chỉ rút các đơn vị chủ lực, bỏ Địa phương quân lại, không được thông báo cho các Tỉnh trưởng biết để họ ở lại tiếp tục chống giữ.

    Như vậy những lời thuật lại của Phạm Huấn, Đại Tướng Viên, Văn Tiến Dũng.. gần giống nhau.

    Kế hoạch đă được coi như hợp thức hoá và lệnh triệt thoái được ban hành, các Tướng lănh không ai phản đối. Khi bàn việc lựa chọn đường rút quân, Tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được v́ đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đă bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 Sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Đường 19 nối Pleiku – Qui Nhơn cũng khó thành công v́ đèo An Khê đă bị cắt ở hai phía Đông, Tây, Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đă từng bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7 không c̣n đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7, kế hoạch được chấp thuận.

    Tổng Thống Thiệu nói kế hoạch rút quân để bảo toàn lực lượng hầu tái chiếm Ban Mê Thuột, ông dặn Tướng Phú phải giữ bí mật, không được cho các Tỉnh trưởng biết, chỉ có chủ lực của Quân đoàn rút, Địa phương sẽ phải ở lại chiến đấu, như vậy về cơ bản kế hoạch đượm vẻ bất nhân, tàn nhẫn. Chiều 14-3 Bộ Tư lệnh Quân đoàn triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông báo lệnh rút bỏ Cao nguyên tuy nhiên không có giấy tờ Lệnh hành quân cấp Quân đoàn, cuộc hành quân tổ chức vội vă không được chặt chẽ.

    Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Nang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 BĐQ và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ tŕnh đường số 7. Tỉnh Lộ 7 từ ngă ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có 3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Đoạn cuối tỉnh lộ 7 trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông.

    Ngày 16-3 đoàn xe quân sự bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ Tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, bỏ lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc đám di tản. Theo Tướng Hoàng Lạc cuộc lui binh gồm có 4 đoàn, mỗi đoàn 250 xe, tổng cộng có 1,200 xe cộ (theo Phạm Huấn có tất cả 4,000 quân xa đủ loại, mỗi ngày một đoàn xe). Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi v́ có yếu tố bất ngờ, thấy di tản nhanh và dễ dàng nên khi tới Phú Bổn Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh và lập pḥng tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn.

    Ngày hôm sau 17-3 dân chúng Kontum, Pleiku chạy ùa theo làm náo loạn cuộc lui binh, t́nh h́nh đă không thuận lợi như ngày đầu mà lại gây nhiều trở ngại cho sự triệt thoái.

    Ngày 18-3 Liên đoàn 7 BĐQ đang cùng thiết giáp đánh chốt CS xui xẻo bị không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho quân bạn. Hỗn loạn xẩy ra, lính Thượng nổi loạn đốt doanh trại và giết nhiều người Việt khiến t́nh h́nh càng phức tạp, bọn lưu manh côn đồ, bọn nằm vùng đốt chợ, CS pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn người di tản, tối đến địch pháo kích thị xă gây nhiều tử thương cho quân dân di tản. Các chiến xa M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn. Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, các xe tăng M-48, M-41, đại bác bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy.

    Từ ngày 16-3 –1975 Sư đoàn 320 CS Ở Buôn Hô (Ban Mê Thuột) gần đoàn quân triệt thoái được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá, đến 18-3 lực lượng lớn của BV tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ dội rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn, các Liên đoàn BĐQ, thiết giáp, bộ binh của VNCH bị thiệt hại nặng. Địch xử dụng nhiều đại bác, xe tăng lấy được của miền Nam để truy kích đánh phá, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới.

    Nhận được báo cáo t́nh h́nh nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để về Tuy Hoà. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km th́ Cộng quân đă tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 BĐQ chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc, súng nổ khắp nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng. Binh lính chửi rủa Tổng thống Thiệu suốt dọc đường v́ cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, mộït hành lang máu.

    Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Đồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba th́ th́ bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. CSBV tổ chức các chốt chặn đường, một Tiểu đoàn ĐPQ và một Tiểu đoàn BĐQ được giao nhổ chốt. Ngày 22-3 hai Tiểu đoàn BĐQ ở đoạn hậu đánh tan Trung đoàn 64 CS (SĐ -320) gây nhiều thiệt hại, Trung đoàn phải rút lui. BV đưa thêm các lực lượng đă tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ 287 đổ xuống đường số 7. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Tướng Phú ra lệnh tan hàng, Cẩm và Bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hoà, những người c̣n lại chạy về hướng Đông. Phía Tây xe tăng CS đang tiến tới, hướng Bắc là Pleiku, hướng Nam địch đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba th́ về được Tuy Hoà. Ngày 26-3 Tiểu đoàn 34 BĐQ thanh toán các chốt sau cùng tại xă Mỹ Thạnh Ṭng, những người, xe c̣n lại của cuộc lui binh đă tới được Tuy Hoà, trong số 1,200 xe cộ chỉ có 300 mở đường máu tới nơi.

    Sáu năm sau, vào giữa tháng 3-1981, Đài phát thanh VOA đă b́nh luận.

    “Cuộc rút quân trên đường số 7 được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong lịch sử chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến nay”.

    Phạm Huấn gọi đó là hành lang máu, con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật khủng khiếp, theo Nguyễn Đức Phương khoảng 60 ngàn chủ lực quân khi tới Tuy Hoà chỉ c̣n khoảng một phần ba 20 ngàn người, 5 Liên đoàn BĐQ khoảng 7,000 chỉ c̣n 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ c̣n lại 13 cái M-113.

    Trong Những Ngày Cuối VNCH ông Cao Viên cho biết có nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đă bị hủy hoại chỉ trong ṿng có mười ngày. Chiến dịch đánh chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn giản chỉ v́ Quân đoàn 2 không c̣n lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đă chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới. Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ c̣n là Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương.

    Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Đức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy ḥa. Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần c̣n to tát hơn nhiều. Theo tướng Hoàng Văn Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ tŕnh, cầu cống, dân chúng và gia đ́nh binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đă ồ ạt chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp.

    Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên đường chạy loạn chỉ nằm chờ chết v́ bác sĩ y tá không c̣n nữa, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới nhiều ngh́n hay hàng vạn người.

    Ông Cao Văn Viên nói:

    “Thất bại tự tạo của quân đoàn II là một giấc mơ hăi hùng trên cả hai phương diện tâm lư và chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hăi, lên án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người”

    Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ sô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào t́nh huống tương tự.

    Không biết tin đồn ấy do đâu mà ra, cũng có thể do CS nằm vùng tung ra để gây hoang mang náo loạn, tin cắt đất này đă ảnh hưởng vô cùng tai hại, cùng với sự tuyên truyền xuyên tạc và phá hoại của đài BBC Luân Đôn, quân dân Vùng 1 và 2 cứ ùn ùn kéo nhau chạy về phương Nam khiến cho CS không phải đổ máu vẫn chiếm được nhiều lănh thổ của miền Nam . Trong khi ấy tại Sài G̣n phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng người ta cho rằng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7 đă đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Đại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan ră, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên, trận đánh đă rung động cả nước Pháp.

    Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị pḥng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ Văn Giai chiến đấu trong tuyệt vọng, vùng trách niệm của Sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía Tây và Nam Quảng Trị, cô lập lực lượng pḥng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần trước những trận pháo kích dữ dội của CSBV. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai tŕnh bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hăn với Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh vùng 1.

    Được Tư lệnh chấp thuận, ông cho lui binh tức th́ ngày 1-5-1972 Sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 9 Trung đoàn ồ ạt chạy về Nam qua Quốc lộ I. Cộng quân thừa cơ pháo theo chết như rạ trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ đầy các loại xe bốc cháy, hàng mấy ngh́n người bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, Sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác …

    Đại tá Phạm bá Hoa nói.

    “Những bài học chiến thuật trong trường Vơ bị cũng như trường Đại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân th́ hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, v́ đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công th́ trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, c̣n trong rút lui th́ trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), c̣n lực lượng lui binh th́ tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa.

    Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn v́ bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà th́ tổn thất đến nỗi không c̣n khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết v́ súng đạn, chết v́ xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa băi, chết v́ tranh nhau miếng ăn nước uống, chết v́ cướp giật…”

    (Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7)

    Cũng theo ông Phạm Bá Hoa, một điều trớ trêu là ta tưởng Cộng quân bao vây Pleiku nhưng thực ra khi quân ta rút đi ngày 16-3-1975 th́ bốn ngày sau đó, 20-3 địch mới tiến vào tỉnh lỵ sở dĩ như vậy v́ ta thiếu tin t́nh báo. Cộng quân c̣n ở cách xa Pleiku rất nhiều nhưng Tướng Phú đă quá sợ hăi, ông tưởng địch sắp vây tấn công tới nơi. Sự thực các Sư đoàn CS c̣n ở xa về phía Nam và Đông Nam Pleiku và gần đoàn quân triệt thoái nên ta mới bị địch pháo kích, đánh phá gây thiệt hại cho đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh.

    Theo ông Cao Văn Viên, kế hoạch rút bỏ Quân khu 2 và 1 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là do một ḿnh ông ấy nghĩ ra, không hỏi ư kiến ai. Ông Cao Văn Viên cho rằng đó là một kế hoạch đúng nhưng thực hiện quá trễ, đúng lư ra phải thực hiện từ 6 tháng trước. Dù kế hoạch đúng về quân sự nhưng cũng khó có thể thể chấp nhận được v́ nó là một kế hoạch bất nhân bỏ đồng bào lại cho CS.

    Khi ông Thiệu lệnh cho Tướng Phú khi rút Quân đoàn 2 phải dấu kín không được cho địa phương biết để lừa họ phải ở lại chiến đấu. Lệnh này đă gây tệ trạng cấp lớn bỏ quân, bỏ dân chạy trước khi cuộc tháo chạy bắt đầu diễn ra, kế hoạch cho phép bỏ rơi đồng bào ruột thịt của ḿnh vào tay Cộng sản, chính người miền Nam đă bỏ rơi lẫn nhau trong khi ta lại lớn tiếng chỉ trích người Mỹ bỏ rơi đồng minh.

    Kế hoạch rút quân về duyên hải để rồi từ đó theo đường Quốc lộ 21 lên tái chiếm Ban Mê Thuột của ông Thiệu nói trong phiên họp tại Cam Ranh thật không có ǵ vô lư hơn. Đường rút quân từ tỉnh lộ 7 xuống Tuy Hoà, từ đó xuống Nha Trang rồi lại từ Nha Trang đi ngược lên Ban Mê Thuột dài gấp 3 lần đườùng Quốc Lộ số 14 từ Pleiku xuống Ban Mê Thuột, đầy gian nan nguy hiểm. Lui binh để tái chiếm Ban Mê Thuột chỉ là một cách nói dối để đánh lừa các Tướng Lănh trong phiên họp và để che dấu cái ư định rút bỏ Cao Nguyên của TT Thiệu mà thôi.

    Hầu như tất cả giới quân nhân, chính khách, kư giả truyền tin… đều cho rằng kế hoạch tái phối trí, rút bỏ Quân khu 1 và 2 về bảo vệ Quân khu 3 và 4 của ông Thiệu là tai hại, nó đă làm sụp đổ miền Nam nhanh chóng lại đẩy bao nhiêu quân, dân vào chỗ chết một cách oan uổng. Kế hoạch tỏ ra rất không tưởng v́ không thể di tản hàng ngh́n xe cộ, hằng mấy trăm ngh́n quân dân chạy loạn tới nơi tới chốn qua một con đường đă bỏ hoang từ bao lâu nay, cầu cống hư hỏng, cũ kỹ chật hẹp, một điều xui xẻo tai hại là đường rút quân lại đi ngang ổ kiến lửa CSBV đóng tại Buôn Hô, chúng đă đuổi theo đánh phá gây thiệt hại trầm trọng.

    Sự sai lầm của kế hoạch tái phối trí lực lượng đă khiến cho CS chiếm được cả hai tỉnh Kontum Pleiku mà không mất một viên đạn. Lệnh cho Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Cao nguyên, Tướng Thiệu đă mở một cuộc hành quân phá sản và dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi.

    Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy. Thất bại trên đường số 7 một phần do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Ngoài ra tin cắt quân viện của Quốc Hội Mỹ cũng làm ông Thiệu hốt hoảng điên đầu. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, một phần v́ ông Thiệu dành độc quyền lănh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống pḥng thủ nhanh như vậy.

    Triệt thoái là một lệnh bí mật, chỉ một số ít sĩ quan cao cấp của Quân đoàn được truyền đạt, sự thực đó chỉ là một sự dối trá lừa gạt nhau để bỏ nhau chạy trước. Nhiều người cho rằng Tướng Tư lệnh Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc lui binh cấp Quân đoàn, sự thực không hẳn như vậy, chẳng riêng ǵ tại quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1 kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay không thể kiểm soát nổi t́nh h́nh rối loạn.

    Phạm Huấn cho rằng trên thực tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân Đồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong pḥng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện thoại. Cũng theo Phạm Huấn các Tướng Trần văn Cẩm, Lê Duy Tất, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời, cả một Quân đoàn không có ai chịu trách nhiệm.

    Tướng Trần văn Nhựt, người hùng An Lộc năm 1972 lại cho rằng Trung Ương đă không yểm trợ cuộc triệt thoái đến nơi đến chốn:

    “Mặc dù Cộng quân có gia tăng quân số thật nhưng chính những quyết định hạn chế đạn dược, rút quân sai lầm nói trên đă ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần toàn thể Quân, Dân, Cán Chính và làm cho sự sụp dổ miền Nam VN quá nhanh và quá nhục nhă. Đúng ra khi lệnh rút lui Quân đoàn 2/QK2, Tổng thống Thiệu phải chỉ thị cho Đại Tướng Viên, các vị Tư lịnh và Chỉ huy trưởng các Quân Binh Chủng phải ra Nha Trang để tận t́nh giúp Tướng Phạm Văn Phú điều động và yểm trợ cuộc rút quân lớn nhứt trong lịch sử QLVNCH. Thiếu tất cả mọi hỗ trợ căn bản cần thiết, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đành làm người hùng cô đơn v́ mọi sự việc rút lui ngoài khả năng và kinh nghiệm của ông”

    (Cuộc Chiến Dang Dở trang 272)

    Trang 146 Những Ngày Cuối VNCH, Ông Cao Văn Viên cho biết mặc dù mất Ban Mê Thuột nhưng lực lượng VNCH tại quân khu 2 c̣n khá mạnh, sự sai lầm của TT Thiệu đă khiến cho Vùng 2 sụp đổ nhanh chóng kéo theo sự sụp đổ của Vùng 1 và cả VNCH

    “Sau khi Ban Mê Thuột mất, các lực lượng c̣n lại ở vùng II trong phạm vi Kontum-Pleiku là: một tiểu đoàn của Trung đoàn 44, 5 liên đoàn Biệt Động Quân (7, 21, 22, 24 và 25); thiết đoàn 21 kỵ binh (xe tăng M-48); 2 tiểu đoàn pháo binh 155 ly, 1 tiểu đoàn 175 ly; và các đơn vị Nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Các đơn vị tiếp vận c̣n lại gồm: Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, liên đoàn 231 Tiếp Liệu; 20 ngàn tấn đạn và bom của bộ binh và không quân; nhiên liệu đủ cung cấp cho 45 ngày; và thực phẩm cho 60 ngày. Nhiệm vụ của tướng Phú là di chuyển tất cả các đơn vị, quân liệu này về Nha Trang, và từ Nha Trang tấn công lấy lại Ban Mê Thuột”

    Theo cựu Đại tá Phạm Bá Hoa trong bài Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7 nói:

    “Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa th́ rơ ràng là quân Cộng Sản mà ḿnh tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vậy Pleiku, nhưng thật ra chúng c̣n ở tận đâu đâu nên măi bốn ngày sau đó là thời gian sớm nhất chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lện Quân Đoàn , trong khi những Sư đoàn của chúng càng ở xa Pleiku về hướng Nam và Đông Nam th́ khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoát hơn, do đó mà thiệt hại của quân đoàn nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng…”

    Một điều xui tai hại là con đường đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn hô , Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đă đuổi kịp và đánh phá đoàn quân triệt thoát gây thiệt hại nặng nề.

    Sau này ngày 21-4-1975, Sư đoàn 18 BB đă thực hiện rút quân tại Xuân Lộc có trật tự, an toàn, ít thiệt hại, người ta đă cho di tản gia đ́nh binh sĩ trước để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của Sư đoàn 18 cho thấy thất bại của Quân khu 2 và 1.

    – Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh v́ quá gấp rút.
    – Không kiểm soát đôn đốc cấp chỉ huy.
    – Gia đ́nh binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội.
    – Không duy tŕ được kỷ luật

    Ngoài ra v́ thiếu tin tức t́nh báo đoàn quân triệt thoái lại đi ngang tổ kiến VC, Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô gần đoàn di tản đă đuổi kịp sau hai ngày.

    Dân chúng tị nạn làm náo loạn cả lên, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đă ră ngũ, tan hàng mặc dù chưa có chạm súng, người dân chạy loạn đă làm đảo lộn kế hoạch triệt thoái của Quân đoàn.

    Cuộc triệt thoái khiến cho Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2 và cũng đă để lọt vào tay địch nhiều vũ khí đạn dược, xe tăng, đại bác.

    Tỉnh Quảng Đức nằm ở tây Nam Darlac (Ban Mê Thụôt) và phía Bắc Lâm đồng vẫn c̣n đứng vững sau 12 ngày cầm cự tại quận Kiến đức phía Tây thị xă Gia nghĩa. Ngày 9-3-1975 một Sư đoàn Việt Cộng chiếm quận Đức lập phía Tây Bắc Quảng Đức, c̣n lại Quận Kiến đức phía Tây thị xă vẫn c̣n đứng vững, họ bảo vệ được thị xă yên ổn được gần hai tuần lễ.

    Đến ngày 22-3 t́nh h́nh tiếp liệu thiếu hụt, binh sĩ ngoài tiền tuyến quá mệt mỏi trước áp lực địch, tỉnh đă tính chuyện di tản mặc dù chưa có lệnh của Quân đoàn. Sáng 22-3-1975 Đại tá tỉnh trưởng Quảng đức lấy tiền trong ngân khố đem lên trực thăng đưa về Sài g̣n rồi quay trở lại, ông ghé Lâm đồng nghỉ ngơi xong lên máy bay trở về Quảng Đức nhưng trực thăng bị hỏng không quay trở về được, đó là theo lời ông ấy nói. Đến chiều Trung tá Tiểu khu phó bèn cho lệnh tỉnh di tản, hai Tiểu đoàn BĐQ tại Kiến đức gọi về tỉnh xin lệnh nhưng thấy các quan đă triệt thoái nên anh em cũng lui binh trong trật tự, họ đă gài ḿn trên đường về thị xă rồi rút theo đoàn quân của tỉnh.

    Về điểm này trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn nói sai hoàn toàn. Trang 170: “Đại tá Ngh́n, Tỉnh trưởng Quảng Đức liên lạc về khẩn báo: Quận Kiến đức mất. Quận Gia Nghĩa đang bị pháo nặng. Cộng quân từ An Lộc kéo về đă tiến sát Phi trường Quảng Đức”. Trang 171: “Hầm chỉ huy và hệ thống liên lạc của Tỉnh trưởng Quảng Đức bị pháo sập. Đại tá Tỉnh trưởng chỉ huy lực lượng c̣n lại của Tiểu khu, mở đướng máu rút về hướng Lâm đồng”.

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Triệt Thoái Quân Đoàn 2, cuộc hành quân phá sản
    P2




    Không biết Phạm Huấn căn cứ vào tài liệu nào nhưng chúng tôi là nhân chứng từ đầu chí cuối tại đây đă biết rơ sự việc. Hoàn toàn không có chuyện quận Kiến đức bị mất, thị xă Gia Nghĩa không hề bị pháo, địch c̣n bị cầm chân tại Kiến đức cách thị xă khoảng 15 km. Tỉnh trưởng vẫn ở tư dinh cho đến ngày di tản, hoàn toàn không có chuyện pháo sập hầm, ông tỉnh trưởng đă đi máy bay trực thăng từ sáng, hoàn toàn không có chuyện mở đường máu rút về Lâm đồng.

    Đoàn quân triệt thoái từ Quảng Đức sau 5 ngày băng rừng th́ tới Lâm Đồng ngày 27-3, tổng cộng khoảng sáu, bẩy ngh́n người gồm ĐPQ, BĐQ, Cảnh sát..Đa số quân đội và một số ít dân chúng vượt sông tại Kinh Đà qua được Lâm Đồng, phần nhiều dân chúng bị bỏ lại v́ không thể đem theo hết mọi người được. Cuộc di tản tốt đẹp, hiền lành, rất kỷ luật, hoàn toàn không sẩy ra lộn sộn nào đáng tiếc.

    Ngày 27-3 đoàn quân di tản từ Quảng đức tới được Lâm đồng nhưng thật không may, ngày họ tới nơi cũng là lúc Lâm Đồng bắt đầu di tản về Phan Rang trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người. Từ hai ngày trước Sư đoàn 7 CS thuộc quân đoàn 4, dưới quyền điều động của Trần Văn Trà chiếm Định Quán, Hoài Đức, Giá Rai .. rồi tiến quân đánh tỉnh Lâm Đồng. Họ tiến theo đội h́nh xe tăng đi đầu rồi bộ binh, pháo binh, hậu cần theo sau tiến theo đường 20 gặp đồn đánh đồn, gặp bót đánh bót.

    Tỉnh trưởng Lâm Đồng bỏ trốn từ hai giờ sáng, ông ta lấy tiền trong ngân khố chạy lên Đà Lạt bằng xe díp, sự thực không riêng ǵ Lâm Đồng, Quảng Đức mà tại cả hai Quân khu 1 và 2, nhiều đơn vị trưởng, nhiều sĩ quan cao cấp thấy t́nh h́nh bi đát đă bỏ đơn vị chạy tháo thân, tâm lư chung con người ta ai mà chẳng sợ chết. Cuộc di tản từ Lâm Đồng về Phan Rang được tiến hành có trật tự, không sẩy ra hỗn loạn như cảnh triệt thoái trên đường số 7 có lẽ v́ không bị Cộng quân đuổi theo pháo kích.

    Trong khi ấy hai Trung đoàn CS băng rừng từ Phước Long qua tiến chiếm quận Di Linh, chiều tối hôm ấy, pháo binh thuộc địa phận Đà Lạt bắn thả dàn vào Di Linh đang nằm trong tay Cộng quân. Hai hôm sau Đà Lạt cũng di tản về Phan Rang.

    Dưới đây là những ngày cuối cùng của Quân đoàn 2, phần này chúng tôi dựa cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH của ông Cao Văn Viên.

    Vùng Cao nguyên mất, chủ lực Quân đoàn bị thiệt hại gần hết nhưng ở duyên hải Sư đoàn 22 bộ binh vẫn giữ vững pḥng tuyến ở B́nh Khê trên Quốc lộ 19, ở Tam Quan phía Bắc B́nh Định, hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 chống trả mănh liệt cuộc tấn công của Sư đoàn 3 CS dưới chân đồi B́nh Khê phía Tây Qui Nhơn. Hai bên giằng co nhau từng ngọn đồi, Cộng quân bị thiệt hại nhiều trong trận đánh. Trung đoàn 95B, Sư đoàn 968 BV được tăng cường tấn công hai Trung đoàn 41, 42 nhưng ta vẫn giữ được pḥng tuyến cho đến 30-3.

    Ở duyên hải, BV tăng viện thêm từ Quảng Ngăi đánh Tam Quan, Bồng Sơn ngày 25-3, Trung đoàn 47 sau 3 ngày chiến đấu rút về căn cứ không quân Phù Cát lập pḥng tuyến mới ở đó. Sư đoàn 320 BV sau khi đánh phá đoàn di tản trên tỉnh lộ 7B xong nhiệm vụ tiến về Tuy Hoà. Sư đoàn 10 cùng với xe tăng, đại bác từ Phước An theo đường 21 tiến về Khánh Dương ngày 27-3 để tấn công Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù. Đặc công, thám sát CS xâm nhập Qui Nhơn đóng chốt, cắt đường giao thông, ĐPQ của ta bây giờ biến mất hết. Sư đoàn 22 BB được lệnh rút về Qui Nhơn.

    Ngày 30-3 Trung đoàn 41 và 42 được lệnh rút khỏi mặt trận B́nh Khê, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn Hữu Thống đă năn nỉ xin Tư lệnh ở lại đánh, ông nói t́nh h́nh chưa đến nỗi, nếu rút đi sau này khó đem quân trở lại. Nhưng đă quá trễ, khi hai Trung đoàn vào thị xă Qui Nhơn, họ bị các chốt địch bên trong thị xă chận đánh, ĐPQ của ta tại đây đă di tản, Qui nhơn đă nằm trong tay Sư đoàn 3 CS.

    Sau 3 ngày chiến đấu cộng với sự yểm trợ của Hải pháo, Trung đoàn 41, 42 phá được pḥng tuyến địch ở Nam thành phố. Quân của hai Trung đoàn 41, 42 thuộc Sư đoàn 22 tập trung một địa điểm phía Nam cách bến tầu 6 cây số chờ di tản. Hai giờ sáng 1-4 ba tầu Hải quân cập bến chở đám binh sĩ c̣n lại của Sư đoàn, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn hữu Thống từ chối di tản và ở lại tự sát.

    Trung đoàn 47 sau hai ngày cố thủ bị đánh bật ra khỏi phi trường Phù Cát, trên đường di tản về Qui Nhơn Trung đoàn bị phục kích tại quận lỵ, Tiểu đoàn trưởng ĐPQ tự tử, xác c̣n nằm trước văn pḥng quận. Trung đoàn 47 mất đi hơn nửa quân số coi như bị loại khỏi ṿng chiến. Sư đoàn 22 BB khi được tầu chở về Vũng Tầu chỉ c̣n hơn 2,000 quân.

    Sáng 2-4 Cộng quân chiếm Tuy Hoà, ĐPQ rút về Nha Trang, tại đèo Cả phía Nam Phú Yên Tiểu đoàn BĐQ 34 bị thất thủ sau hai ngày cầm cự. Tại Khánh Dương Sư đoàn 10 CS và Lữ đoàn 3 Dù giao tranh dữ dội ngày 27-3, BV được pháo binh, xe tăng yểm trợ đă phá được pḥng tuyến VNCH. Tiếp viện cho Lữ đoàn Dù bị chận đánh, quân Dù giữ được Khánh Dương một tuần th́ thất thủ ngày 2-4, Lữ đoàn tan ră trước áp lực quá đông của địch chỉ c̣n hơn 300 người chạy về Nha Trang. Việt Cộng chiếm trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, Ninh Hoà.

    Nha Trang đă trở thành vô chính phủ như nhiều thành phố khác, tù quân lao phá ngục trốn ra lấy súng của đám tàn quân bỏ chạy bắn loạn xạ, cướp bóc dữ dội như thời thượng cổ. Trưa 2-4 Trung tướng Phạm Quốc Thuần chỉ huy trưởng Trung tâm Dục Mỹ đến Bộ tư lệnh Quân đoàn gặp Tướng Phu,ù hai người bàn bạc với nhau chừng 15 phút rồi cùng đi tới phi trường Nha Trang. Tướng Phú lên trực thăng bay đi t́m các đơn vị, đến chiều trở lại Nha Trang ông báo cáo cho Bộ Tổng tham mưu biết không liên lạc được với đơn vị nào. Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho ông phối hợp Hải, Không quân để tổ chức pḥng thủ phi trường Nha Trang.

    Nửa tiếng sau Tướng Phú bay khỏi Nha Trang, ông không nói ǵ với Ban Tham mưu Quân đoàn hay bàn thảo kế hoạch ǵ cả, quá tuyệt vọng ông bèn bay về Sài G̣n nhập bệnh viện Cộng Hoà ngày 4-4. Tướng Phú không c̣n tinh thần để chỉ huy vả lại Quân đoàn 2 của ông cũng chẳng c̣n ǵ cả. Khi ấy Ban Tham mưu Quân đoàn 2 bèn quyết định di tản khỏi Nha Trang. Từ 27, 28-3 các đơn vị của Lâm Đồng, Tuyên Đức rút về Phan rang để tháo chạy về miền Nam.

    Làn sóng tỵ nạn miền Trung từ Quân khu 1, và phía Bắc Quân khu 2 đổ về Phan Rang khiến cho cả tỉnh hốt hoảng nhập bọn chạy về phía Nam. Địa phương quân, cảnh sát, công chức Phan Rang… nhiều người bỏ đơn vị để chạy loạn. Tỉnh trưởng Đại Tá Trần Văn Tư cho phá hủy máy móc và một số cơ sở quan trọng rồi rút về Phan Thiết.

    Bộ Tổng tham mưu khi ấy bèn lấy Phan Rang và Phan Thiết, hai tỉnh cuối cùng của Quân đoàn 2 đem sáp nhập vào Quân khu 3 kể từ ngày 4-4-1975, Quân đoàn 3 cũng gửi Lữ đoàn 2 Nhẩy Dù ra tăng cường. Nha Kỹ Thuật, Pḥng 7 Bộ Tổng tham mưu gửi nhiều toán thám sát vào hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc Phan Rang để ḍ thám hoạt động của Cộng quân. Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại phi trường Phan rang, Tỉnh trưởng Phan Rang được triệu hồi để tổ chức lại hành chánh và pḥng thủ tỉnh. Trật tự được văn hồi, tại phía Tây Phan Thiết Sư đoàn 7 CS đang gây áp lực, toán thám sát cho biết địch tập trung 2 Sư đoàn 3 và 10 tại Cam Ranh cách Phan Rang 45 km.

    Quân đoàn 3 lại cho rút Lữ đoàn Dù về vùng 3 để pḥng thủ Quân khu, thay vào đó cho tăng cường Phan Rang một Trung đoàn của Sư đoàn 22 mới trang bị, bổ sung, một Liên đoàn BĐQ, một Tiểu đoàn thiết giáp. Cuộc thay đổi quân sắp hoàn tất th́ ngày 4-4 địch tấn công dữ dội, Tướng Nghi xin giữ lại một Tiểu đoàn Dù. Lực lượng Ninh Thuận, Phan Rang bây giờ gồm: một Tiểu đoàn Dù, một Trung đoàn bộ binh, một Liên đoàn BĐQ, 4 tiểu đoàn ĐPQ, một Chi đoàn Thiết giáp M-113, Sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, Duyên đoàn 27, một Giang pháo hạm, một Hải vận hạm và một số tầu yểm trợ.

    Phan Rang phố xá vắng tanh, dân chúng đă di tản về Phan Thiết. Ngày 14-4 Sư đoàn 3 và 10 CS tấn công tuyến pḥng thủ Phan Rang theo Quốc lộ 1 và 11 đánh vào phi trường, tại đây Tiểu đoàn Dù giao chiến với Cộng quân, địch chết bỏ xác 100 tên. Ngày 15-4-1975 Ông Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng đặc trách Quốc pḥng và Tướng Toàn thị sát mặt trận.

    Bị quân trú pḥng đánh trảù ác liệt BV cho tăng thêm Sư đoàn 325 và nhiều xe tăng, đại bác tấn công phi trường Phan Rang đến trưa th́ pḥng tuyến vỡ. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh mặt trận, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương Lữ đoàn trưởng Dù được ghi nhận mất tích. Toàn tỉnh Ninh Thuận mất ngày 16-4, hai hôm sau ngày 18-4 mất Phan Thiết, Quân khu 2 hoàn toàn lọt vào tay CSBV.

    Cuộc triệt thoái Cao nguyên đă khiến cho Quân đoàn 2 mất gần hết chủ lực quân, chỉ c̣n Sư đoàn 22 tại vùng duyên hải mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng không thể chống lại mấy Sư đoàn Cộng quân, cuối cùng toàn bộ Quân khu đă rơi vào tay BV. Nhiều người đổ cho Tướng Phú đă làm mất Ban Mê Thuột và sụp đổ Quân đoàn 2, Phạm Huấn cho rằng ông chưa đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn.

    Ngoài ra theo Phạm Huấn tại Quân đoàn 2 có những tị hiềm các nhân, ḱnh chống nhau giữa những phụ tá của Tướng Phú, của những phe cánh trong quân đội và giữa Tướng Phú với những ông Tướng văn pḥng ở Sài G̣n của Bộ Tổng Tham mưu. Quân đoàn 2 chia rẽ nội bộ, Tướng Phú không được thuộc hạ ở Quân khu 2 nể trọng và có cảm t́nh, ông lại không được Tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên nể nang, thù trong giặc ngoài, tất cả cũng đă làm suy yếu phần nào nội bộ của ta.

    “V́ sự đố kỵ, bất măn, bất lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất đưa đến sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.”

    Phạm Huấn (CTTCN, trang 125)

    Sự thực Tướng Phú có một phần trách nhiệm để mất Ban Mê Thuột vào tay CS v́ ông đă mắc lừa kế nghi binh của địch, nhưng sự sụp đổ Quân đoàn 2 như chúng ta đă thấy Tổng Tư lệnh là người chịu trách nhiệm nhiều nhất v́ kế hoạch của ông đă có nhiều lỗi lầm tai hại. Tướng Phú đă nh́n thấy cái nguy hại của triệt thoái và đă xin ở lại tử thủ, nếu được yểm trợ về tiếp liệu th́ có thể cầm cự cho tới mùa mưa, lúc ấy hai bên không thể giao chiến được nữa nhưng ông Thiệu một mực bắt phải lui binh

    Trong Những Ngày Cuối Của VNCH, trang 134 ông Cao Văn Viên nói.

    “ Nghĩ lại việc đă qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói th́ sự đă rồi, nhưng tác giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan ră nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn c̣n nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn c̣n Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô . Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành công, đánh nhanh và chiến được nhiều đất như họ đă làm ở vùng I. T́nh h́nh quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quận viện; không c̣n nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan ră nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện”.

    Các giới chức quân sự, chính trị, nhà báo… cũng cho rằng nếu ta không rút, cứ đánh chưa chắc đă thua. Sách Mạnh Tử có câu “Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hoà”, Ngài giảng: Kẻ địch cất quân sang đánh nước ta là chúng có Thiên thời, nước ta có núi non hiểm trở, thành lũy cao, hào sâu là ta có Địa lợi, nhưng khi quân địch vừa tới, binh sĩ ta quăng gươm giáo bỏ chạy là v́ ta không có Nhân hoà” (ta không được ḷng người). Thật vậy chúng ta lui binh tức là từ bỏ ưu thế địa lợi để rồi mất luôn cả ưu thế nhân hoà.

    Trước một kế hoạch tối quan trọng như thế ông Thiệu cần phải hội thảo với các vị Tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu… để lấy quyết định chung thay v́ tự quyết định và như vậy ông đă tránh được trách nhiệm bản thân . Lịch sử đă chứng tỏ rằng sự tập trung quyền hành trong tay một người đă đưa tới những sai lầm trầm trọng như Hitler đă làm tiêu tan nguyên một lộ quân ba trăm ngàn người trong trận Stalingrad 1942 v́ quá độc tài.

    Nhà báo, dân biểu Trần Văn Ân trong lời Bạt cho cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên Năm 1975 viết.

    “đây là cuốn sách đầu tiên đă nói lên được cái thân phận vừa đau thương vừa hào hùng của người lính Cộng Hoà thấp cổ bé họng, đă mô tả được những uất nghẹn của của người Sĩ quan Việt Nam nh́n thấy thảm cảnh Quân đội tan hoang mà bó tay chịu chết, và cũng đă phơi bầy được cái hậu trường tàn nhẫn, hèn nhát và bất nhân của nhóm người lănh đạo Quốc Gia và chỉ huy Quân đội.
    . . . . . . . . . .
    Ba ông tướng cao cấp khác, có mặt tại Hội Nghị Cam Ranh cùng với ông Thiệu, đă hoàn toàn im lặng, không góp bàn ǵ về cái quyết định giết người của ông Thiệu cả”
    (CTTCN 1975, trang 265, 266)

    Kề hoạch của ông Thiệu và tập đoàn Tướng lănh đă bị chỉ trích gay gắt như sau:

    “Người đọc cũng thấy rơ sự tàn nhẫn, lạnh lùng của TổngThống Thiệu khi ban hành thứ mệnh lệnh tự sát cho Tướng Phú, và thái độ im lặng giả dối, sống chết mặc bay của những tướng hiện diện….
    . . . . . . . . . . . . . . .
    Câu chuyện Phạm Huấn kể về cái Hội Nghị Cam Ranh c̣n đặt ra một khía cạnh khác của nhân t́nh thế thái: đó là khía cạnh đạo đức của mệnh lệnh.Trong suốt buổi họp từ ông Thiệu, ông Khiêm tới ông Viên, Ông Quang, không một ai đề cập tới số phận của hằng triệu dân, hàng trăm ngh́n Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và gia đ́nh binh sĩ sẽ bị bỏ rơi lại, và hàng chục ngàn xác chết Quân Dân chắc chắn sẽ đầy rẫy dọc theo con đường tử lộ. Ông Thiệu phân tách t́nh h́nh rồi lạnh lùng chỉ thị rút chủ lực quân thật nhanh, thật bí mật về miền Duyên Hải… Các Ông Tướng khác giữ im lặng, thản nhiên như mọi việc đă được quyết định rồi và không c̣n ǵ để bàn căi nữa”

    Trần Văn Ân (CTTCN 1975 trang 267)

    Những lời kết án của Trần văn Ân, của Phạm Huấn… cũng như của bao nhiêu người khác nữa thể hiện niềm phẫn uất của quân dân đối với Hội Nghị Cam Ranh .

    “Lịch sử sẽ ghi những ǵ về Hội Nghị Cam ranh và về các tướng lănh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hoà? Sử liệu có lẽ sẽ cần năm ba chục năm để hoàn tất. Nhưng ngay bây giờ th́ sử xanh đă truyền tụng quá nhiều. Sử xanh ghi rằng. “Hội Nghị Cam Ranh ngày 14.3.1975 và cuộc triệt thoái Cao nguyên ngày 17.3.1975 không phải là khởi đầu sụp đổ của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam. Hai biến cố này thực sự là dứt điểm vụt tắt cuối cùng của cơn hấp hối đă dai dẳng nhiều năm của chế độ dũng phu Nguyễn Văn Thiệu-Trần Thiện Khiêm trong đó một khối quân đội gồm Đa Số Tướng lănh và quân sĩ tài giỏi, anh hùng đă bị lợi dụng, thao túng và chết uổng bởi một nhóm nhỏ Tướng lănh cầm quyền tham ô, bất lực và thiếu đạo đức, với sự tiếp tay của một thiểu số người vô tài bất hạnh; kể cả một số khoa bảng thời cơ và bịp bợm.

    Tiền bạc của nhân dân mà họ mang ra ngoại quốc có thể giúp họ sống sung túc tới trăm tuổi là cùng. Nhưng tội lỗi của những Tướng lănh đạo sẽ được lịch sử ghi rơ đời đời. Lương tâm thui chột của họ có thể làm ngơ, nhưng lịch sử bao giờ cũng sáng suốt và tiếng nói dân gian bao giờ cũng công b́nh.

    Liệu rồi đây, khi họ nằm xuống, những nấm mồ của họ có sẽ được chôn tại miền nắng ấm quê nhà hay sẽ phải nằm cô đơn giữa một miền tuyết lạnh Mỹ Châu, Âu Châu? Liệu rồi đây nhân dân có đủ khoan dung cho phép họ nằm cạnh những nấm mồ của các chiến sĩ anh hùng đă chết trên chiến địa, đă tự sát khi bại trận hay đă chết trong lao tù? Những anh hùng này đă hy sinh cho một chính nghĩa cao đẹp nhưng bị chết uổng v́ một Lănh Đạo tồi tàn”

    Trần Văn Ân (CTTCN trang 272).

    Tướng Phú phải chịu trách nhiệm phần nào trong cuộc hành quân phá sản và làm sụp đổ Quân đoàn. Là người tự trọng ông đă can đảm tự xử lấy bản thân v́ đă không chu toàn trách nhiệm. Kư giả Trần Văn Ân đă luận bàn về tư cách của người chiến sĩ anh hùng thà chết vinh c̣n hơn sống nhục như sau.

    “Tướng Phú đă nằm xuống. . . . với đầy đủ khí tiết của một cấp chỉ huy đă dám tự xử ḿnh khi trách nhiệm không hoàn tất.

    Tại sao những Tướng lănh đạo nền Đệ II Cộng Hoà lại không thấy được tội lỗi của ḿnh và không dám tự xử? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân, giữa người yêu nước thật sự và người làm chính trị v́ tham vọng cá nhân? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa Tướng tác chiến Phạm Văn Phú và các Tướng chính trị Nguyễn Văn Thiệu Trần Thiện Khiêm?
    Ước mơ của tôi là một ngày nào quê hương được giải phóng, tôi sẽ về lại Việt Nam thăm mộ Tướng Phú và các chiến sĩ vô danh khác, thắp nén hương tưởng nhớ những anh hùng đă vị quốc vong thân, và xám hối về những tội lỗi của ḿnh”

    (CTTCN 1975 trang 273)

    Cuộc triệt thoái đă ảnh hưởng tai hại tới t́nh h́nh Quân khu I để rồi cuối cùng đưa tới sự sụp đổ hai vùng chiến thuật và sự sụp đổ của cả VNCH.




    Trọng Đạt

    Tài Liệu tham khảo.

    Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
    Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
    Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003.
    Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
    Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
    Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005.
    Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006.
    Dương Đ́nh Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
    Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
    Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing.
    The Word Almanac Of The Viet Nam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1958.
    Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991.
    Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002.
    Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút kư, internet.
    Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004
    Hồi Kư Của Trung Uư D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005.
    Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai C̣n Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005.
    Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 .
    Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006.
    Trần Gia Lương: Một Cái Nh́n Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài G̣n Nhỏ Dallas 2004
    Tú Gàn: Trở Lại Trận Ban Mê Thuột, Sài G̣n Nhỏ Dallas Tháng 4-2005.
    Trung Tướng Lữ Lan: Cuộc Chiến Ba Mươi Năm Nh́n Lại Từ Đầu, Sài G̣n nhỏ Dallas 28-4-2006.


    http://quancanh.com/qc2/index.php?op...nch&Itemid=134

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc triệt thoái khỏi Cao Nguyên của QĐ2 QLVNCH



    Cuộc triệt thoái khỏi Cao Nguyên của QĐ2 QLVNCH được bảo mật tuyệt đối. Tướng Phú hy vọng yếu tố bất ngờ sẽ giúp lực lượng QĐ2 có thễ rút về được Tuy Ḥa trước khi địch quân phát giác. Chỉ một số ít sĩ quan trong ban tham mưu QĐ và một vài chỉ huy trưỏng đơn vị được thông báo quyết định rút quân. C̣n các tiểu khu trưởng Kontum, Pleiku, Phú Bổn, chỉ đoán được ư định của quân khu vào giờ phút chót khi thấy các đơn vị quân chính qui của QĐ bắt đầu di tản. Kế hoạch triệt thoái được phát thảo vội vă, đại cương, những mệnh lệnh hành quân chi tiết, cụ thể đều không hề có. Ngay cả vấn đề dân chúng sẽ đổ xô di tản theo đoàn quân khi biết được QĐ rút đi, cũng không hề được dự liệu trước. Hậu quả là đội h́nh chiến đấu của cả một quân đoàn không thể triển khai nhanh chóng và hiệu quả khi đụng địch v́ dân chúng ở lẫn lộn trong hàng ngủ các binh sĩ làm họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc chiến đấu.

    Đại Tá Lê Khắc Lư, Tham Mưu Trưởng QĐ2 có tŕnh xin Tưóng Phú cho một tuần lể, hay ít nhất cũng đươc ba ngày để lập kế hoạch rút quân, nhưng Tướng Phú không tán thành điều này. Ông chỉ cho thời hạn một ngày là toàn bộ QĐ phải triển khai phương án di tản, không được phép chậm trể! Và lịnh di chuyễn chỉ được phổ biến xuống các đơn vị đúng một tiếng đồng hồ trưóc khi khởi sự hành quân triệt thoái.

    Tướng Phú hiểu rơ LTL7B là con đường bị bỏ hoang và hư hỏng nhiều chỗ, nên ông ra lịnh cho Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu đi tiền tiêu để phụ trách việc sữa chữa, tu bổ những đoạn đường và cầu cống bị hư hại-.

    Ngày 16 tháng Ba năm 1975, QĐ2 bắt đầu cuộc triệt thoái bốn đợt. Mỗi đợt gồm khoăng 250 xe GMC, được một chi đoàn M48 thuộc Thiêt Đoàn 21 Chiến Xa yểm trợ. Các tiểu đoàn của năm LĐ BĐQ vẫn c̣n nằm án ngữ bảo vệ Kontum và Pleiku, cùng với một chi đoàn chiến xa M48 khác, làm lực lượng đoạn hậu cho QĐ, sẽ rút sau cùng vào ngày 19 tháng Ba. Các đơn vị tiếp vận, quân cụ, và pháo binh được lịnh di tản trong đợt đầu tiên và đợt ngày 17 tháng Ba. Các đơn vị Quân Cảnh, các pḥng, sở thuộc QĐ, và thành phần c̣n lại của Trung Đoàn 44 BB rút trong đợt ngày 18 tháng Ba. Theo kế hoạch dự trù th́ lực lượng diện địa của các Tiểu Khu Kontum, Pleiku, Phú Bổn sẽ phụ trách việc bảo vệ an ninh dọc đường rút lui.

    Lực lượng triệt thoái của QĐ2 bao gồm 1 tiểu đoàn của Trung Đoàn 44; 6 Liên Đoàn BĐQ: LĐ 4, 25, và LĐ 7(vừa được Bộ TTM tăng cường cho QK2 ) đang nằm tại Pleiku; LĐ 6,22,23 ở Kontum; Thiết Đoàn 21 Chiến Xa; 2 tiểu đoàn pháo 155-mm Howitzer; 1 tiểu đoàn pháo tầm xa 175 ly; Liên Đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu và Liên Đoàn 231 Yểm Trợ Tiếp Vận.

    Ngày 16 tháng ba, lệnh triệt thoái được ban hành. LĐ 6 BĐQ, bảo vệ phía đông bắc thị xă Kontum, rút về thị xă Pleiku ngày hôm trước.Hai LĐ 22, 23 BDQ, từ phía bắc và tây bắc Kontum, rút về Pleiku ngày kế tiếp. Vào lúc này, một đơn vị của Trung Đoàn 44 BB và các LĐ 7, 25 BĐQ vẫn c̣n án ngữ bảo vệ phía tây thị xă Pleiku. Một tiểu đoàn của LĐ25 BĐQ đang đụng độ ác liệt với lực lượng chính qui BV tại Thanh An. Tướng Tất, Tư Lệnh BĐQ QK2, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái, cho dời Bộ Chỉ Huy nhẹ của ông về Cheo Reo, Phú Bổn. Ông thay đổi kế hoạch, đưa một LĐ BĐQ theo yểm trợ cho LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu trong trọng trách đi tiền tiêu. Chính nhờ quyết định này mà các đơn vị công binh của LĐ 20 có được sự yểm trợ cần thiết để thi hành nhiệm vụ v́ các lực lượng điạ phương của Phú Bổn, cũng như của Kontum, Pleiku đều không hề bảo vệ an ninh lộ tŕnh như kế hoạch dự trù, v́ chính họ khi biết bị bỏ rơi đă di tản theo đoàn quân, hoặc tự ư rả ngũ! Ngày 16 tháng ba, lực lượng điạ phương địch dùng hoả tiển 122 ly pháo dữ dội vào thị xă Cheo Reo. Địch quân đă bắt đầu đánh hơi được động tĩnh của đoàn quân di tản!

    Tại Chỉ Huy Sở Măt Trận B3 Bắc quân, Tướng Văn Tiến Dũng nhận được báo cáo của đơn vị kiểm thính, vừa chặn bắt đươc điện đàm vô tuyến của Không Quân miền Nam cho biết hầu hết các máy bay từ phi trường quân sự Pleiku đă cất cánh bay về Nha Trang, mặc dầu phi trường này vẫn chưa bị pháo kích nặng, và các điện đàm của QĐ2 cho biết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của QĐ đă dời về Nha Trang. Các đài phát thanh ngoại quốc cũng loan tin dân chúng Pleiku đang đổ xô di tản về Saig̣n bằng máy bay của hăng Hàng Không Việt Nam. Chiều ngày hôm ấy, một tổ trinh sát báo cáo về Sở Chỉ Huy Bắc quân, một đoàn công voa dài đang di chuyễn xuôi nam về hướng Phú Bổn. Tưóng Dũng ra lệnh báo đông cho Trung Đoàn 95 B chính qui BV đóng dọc QL19, SĐ320 tại phía bắc Ban Mê Thuột trên QL14, và SĐ F.10 tại QL21, theo dơi t́nh h́nh, v́ lực lượng QĐ2 đang có những cuộc tái phối trí quan trọng. Sau khi đưọc báo cáo LTL 7B vẫn c̣n có thể xử dụng được, và đoàn công voa rất dài của QĐ2 đang tiến vào Cheo Reo, Tướng Dũng nổi giận, ra lịnh cho SĐ 320 tức tốc bôn tập về hướng Phú Bỗn để chặn đánh đoàn quân di tản.

    Ngoại trừ những cuộc pháo kích bằng hỏa tiển 122 ly vào ngày 16, tháng ba, Bắc quân chưa có phản ứng ǵ đáng kể cho măi tới tận ngày 18.Trong lúc t́nh h́nh thật khẩn cấp như dầu sôi lửa bơng, LĐ 20 Công Binh Chiến Đấu vẫn chưa hoàn tất được cầu phao qua sông Ea Pa, nằm về phía đông tỉnh lỵ Hậu Bổn (Cheo Reo), v́ không đủ phương tiện cần thiết!. Đoàn công voa hoàn toàn kẹt cứng tại Cheo Reo và dọc trục lộ ngược về tận hướng ngả ba giao lộ giữa LTL7B và QL14.

    Chiều 18 tháng ba, SĐ 320 BV khởi sự tấn công đoàn xe di tản tại thung lũng Cheo Reo bằng tất cả sức mạnh cuả hoả lực pháo nặng, cối 82 ly, và bộ binh xung kích. Địch bắn xối xă vào mục tiêu bằng tất cả những ǵ có được trong tay. Từ đại pháo 130 ly, hoả tiển 122 mm, cho tới B40, 41, thượng liên và súng cá nhân. Những chiếc xe dân sự lẫn quân sự trúng đạn nỗ tung, bốc cháy, lửa khói mịt mù. Từng đoàn người hốt hoảng, nhảy xuống xe t́m chổ trú ẩn ven đường.

    Đại Tá Lư, Tham Mưu Trưởng QĐ2, đến Bộ Chỉ Huy nhẹ của đoàn quân triệt thoái đóng tại Cheo Reo vừa kịp lúc để ra lịnh cho Liên Đoàn 23 BĐQ tiến chiếm đèo Ban Bleik, một điểm chiến lược trọng yếu, ngay phía tây thị xă Cheo Reo. BĐQ đă chặn đứng những đợt tấn công vũ bảo của quân BV vào cạnh sườn của đoàn công voa, bảo vệ cho LĐ 20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ea Pa. Đoàn công voa tiếp tục cuộc hành tŕnh trên chăng đường điạ ngục c̣n lại trong cái đói khát, cái rét căm căm cuả rừng núi về đêm, và lửa đạn của quân thù bắn không thương tiếc lên đầu.

    Cùng ngày 18 tháng Ba, Bộ Tư Lệnh QĐ2 cuả Tướng Phú (đă di tản về Nha Trang hôm 16 tháng Ba), cho trực thăng bốc Đaị Tá Lư khỏi vùng Cheo Reo, Phú Bổn ! Tướng Cẩm, Tư Lệnh Phó QĐ2 cũng đă tự ư bay về Tuy Ḥa, chỉ một ngày sau khi Tướng Phú cùng bộ tham mưu của ông bay về Nha Trang! Như vậy, chỉ c̣n mỗi một ḿnh Tướng Tất là sĩ quan cao cấp nhất đi theo đoàn quân di tản! Chiều ngày 20 thàng Ba, khi Tướng Tất cùng lực lượng của ông vừa rút tới thị xă Cheo Reo bằng đường bộ, Tướng Phú cho trực thăng bốc ông cùng Tỉnh Trưởng Phú Bổn về Nha Trang, và đoàn quân triệt thoái kể từ giờ phút này đă thật sự như rắn mất đầu, v́ không c̣n một ai trách nhiệm nữa!!

    Sự triệt thoái bất ngờ của QĐ2 đă làm Tướng BV Văn Tiến Dũng, hoàn toàn kinh ngạc, nhưng đầy săng khoái. Tướng Dũng tự hỏi, chính ai đă ra lịnh lui quân khỏi Cao Nguyên? Nếu quả thật Sàig̣n đă ra lịnh đó, th́ đây không những là một lầm lổi chiến lược không thể tha thứ, mà c̣n là một vấn đề vượt khỏi tầm mức chiến dịch mà Mặt Trận B3 đang đảm trách, thuộc về một tầm vóc chiến lược khác rộng lớn hơn. Tướng Dũng ngay lập tức hạ lịnh cho tất cả các đơn vị thuộc B3 phải chặn kín LTL7B, với mục tiêu rơ rệt không phải chỉ đánh bại mà là tiêu diệt toàn bộ lực lượng của QĐ2.

    Ngày 21 tháng Ba, SĐ 320 BV với quân số và hỏa lực áp đảo, đă tràn ngập vị trí pḥng thủ của LĐ23 BĐQ tại Cheo Reo, cắt đoàn di tản ra làm hai khúc. Hơn 160,000 dân và các LĐ BĐQ 4, 25 bị kẹt lại đàng sau và thành phần sống sót của LĐ23BĐQ. Tướng Phú ra lịnh cho các LĐ BĐQ đi đoạn hâu, bỏ đường lộ chính, cắt rừng, t́m đường thoát hiểm. Pháo và hoả lực súng nhỏ của địch vẫn tiếp tục bắn như mưa vào đoàn xe đang kẹt lại phía sau. Các đơn vị đoạn hậu của LĐ4, và 25 BĐQ, đánh vùi suốt đêm với lực lượng Bắc quân, bảo vệ cho khúc đuôi của đoàn xe chạy thoát vào rừng! Xác lính áo rằn ḥa lẫn xác dân, nằm rải rác khắp nơi; máu loang thành vũng ven đường!

    Sáng ngày 19 tháng Ba, những xe đầu tiên của đoàn công voa đă tới được sông Cồn, cách Cũng Sơn 18 cây số về phía đông, và khoảng 2/3 chặng đường từ Cheo Reo tới điểm đến, Tuy Ḥa. Nhưng khúc đuôi của đoàn xe di tản tơi tả vẫn c̣n lết thết măi tận thị xă Cheo Reo, nơi những đoàn ngựi tỵ nạn vẫn tiếp tục tràn vào những đường phố rải đầy xác chết. Tại khúc ḷng cạn của sông Cà Lúi, 25 km phía tây bắc Cũng Sơn, một số chiến xa M48 bị mắc lầy khi vượt sông. LĐ 7BĐQ đụng nặng với quân truy kích của SĐ 320 BV. Các phi tuần A37 từ phi trường Nha trang đựơc gọi lên yểm trợ, đă oanh kích dữ dội vào vị trí của quân BV đang tấn công các đơn vị BĐQ bảo vệ đoàn xe. Nhưng một trong những máy bay yểm trợ quân bạn, đă nhầm lẫn đánh bom vào vị trí của BĐQ đang ác chiến với quân chính qui BV, gây thiệt hại nặng cho cả một tiểu đoàn của LĐ7! T́nh h́nh đă rối rắm lại càng thêm rối rắm! Mệnh lệnh và kỹ luật hầu như không c̣n tồn tại nữa!!

    Thiết đoàn trưởng thiết đoàn M48, đơn vị chiên xa hộ tống đoàn công voa gần như không c̣n chỉ huy được đơn vị của ḿnh, dầu rằng khoảng 10 chiên xa M48 vẫn c̣n có khả năng tác chiến. Khi thành phần đầu tiên của đoàn công voa tới được bờ sông Ba, cách Cũng Sơn khoăng 10 km về phía đông, họ mới vở lẻ đoạn đường dẫn vào Tuy Ḥa của LTL7B đầy rẩy những ḿn bẩy do quân đội Đại Hàn gài trước đây, không thể nào phá hủy gấp rút được! LĐ 20 Công Binh chiến đấu được lịnh bắt cầu phao qua sông Ba, và Hương Lộ 436, chạy dài theo bờ phía nam sông Ba được chọn đề đưa đoàn công voa về Tuy Hoà. Dự đoán được điều này, địch quân đă đóng chốt kín đoạn đường dài khoăng 2 cây số dọc Hương Lộ 436, phía đông nhánh tẻ của sông Ba, ngăn cản việc chuyên chở các đoạn cầu phao từ Tuy Ḥa tới. Bộ Tư Lệnh QĐ2 lập tức cho điều TĐ 206 ĐPQ, một trong những tiểu đoàn diện địa thiện chiến nhất của Quân Khu 2, tấn công các chốt của Cộng quân tại dăi đựng này từ phiá đông tới, trong lúc đó Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với 16 chiếc M113 yểm trợ, tấn công từ phía Tây qua sau khi vượt qua khúc ḷng cạn của sông Ba.

    Ngày 20 tháng Ba, những xe tải nặng và chiến xa đă xé toạt khúc ḷng cạn của sông Ba khiến xe cộ đi sau không thể nào vượt qua được. Trực thăng Chinook CH-47 cuả QĐ2 được lịnh chuyên chở các tấm đan thép lổ thả xuống chỗ khúc đáy sông cạn cho đoàn xe vượt qua, đồng thời trục các đoạn cầu phao nổi đến cho Công Binh bắt cầu qua sông Ba tại điạ điểm cách đó khoăng 1500 mét về phía hạ lưu. Vào ngày 21 thàng Ba, đoàn xe tập trung xung quanh khúc ḷng cạn và điạ điểm cầu phao, phía đông Cũng Sơn chờ vượt sông. Trong lúc đó thành phần BĐQ đi đoạn hậu bị địch cắt làm đôi, tơi tả tại Cheo Reo. Phần lớn các tiểu đoàn của LĐ 6,7,22 BĐQ đă vượt qua được sông Cà Lúi, các LĐ 4,23,và 25 BĐQ c̣n kẹt lại phía sau lưng của SĐ 320BV, lúc này đang ào ạt tiến về phía Cũng Sơn. Ngày 22 tháng Ba, Trung Đoàn 64 thuộc SĐ320 Bắc quân mở cuộc tấn công dữ dội vào vị trí của LĐ 6 BĐQ, đang yểm trợ cho LĐ20 Công Binh chiến đấu hoàn tất cầu phao qua sông Ba, tại phía tây Cũng Sơn, nhưng bị đẩy lui. Một đoạn cầu phao đă sập khi đoàn xe ùn ùn kéo lên cầu; nhưng Công Binh đă nhanh chóng sữa chữa và một số lớn xe đă vượt qua được bờ nam của sông Ba, để đụng đầu ngay với các chốt kiềng của Bắc quân đóng dày đặc dọc hương lộ 436, khúc đuờng qua xă Mỹ Thạnh Tây.

    Trong lúc Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đánh đoạn hậu bảo về đoàn công voa tại khúc đường hẹp, cách Cũng Sơn khoăng 7 km về hướng tây bắc, th́ Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công về hướng đông Hương Lộ 436 để nhổ các chốt địch. Tới lúc này th́ LĐ 6 BĐQ là đơn vị tác chiến duy nhất c̣n có sự chỉ huy chặt chẻ trong đoàn quân triệt thoái, 3 tiểu đoàn c̣n sót lại trong tỗng số 18 tiểu đoàn của các LĐBĐQ bảo vệ đoàn công voa di tản trong cuộc trường chinh vượt qua trận địa sát của Bắc quân tại Cheo Reo, Phú Bổn!!

    Lực lượng cuả Tiểu Đoàn 35 và 51 BĐQ đẩy lui cuộc tấn công dữ dội của Trung Đoàn 64 chính qui BV, đêm 23 tháng Ba, giết chết 50 lính BV và tịch thu đuợc 15 vũ khí đủ loại. Hai tiểu đoa`n này được một lực lượng yểm trợ gồm 15 chiến xa M41, 8 M48, 11 khẩu pháo 105 ly howitzers, và 2 khẩu 155 mm. Hai trực thăng Chinook được lịnh tiếp tế lương khô và đạn dược cho các tiểu đoàn BĐQ trong khi các đơn vị này vừa đánh vừa lui về Cũng Sơn.

    Đêm 24 tháng Ba, SĐ320 BV được tăng cường thêm hai chi đoàn chiến xa T54 đă ào ạt tiến vào Cũng Sơn sau khi LĐ 6 BĐQ rút lui về Tuy Hoà.

    Trong khi đó, Tiểu Đoàn 34 BĐQ tiếp tục tấn công phá chốt địch tại xă Mỹ Thạnh Tây. Mặc dầu thời tiết xấu đă ngăn cản sự yểm trợ của không quân, lính mũ nâu đă lần lượt triệt hạ từng cụm kiềng chốt của Công quân. Ngày 25 tháng Ba, BĐQ nhổ xong chốt cuối cùng của địch, đưa đoàn công voa tả tơi vào địa phận tỉnh Tuy Ḥa. Tiểu Đoàn 34 BĐQ, với quân số c̣n chưa đầy một đại đội, quay ngược trở lại, trấn giữ hướng lộ phía tây dẫn tới Tuy Ḥa!

    Trong tỗng số hơn 300 ngàn thựng dân di tản theo đoàn quân triệt thoái, chỉ có khoăng 60,000 là về đến Tuy Hoà. Số c̣n lại vẫn không tung tích! Gần hai chục ngàn binh sĩ QĐ2 trên tỗng số hơn 60,000 quân chính qui và yểm trợ về được đến đích! Lực lượng này đă quá tả tơi, rách nát, c̣n mơ ǵ chuyện tấn công tái chiếm Ban Mê Thuột như kế họach đă dự trù!

  5. #15
    Member Le Thi's Avatar
    Join Date
    14-11-2010
    Posts
    1,278
    Cám ơn Alamit , nhờ ông mà tôi có dịp đọc lại các bài này .
    Nhưng mà cảm thấy đau khổ vô cùng , cảm thấy như ḿnh c̣n sống qua các sự việc như là một cái tội .
    Tất cả các vị tướng cho đến anh binh nh́ đều không có khuyết điểm ǵ hết .
    Tội nặng nhất là chúng tôi , người dân miền nam .
    Nhất là dân ở các thành phố , từ trí thức , doanh nhân , công chức thợ thuyền đều say mê làm ăn ,
    mặc cho việc chống cộng giử nước cho quân đội , cho chính quyền .
    Hàng ngày tôi đi làm , phải dừng lại ngả tư đường bên hông trường Gia Long , đoàn xe qua trước mặt chúng tôi
    thường có các xe GMC không mui , trên đó có quan tài phủ cờ vàng và ngồi bên cạnh là một phụ nử , đầu đội
    khăn lông trắng , nét mặt thất thần nhưng cảnh này không làm cho người hiện đang đứng chung quanh tôi chú ư đến ...
    Họ thờ ơ với cuộc chiến , họ quên mất trách vụ bảo vệ chính sự sống c̣n của ḿnh , đến lúc Vc vào Saigon rồi
    mới tá hoả liều chết bỏ chạy ...
    Sau 1975 , người Việt hải ngoại mới chống cộng mạnh mẻ , phải chi trước 1975 , toàn dân miền nam , vượt qua sự ích kỷ , cùng
    hi sinh với quân đội , chống cộng th́ Vc làm sao chiếm được miền nam .

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc Lui Binh Nghiệt-Ngă SĐ18
    P1



    Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
    Tiểu đoàn 2/43/SĐ18BB/QLVNCH


    sư đoàn 18 bộ binh

    Tony Chế, Nickname mà anh em chúng tôi gọi anh khi anh vừa tái ngũ, đưa về phục vụ tại TĐ 31/BĐQ - Trắng trẻo, hơi hô hô, nên lúc nào nh́n anh cũng giống như đang cười vui với mọi người, tiếng Anh thuộc loại "vi vút" v́ anh làm sở Mỹ, do đó mới có tên Tony - Một thời gian sau, anh được thuyên chuyển về SĐ18/BB và sau đó trở thành Tiểu Đoàn Trưởng xuất sắc của Sư Đoàn - Có một chút "hơi hướm" với BĐQ.

    *

    Chẳng dám đem ḿnh ví von với danh nhân - Nhưng đầu óc tôi cứ vơ vẩn nhớ tới câu nói của Napoléon Đệ Nhất:

    "Nước Anh đánh trận nào cũng thua, chỉ có trận cuối cùng họ thắng" - Anh em chúng tôi, TĐ 2/43, SĐ18BB, ngược lại, đánh trận nào cũng thắng, chỉ có trận cuối cùng là thua ....... Khởi đầu cho trận thua đau đớn này là cuộc lui binh nghiệt ngă đêm 20-4-75 tại mặt trận Xuân Lộc, mà TĐ 2/43 chúng tôi phải rút lui trước địch quân. Một việc chúng tôi phải miễn cưỡng làm, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng .

    Như quư vị đă biết, hành quân Lui binh là loại hành quân rất khó khăn, nhất là khi phải tiến hành dưới áp lực và hỏa lực của địch. Trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng vừa qua giữa hai miền Nam-Bắc Việt Nam từ năm 1956 đến năm 1975, QLVNCH đă hơn một lần bị thảm bại cay đắng, trong cuộc triệt thoái, hay di tản chiến thuật, hồi trung tuần tháng 3 năm 1975 từ Cao nguyên về Duyên hải miền Trung, với thiệt hại ít nhất 75% khả năng tác chiến của Quân đoàn II. Cuộc Hành quân Lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 4 năm 1975 đă thành công tốt đẹp. Toàn bộ Sư đoàn và các đơn vị tăng phái đă về đến B́nh giă, Bà rịa thuộc tỉnh Phước Tuy an toàn. Nói thế không có nghĩa là không có những tổn thất nho nhỏ, mà Tiểu đoàn 2/43 là một trong những cái nho nhỏ đó.

    Thật sự Tiểu đoàn 2/43, đơn vị rời chiến trường sau cùng, v́ có nhiệm vụ đánh nghi binh, đánh chặn hậu cho đại quân rút an toàn, nên đă bị tổn thất đáng kể, khi đơn độc vượt qua ṿng vây trùng trùng điệp điệp của Cộng quân, nhưng không đến nỗi bi đát như lời của Luật sư Nguyễn Văn Chức trích lại từ cuốn Việt Sử Khảo Luận của LS Hoàng Cơ Thụy, viết theo kư giả Mỹ Frank Snepp trong cuốn Decent Interval: "Trực thăng đă đến bốc cái tiểu đoàn chót của 4 tiểu đoàn sống sót của sư đ̣an 18, kể luôn tướng Lê Minh Đảo. Có 600 người dưới quyền đại tá Lê Xuân Hiếu t́nh nguyện ở lại sau cùng để che chở cho cuộc triệt thoái. Trong vài giờ, họ bị tràn ngập bởi 40 ngàn quân Bắc Việt đă được bố trí để trực tiếp đánh họ". Hai ông Luật sư, một ông kư giả với những nhận định, trích dẫn của nhau về một trận đánh mà chẳng có ông nào tham dự .......Tôi xin miễn có ư kiến về việc này, v́ sự thật hiện nay đă phần nào được chứng minh.

    Anh em chúng tôi, những người đóng vai chính trong trận đánh, vượt bao hiểm nguy, may mắn thoát chết, bây giờ nghĩ lại vẫn c̣n thắc mắc: "phép lạ nào mà chúng tôi c̣n sống sót" - Sự việc xảy ra vừa đúng 30 năm. Tuổi đời của tôi cũng sắp đến "thất thập cỗ lai hy". Trí nhớ có phần giảm sút. Những ngày đêm hăi hùng đó trong khu rừng rậm, trong những căn cứ địa của VC, bị Sư đoàn 341 CSBV truy đuổi và bao vây chặt. Có những điều tôi vẫn c̣n nhớ như in, nhớ rất rơ ràng. Nhưng cũng có nhiều điều tôi chỉ c̣n nhớ mù mờ, nhớ lẫn lộn, thậm chí đă quên hẳn!

    Tên của các vị Sĩ quan trong Tiểu đoàn, tôi cũng nhớ không hết, ngoài các vị sau đây:

    -Đại úy Tiểu đoàn phó Nguyễn Tấn Chi, K.12 Thủ Đức.
    -Đại úy Sĩ quan Hành quân/Huấn luyện/TĐ Nguyễn Mỹ.
    -Trung úy Nguyễn Văn Thắng, SQ Quản trị Nhân viên kiêm Chỉ huy Hậu cứ/TĐ
    -Trung úy Nguyễn Văn Hào, ĐĐT/ĐĐ1
    -Trung úy Vơ Văn Mười, ĐĐT/ĐĐ2
    -Trung úy Nguyễn Văn Hùng, ĐĐT/ĐĐ3
    -Trung úy Hà Văn Dương, ĐĐT/ĐĐ4
    -Trung úy Vơ Kim Thạch, ĐĐT/ĐĐCH&YT
    -Trung úy Tuyễn, SQ Truyền tin
    -Trung úy Linh
    -Trung úy Chánh
    -Vị SQ Trợ Y/TD, SQ Tiền sát viên Pháo binh, Vị Trung đội trưởng Pháo binh,...

    Có nhiều đồng đội đă vĩnh viễn nằm xuống trong khu rừng oan nghiệt đó. Với tư cách là Tiểu đoàn trưởng, người chịu trách nhiệm đến sự an nguy của Tiểu đoàn trong cuộc Hành quân Lui binh, tôi xin nhận sự phán xét của các Chiến hữu. Và cũng thay mặt các Chiến hữu, tôi xin kính cẩn nghiêng ḿnh trước Vong Linh của những đồng đội đă anh dũng nằm xuống để cho chúng ta được sống, Nước Việt được trường tồn. Nhưng bất hạnh thay! cuộc chiến đấu cho Chính Nghĩa của chúng ta đă bị phản bội. Rốt cuộc, miền Nam thân yêu của chúng ta đă lọt vào tay bọn CSBV xâm lăng. Nhưng tôi vẫn tin tưởng sự hy sinh của các bạn không oan uổng, không lăng phí. Chúng ta chỉ mới thua một trận chiến, cuộc chiến vẫn tiếp tục, nhưng dưới một h́nh thái khác. Ngày Quang Phục Quê Hương không c̣n xa. Chủ Nghĩa Cộng Sản, Chế độ Cộng Sản nhất định phải bị tiêu diệt. Dân tộc Việt, đất Nước Việt nhất định trường tồn. ĐỘC LẬP - TỰ DO - DÂN CHỦ và HẠNH PHÚC - NO ẤM nhất định sẽ trở về với toàn dân.

    Bảo Định

    *

    Khi Tiểu đoàn xuống núi, vừng đông đă ló dạng. Một ngày mới bắt đầu. Những trái đạn pháo 105 ly được bắn đi xối xả, bắn cho hết đạn, đă liên tục rót lên đầu giặc chỉ mới vừa ngưng. Hai khẩu pháo thân thương hoàn thành xong nhiệm vụ th́ nhận hai trái lựu đạn nỗ tung bụng, đang nằm im ĺm, trơ càng như hai đống sắt vụn ở ngọn đồi phía dưới, cô đơn và lạnh lẽo.

    Tiểu đoàn yên lặng di chuyển. Lộ tŕnh ấn định là Xuân Lộc - Bà Rịa, theo Liên TL2. Điểm tập trung tại Đức Thạnh, Tỉnh Phước Tuy. Sau đó sẽ có xe đưa về căn cứ Long B́nh nghỉ ngơi, tái bỗ sung quân số và đạn dược, rồi nhận nhiệm vụ mới.

    Buổi sáng ngày 20/4/75, lối 9 giờ, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, TL/QĐ III, Quân Khu 3 bay vào Xuân Lộc gặp Tướng Đảo để chỉ thị việc rút quân. Chỉ trong một thời gian ngắn, Tướng Đảo và Bộ Tham Mưu Sư đoàn đă cấp tốc soạn thảo một kế hoạch triệt thoái rất tỉ mỉ. Vừa quá trưa, tôi đă nhận được Lệnh Hành Quân để kịp thời chuẩn bị. Tôi đă thi hành đúng theo những chỉ thị ghi trong LHQ: Tiểu đoàn giữ lại 2 khẩu pháo 105 ly, c̣n tất cả sẽ kéo về Xuân Lộc để di chuyển cùng Sư đoàn. Hậu cứ Tiểu đoàn gồm cả kho lương thực, đạn dược sẽ theo Sư đoàn đi trước. Tiểu đoàn vẫn duy tŕ hoạt động b́nh thường. Hoạt động nghi binh - cũng giống như trường hợp của Trương Phi cùng 20 người ngựa, tại cầu Trường Bản, đă mưu trí dùng những nhánh cây cột vào đuôi ngựa cho chạy lui, chạy tới trên đường, tạo đất bụi bay mù trời để đánh lừa quân của Tào Tháo, nhờ thế, đại quân của Lưu Bị đă rút đi được - Hai khẩu pháo vẫn tác xạ quấy rối liên tục vào vị trí địch. Các toán tiền đồn, phục kích vẫn nằm tại vị trí. Nhất là Trung đội Biệt Kích Tiểu đoàn hoạt động khu vực Núi Ma, đối diện căn cứ Núi Thị, bên kia đường QL1 về hướng Bắc. Nhờ sự hoạt động hữu hiệu của Trung đội này, Cộng quân đă không thể nào đến gần đặt súng cối bắn vào Tiểu đoàn.

    Theo Lệnh Hành Quân, đúng 7 giờ tối, Tiểu đoàn sẽ vào hệ thống truyền tin của Lữ đoàn 1 Nhăy Dù, đặt dưới quyền chỉ huy của Lữ đoàn trưởng Dù. Đến 12 giờ đêm, Tiểu đoàn trở lại hệ thống làm việc của Sư đoàn, phá hủy 2 khẩu pháo, rời bỏ căn cứ Núi Thị, rút về điểm tập trung trước, sau đó là các đơn vị của Lữ đoàn Dù. Đúng lúc 12 giờ, tôi gọi LĐ Dù cho tôi trở về với SĐ. LĐ Dù bảo chờ. Lúc 1 giờ sáng, tôi gọi lại, cũng bảo chờ! Lúc 2 giờ sáng, tôi gọi lần nữa, cũng được trả lời: Chờ! Lúc gần 3 giờ, nh́n về hướng thị trấn, tôi thấy có rất nhiều ánh đèn xe hơi di chuyển. Tôi liền gọi về LĐ Dù hỏi và được trả lời: Nó đấy! Hăy xữ dụng pháo bắn. Nhưng pháo của tôi đă bắn gần hết đạn từ lúc quá n ửa đêm, chuẩn bị phá hủy để di chuyển. Và cũng từ lúc đó tôi mới được lệnh cho Tiểu đoàn rời căn cứ. Nh́n đồng hồ, kim chỉ vừa đúng 3 giờ - 3 giờ sáng! Tôi cho lệnh gom quân. Việc gom quân không phải dễ dàng. Làm thế nào để các toán tiền đồn và phục kích rời vị trí, trở về căn cứ mà địch không phát hiện được, không bám sát đi theo là chuyện khó. Trong suốt cuộc chiến vừa qua, nhất là thời kỳ chiến tranh Việt - Pháp, những đơn vị đi tiền đồn, phục kích về bị địch bám sát theo rồi lợi dụng thời cơ, cướp đồn là chuyện thường xăy ra. Và phải hơn một giờ sau Trung đội BK/TĐ mới về đến Tiểu đoàn.

    Theo tập Hồi kư của Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh mà nhà Sử học George J. Veith gửi cho tôi bản dịch tiếng Anh, th́ vị cựu Lữ đoàn trưởng LĐ 1 Dù nói đơn vị cuối cùng của LĐ, Tiểu đoàn 9 Dù cùng Trung đội Pháo binh đă rời Long Giao lúc 4 giờ 30 sáng. Như vậy là toàn bộ LĐ Dù đă rút đi trước, đă rời khỏi Mặt trận trước Tiểu đoàn 2/43. Và TĐ2/43 là đơn vị cuối cùng rời bỏ Xuân Lộc!

    Lúc Tiểu đoàn đi đến gần Ấp Núi Đô th́ trời đă sáng hẳn. Một số Nghĩa quân và Địa Phương Quân vác súng chạy theo, muốn nhập theo đoàn quân. Nhưng với tinh thần cảnh giác cao độ, tôi buộc phải đổi hướng, tránh xa họ. V́ tôi không thể phân biệt được thật hay giả. Tôi phải nghĩ đến sự an nguy của đơn vị trước tiên. Trong chiến đấu, ta không thể xử sự theo lối nữ nhi thường t́nh. Tại mặt trận An Lộc, B́nh Long hồi mùa hè đỏ lửa năm 1972, v́ ḷng nhân đạo, muốn cứu một thương binh Cộng quân, tôi đă mất đi một y tá khi tên thương binh địch mở chốt lựu đạn ném vào người định cứu ḿnh!

    Tại Đức Thạnh, tỉnh Phước Tuy, Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43BB, con chim đầu đàn của chúng tôi, gọi báo cáo với Tướng Đảo là TĐ2/43 vẫn c̣n kẹt ở Xuân Lộc.

    Lối 7 giờ sáng, khi Tiểu đoàn di chuyển gần đến căn cứ Long Giao, đang đi trong khu rừng chồi, sắp đến vùng đồn điền cao su th́ tôi nghe tiếng trực thăng bay ngang đầu. Tôi nghe tiếng gọi tôi. Đó là tiếng của Đại tá Ngô Kỳ Dũng, Trung đoàn trưởng 52BB đang bay trên chiếc C&C của Tư lệnh, chuyển lệnh của Tướng Đảo, ra lệnh cho tôi phải hủy bỏ lộ tŕnh cũ trong Lệnh Hành quân, mà phải chuyển hướng băng rừng ra Long Thành, trên QL15.

    Xin nói rơ thêm một chút, để câu chuyện được mạch lạc : Đường LTL2, Lộ tŕnh triệt thoái theo LHQ, nối liền Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh và Bà Rịa, tỉnh Phước Tuy, dài trên 40 km đă bị bỏ hoang phế từ lâu, kể từ sau Hiệp định Đ́nh chiến Paris, khi quân đội Đồng minh (Úc Đại Lợi) rút khỏi chiến trường. Khi Tướng Đảo quyết định chọn con đường này để làm Lộ tŕnh triệt thoái. Ông đă có một quyết định táo bạo. Nhưng đă tạo được sự bất ngờ. Đoạn đường dài trên 40 km đó, lâu nay vẫn là vùng an toàn của Cộng quân. Ngoài những toán du kích địa phương có nhiệm vụ canh giữ con đường, Trung đoàn 33 CSBV vẫn thường xuất hiện hoạt động quấy phá. Con đường đă là hành lang giao liên an toàn giữa các mật khu cuả VC. Quyết định táo bạo của Tướng Đảo, yếu tố bất ngờ của cuộc Hành quân Lui binh do Sư đoàn 18BB thực hiện đă làm cho Cộng quân trở tay không kịp. Chúng không thể tức thời điều quân đến truy kích và ngăn chặn. Trong quyển "Lịch sữ Quân Đội Nhân Dân" của CSBV, Quân đoàn IV Cộng quân của Tướng Hoàng Cầm thú nhận: "Chúng tôi đă không phát hiện kịp thời cuộc di chuyển quân của Sư đoàn 18 để tổ chức lực lượng truy kích và ngăn chặn." Nhưng những cuộc chạm súng, tấn công vào đoàn quân triệt thoái, tuy không quy mô, nhưng cũng không phải là nhỏ và đă gây cho lực lượng bạn một số tổn thất đáng kể: Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng bị bắt. Trung tá Tham Mưu trưởng bị tử thương, đồng thời cũng đă gây một số thiệt hại cho LĐ1 Dù, khi đơn vị này vừa chiến đấu vừa bảo vệ thường dân các ấp Bảo Định, Bảo Ḥa và Bảo Toàn di tản theo. Sau khi đơn vị cuối cùng của LĐ1 Dù đi qua, con đường giờ đây lại nằm dưới sự kiểm soát của Cộng quân - Yếu tố bất ngờ không c̣n nữa - Chúng cố vớt vát những tổn thất mà chúng đă gánh chịu trong suốt 12 ngày đêm tại Mặt trận Xuân Lộc, bằng cách phải tiêu diệt cho được đơn vị c̣n lại của QLVNCH. Đó là Tiểu đoàn 2/43 Sư đoàn 18BB, vừa rời bỏ căn cứ Núi Thị. V́ lư do đó mà Tướng Đảo đă lệnh cho chúng tôi thay đổi lộ tŕnh.

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Cuộc Lui Binh Nghiệt-Ngă SĐ 18 BB
    P2

    Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
    Tiểu đoàn 2/43/SĐ18BB/QLVNCH



    Tony Chế, Nickname mà anh em chúng tôi gọi anh khi anh vừa tái ngũ, đưa về phục vụ tại TĐ 31/BĐQ - Trắng trẻo, hơi hô hô, nên lúc nào nh́n anh cũng giống như đang cười vui với mọi người, tiếng Anh thuộc loại "vi vút" v́ anh làm sở Mỹ, do đó mới có tên Tony - Một thời gian sau, anh được thuyên chuyển về SĐ18/BB và sau đó trở thành Tiểu Đoàn Trưởng xuất sắc của Sư Đoàn - Có một chút "hơi hướm" với BĐQ.

    *

    Đây là lần đầu tiên kể từ khi xuống núi, tôi bắt được liên lạc với Sư đoàn. Nhưng khi chiếc trực thăng bay qua, lệnh đă ban xong, tôi lại mất liên lạc hoàn toàn với bên ngoài. Không c̣n đơn vị bạn nào ở gần để có thể liên lạc qua lại. Sư đoàn, Lữ đoàn, Trung đoàn đều ở xa. Tất cả đang di chuyển. Chúng tôi lại đang ở trong rừng. Máy truyền tin không thể hoạt động tầm xa. Chúng tôi đă hoàn toàn cô độc. Chúng tôi lạc lơng giữa khu rừng rậm mênh mông với nhiều mật khu, nhiều căn cứ địa của địch. Khu rừng này nối tiếp với mật khu Hắc dịch nổi tiếng của VC. Hiện giờ, Sư đoàn 341 của Cộng sản Bắc Việt đang chiếm cứ nơi này. Đây là một Sư đoàn tân lập, gồm các Tiểu đoàn Chủ lực của hai tĩnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Chúng vừa mới được đưa vào Nam hồi cuối tháng 2, sát nhập vào Quân đoàn IV do Tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Binh sĩ phát âm giọng Nghệ - Tĩnh, rất khó nghe.

    Lối 9 giờ, Tiểu đoàn đến một khu rừng cao su, phía tây căn cứ Long Giao. Đơn vị tiền phương chạm địch. Nhưng địch quân chỉ là một toán nhỏ, cấp Tiểu đội. Chúng đă nhanh chóng bị thanh toán. Liền sau đó, đơn vị tiền phương lại chạm địch. Lần này địch phản ứng mạnh. Nhưng không có pháo binh và phi cơ yểm trợ. Phải giao chiến trong t́nh trạng này thật là bất lợi. Tôi sợ quân sĩ bị thương vong sẽ gây phiền phức. Tôi quyết định đoạn chiến. Vừa lúc đó, từ hướng đông, một đoàn xe Molotova chạy vào -sau này đi ở tù cải tạo, được biết đó là loại xe quân sự do Trung Cộng chế tạo để chở quân, có tên là Hồng Kỳ, hơn 10 chiếc đang đổ quân. Chúng định đánh bọc hậu Tiểu đoàn. Chúng định lùa Tiểu đoàn tôi vào khu rừng trước mặt, nơi đại quân của chúng đang chờ sẵn để tiêu diệt. Tôi cho đổi hướng, Tiểu đoàn đi nhanh về hướng Bắc, lẩn vào khu rừng chồi. Sau đó phải đổi hướng theo hướng Tây trở lại. Khi đến một con suối, Đại đội 2 của Trung úy Vơ Văn Mười báo cáo phát hiện một túp lều, bên trong có mấy tên VC đang ngồi uống nước trà. Một khẩu K.54 treo trên vách phên. Không thể lẩn tránh kịp. Tôi cho lệnh nổ súng, thanh toán cho gọn. Toán VC bị tiêu diệt. Tiểu đoàn tiếp tục tiến. Đến chiều, chúng tôi đến một khu rừng chồi tương đối thoáng, nối tiếp là rừng rậm. Tôi cho lệnh nghĩ ngơi. Tôi hội ư với Đại úy Tiểu đoàn phó Nguyễn Tấn Chi, K.12 Thủ Đức, và các Đại đội trưởng. Tiểu đoàn sẽ chia làm hai cánh: một do tôi trực tiếp chỉ huy, và một do Đại úy Chi chỉ huy, xuyên qua rừng rậm, tiến về Long Thành. Tôi c̣n nhấn mạnh thêm : Tùy theo t́nh thế, các Đại đội trưởng có thể đơn độc dẫn đơn vị ḿnh về điểm hẹn. Tôi phải ra lệnh phân tán như vậy v́ t́nh h́nh rất nghiêm trọng, địch với một quân số rất lớn, lại đă biết chúng tôi đang trong ṿng vây của chúng, sớm muộn ǵ chúng cũng sẽ t́m được và tiêu diệt trọn đơn vị chúng tôi.

    Trời đă về chiều. Bóng đêm đến nhanh. Tiểu đoàn tiến vào khu rừng rậm. Từ b́a rừng vào chưa đến 100 mét th́ cánh quân của tôi chạm súng dữ dội với địch. Sau một ngày hành quân mệt mỏi, lại phải chạm địch liên miên. Tinh thần căng thẳng, thể xác ră rời. Nhất là khi tôi cho lệnh cố tránh né địch, băo toàn sinh mạng. Nên vừa chạm súng được một lúc là chúng tôi t́m cách "chém vè". Bây giờ toán quân theo tôi tất cả chỉ c̣n 28 người, kể cả tôi. Chúng tôi đă bị bao vây chặt. Đêm đó là một đêm trăng mờ. Hai mươi tám người chúng tôi ṃ mẫm, im lặng, t́m đường thoát thân trong bóng đêm, dưới ánh sáng mờ nhạt của vầng trăng khuyết:

    Chàng từ đi vào nơi gió cát,
    Đêm trăng này nghỉ mát phương nao?
    Xưa nay chiến địa nhường bao,
    Nội không muôn dặm, xiết bao dăi dầu."

    Thật ra th́ đêm trăng đó chúng tôi không thể nào nghĩ mát được. Chúng tôi đă phải "dăi dầu" suốt 12 ngày đêm tại Mặt trận Xuân Lộc. Ngày hôm nay phải hành quân đơn độc, chạm súng liên tục, nhưng lại thiếu sự yểm trợ của phi pháo, là hai yếu tố quyết định thành công của bất cứ cuộc hành quân nào. Tiểu đoàn lại đang lọt giữa ṿng vây trùng trùng điệp điệp của địch. Chúng tôi đang t́m kế thoát thân. Gần nửa đêm, chúng tôi lần ṃ đến một khu rừng thấp. Một con đường ṃn cắt ngang. Tôi định cho vượt qua th́ gặp một toán Cộng quân di chuyển. Chúng dừng lại ngay trước mặt, và phát loa kêu gọi:

    "Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế, Biệt hiệu Bảo Định, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/43, Sư đoàn 18BB Ngụy. Hiện Tiểu đoàn bạn đang bị quân Cách Mạng bao vây. Hàng th́ sống, chống th́ chết."

    Tên bộ đội phát loa, giọng đặc sệt Nghệ - Tĩnh. Chúng thuộc Sư đoàn 341 CSBV. Có thể chúng chỉ là những đơn vị chủ lực Tỉnh vừa mới đôn quân thành chính qui v́ nhu cầu chiến trường miền Nam, nên kinh nghiệm tác chiến c̣n kém cỏi. Nếu không, có lẽ......

    Chúng tôi đổi hướng. Nhưng lại gặp tiếng loa kêu gọi đầu hàng với nội dung và giọng nói như lúc năy. Có lẽ chúng đă ghi âm - Đầu óc tôi căng thẳng, hiện tại anh em chúng tôi như kiến ḅ trong chén, tứ bề thọ địch, có thể nói thật, không hề cường điệu là chỉ với tay ra là chạm địch - Thập phần nguy hiểm, tôi suy nghĩ : phần số tôi đến đây là tận cùng sao! Nếu vậy, tôi phải có quyết định thế nào để bảo toàn tính mạng cho thuộc cấp chứ! - Tôi ḅ đến gặp từng anh em và nói với họ: "Các anh có thể ra, nhưng tôi th́ không. Đợi tôi lẫn tránh xa th́ các anh có thể bắt đầu". Nhưng tất cả đều nhất quyết "KHÔNG" - Ḷng tôi chùng xuống, hai cánh mũi cay cay, nước mắt muốn trào ra - Tôi hít thở thật sâu để cảm xúc lắng xuống, huynh đệ chi binh là những giây phút này đây, khốn khó có nhau, sống chết có nhau là lúc này đây! Cám ơn các anh em đă có những hành động quyết liệt, để khích lệ tinh thần tôi, đă cho tôi nguồn hy vọng để tiếp tục đấu tranh giành sự sống, trong lúc thập tử nhất sinh .......

    Tiểu đoàn 2/43, đơn vị thiện chiến của Sư đoàn 18BB. Kể từ thời cố Trung tá Hắc Long Đỗ Văn Tân, K.7 Vơ Khoa Thủ Đức làm Tiểu đoàn trưởng, giao lại cho cố Trung tá Hắc Long Nguyễn Văn Thoại, gốc Thiếu Sinh Quân, dân Thủy quân Lục chiến, đến Thiếu tá Bảo Định Nguyễn Hữu Chế là tôi, từng phục vụ tại Binh chủng Biệt Động Quân. Dù chỉ một thời gian ngắn, nhưng cũng học được kinh nghiệm tác chiến "tốc chiến tốc thắng" của Binh chủng ưu tú này, nên đă giữ cho Tiểu đoàn luôn luôn là đơn vị xuất sắc của Sư đoàn cũng như của Quân đoàn III.

    Sau trận chiến An Lộc của B́nh Long anh Dũng hồi mùa hè đỏ lửa năm 1972, tôi được đại diện đơn vị về Bộ Tư Lệnh Quân đoàn nhận lănh phần thưởng do Cố Thiếu tướng Lê Văn Hưng, lúc đó giữ chức TLP/QĐ trao tặng. Tết năm 1974, Tiểu đoàn lại được chọn là đơn vị xuất sắc để Ông Tổng trưởng Kinh tế - Tài chánh Hà Xuân Trừng đại diện Chính phủ đến ủy lạo. Và năm 1974, Tiểu đoàn được Tuyên dương Công trạng trước Quân đội, Hiệu kỳ của Tiểu đoàn được gắn thêm một Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương liễu. Những chiến công vang dội mà Tiểu đoàn đă gặt hái được đă làm cho Cộng quân khiếp sợ. Từ trận tái chiếm Phi trường Quản Lợi tại Mặt trận An Lộc, B́nh Long; trận Bố Lá thuộc Quận Phú Giáo, tỉnh B́nh Dương; trận Thái Hưng thuộc Quận Công Thanh, tỉnh Biên Ḥa; trận Vơ Đắc - Vơ Su thuộc Quận Hoài Đức, tỉnh B́nh Tuy; trận tái chiếm Ngă Ba Dầu Giây thuộc Tỉnh Long Khánh hồi Hiệp định ngưng bắn Paris đầu năm 1973. Đặc biệt tại trận này, khi khai thác tên tù binh cấp B trưởng, tức Trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 33 Cộng quân, hắn nói: "Chúng tôi được lệnh của Thủ trưởng E, tức Trung đoàn trưởng, mỗi khi gặp TĐ2/43 th́ phải đoạn chiến và t́m cách chém vè! Không biết đó là lời thật hay dối ḷng để tâng bốc ḿnh. Nhưng thực tế, TĐ2/43 đă làm cho Cộng quân phải e dè và kiêng nể.

    Nhưng giờ đây chúng tôi như những con thú bị săn đuổi trong khu rừng săn bắn của Triều đ́nh Nhà Thanh từ thời đại Khang Hy đến Càn Long. Con thú chỉ có thể chạy trốn trong khu rừng săn bắn rộng mênh mông, nhưng khó vượt thoát ra ngoài. Chúng tôi đang bị sa cơ thất thế - Đau hơn nữa là cảnh sa cơ thất thế của chúng tôi không phải v́ tài hèn, sức mọn, mà v́ bị đồng minh trói tay, hay nói rơ hơn là bị .... bán đứng .

    Lúc gần sáng, chúng tôi gặp một con suối. Sau khi vội vàng cho lấy nước đổ vào bi-đông, và những bao gạo sấy, chúng tôi lại lên đường. Phải tránh xa các con suối. V́ đó là nơi địch cũng thường xuất hiện để lấy nước hoặc tắm giặt. Toán 28 người chúng tôi hầu hết là lính Văn pḥng, Truyền tin, Quân Y, Pháo binh.... Tất cả chỉ được trang bị súng ngắn hay lựu đạn để dễ dàng làm việc. Chỉ có một số anh em thuộc Trung đội Biệt Kích/TĐ là có súng M.16. Nhưng chỉ với 28 người, lại đang nằm trong ṿng vây địch, đang bị lùng đuổi. Muốn sống c̣n, chúng tôi phải t́m cách lẩn tránh bọn chúng. "Tránh voi cũng chẵng xấu mặt nào!".

    lịch sử việt nam, sư đoàn 18 bộ binh



    Bước sang ngày thứ ba, kể từ khi rời bỏ Xuân Lộc. Hoạt động của chúng tôi vẫn thế. Ngày nghĩ, t́m những nơi rậm rạp chui vào. Đêm đến th́ di chuyển. Cứ nhắm hướng Tây, hướng Long Thành mà đi.

    Đến ngày thứ tư, tôi cảm thấy đă thoát ra được khỏi ṿng vây địch, nhưng tôi vẫn chưa dám trả lời máy, mặc cho SĐ, TR/Đ lo lắng, và những người vợ lính đang ngày đêm khắc khoải chờ tin chồng tại Tiền trạm Tiểu đoàn ở Long B́nh. Hàng ngày, buổi sáng và buổi chiều đều có máy bay, khi th́ trực thăng, khi th́ L.19, do Pḥng 3 Sư đoàn, Ban 3 Trung đoàn, và thường do Đại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng 43BB đích thân bay đi t́m.

    Tại Tiền trạm Tiểu đoàn, đặt tạm bên ngoài căn cứ Long B́nh, đối diện với BTL/SĐ, Trung úy Nguyễn Văn Thắng, Sĩ quan quản trị nhân viên TĐ, đă bận rộn suốt ngày để điều động những chiếc xe GMC về Long Thành đón những toán quân vượt thoát ṿng vây địch vừa từ trong rừng ra. Cánh quân của Đại úy Tiểu đoàn phó Nguyễn Tấn Chi đă về đến gần như nguyên vẹn.

    Chỉ có cánh quân Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng là đụng độ mạnh, phải phân tán. Nhưng những quân nhân sống sót, cuối cùng cũng lần ṃ ra đến điểm tập trung. Trung úy Thắng lại c̣n phải trả lời, phân ưu những Bà Vợ Lính, kể cả Bà vợ của Thiếu tá TĐT, những quân nhân c̣n ghi nhận là "MẤT TÍCH". Những người vợ lính đợi tin chồng, đang khắc khoải lo âu. Hàng ngày họ đến đây từ sáng sớm. Có người tay bồng, tay dắt những cháu bé mới 3, 4 tuổi. Hoàn cảnh thật thương tâm!

    Buổi sáng ngày thứ tư của cuộc triệt thoái, tức là ngày 24/4/75, Trung úy Thắng nhận được chỉ thị từ Sư đoàn là phải chuẩn bị hồ sơ để làm lễ "TRUY THĂNG - TRUY TẶNG" cho những quân nhân được ghi nhận là "MẤT TÍCH". Tin này, Thắng hoàn toàn giữ kín. Thỉnh thoảng, Trung úy Thắng cũng nhận được những cú điện thoại từ Sư đoàn, Trung đoàn của Thiếu tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo, và Đại tá Trung đoàn trưởng Lê Xuân Hiếu hỏi thăm: Phu nhân Thiếu tá Chế c̣n đó không?

    Lối 5 giờ chiều, chiếc máy truyền tin của Tiền trạm Tiểu đoàn bỗng vang lên giọng nói yếu ớt: "Hoàng Yến, đây Bảo Định; Hoàng Yến, đây Bảo Định, nghe rơ trả lời." Đó là tiếng gọi của tôi khi khi toán quân đang tiến tới một một khu rừng chồi thấp, mà tôi nghĩ có thể đă thoát ra khỏi ṿng vây địch.

    Lúc đó vừa lúc chiếc L.19 bay ngang đầu. Vị Đại tá Trung đoàn trưởng của tôi ngồi trên đó, đang gọi t́m tôi:

    - Tôi nghe tiếng ai như tiếng Bảo Định
    - Bảo Định đây, Hoàng Yến - tôi vội trả lời.
    - Anh cho tôi tọa độ điểm đứng, dọn băi đáp.
    - Không được, tôi sợ chưa thoát khỏi ṿng vây. Để tôi đi xa thêm nữa. Đợi sáng mai.
    - Được, hẹn Bảo Định sáng mai.

    Sau đó, chiếc L.19 trở về căn cứ. Toán quân của tôi tiếp tục cuộc vượt thoát. Cố di chuyển càng xa về hướng Tây càng tốt. Hy vọng thoát được ṿng vây của địch. Đă 4 ngày 3 đêm kể từ khi xuống núi. Có lẽ đây là giờ phút sung sướng nhất!

    Sáng ngày hôm sau, tức 25/4/75, lối 9 giờ, một đoàn trực thăng 4 chiếc bay vào vùng. Tôi cho trải "paneau" làm tín hiệu nhận nhau. Tôi cho sắp làm 3 toán. Địa thế là rừng chồi. Chỉ có một khoảng trống nhỏ có thể dùng làm băi đáp cho một chiếc trực thăng. Chiếc thứ nhất đáp xuống bốc toán đầu tiên rồi cất cánh an toàn. Chiếc thứ hai, bốc toán thứ hai. Cũng cất cánh an toàn. Nhưng đến chiếc thứ ba, tôi ở trong toán thứ ba - trực thăng vừa đáp xuống th́ từ hướng Đông, AK, B.40 đồng loạt khai hỏa cùng những tiếng la "xung phong" dậy trời. Toán quân c̣n lại của tôi nhanh chóng lao vào trực thăng - Trực thăng vội vàng cất cánh - V́ muốn tận mắt thấy các thuộc cấp được an toàn trước, nên tôi tự xếp ḿnh vào toán thứ ba và là người cuối cùng - Nh́n chiếc trực thăng đang bốc lên, nghe tiếng súng các loại nổ rền, ḥa lẫn tiếng hô "xung phong" của địch - Tôi sững sờ - Cái chết đang đến trong đựng tơ, kẽ tóc - Nhưng bản năng sinh tồn chợt trỗi dậy - Tập trung hết sức lực c̣n lại, tôi chỉ c̣n kịp chạy đến, nhảy mạnh lên, hai tay vội chụp lấy càng máy bay, ôm chặt. Trực thăng lướt nhanh trên đầu ngọn cây rồi từ từ tăng cao độ, trực chỉ Long B́nh. Người xạ thủ đại liên, gunner, cùng những người lính trong ḷng máy bay cố nắm chặt hai tay tôi, và kéo tôi lên. Nón sắt và bản đồ đă rơi mất. Tôi mệt nhừ, ngồi im bất động. Cặp kính cận thị của tôi cũng không c̣n. Những giọt nước, nước mắt hay là máu từ từ lăn xuống trên khuôn mặt dăi dầu mưa nắng và trận mạc từ hơn hai tuần lễ nay, tôi cảm thấy mằn mặn.

    Trực thăng hạ thấp, chuẩn bị đáp. Từ trên cao, tôi đă nh́n thấy mờ mờ vị Đại tá thân yêu đă mấy ngày đêm lo âu cho sự an nguy của tôi và Tiểu đoàn 2/43 chúng tôi; đang đứng chờ trước đầu xe jeep, đậu sát LZ, đàng sau văn pḥng Tư lệnh. Ông đón tôi với tất cả nỗi mừng vui của người anh cả đang dang tay đón đứa em thất lạc trở về mái nhà xưa. Ông nói: "Lên xe vào gặp Thiếu tướng Tư lệnh. Ổng đang chờ anh!".

    Nguyễn Hữu Chế

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thiếu tướng Lê Minh Đảo
    Sư đoàn 18 bộ binh: cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc


    » Tác giả: Phạm Phong Dinh

    1. Phần 1

    (Trích trong Thiên Hùng Ca Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa)



    Ba mươi năm, kể từ ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Ḥa ngừng tồn tại, những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bị buộc phải buông súng một cách ngỡ ngàng, phải đi vào những trại tù của phía được gọi là “chiến thắng” một cách uất hận. Kể từ cái khoảnh khắc đau thương đó, cho măi đến tận hơn một phần tư thế kỷ sau, những nhà viết sử cộng sản vẫn ra rả lăng mạ và sĩ nhục những người lính tạm gọi là “bại trận” của QLVNCH, bằng tất cả những phương tiện ma øcó thể giúp họ phun nọc đầu độc thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam sau chiến tranh. Truyền thông, sách báo, nhà văn (văn nô “phản kháng” lẫn “phản tỉnh”), là những công cụ cực tốt để làm cái loa tuyên truyền, bôi nhọ và bóp méo lịch sử. Cộng vào đó, phải kể đến một khối lượng cực nhiều sách báo của thế giới phương Tây, qua lăng kính và tài liệu của khối cộng, thân cộng, thiên cộng, phản chiến và trở cờ, cũng tàn nhẫn tham gia vào cái tṛ chơi nhục mạ một quân đội bị bức tử một cách oan ức. Là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Quân lực ấy, và những người lính ấy chỉ có mỗi một lỗi lầm duy nhất, là đă dám anh dũng đương đầu với hai thế lực cực lớn để bảo vệ một nửa nước Việt Nam, mà đă bị hai thế lực ấy chia cắt ngày 20.7.1954 tại hội nghị Geneva. Sau ba mươi năm, người ta đă thấy rơ ràng, là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phải nỗ lực chống trả đại khối cộng sản quốc tế mười ba nước, trong đó cộng sản và quân đội Bắc Việt được dùng làm những tên lính tiền phong xung sát, thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của đại khối ấy. Trong ṛng ră hơn hai mươi năm, từ năm 1954 đến năm 1975, những người lính quá đỗi khổ ải của chúng ta không những đem xương máu ngăn chống những cơn sóng băo lửa của chiến tranh ngoài tiền tuyến, mà c̣n phải đau đớn hứng chịu những nhát đâm chí mạng từ phía sau lưng từ phía những người gọi là bạn và bọn nội thù thân cộng, phản chiến và theo cộng. Rồi khi đă gục ngă một cách không mong muốn, th́ những bầy quạ đen, những con kên kên từ khắp mọi nẽo đường thế giới xúm nhau vào làm cái việc an táng cuối cùng quân lực một thời kiêu hùng ấy. Bằng những cái mỏ khoằm khoằm, từ đó vang vọng những lời lăng mạ thật kinh tởm. Và bằng những cái móng vuốt nhọn bén như dao, muốn chôn vùi những chiến tích lừng lẫy của những người lính chúng ta vĩnh viễn vào quá khứ . Nhưng có phải là người lính Việt Nam Cộng Ḥa đă thực chết hay không? Và những người gọi là “chiến thắng”, dành quyền sĩ nhục người bại trận, có phải thực sự chiến thắng hay không?

    Cộng sản Hà Nội nên nhớ lại cơn ác mộng chiến bại Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và cuộc không tập mười hai ngày đêm trên lănh thổ Bắc Việt trong mùa Giáng Sinh cuối năm ấy. Ngày cuối cùng cộng quân chỉ c̣n đúng sáu chiếc hỏa tiễn Sam, lănh đạo Hà Nội với những anh Ba anh Tư, và những ông tướng huyền thoại đang chuẩn bị trói ḿnh đầu hàng vô điều kiện. Th́ người ta đă dễ dàng dành cho họ một con đường sống bằng Hiệp Định Paris kư với nhau ngày 27.1.1973. Như vậy, chỉ trong ṿng có mười hai ngày thôi, quân đội Hoa Kỳ đă có thể nhanh chóng tống táng chế độ cộng sản cùng hung cực ác Hà Nội xuống tận đáy địa ngục nếu muốn. Th́ có vinh dự ǵ mà bọn cộng sản Bắc Việt c̣n có can đảm vỗ ngực chiến thắng và nguyền rủa những người lính Việt Nam Cộng Ḥa kém may mắn. Cái “chiến thắng” mà chúng cứ ra rả ngày đêm chưa thấy mỏi mệt, thực chất chỉ là một màn tŕnh diễn của những con người chiến bại tinh thần, luôn luôn cảm thấy xấu hổ và mặc cảm thua kém mọi bề từ tận đáy thâm tâm của họ. Nhưng dù sao th́ sau ba mươi năm, gió cũng đă đổi chiều. Bên cạnh hàng ngàn cuốn sách mà chúng ta vừa nhắc đến ở trên, đă xuất hiện ngày càng nhiều những cuốn sách mới được viết từ những sử gia Tây phương, với cái nh́n vô tư hơn và ít thiên kiến hơn để thẩm định lại những sự thực lịch sử trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ vào những tài liệu khổng lồ đă được giải mật trong các văn khố của Hoa Kỳ, cũng như của Nga, mà trước năm 1990 là Liên Xô, những nhà viết sử đă được đi thẳng, hay nói thật đúng là đă bới móc sâu vào tận cùng những bí mật hiểm hóc nhất, để trưng ra cho công luận thế giới những khía cạnh đứng đắn nhất của lịch sử. Những sử gia Hoa Kỳ, mà trong những thập niên trước đây đă cho ấn hành những cuốn sách đầy dẫy thiên kiến, lệch lạc, chưa nói đến sự ấu trĩ. Có lẽ là v́ lúc đó người ta cần phải bào chữa cho những điều mà chính phủ của họ đă theo đuổi. Hoặc biện hộ cho sự nhượng bộ khối cộng. Hay tàn nhẫn hơn, trút mọi lỗi lầm và sự hèn nhát của họ vào một đối tượng tế thần là nước Việt Nam Cộng Ḥa. Nhưng dần dần rồi cũng có những sử gia có lương tâm và tỉnh táo hơn, đă tận tụy t́m kiếm tài liệu từ cả hai phía, đă phân tích và gạt ra ngoài những định kiến, chỉ chắt lọc những dữ kiện. Từ những dữ kiện đó, chúng đủ nói lên được nhiều điều chưa từng được nói.

    Từ những kư ức đau buồn của một lần gọi là bại trận của một người lính, từ những hoài cảm về những trang chiến sử chói lọi của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, chúng tôi đă may mắn nhận được vài chục trang biên khảo của sử gia Hoa Kỳ, ông George Jay Veith viết về Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn trong cuộc chiến đấu cuối cùng tháng 4.1975 mà ông đă đặt tựa là “Fighting is an Art: The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9- 21, 1975” (Chiến Đấu Là Một Nghệ Thuật: Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa Pḥng Thủ Xuân Lộc, từ 9 - 21.4.1975). Sử gia Jay Veith đă không gặp phải khó khăn lắm trong vấn đề nghiên cứu các tài liệu viết bằng tiếng Việt từ hai phía, v́ nhờ có một sử gia Hoa Kỳ cộng tác, ông Merla L. Pribbenow, rất thông thạo Việt ngữ. Ông Pribbenow là một nhân viên Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ từ năm 1970 đến năm 1975, từng dịch sang Anh ngữ nhiều tài liệu và sách Việt ngữ viết về chiến tranh Việt Nam. Trong thư mục tham khảo nguồn tài liệu hay trực tiếp phỏng vấn phía Việt Nam Cộng Ḥa, chúng tôi ghi nhận các tác giả: Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, Đại Tá Hứa Yến Lến, Phạm Huấn, Hồ Đinh, Nguyễn Đức Phương và Phạm Phong Dinh. Về phía nguồn tài liệu Bắc Việt, hầu hết các nhân vật cao cấp từng viết sách về chiến tranh Việt Nam như Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà, Hoàng Cầm, Đào Đ́nh Luyện, Nam Hà, v.v...

    Trong bài biên khảo khá dài này, sử gia Jay Veith đă diễn tả lại rất tỉ mỉ những chuẩn bị chiến tranh từ hai phía. Một bên là Quân Đoàn 4 Cộng Sản Bắc Việt, với các Sư Đoàn 6, 7 và 341 dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Hoàng Cầm, một danh tướng của cộng quân, với sự giám sát và hỗ trợ của Tướng Trần Văn Trà, Tư Lệnh Lực Lượng Quân Giải Phóng Miền Nam, thuộc Trung Ương Cục Miền Nam. Cấp cao hơn nữa là Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn Huệ (trong tháng 4.1975 đổi thành chiến dịch Hồ Chí Minh) do Tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy. Rồi cao hơn hết là Bộ Chính Trị tại Hà Nội do “anh Ba” Lê Duẫn chỉ đạo nghệ thuật. Một bên là Sư Đoàn 18 Bộ Binh thiếu thốn quân số v́ những trận đánh liên miên từ đầu năm 1975, với Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo cùng các đơn vị tăng phái như Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Đại Tá Nguyễn Văn Đỉnh; Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Long Khánh dưới quyền của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long mới vừa từ tỉnh Quảng Đức băng rừng về đến. Cấp chỉ huy trực tiếp của Thiếu Tướng Đảo là Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III, sau khi đồng ư trả Trung Đoàn 48 của Trung Tá Tá Trần Minh Công từ Tây Ninh về cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh, th́ ông đă phải rất bận rộn với những điều động và bố trí khác, đă mặc nhiên giao phó mặt trận Long Khánh cho Thiếu Tướng Đảo. Cấp chỉ huy cao hơn nữa là Bộ Tổng Tham Mưu th́ cũng đang bù đầu tái tổ chức các đơn vị di tản từ Quân Khu I và Quân Khu II về. Vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng chẳng ra một lệnh cần thiết nào cho Thiếu Tướng Đảo.

    Như vậy, ở cương vị Tư Lệnh Sư Đoàn, Thiếu Tướng Đảo đă gánh vác sức nặng của cuộc chiến cuối cùng, đương đầu với một quân đoàn hùng hổ quân cộng cùng một hệ thống chỉ huy chằng chịt và hung hăn. Thiếu Tướng Đảo đă nói với ông Jay Veith: ”Tướng Toàn đang rất bận rộn tổ chức pḥng thủ Sài G̣n, trông cậy tôi lo liệu chuyện Sư Đoàn 18 Bộ Binh và khu vực trách nhiệm. Tôi không nhận được lệnh nào từ Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu trong việc pḥng thủ Xuân Lộc. Đối với tôi th́ chuyện này cũng dễ hiểu, v́ tính linh động mềm dẽo của QLVNCH, trong khi phía cộng sản, không một cá nhân nào có thể thực hiện mọi quyết định tự ư được”. Điều mà Jay Veith muốn nhấn mạnh ở đây là nghệ thuật phối trí và chỉ huy chiến trận của cả hai phía. Một phía là những tập hợp gọi là “đỉnh cao của trí tuệ”. C̣n một phía, chỉ duy nhất một danh tướng của VNCH là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Một cuộc đọ sức đọ trí giữa các cấp chỉ huy cộng quân và cấp chỉ huy một sư đoàn QLVNCH trong ṿng mười hai ngày đêm, mà chiến thắng vang dội của phía số ít đă làm rúng động thế giới và làm cho các quân đoàn cộng quân phải xáo trộn, Tướng Hoàng Cầm bị thay thế bằng chính Tướng Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam Trần Văn Trà. Rồi Trần Văn Trà cũng chẳng làm nên được cơm cháo ǵ, buộc phải rời bỏ chiến trường Xuân Lộc đi ṿng xuống Biên Ḥa tiến đánh Sài g̣n. Như vậy có vinh quang ǵ không, khi tướng lănh cộng sản viết sách ngợi ca chiến thắng (giả tạo và được người Mỹ ban tặng).

    Trong những ngày Quân Đoàn I và Quân Đoàn II di tản về miền duyên hải và cố gắng t́m về khu vực Quân Khu III, th́ các Sư Đoàn 5, 18 và 25 của Quân Đoàn III đă có những trận đánh với cộng quân và chịu nhiều thiệt hại. Nhưng những trận đánh này đă rất mờ nhạt trong những tin tức chiến sự hàng ngày, v́ hậu phương và giới truyền thông báo chí đang chú tâm theo dơi cuộc di tản của quân dân từ miền cao nguyên và miền Trung vào. Cho nên khi mặt trận Long Khánh nổ lớn tại thành phố Xuân Lộc, th́ người ta mới lại chú ư đến Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Người ta không được biết rằng, quân số của sư đoàn đă sụt xuống mức báo động. Nhiều tiểu đoàn quân số 450 người, khi trận Xuân Lộc bắt đầu, chỉ có không quá 350 chiến binh. Một tiểu đoàn gồm bốn đại đội, mỗi đại đội quân số đầy đủ phải trên 150 người. Giờ đây mỗi đại đội chỉ có không quá 100 chiến binh, nhưng phải cáng cáng công việc gấp rưỡi. Có nghĩa là người lính QLVNCH phải đổ máu xương gấp rưỡi để giữ vững Xuân Lộc. Nếu diễn tả lại diễn tiến trận đánh kéo dài từ những ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh giao chiến với các Sư Đoàn 6 và 7 BV trong lănh thổ tỉnh Long Khánh cho đến ngày nổ ra trận Xuân Lộc từ ngày 9.4.1975 th́ có lẽ phải cần một cuốn sách dày vài trăm trang. Chúng tôi chỉ xin được lược diễn lại những giai đoạn quan trọng nhất và xin được chú trọng vào những diễn biến nổi bật, cũng như những con người và những yếu tố làm nên thành chiến thắng Xuân Lộc.

    Cấp chỉ huy chiến trường của quân cộng

    Để biết Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh đă đánh cho bọn tướng tá Hà Nội thua xiểng liểng đến như thế nào, chúng ta hăy cùng điểm một vài khuôn mặt cấp chỉ huy của địch quân trực tiếp hay gián tiếp trong trận đánh Xuân Lộc. Người chịu trách nhiệm mặt trận Long Khánh là Thiếu Tướng Hoàng Cầm. Tướng Cầm, bí danh Nam Thạch, từng tham dự trận Điện Biên Phủ năm 1954, lúc đó ông làm Tiểu Đoàn Trưởng, trực thuộc trung đoàn mà đă xông vào trung tâm và bắt sống được tướng Tư Lệnh De Castries. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Tướng Cầm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 nổi tiếng thiện chiến, rồi được điều làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bắc Việt, khi sư đoàn này thành lập ngày 2.9.1965. Trong mùa hè 1973, Tướng Cầm được đề bạt lên làm Tham Mưu Trưởng Trung Ương Cục Miền Nam, và chức vụ cuối cùng là Tư Lệnh Quân Đoàn 4 cộng sản BV nhận lệnh tấn công Xuân Lộc để mở toang cánh cửa tiến xuống Sài G̣n. Quân Đoàn 4 của Tướng Hoàng Cầm gồm các Sư Đoàn 6, 7 và 341.

    Sư Đoàn 341 là một trong những sư đoàn non tuổi đời nhất so với các sư đoàn kỳ cựu như Sư Đoàn 2, 3, 304, 308, 324, 325, v.v.. Đại Tá Trần Văn Trấn được gọi nắm sư đoàn cuối năm 1973. Trước đó Trấn làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1BV và bị quân ta bắt làm tù binh trong năm 1970. Trấn đă khôn khéo dấu tung tích, chỉ khai là nhân viên quân y. Khi Hiệp Định Paris kư kết, hai bên trao trả tù binh, Trấn trở về Bắc và nhanh chóng được giao cho nắm Sư Đoàn 341. Thông thường th́ một cán bộ tù binh được trả về Bắc, rất có nhiều triển vọng được các đồng chí Hà Nội cho vô nằm nhà đá đếm lịch, nhưng trường hợp của Trấn lại là ngoại lệ. Tháng 2.1975, Đại Tá Trấn nhận lệnh đưa SĐ 341 vào Nam. Binh đội sư đoàn được 500 chiếc xe vận tải theo đường Hồ Chí Minh vào đến khu vực Quân Khu 7 của cộng quân, bao gồm hầu hết lănh thổ Quân Khu III của Việt Nam Cộng Ḥa. Ở đây, Đại Tá Trấn cùng ban tham mưu của ông ta được lệnh điều nghiên chiến trường Long Khánh, đặc biệt thám sát địa thế thành phố Xuân Lộc, để chờ Sư Đoàn 7 CSBV từ miền Lâm Đồng đổ xuống làm nỗ lực chính cường tập.

    Viên phụ tá Tư Lệnh Mặt Trận Long Khánh là Tướng Bùi Cát Vũ chịu trách nhiệm các kế hoạch hành quân của Sư Đoàn 7 Cộng sản Bắc Việt. Tư Lệnh sư đoàn là Lê Nam Phong, biệt danh “Nam Lửa” (Fiery Nam), v́ tính khí nóng nảy, người gốc Nghệ An. Sư Đoàn 7 Bắc Việt là một sư đoàn cứng của cộng quân, từng tham dự những trận đánh lớn ở An Lộc, Phước Long. Cho nên nó được chọn làm nỗ lực chính công phá chiến tuyến Xuân Lộc của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Sau khi tỉnh Ban Mê Thuột của Quân Khu II rơi vào tay địch quân trong đầu tháng 3.1975, th́ Tướng Hoàng Cầm đề nghị cho quân đoàn của ông ta đánh tràn xuống Quân Khu III của Việt Nam Cộng Ḥa, với sự hỗ trợ của Tư Lệnh Quân Giải Phóng Trần Văn Trà. Nhưng Lê Duẫn, tán đồng ư kiến của Tướng Văn Tiến Dũng, đă ra lệnh cho Sư Đoàn 7 hành quân lên đánh chiếm tỉnh Lâm Đồng, chờ các quân đoàn khác đánh chiếm miền duyên hải Quân Khu II, rồi cùng vào đánh Xuân Lộc. Nhưng sau này, khi Lê Duẫn nhận thấy t́nh h́nh quá suy sụp của VNCH, liền lệnh cho Phạm Hùng, Ủy Viên Chính Trị Trung Ương Cục Miền Nam lợi dụng sự hỗn loạn ấy để đánh xuống phía Nam. V́ vậy Sư Đoàn 7 Bắc Việt đang hành quân lên Lâm Đồng nhận lệnh trở xuống Long Khánh. Sư Đoàn 6 cộng quân h́nh thành từ tháng 8.1974, là sư đoàn nhẹ chỉ có hai trung đoàn được cấu thành từ các đơn vị độc lập trong Quân Khu 7, hoạt động trong quân khu. Tướng Tư Lệnh là Đặng Ngọc Sĩ, từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn Đặc Công 27.

    Những trận đánh đầu năm 1975

    Các đơn vị của Sư Đoàn 6 và 7 cộng quân đă từng giao tranh ác liệt với Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Địa Phương Quân & Nghĩa Quân trong khu vực Long Khánh, trong lúc quân dân Quân Khu I và II đang ùn ùn đổ về Quân Khu III, và trước khi nổ ra chiến cuộc Xuân Lộc. Một buổi họp quan trọng giữa Tướng Bùi Cát Vũ, Tướng Lê Đức Anh, Tư Lệnh Phó B2 (Cao Nguyên) và Tướng Lê Nam Phong, Sư Đoàn 7 BV được giao trách nhiệm đánh thông Quốc Lộ 20 từ hướng Bắc quận Túc Trưng đến Phương Lâm. Để làm được điều này, Tướng Nam Lửa phải đánh chiếm cho được quận Định Quán và tiêu diệt Chi Khu. Ngày 17.3.1975 tiếng súng của giặc bắt đầu nổ rền trời Định Quán. Quân cộng đụng phải chiến tuyến rất cứng của các chiến sĩ Địa Phương Quân & Nghĩa Quân trong Chi Khu, với hỗ trợ ṿng ngoài của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43, thuộc SĐ18BB, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đă cẩn thận gửi tiểu đoàn thiện chiến nhất của ông lên giữ con lộ 20 huyết mạch này. Các chiến sĩ Đại Đội 377 Địa Phương Quân, dù quân số và vũ khí ở thế hạ phong, v́ quân giặc quá đông cộng với chiến xa yễm trợ, nhưng đă anh dũng giữ vững được cao điểm bảo vệ Chi Khu trong ṿng hai ngày. Chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43 cũng bận rộn chống trả những làn sóng tấn công điên cuồng của địch, nhưng cuối cùng buộc phải rút về một cụm đồi không cao lắm ở hướng tây, cách thị trấn lối vài cây số, một điểm cao nh́n xuống con sông La Ngà. Trung Đoàn 209 BV tiếp tục tấn kích Tiểu Đoàn 2/43. Thiếu Tá Chế cùng chiến hữu giữ vững cao điểm dưới áp lực rất nặng của quân cộng. Thiếu Tá Chế cho hai khẩu pháo 105 ly chúc mũi bắn trực xạ bằng đầu đạn Beehive chống biển người. Trong ṿng vây trùng điệp của giặc, tiểu đoàn hao ṃn dần.

    Vận rủi lại giáng thêm một đ̣n chí mạng lên chiến sĩ SĐ18BB, khi một chiếc F-5 ném bom lầm lên đầu quân ta. Con số thương vong của tiểu đoàn qua những ngày giao tranh đă lên đến 80 người, Thiếu Tá Chế nghiến răng quyết không nhường một tấc đất cho giặc dù ông có hy sinh trên cao điểm này, nhưng Thiếu Tướng Đảo đă lệnh cho Thiếu Tá Chế dẫn quân về Núi Thị, cao điểm bảo vệ phía Tây Xuân Lộc. Trung Đoàn 209 BV thúc quân đánh tới cầu La Ngà. Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay, chỉ huy Địa Phương Quân gọi pháo binh bắn ngay lên vị trí của ông, giết chết nhiều địch quân, nhưng chiếc cầu La Ngà vẫn lọt vào tay địch. Gần như cùng thời điểm đó, Tiểu Đoàn 3/43 của quân ta trấn giữ quận Hoài Đức bảo vệ Tỉnh Lộ 303 trong tỉnh B́nh Tuy cũng bị quân cộng bức thoái. Trong t́nh h́nh khẩn trương đó, với Trung Đoàn 48 c̣n đang hành quân ở Tây Ninh, Trung Đoàn 52 không thể rời khỏi Xuân Lộc, nhận thấy quân ta bị căng mỏng quá mức, Thiếu Tướng Đảo quyết định gọi hai Tiểu Đoàn 1/43 và 4/43 rút quân về bảo vệ Xuân Lộc. Như vậy phần phía Bắc của tỉnh Long Khánh đă lọt vào tay giặc. Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ ngày Thiếu Tướng Đảo về làm Tư Lệnh tháng 4.1972, là một trong hai lực lượng cơ động của Quân Đoàn III (cùng với Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi) Đông xông Tây đụt, Nam b́nh Bắc phạt trong phạm vi những tỉnh Long Khánh, B́nh Tuy, Phước Tuy, Tây Ninh và tăng viện liên miên cho các sư đoàn bạn. Sức người chiến sĩ có hạn mà cường độ chiến tranh ngày càng nóng đỏ, đến sắt thép cũng phải chảy mềm. Hầu hết các sử gia Hoa Kỳ và phương Tây không hiểu, không biết hoặc không muốn biết người lính QLVNCH đă chiến đấu đến tận cùng khổ ải như thế nào. Thiên kiến trong sách của họ là, quân ta “nhởn nhơ” trong lúc quân Mỹ thiệt mất đến 58.000 người. H́nh như họ không dám đưa ra con số 250.000 chiến sĩ QLVNCH tử trận và trên nửa triệu chiến sĩ thương phế, để biện minh cho sự tháo chạy của người Mỹ. Ít nhất th́ sử gia Jay Veith đă dành những hàng trân trọng ngợi ca người lính của chúng ta và dành cho các anh một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử.

    Song song với hoạt động của Sư Đoàn 7 Bắc Việt, Sư Đoàn 6 BV cũng tấn công các vị trí khác của quân ta dọc theo khu vực Liên Tỉnh Lộ 2 dẫn về phía Nam đến Bà Rịa, đồng thời tấn chiếm các đồn Địa Phương Quân & Nghĩa Quân tại Ngă Ba Ông Đồn và Gia Ray. Vị trí ĐPQ trên Núi Chứa Chan sau hai ngày chiến đấu khốc liệt cũng chịu rút bỏ. Sư Đoàn 6 Bắc Việt tiếp tục áp lực một khu vực dài 50 cây số phía Đông Xuân Lộc theo Quốc Lộ 1 về B́nh Tuy. Như vậy, ư đồ của Tướng Hoàng Cầm là cô lập Xuân Lộc với cao nguyên từ hướng Quốc Lộ 20, với tiếp vận và tăng viện từ Sài G̣n trên Quốc Lộ 1 ở phía Nam, và với miền duyên hải Quân Khu II cũng trên QL1 ở phía Đông. Đến ngày 28.3.1975, Sư Đoàn 7 cộng quân quặt lên hướng Bắc tấn công tỉnh Lâm Đồng. Sai lầm chiến thuật này đă buộc quân địch phải trả một cái giá, sau những ngày tháng 3.1975 thắng lợi. Thiếu Tướng Đảo lệnh cho Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 52, dưới quyền của Đại Úy Huỳnh Văn Út và Đại Đội 52 Trinh Sát tấn công và tái chiếm được Núi Chứa Chan. Khi quân của Đại Úy Út tiến đánh một địa danh gọi là Ngă Ba Cua Heo gây thiệt hại rất nặng cho các đơn vị của Trung Đoàn 270, thuộc Sư Đoàn 341BV, th́ dân chúng vùng Kiệm Tân hân hoan đem tặng chiến sĩ SĐ18BB hai con ḅ và 200.000 đồng để khao quân. Khi nhận được tù binh gửi về, Thiếu Tướng Đảo hết sức sững sốt nh́n những người bộ đội với khuôn mặt sợ hăi, non choẹt ở tuổi thiếu niên. Họ chỉ trong độ tuổi 16, 17, là những học sinh bị bắt vào quân đội huấn luyện qua loa trong ṿng hai tuần lễ rồi bị dồn vào Sư Đoàn 341. Qua hai mươi năm chiến tranh, bọn lănh đạo cùng hung cực ác Hà Nội đă vét tới những người thiếu niên cuối cùng ngoài miền Bắc ném vào ḷ lửa miền Nam, để thỏa măn tham vọng điên rồ, là làm cho máu dân tộc chảy láng lênh thành cả một đại dương thăm sầu, xương trắng chất chồng cao dầy như dăy Trường Sơn. Tiếng kêu khóc hai miền vang vọng lên đến chín cơi trời, đến quỷ thần cũng phải rùng ḿnh.
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 05:46 AM.

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thiếu tướng Lê Minh Đảo
    Sư đoàn 18 bộ binh: cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
    2. Phần 2
    » Tác giả: Phạm Phong Dinh






    Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cố gắng tái chiếm lại những cao điểm chung quanh Xuân Lộc. Ông biết sớm muộn ǵ rồi th́ Xuân Lộc cũng là một băi chiến trường lớn, rất lớn, quyết định số phận của Việt Nam Cộng Ḥa. Gánh nặng của cuộc chiến tranh hai mươi năm bây giờ đang đè nặng lên vai ông, một trong nhũng cây cột trụ cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Với sự ra đi của Sư Đoàn 7 BV, Sư Đoàn 18 Bộ Binh của chúng ta có được những khoảnh khắc quí báu để tái tổ chức, bổ sung quân số và tái trang bị cho một cuộc thư hùng mà sẽ rất đẫm máu. Bộ Chính Trị cộng sản nhận định đă đến lúc giáng một đ̣n quyết định đánh gục Việt Nam Cộng Ḥa. Bại tướng Vơ Nguyên Giáp trong hai cuộc chiến Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 làm báo cáo gửi lên Lê Duẫn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản với những nhận xét của ông ta như sau: “V́ sự chiến đấu “yếu kém”, sự thiệt hại nặng nề và tinh thần suy sụp của QLVNCH, thay v́ chờ đợi sự tập hợp các quân đoàn, một cuộc cường kích của B 2 (tức các đơn vị cao nguyên) sẽ hủy diệt được Thiệu. Khi quân đội VNCH “sợ hăi” bỏ chạy, th́ các đơn vị đặc công và cảm tử đă đột nhập được vào Sài G̣n, sẽ dậy lên một cuộc “tổng... nổi dậy”, kết hợp với các lực lượng bên ngoài đánh vào”. Dường như ông Giáp vẫn chưa học được bài học và cơn ác mộng “tổng nổi dậy” của ông ta. Ông ta cứ mơ tưởng ngày đêm một cuộc tổng nổi dậy hoang tưởng, ít nhất hai lần đă chôn vùi tên tuổi huyền thoại của ḿnh trong năm 1968 và 1972. Khi dân chúng miền Nam không chịu tổng nổi dậy với binh đội miền Bắc, th́ Giáp đă ra lệnh cho quân ông ta dội pháo làm cho nhiều chục ngàn dân chúng các thành thị năm 1968 và người dân ba tỉnh Quảng Trị, Kontum, An Lộc năm 1972 phải tổng... nằm xuống vĩnh viễn một cách oan khuất.

    Thiếu Tướng Hoàng Cầm trong ngày 3.4.1975 trở lại bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Bắc Việt đóng về phía Đông-Nam cầu La Ngà bắt đầu chiến dịch Xuân Lộc. Sư Đoàn 7 BV đang hành quân trên QL20 tiến về Đà Lạt nhận lệnh quày trở lại. Sư Đoàn 341 chịu trách nhiệm mở những cuộc thám sát địa h́nh địa vật. Sư Trưởng 341 (cách gọi Tư Lệnh sư đoàn của phía cộng) Trần Văn Trấn, Sư Phó, các Trung Đoàn Trưởng vượt sông La Ngà gặp các cán binh địa phương nhờ dẫn đường. Ngày 5.4.1975, công cuộc nghiên cứu địa thế, binh t́nh Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Khu Long Khánh kết thúc, trong đó, theo quân sử phía cộng th́ chỉ huy trinh sát là Lê Anh Thiện đă đột nhập vào đến chỗ cư ngụ của Tỉnh Trưởng Long Khánh, Đại Tá Phạm Văn Phúc. Ngày 6.4.1975 Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341BV gửi phúc tŕnh và kế hoạch tấn công. Quân Đoàn 4 Bắc Việt chấp nhận. Trận thế chiến tranh h́nh thành như sau: Trung Đoàn 266 sẽ đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố. Trung Đoàn 270 tấn kích Gia Tân (vùng Kiệm Tân) và Núi Thị, mà trên đó trấn đóng một tiểu đoàn Pháo Binh của SĐ18BB, một trung tâm Truyền Tin và Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Trung Đoàn 273 BV làm lực lượng trừ bị, trong khi đó Trung Đoàn Pháo Binh 55 BV phụ trách yễm trợ hỏa lực, Tiểu Đoàn Pḥng Không 12 trách nhiệm khống chế vùng trời. Hai Trung Đoàn 33 và 274 của Sư Đoàn 6 BV sẽ bao vây Xuân Lộc ở phía Nam và chận đánh quân ta ở Ngă Ba Dầu Giây trên Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 BV làm nỗ lực chính nhận lệnh đánh hủy diệt Trung Đoàn 48 của Đại Tá Trần Minh Công, Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ đó chiếm lấy khu vực Tân Phong ở mặt Nam Xuân Lộc. Tuy nhiên sau đó kế hoạch thay đổi. Trung Đoàn 165 của SĐ 7BV sẽ đánh các đơn vị hậu cứ và Bộ Tư Lệnh của SĐ18BB, cũng như chiến tuyến phía Đông-Bắc Xuân Lộc do Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng trấn giữ. Trung Đoàn 209 Bắc Việt phải đánh chiếm con đường QL 1 từ Suối Cát đến Tân Phong, và Trung Đoàn 141 BV làm trừ bị. Như vậy trận thế bao vây và tấn công của Quân Đoàn 4 địch đă h́nh thành, giống như cái miệng túi đang dần thắt chặt lại. Chúng ta hăy xem Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ vạch kế hoạch chiến đấu và pḥng thủ ở Xuân Lộc như thế nào, mà sử gia Mỹ Jay Veith đă gọi đó là một nghệ thuật.

    Nghệ thuật bố trí trận liệt của Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh

    Trong lúc Hoàng Cầm đang ráo riết chuẩn bị kế hoạch đánh Xuân Lộc, th́ Thiếu Tướng Đảo và Bộ Tư Lệnh của ông cũng rất bận rộn thiết trí trận liệt pḥng thủ những cao điểm, yếu điểm chung quanh Xuân Lộc và thị xă Xuân Lộc. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo sinh ngày 5.3.1933 tại Sài G̣n, nhưng các cụ thân sinh th́ gốc gác ở tỉnh Long An. Tốt nghiệp Khóa 10 Trường Vơ Vị Quốc Gia Đà Lạt khi ông vừa đúng hai mươi tuổi. Là một chiến sĩ rất dũng cảm, chẳng mấy chốc mà số lượng huy chương tưởng thưởng cho ông đă đầy hết ngực áo. Nhưng với bản tính khiêm tốn, hiếm khi người ta thấy ông đeo những chiếc huy chương đó. Thiếu Tướng Đảo là một trong những vị tướng đi lên chức vụ của ḿnh bằng những chiến công ngoài chiến trường. Ông đă từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội, từng làm Tỉnh Trưởng Chương Thiện và Định Tường. Đỉnh cao nhất trong đời quân ngũ của ông khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ tháng 4.1972, vinh thăng Chuẩn Tướng tháng 11.1972 . Ngày 23.4.1975, Tổng Thống Trần Văn Hương gắn Bảo Quốc Huân Chương và vinh thăng ông lên Thiếu Tướng. Thiếu Tướng Đảo nổi tiếng là một vị Tướng thanh liêm, cần mẫn, năng động, kiên quyết và trí dũng song toàn. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền rất thương mến vị Tư Lệnh của họ, v́ Thiếu Tướng Đảo luôn quan tâm chăm sóc đời sống thuộc cấp và gia đ́nh họ. Ông luôn có mặt ở những vị trí tiền tuyến của sư đoàn để nâng cao tinh thần chiến binh. Nguyên tắc làm việc của ông mà ông đ̣i hỏi các cộng sự viên phải tuân thủ là liên lạc xuống dưới ít nhất hai cấp. Thí dụ, một Trung Đoàn Trưởng phải nắm được t́nh h́nh tận cấp Đại Đội, hay thấp hơn nữa. Với hệ thống làm việc sát cánh này, tinh thần binh sĩ lên rất cao, v́ lúc nào họ cũng nghe thấy cấp trên đang có mặt bên cạnh. Họ đền đáp sự quan tâm ấy bằng những chiến thắng vang dội và ḷng trung thành tuyệt đối.

    Phụ tá cho Tư lệnh là một giàn sĩ quan xuất sắc. Đại Tá Hứa Yến Lến, Tham Mưu Phó kiêm Tham Mưu Trưởng/Hành Quân/SĐ18BB, cánh tay phải của Thiếu Tướng Đảo, cùng chia xẻ gánh nặng chiến cuộc trong những ngày tàn khốc. Đại Tá Lến trong suốt đêm 20.4.1975 triệt thoái ra khỏi Xuân Lộc đă đảm nhận trọng trách bảo toàn đoàn cơ giới cồng kềnh của Sư Đoàn, trong đó có hai khẩu đại bác 175 ly của Quân Đoàn III, và ông đă đem toàn bộ đoàn cơ giới ấy nguyện vẹn về được căn cứ Long B́nh, Biên Ḥa. Trấn đóng ở những điểm trọng yếu bảo vệ Xuân Lộc, là những cấp chỉ huy trẻ tài giỏi của QLVNCH, với Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43; Trung Tá Trần Minh Công, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 48 và Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52. Thiếu Tướng Đảo đặc biệt để ư nâng đỡ các sĩ quan cấp thấp và trao gắn cấp bậc vinh thăng lên nắm những tiểu đoàn. Với giàn sĩ quan trung đoàn, tiểu đoàn đầy tài năng, Thiếu Tướng Đảo có thể yên tâm nghênh chiến quân cộng. Vị chỉ huy lực lượng Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh cùng hợp tác pḥng thủ Xuân Lộc là Đại Tá Phạm Văn Phúc. Đại Tá Phúc xuất thân từ binh chủng Biệt Động Quân, nổi tiếng là một sĩ quan xuất sắc và rất dũng cảm. Ông được điều về làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh từ ngày 1.4.1975. Một thời điểm đă quá muộn để ông có thể chấn chỉnh nâng cao tinh thần và khả năng chiến đấu của các chiến sĩ diện địa. Vị tỉnh trưởng tiền nhiệm đă không chăm sóc đúng mức đời sống binh sĩ và t́m hiểu tâm tư cùng giúp đỡ ít nhiều gia đ́nh của họ. Nhưng được chiến đấu dưới quyền của một Đại Tá Mũ Nâu trẻ, tận tụy trong tinh thần huynh đệ chi binh, các chiến sĩ diện địa đă đánh những trận long trời, bắn cháy nhiều chiến xa địch và giữ vững Xuân Lộc trong ṿng mười hai ngày đêm. Trong ngày di tản ra khỏi Xuân Lộc, chiếc xe Jeep của Đại Tá Phúc bị trúng một trái B 40, ông bị thương nặng và rơi vào tay giặc. Được phóng thích từ trại tù cộng sản sau năm 1975, Đại Tá Phúc hiện vẫn c̣n sinh sống ở Việt Nam.

    Cần phải kể thêm sự đóng góp quan trọng và quyết định của Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, một sĩ quan Pháo Binh ngoại hạng. Thiếu Tướng Đảo đặc biệt dành cho Tướng Hoàng Cầm một cái bẫy mà ông gọi là “máy nghiền thịt”, với kế hoạch hỏa lực kinh khủng trông cậy vào tài năng của Đại Tá Hưng. Thiếu Tướng Đảo bố trí các khẩu pháo của ông như sau. Một khu vực “chết” nằm ở b́a hướng Tây Xuân Lộc mà sẽ bị 24 khẩu 105 ly và 12 khẩu 155 ly dội băo lửa xuống. Mười khẩu 105 ly được di chuyển lên Núi Thị dưới sự bảo vệ của Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Hai khẩu 105 ly tăng cường cho Trung Đoàn 43 của Đại Tá Hiếu nằm trong Xuân Lộc. Hai khẩu khác qua tăng cường cho Tiểu Khu Long Khánh. Mười hai khẩu 105 ly được điều cho Trung Đoàn 48 trấn đóng Đồi 300. Chưa kể hai khẩu 175 ly của Quân Đoàn III tăng phái sẵn sàng bắn xa đến ít nhất 30 cây số để làm câm họng các khẩu 130 ly của địch được đặt gần Bộ Chỉ Huy của Tư Lệnh sư đoàn tại ngă ba Tân Phong. Đại Tá Hưng đích thân điều chỉnh tất cả những khẩu đại pháo. Ông cho các xe bulldozer ủi những hố sâu đặt những khẩu pháo để che dấu. Những hố pháo này ăn thông với những hầm tránh pháo kích do Công Binh thiết kế, để bảo vệ các chiến sĩ Pháo Binh và kéo những khẩu pháo vào ẩn trú bên trong. Với sáng kiến này, quân cộng khó có thể phát giác vị trí Pháo Binh của quân ta để dội đạn xuống hủy diệt, trong khi đó th́ những vị trí pháo của chúng bị Pháo Binh SĐ18BB pháo kích dữ dội, nhờ các điểm cao quan sát của ta báo cáo về khi phát giác được. Để có thể dự trữ khối lượng đạn pháo dành cho kế hoạch, Tướng Đảo đă phải giảm mức tiêu thụ hàng ngày xuống c̣n 20%. Với sự phân tán các khẩu trọng pháo của quân ta vào những vị trí bí mật, đến ngày cộng quân nổ súng tấn công, chúng đă không hủy diệt được pháo của quân ta, và Đại Tá Hưng đă dội lửa xuống những con sóng tấn công biển người của địch, gây thiệt hại rất nặng cho chúng. Song song đó, Thiếu Tướng Đảo cũng cho di chuyển bộ binh ra nằm ngoài ŕa thị trấn, cho nên thiệt hại v́ pháo địch rất nhẹ khi chúng dồn hỏa lực bắn vào trung tâm. Rồi khi quân giặc ào ạt tràn vào thành phố, lập túc bị quân ta từ bên ngoài siết chặt ṿng vây tấn công ngược vào làm bọn chúng hoảng loạn bỏ chạy ra khỏi thành phố. Bản thân Thiếu Tướng Đảo cũng di chuyển liên tục trong ba bộ chỉ huy sư đoàn khác nhau, cộng quân cứ bắn ḍ măi mà không t́m thấy ông. Trong khi đó th́ Thiếu Tướng Đảo đang ung dung đứng dưới chiến hào với chiến sĩ của ḿnh. Thiếu Tướng Đảo đă cho thiết lập ba Bộ Chỉ Huy ở ba vị trí khác nhau, một đặt ngay trong tư dinh Tư Lệnh trong Xuân Lộc, một tại Tân Phong và một khác trong rừng cao su. Để làm cho binh sĩ yên tâm chiến đấu và tránh cảnh hỗn loạn, Thiếu Tướng Đảo trước ngày 9.4.1975 đă cho máy bay trực thăng di tản tất cả gia đ́nh binh sĩ và thương bệnh binh về căn cứ Long B́nh.

    Để nghênh chiến với trận liệt bố trí bộ của địch, Thiếu Tướng Đảo thiết trí chiến tuyến của Sư Đoàn 18 Bộ Binh như sau. Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng giữ khu vực Túc Trưng và Núi Trản gần sông La Ngà và khu vực Ngă ba Dầu Giây, với sự yễm trợ của Chi Đoàn 3, Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh. Một đại đội dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Mại Mạnh Liêu thuộc Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, lên trấn giữ Đồi Móng Ngựa nằm về phía Đông Quốc Lộ 20. Chỉ với một đại đội này, Trung Úy Liêu và chiến sĩ SĐ18BB đă giữ vững vị trí mặc dù địch tổ chức nhiều cuộc tấn công biển người cấp tiểu đoàn, đánh cho giặc những trận thất điên bát đảo và bị thiệt hại nặng. Về hướng Đông Xuân Lộc, cao điểm Núi Thị được trao cho Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Tiểu Đoàn 1/43 của Đại Úy Đỗ Trung Chu và Tiểu Đoàn 3/43 của Thiếu Tá Nguyễn Văn Du trấn giữ các yếu điểm dẫn vào thành phố từ hướng Đông. Đại Đội 18 Trinh Sát dưới quyền của Đại Úy Phạm Hữu Đa nổi tiếng húc như điên pḥng thủ trường trung học ở hướng Tây-Bắc Xuân Lộc. Trung Đoàn 43 quyết tâm tử thủ Xuân Lộc, quân ta đánh quá dữ và gây tổn thất lớn cho Sư Đoàn 341. Cộng quân ghi nhớ mối hận này, chỉ vài ngày sau QLVNCH bị buộc buông súng ngừng chiến đấu, Thiếu Tá Du bị giặc bắt tại nhà riêng ở Vũng Tàu rồi đem đi hành quyết ngay sau đó. Đại úy Chu may mắn sống sót, hiện nay ông đang sinh sống tại Úc Đại Lợi. Tiểu Đoàn 1/48 thuộc Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh Công cùng hai chi đoàn của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá Nô được giữ làm lực lượng trừ bị, trong khi đó th́ Tiểu Đoàn 3/48 nằm giữ Quốc Lộ 1 ở hướng Đông Xuân Lộc, Tiểu Đoàn 2/48 vẫn c̣n bị kẹt nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho thị xă Hàm Tân, B́nh Tuy, không về tham chiến được trong những ngày đầu. Hai Đại Đội Địa Phương Quân 353 và 367 dưới quyền Đại Tá Phúc pḥng thủ thành phố.

    Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh với các Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Nhảy Dù, khoảng 2.000 chiến sĩ, cùng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù là một tấm lá chắn cứng ngắt ở phần phía Nam Xuân Lộc, đă giao chiến dữ dội với quân Sư Đoàn 7 BV trong khu vực đồn điền của Thống Tướng Tỵ, c̣n gọi là Vườn Ông Tỵ, sau khi được trực thăng vận xuống trong ngày 11.4.1975. Nhân dịp 100 chiếc UH này trở về, các phi công thuộc Sư Đoàn 3 và 4 Không Quân đă giúp di tản thật nhiều thương binh và đồng bào ra khỏi mặt trận đang lên đến cơn đỏ lửa nhất. Trưa ngày 6.4.1975, Thiếu Tướng Đảo được báo tin có một đơn vị lạ của quân ta đang hành quân về hướng Xuân Lộc. Khi liên lạc với nhau, ông được biết đó là Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, thuộc Liên Đoàn 24 Mũ Nâu. Thiếu Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn Trưởng đă dẫn dắt tiểu đoàn của ông băng rừng từ quận Kiến Đức t́m về miền Đông, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và Quân Đoàn II triệt thoái từ ngày 16.3.1975 . Liên Đoàn 24 Mũ Nâu với ba Tiểu Đoàn 63, 81 và 82 BĐQ đă bị kẹt trên miền cao tỉnh Quảng Đức, đă phải lội bộ trong những cánh rừng Trường Sơn bạt ngàn, thậm chí đi xuyên qua những mật khu của cộng quân, lấy thực phẩm trong những kho hậu cần của chúng, đến hai mươi ngày sau mới về đến miền Đông. Tiểu Đoàn 63 và 81 Mũ Nâu lại nhận lệnh ra tăng phái cho mặt trận Phan Rang. Tiểu Đoàn 82 Mũ Nâu quân số hao hụt chỉ c̣n có 200 chiến binh sau khi về đến được thị xă Bảo Lộc, Lâm Đồng, rồi từ đó hành quân xuống tăng phái cho SĐ18BB. Thiếu Tá Long là một trong những sĩ quan trẻ xuất sắc của binh chủng Biệt Động Quân, nên trong khu vực trách nhiệm của ḿnh là pḥng thủ phi trường, ông và 200 chiến sĩ Mũ Nâu đă đánh quân giặc thua xiểng liểng và bị thiệt hại nặng. Với trận liệt mà Thiếu Tướng Đảo đă bố trí, với những cấp chỉ huy tài năng và anh dũng như vậy, dù quân ta quân số thiếu kém, hỏa lực yếu nhưng đă đánh một trận cuối cùng làm rúng động thế giới và làm cho quân giặc cúi mặt kinh hoàng.

    Ngày 8.4.1975 Thiếu Tướng Đảo bàng hoàng được Quân Đoàn III báo tin cho hay người bạn của ḿnh là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III đă chết một cách bí mật ngay trong văn pḥng của ông, nên Thiếu Tướng Đảo vội lên trực thăng trở về Biên Ḥa thăm hỏi. Cũng trong thời điểm đó th́ Thiếu Tướng Đảo nhận được một tin khó chịu khác nữa. Tên nằm vùng cộng sản Đại Úy phi công Nguyễn Thành Trung lái một chiếc F5E bỏ bom Dinh Độc Lập, với ư định giết chết Tổng Thống Thiệu, nhưng Tổng Thống Thiệu không hề hấn ǵ. Rồi sau khi đào tẩu ra phía cộng quân Trung đă lái và dẫn nhiều chiếc A-37 trở vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất ngày 29.4.1975. Sau nhiều cuộc thảo luận với Quân Đoàn III, Thiếu Tướng Đảo vào căn cứ Long B́nh điều hợp công tác tiếp vận cho SĐ18BB và ông ngủ đêm tại đây. Đến 5G 40 sáng th́ Quân Đoàn 4 BV cho nổ phát đại bác đầu tiên bắn vào Xuân Lộc mở màn cho cuộc chiến. Quả nhiên quân cộng đă nghiên cứu rất tỉ mỉ địa h́nh Xuân Lộc, nên những trái đạn pháo đă dội trúng Bộ Chỉ Huy 1 của Tương Đảo. Đại Tá Hứa Yến Lến gọi điện báo tin cho Tướng Đảo, rằng tư dinh của ông đă bị phá hủy. Thật may mắn cho đất nước chúng ta, nếu Tướng Đảo về sớm hơn và vào Bộ Chỉ Huy 1, th́ sự mất mát quá lớn đó sẽ là nhát chém chí mạng cuối cùng lên QLVNCH. Thiếu Tướng đảo lập tức lên trực thăng lao vào Xuân Lộc, tham dự cuộc chiến đấu cuối cùng và lừng lẫy nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông.

    Cuộc quyết chiến Xuân Lộc

    Trung Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 cộng quân được chọn làm mũi nhọn tấn công chính trong giây phút đầu tiên công phá vị trí Sư Đoàn 18 Bộ Binh từ hướng Đông. Có 8 chiếc T54 được tăng cường cho cánh quân này, với ư đồ dùng những con ngoáo ộp này đè bẹp quân ta. Bộ binh và thiết giáp giặc ầm ầm xông tới với một khí thế mạnh mẽ và tự tin, chúng có ảo tưởng rằng chiến sĩ Sư Đoàn 18 cũng sẽ không đánh mà tan và sẽ vỡ chạy như các đơn vị ngoài Quân Khu I và Quân Khu II. Nhưng sự chuẩn bị thế trận và tinh thần rất tỉ mỉ của Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh đâu phải để chạy mà là dành cho quân giặc một sự ngạc nhiên đớn đau. Nên nhớ là Xuân Lộc không phải là Pleiku, Huế hay Đà Nẵng. Mà là chiến tuyến được đốt lên bằng thứ lửa thịnh nộ của người lính Quân Khu III.

    Sư Trưởng Nam Lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt đă phạm một lỗi lầm rất lớn không thể tha thứ được, là ông ta đă bỏ qua giai đoạn trinh sát thực địa thực lực đối phương trước khi ban lệnh tấn công. Cuộc gọi là “chiến thắng” dễ dàng trong những ngày tháng 3.1975 đă làm tăng thêm sự kiêu ngạo đến ngỗ ngáo của bọn tướng tá cộng sản. Lẽ ra Nam Lửa phải đích thân t́m hiểu xem ông ta đang đối đầu với những ai mới phải. Nam Lửa đă mắc sai lầm lớn mà có thể sẽ đưa ông ta về Bộ Tư Lệnh Miền để tŕnh diện cấp trên, và sẽ phải trả lời ông ta đánh giá Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Tư Lệnh Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo ra làm sao mà Sư Đoàn 7 của ông ta đă bị thiệt hại đến 2,000 bộ đội, một con số có thể trả giá bằng cái đầu của ông ta.

    Với tư tưởng chắc thắng đó Trung Đoàn 165 Bắc Việt từ lúc 5 giờ 40 sáng đă dùng chiến thuật biển người tràn lên hung hăng xông qua tám lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt của quân Nam. Nhưng ngay trong giờ đầu tiên, binh đội cộng sản đă bị các chiến sĩ Tiểu Đoàn 1 và 3 của Trung Đoàn 43, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Xuân Hiếu đánh gục ngay tại chỗ. Một ngạc nhiên đẫm máu đang chờ đón tám chiếc xe tăng của giặc. Chiến sĩ Trung Đoàn 43 đă phát minh một sáng kiến “tân kỳ” diệt tăng địch từ một khoảng cách rất an toàn. Những khẩu M 72 “Bà Già Giết Giặc” được giương ra sẵn và đặt trên một cái giá cố định đă được ngắm trước, bộ phận kích hỏa được nối với những b́nh điện. Người bấm dây diện sẽ nấp trong chiến hào ở một chỗ rất kín đáo và an toàn, chờ xe tăng địch đến đúng tầm, a lê hấp bấm mạch điện. Chiếc hỏa tiễn đen nhánh với 2 in 75 (khoảng 3 phân rưỡi) xịt một cái xẹt đúng vào pháo tháp địch, sức nóng trên 2,000 độ C của nó xoáy sâu vào lớp thép dầy chui vào bên trong và nổ bùng lên. Trong khoảnh khắc 4 chiếc T54 bị bắn cháy ngay trước ṿng rào chiến tuyến, lính thiết giáp địch có chết cũng không nhắm mắt, v́ chúng không thấy đối phương nào nhú đầu lên bắn cả. Vậy th́ cái ǵ đă bắn chúng chứ hả. Khi ánh b́nh minh lên, đoàn khu trục cơ A 1, A 37 và F 5 từ Biên Ḥa gầm rú xuất trận làm cho tinh thần quân ta càng bốc cao ngất trời. Trong những ngày Long Khánh đỏ lửa, Không Quân Việt Nam đă góp phần tích cực và quyết định trong nhiều trận đánh khốc liệt, mà nếu không có những người phi công dũng cảm đến phi thường đó, anh em bộ binh dưới đất c̣n gặp nhiều vất vả và tổn thất thêm nhiều máu xương.

    Mũi dùi thứ hai, binh đội Trung Đoàn 209 cộng sản ào ào ôm AK, B40, B41 chạy vào chiến tuyến của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân mới vừa từ mặt trận Quảng Đức về đến Long Khánh chỉ có mấy ngày. Một trung đoàn địch tưởng có thể áp đảo 200 chiến sĩ Mũ Nâu. Nhưng đụng phải Thiếu Tá Vương Mộng Long, một hào kiệt Biệt Động Quân và những ngườ lính Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đang bừng bừng cơn uất hận triệt thoái Quân Khu II, Trung Đoàn 209 bị đánh văng ra khỏi trục Quốc Lộ 1 với thiệt hại rất nặng. Thiếu Tướng Hoàng Cầm, Tư Lệnh Mặt Trận đă phải kêu lên trong cuốn Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân (Quân Bắc cộng): “Không có đợt tấn công nào của sư đoàn (7) vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 18 ngụy (sic) và hậu trận của Trung Đoàn 52 đạt thành quả. Bộ đội chúng ta đă chật vật đánh nhau với địch để giành quyền kiểm soát từng đoạn chiến hào, từng căn nhà, từng góc phố. Giải thích tinh thần chiến đấu can cường của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Đảo cho biết: “Tất cả chiến sĩ đều quyết chiến đấu. Thậm chí những sĩ quan tham mưu, binh sĩ hậu cứ đều vào tuyến đánh địch. C̣n nữa, tất cả những thành phần chiến thương hay lao công đào binh đều được phép cầm súng tử chiến. Tất cả chiến sĩ đều rất dũng cảm và giết nhiều quân địch “.
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 05:46 AM.

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Thiếu tướng Lê Minh Đảo
    Sư đoàn 18 bộ binh: cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
    3. Phần 3
    » Tác giả: Phạm Phong Dinh




    Sư Trưởng Đại Tá Trần Văn Trấn của Sư Đoàn 341 tân lập non kém mới từ miền Bắc vào Nam thận trọng hơn Nam Lửa nhiều. Biết ḿnh biết người, Trấn đă cất công đi trinh sát tỉ mỉ vị trí và trận thế của quân ta. Khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn 341 ở hướng Tây Bắc Xuân Lộc nhờ có địa thế hiểm trở bảo vệ, nên cuộc tấn công của sư đoàn này vào Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng tương đối “dễ thở” hơn từ hướng Đông Bắc khá trống trải của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Trấn cho Trung Đoàn 266 chia nhiều cánh tấn công vào khu trường trung học, chỗ Đại Đội 18 Trinh Sát của Đại Úy Phạm Hữu Đa và vào khoảng đường ngoặt ṿng gọi là Ngă Ba C. Các máy bay yểm trợ hỏa lực Hỏa Long C119 của Không Quân đă tức tốc bao vùng và xạ kích dữ dội xuống những chiếc áo màu rêu lổn nhổn ngoài 5 lớp kẽm gai pḥng thủ, cộng thêm với quyết tâm của Đại Úy Đa và em út của ông, Trung Đoàn 266 bị đánh bật trở ra ngoài. Những thành phần khác của Trung Đoàn 266 Bắc Việt mở mũi đột phá định xông về hướng Đông xuyên qua vị trí của Tiểu Đoàn 340 và 342 Địa Phương Quân dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh. Hai Tiểu Đoàn 5 và 7 của Trung Đoàn 266 cộng sản bị quân Trinh Sát và Địa Phương Quân đánh tan nát, tiểu đoàn c̣n lại với 300 bộ đội buộc phải bỏ trận địa t́m cách đi ṿng qua khỏi trường trung học và đă xâm nhập sâu 300 thước vào tỉnh lỵ Xuân Lộc. Khu chợ Xuân Lộc, nhà thờ, bến xe đ̣, Tiểu Khu Long Khánh tràn ngập địch quân. Đến 7 giờ 40 sáng, quân Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 đă bắt đầu quậy phá thành phố, nhưng quân ta vẫn kiểm soát phần lớn Xuân Lộc.

    Tại mặt trận phía Tây, Trung Đoàn 270 Bắc Việt tiến đánh căn cứ Núi Thị và Gia Tân, nhưng chạm phải sức kháng sự kiên quyết của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43 Bộ Binh làm nó bị khựng lại. Mới chỉ bị tổn thất có 12 bộ đội mà Trung Đoàn 270 đă vội vă chém vè (rút lui) về vị trí xuất phát chờ lệnh mới.

    Để đương đầu với tất cả những mũi dùi đột phá và những cánh quân vào sâu trong Xuân Lộc của quân cộng, Chuẩn Tướng Đảo tung ra một đợt phản công rất quyết liệt. Từ lúc 11 giờ trưa, lực lượng trừ bị của Sư Đoàn 18 là Tiểu Đoàn 1 của Trung Đoàn 48, do Trung Tá Trần Minh Công làm Trung Đoàn Trưởng, cùng với các thiết kỵ của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh bắt đầu hoạt động càn quét địch. Sư Đoàn 341 liền gọi Trung Đoàn 270 c̣n nguyên vẹn lực lượng gửi một tiểu đoàn thọc ngang hông Tiểu Đoàn 1/48 để chận bước tiến của quân ta. Nhưng ở trên chiến trường Long Khánh này, phía địch đă mất hết yếu tố bí mật, các đơn vị địch dần dần lộ diện và tập trung đông đảo. Đó là điều mà Chuẩn Tường Đảo và Sư Đoàn 3 Không Quân cùng Pháo Binh chờ đợi từ những ngày đầu thiết kế. Càng tập trung quân phía địch càng lâm vào thế thất lợi và thiệt hại lớn, v́ dễ dàng làm mồi cho các loại hỏa lực rất hùng hậu của quân ta. Những dàn đại pháo 130 ly, 122 ly từng gây nhiều sóng gió trên những mặt trận khác đă tỏ ra vô hiệu quả trên chiến trường Long Khánh. Những khẩu 105 ly và 155 ly được Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 18 phân tán ở những vị trí được ngụy trang cẩn thận, ông c̣n cho xe ủi đào những đường sâu rộng trong đất và kéo pháo xuống dấu, chỉ c̣n ló lên mũi súng. Chiến sĩ Pháo Bnh được đất mẹ bảo vệ chung quanh nên rất ung dung và hăng hái yểm trợ hỏa lực cho chiến hữu Bộ Binh. Chiến thuật rải quân chận địch ngay ngoài chu vi thị xă của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 đă ngăn chận hiệu quả thành phần tiền sát viên địch bám sát vào các vị trí pháo của ta để chỉ điểm tọa độ. Cho nên, trong trận Xuân Lộc, pháo binh địch chỉ bắn ḍ dẫm như những anh mù và pháo bừa băi vào khu dân cư, gây tội ác lên dân chúng vô tội rất giống thời An Lộc, Quảng Trị và Kontum của mùa hè 1972. Phụ tiếp với Tiểu Đoàn 1/48, Tiểu Đoàn 1/43 và hai Tiểu Đoàn 340, 342 Địa Phương Quân mở cuộc tảo thanh khu trục thành phần Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341 xâm nhập tỉnh lỵ hồi sáng. Trung Đoàn 266 liều chết cố bám thành phố nên đă cam chịu thiệt mạng đến 600 cán binh.

    Tại khu vực trách niệm của Sư Đoàn 6 tân lập cộng sản, áp lực của sư đoàn này đè nặng lên các tiểu đoàn Địa Phương Quân về hướng Tây Xuân Lộc. Trung Đoàn 274 cộng quân tấn công xă Trần Hưng Đạo và chiếm được đoạn Đèo Mẹ Bồng Con. Đây là con đường đèo thấp chạy xuyên qua một khu rừng cao su, địa thế rậm rạp, rất thuận lợi cho địch quân thiết trí chốt từ Ngă Ba Dầu Giây về phía Xuân Lộc. Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 hỗ trợ cho Trung Đoàn 274 bằng cuộc tiến đánh làng Hưng Nghĩa và Hưng Lộc trệch về phía Tây Ngă Ba Dầu Giây. Nhưng thật ngạc nhiên và thật ngỡ ngàng cho cánh quân đánh Hưng Lộc, khi đơn vị Nghĩa Quân Long Khánh ở đây người ít, súng kém mà đă đánh quá hăng, làm quân Trung Đoàn 33 không vào được. Ư định khống chế Ngă Ba Dầu Giây cũng không thành v́ Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh của quân ta đă ngăn chận được. Tuy nhiên trận chiến đấu càng kéo dài th́ Sư Đoàn 18 Bộ Binh càng không c̣n đủ quân số để hành quân càn quét những chốt chận trên Quốc Lộ 1 ở khu vực này, quân ta chỉ có thể giữ chắc những chiến tuyến án ngữ hướng tiến của địch.

    Ngày đầu tiên bị thất lợi và thiệt hại trên khắp mọi hướng tấn công, Hoàng Cầm, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 cộng quân kiêm Mặt Trận Long Khánh buộc phải chấp nhận lời thỉnh cầu của Tướng Bùi Cát Vũ, Tư Lệnh Phó, điều động thành phần dự bị là Trung Đoàn 141 nhập cuộc. Các Trung Đoàn 165, 209 đều nhận thêm chiến xa và đơn vị pḥng không để khai diễn đợt tấn công kế tiếp. Sư Đoàn 341 lệnh cho Trung Đoàn 270 t́m cách xâm nhập thành phố để “chi viện” (danh từ tăng viện tiếp cứu mặt trận của phía Việt cộng) Trung Đoàn 266 đang rách nát tả tơi. Cũng khoảng 5 giờ 27 sáng ngày 10.4.1975, Quân Đoàn 4 Bắc Việt mở màn cuộc tấn công đợt hai vào Xuân Lộc bằng 1,000 trái đạn pháo đủ loại vào thành phố. Đạn nổ tứ tung và bừa băi chỉ gây đổ nát thêm cho nhà cửa dân chúng, nhưng không hề hấn ǵ đối với chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh. V́ từ những ngày trước khi mặt trận nổ, Chuẩn Tướng Đảo đă cho di chuyển các đơn vị ra thiết trí ngoài thành phố và di tản tất cả gia đ́nh binh sĩ và thương binh về Biên Ḥa. Một số dân chúng cũng được trực thăng Chinook CH 47 bốc về nơi an toàn. Nên hy vọng sẽ tạo nên một băi máu thịt kinh khiếp như thời An Lộc của Tướng Hoàng Cầm đă không gây được một mức độ đáng kể nào, ngoài những đống gạch, tôn thiếc cháy đổ ngỗn ngang khắp nơi. Chuẩn Tướng Đảo c̣n chu đáo bố trí những trạm quan sát trên những cao điểm để phát giác các điểm đặt súng đại bác của địch, từ đó dàn nhạc Pháo Binh của Đại Tá Hưng và Không Quân dội xuống tiêu diệt chúng. Hoạt cảnh chiến bại lập lại y hệt một cách lạ lùng như ngày 9.4.1975. Trung Đoàn 209 vẫn bị Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân gh́m chân ở phía phi trường. Trung Đoàn 165 cộng quân vẫn không qua được Trung Đoàn 43 của Trung Tá Trần Minh Công, mà lại hao tốn thêm 5 chiếc T54 nữa. Thế mới đau.

    Cũng giống như ngày hôm trước, đến trưa hai Tiểu Đoàn 1/43 và 1/48 của Sư Đoàn 18 làm thành hai gọng kềm đánh từ ngoại ô vào và từ ḷng thành phố ra để dọn dẹp bộ đội Sư Đoàn 341 ẩn náu trong thành phố. Nhiều tù binh trẻ măng, quá trẻ là đằng khác, chỉ khoảng 16, 17 tuổi, bị quân ta bắt được trong trạng thái kinh hoàng tột độ. Đó là những em bé c̣n ngồi ở ghế nhà trường bị cộng sản đem xe đến xúc đi chở vào quân trường. Ở đó những thiếu niên nạn nhan này được huấn luyện qua loa chạy, nằm, trườn, ḅ, cách bắn súng, thảy lựu đạn trong ṿng không quá một tuần lễ, để rồi bị thảy vào ḷ lửa miền Nam. Rất nhiều cậu bé mặt mũi xanh xám v́ chết khiếp nằm núp trong những ống cống mà băng đạn c̣n nguyên xi trong ổ AK chưa bắn một viên nào. Cuộc trường chinh làm tay sai cho quốc tế cộng sản của bọn cộng sản khát máu Hà Nội chính là một cuộc trường thiên đại tàn sát thế hệ trẻ và người dân vô tội hai miền Nam Bắc.

    Thất bại buổi ban ngày, bọn tướng tá cộng vẫn không chịu cam tâm khuất phục, chúng tiếp tục khuấy phá thành phố suốt đêm với 2,000 trái đạn pháo. Chúng đang áp dụng chiến thuật làm sức lực quân ta tiêu hao, mệt mỏi v́ mất ngủ như đă làm ở An Lộc. Nhưng những chiếc C130 trang bị đại bác 20 ly của Sư Đoàn 3 Không Quân Việt Nam đă cất cánh lên vùng trời Long Khánh xạ kích yểm trợ quân bạn. Quân cộng lại thối lui, những trục đường tiếp liệu và tải thương gặp nhiều khó khăn v́ phi cơ Không Quân bắn dữ quá.

    Mặt trận Long Khánh bước sang ngày thứ ba 11.4.1975, Hoàng Cầm lệnh cho Sư Đoàn 341 bằng mọi giá phải đánh thủng chiến tuyến của Trung Đoàn 43 Bộ Binh để bắt tay với Sư Đoàn 7. Lúc 5 giờ 30 sáng, pháo binh địch đă dội một cơn băo lửa xuống thành phố Xuân Lộc trong ṿng nửa tiếng đồng hồ. Màn lửa đạn của chúng dần dần chuyển về phía Núi Thị và Tân Phong để yểm trợ khu vực tấn công của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Nhưng thật khốn khổ cho lũ cán binh địch, nhọc ḷng mà chẳng nên công cán ǵ. Hai cánh quân của Sư Đoàn 341 và 7 cộng quân vẫn bị đánh văng trở ra y hệt như hai ngày trước, trong khi đó chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh đă tái chiếm lại được gần hết những vị trí bị giặc xâm nhập trong Xuân Lộc. Sư Đoàn 7 có 300 cán binh bị thương, Sư Đoàn 341 có 1,200 bị thương. Đó là con số của phía cộng quân công bố, trong thực tế con số này c̣n cao hơn nhiều. Ngoài ra Hoàng Cầm cũng thừa nhận là tất cả súng không giật 85 ly và 57 ly sau ba ngay giao chiến đều đă bị Sư Đoàn 18 Bộ Binh hủy diệt hết. Hơn 100 chiếc xe vận tải của địch rùng rùng tuôn xuống từ phía Bắc trên Quốc Lộ 20 bị Không Quân Việt Nam chận đánh dữ dội buộc phải quay đầu tháo chạy.

    Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh xung trận

    Tuy rằng Quân Đoàn 4 Bắc Việt đang bị gh́m chân ở Long Khánh và bị thiệt hại rất nặng, nhưng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nhận định rằng, ư nghĩa của mặt trận Long Khánh không phải chỉ liên quan mỗi vấn đề pḥng thủ, mà c̣n là tinh thần chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nếu quân ta có thể gây tổn thất nặng nề cho quân cộng, chiến thắng đó sẽ gây tác dụng tốt trong t́nh thế hiểm nghèo của Việt Nam Cộng Ḥa, và có thể lật ngược được cán cân đang rất bất lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa. V́ thế, bằng mọi cách phải khai thác chiến thắng Xuân Lộc và củng cố hùng khí chiến đấu của Sư Đoàn 18 bằng cách gửi một lực lượng chia sẻ bớt sức ép của địch trong tỉnh Long Khánh. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, vừa mới lên nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III & Quân Khu III thay thế Trung Tướng Dư Quốc Đống chưa được mấy thời gian, đă rất bận rộn đương đầu với vấn đề sinh tử của quốc gia. Tướng Toàn lập tức điều động Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng cường Biệt Động Quân và Pháo Binh để trở thành Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân Đoàn III, vào mặt trận Long Khánh. Nhiệm vụ tiên khởi của Chuẩn Tướng Khôi sẽ là khai thông trục Quốc Lộ 1 từ xă Hưng Nghĩa cho đến Ngă Ba Dầu Giây. Chuẩn Tướng Khôi đă tổ chức Lực Lượng Xung Kích thành ba chiến đoàn như sau, mỗi chiến đoàn gồm một Chi Đoàn Kỵ Binh, một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân và một Pháo Đội Pháo Binh:

    Chiến Đoàn 315, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Đỗ Đức Thảo.
    Chiến Đoàn 318, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Đức Dương.
    Chiến Đoàn 322, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Liên.

    Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân Đoàn 3 từng gây kinh hoàng cho giặc trong chiến dịch Toàn Thắng đánh sang các căn cứ ẩn núp và kho hậu cần của cộng sản trên đất Kampuchea năm 1970, 1971. Rồi đến những chiến dịch An Điền, Rạch Bắp, Tam Giác Sắt của năm 1973. Được đặt dưới quyền của Chuẩn Tướng Trấn Quang Khôi và những sĩ quan cấp Tá trẻ tuổi đầy tài năng, Lực Lượng 3 Xung Kích thực sự là một quả đấm bằng thép giáng vào bất cứ đội h́nh cứng nào của giặc và đánh cho nó bể vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ. Sự ra đi của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh khỏi Tây Ninh ít nhiều cũng làm giảm thiểu sức mạnh của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Lư Ṭng Bá, đang đối đầu với Quân Đoàn 3 Bắc Việt. Chuẩn Tướng Bá chỉ c̣n có thể trông cậy vào Thiết Đoàn 10 Kỵ Binh cơ hũu của Sư Đoàn.

    Đoàn chiến xa M 48 của Lực Lượng 3 Xung Kích hành quân nhanh chóng đến Hưng Nghĩa trong ngày 11.4.1975 liền đụng độ ngay với chốt của Sư Đoàn 6 cộng sản gần Hưng Lộc. Chiến Đoàn 315 tiếp tục theo con đường số 1 húc tới, Chiến Đoàn 318 rẽ lên phía Bắc để bảo vệ cạnh sườn Lực Lượng Xung Kích, đồng thời t́m con đường bọc ṿng qua chốt địch. Chuẩn Tướng Khôi thiết lập Bộ Chỉ Huy Lực Lượng tại Trảng Bom. Cuộc tiến quân của Chiến Đoàn 315 chậm chạp v́ địa thế rừng núi phức tạp hai bên quốc lộ, chiến xa của Kỵ Binh chỉ có thể tiến hàng một trên con đường nhựa và đă gặp khó khăn v́ không thể dàn đội h́nh xung phong dội hỏa lực tiêu diệt chốt địch. Biệt Động Quân được gọi lên bứng chốt. Con đường Hưng Lộc - Dầu Giây làm gợi nhớ con đường máu Chơn Thành - Tàu Ô của B́nh Long 1972. Sư Đoàn 6 cộng sản bám chặt Quốc Lộ 1, giống như Sư Đoàn 7 cộng sản giữ cứng ngắt Quốc Lộ 13 hồi mùa hè 1972. Cuộc chiến đấu của Biệt Động Quân kéo dài dằng dai qua đến ngày 13.4.1975. Ư định cho Lực Lượng 3 Xung Kích bắt tay với Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng đang bố trí quân gần Quốc Lộ 20 ở đoạn Ngă Ba Túc Trưng và ở phía Tây Bắc Xuân Lộc đă không thực hiện được.

    Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tăng viện mặt trận

    Trong lúc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cầm chân Sư Đoàn 6 Bắc Việt tại Ngă Ba Dầu Giây, Chuẩn Tướng Đảo vẫn tiếp tục mở những cuộc phản công càn quét quân giặc tại Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 2/48 đang giữ an ninh cho thị xă Hàm Tân, B́nh Tuy, được gọi về tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Một tin vui nữa bay đến làm nức ḷng quân dân Xuân Lộc. Trung Tướng Toàn quyết định ném Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào mặt trận. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút về từ Quân Khu I đang làm nhiệm vụ bảo vệ Sài G̣n và tổng trừ bị cho Bộ Tổng Tham Mưu. Sự ra đi của Lữ Đoàn 1 Dù đă để lại một khoảng trống lớn tại Sài G̣n, nhưng nếu quân Dù có thể đánh thắng Quân Đoàn 4 Bắc Việt tại cửa ngỏ dẫn vào Sài G̣n là Long Khánh để giúp nâng cao tinh thần chiến đấu chung của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, th́ đó là việc phải làm.

    Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với một lực lượng hùng hậu gồm Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Dù, cộng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù, quân số 2,000 chiến sĩ. Bộ Tổng Tham Mưu đă tận lực giúp Trung Tướng Toàn bằng cách huy động 100 chiếc trực thăng UH 1 và nhiều Chinook CH 47 để câu những khẩu đại bác vào vị trí chiến đấu. Hai Tiểu Đoàn Dù được không vận, một chiến thuật quen thuộc và thần tốc của quân Mũ Đỏ, nhảy ngay lên Quốc Lộ 1 ở phía Nam Xuân Lộc chiếm lĩnh và càn quét những thành phần địch bám giữ ở đó. Một Tiểu Đoàn Dùø khác nhảy xuống thiết lập chiến tuyến trong khoảng rừng cao su gần đồn điền cũ của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, h́nh thành thế bao vây một tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 cộng sản Bắc Việt. Một Tiểu Đoàn Dù cuối cùng nhảy vào Xuân Lộc tăng viện cho lực lượng của Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng Long Khánh. Cũng nhân cơ hội quí giá này, dân chúng và thương binh c̣n bị kẹt trong thành phố đă được bốc ra khỏi chiến trường an toàn.

    Trước khi Lực Lượng 3 Xung Kích tiến quân lên Quốc Lộ 1, th́ Tiểu Đoàn 1/52 trấn giữ ấp Phan Bội Châu bị áp lực rất nặng của Trung Đoàn 33, Sư Đoàn 6 Bắc Việt, nhưng chiến sĩ Tiểu Đoàn đă giữ chắc vị trí. Mặc dù Trung Đoàn 52 đang gặp nhiều khó khăn, con số chiến thương càng lên cao, nhưng Chuẩn Tướng Đảo vẫn quyết định gọi Tiểu Đoàn 2/52 đang giữ ấp Nguyễn Thái Học trở về tăng viện Xuân Lộc ngày 10.4.1975. Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ ở gần đó nhận lệnh gửi hai đại đội trám chỗ cho Tiểu Đoàn bạn. Cuộc hành quân trở về Bộ Tư Lệnh của Tiểu đoàn 2/52 là cả một chuỗi chiến đấu hào hùng trong ṿng vây thắt ngặt của giặc. Trước hết các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/52 len lỏi trên con đường ṃn giữa rừng t́m cách bọc ṿng qua Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 cộng quân đang chốt chận trên khoảng Đèo Mẹ Bồng Con. Quân ta lầm lũi đi suốt đêm trong cánh rừng cao su gần ấp Núi Tùng. Nhưng đến rạng sáng ngày 11.4.1975 th́ Tiểu Đoàn 2/52 chạm phải một đơn vị cộng sản đang chiếm giữ ấp. Cuộc tao ngộ chiến diễn ra dữ dội và kéo dài đến 4 giờ chiều, quân địch tháo chạy, quân ta tiếp tục cuộc hành tŕnh ngay trong đêm đó và đă đến được khoảng đường Ngă Cua C. Sáng ngày 12.4.1975, Tiểu Đoàn 2/52 lại va phải một đơn vị địch khác từ phía sau lưng. Dĩ nhiên chiến sĩ ta không bỏ lỡ cơ hội nện lên lưng địch một cú để đời, tống tiễn 60 cán binh xuống địa ngục và tịch thu đúng 60 súng AK. Trận đánh này đă kết thúc đoạn đường máu trong ṿng vây giặc để Tiểu Đoàn 2/52 bắt tay được với Trung Đoàn 43 Bộ Binh trấn giữ thành phố. Song song với cuộc chiến đấu của Tiểu Đoàn 2/52, các Tiểu Đoàn Dù của Lữ Đoàn 1 Dù sau nhiều trận giáp chiến đă đi đến giai đoạn bao vây Tiểu Đoàn 8 của Sư Đoàn 7 Bắc Việt tại khu vực xă Bảo Định.

    Cộng sản Hà Nội rúng động

    Sau những ngày tháng 3.1975 thắng lợi một cách giả tạo, tin chiến bại của Quân Đoàn 4 báo cáo về đă làm cho Hà Nội bàng hoàng rúng động. Chỉ mới có ba ngày giao chiến mà bọn chúng đă giật ḿnh kinh hoảng, cho thấy cái lá gan thỏ đế của chúng lớn đến như thế nào. Từ đó người ta có thể rút ra được kết luận rơ răng, rằng bọn chính trị và tướng tá giặc chỉ giỏi khoác lác mồm miệng khi có được sự may mắn nào đó, và rất nhanh chóng lộ rơ bản chất hèn nhát khi chạm phải thực tế phũ phàng. Mới có ba ngày giao tranh thôi, chưa hẳn Sư Đoàn 18 Bộ Binh đă hoàn toàn thắng thế, vậy mà những khuôn mặt “lớn” của chiến dịch xâm lăng như Lê Đức Thọ, Chính Ủy, Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh,Trần Văn Trà, Tư Lệnh Mặt Trận Miền Đông, đă rối rít kéo nhau về họp để cùng “tái lượng định” t́nh h́nh, để cuối cùng nặn ra một kế hoạch nhục nhă như sau. Ngày 13.4.1975, Trần Văn Trà sẽ xuống tận hiện trường để xem bọn Hoàng Cầm, Bùi Cát Vũ làm ăn bết bát thế nào, nếu cần th́ Trà đích thân chỉ huy.

    Tưởng là Trà sẽ có kế sách ǵ hay ho lắm để tiếp tục tấn công, bản thân ông ta cũng thấy quá khó khăn khi đối đầu với Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, những sĩ quan chỉ huy trẻ thao lược và chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh dũng mănh. Đến đây đă lộ rơ sự thật về tinh thần và sức mạnh tác chiến của binh đội Bắc Việt. Một quân đội mà chỉ được xây dựng trên sự ép buộc dă man như bắt thanh niên đi lính, nếu trốn tránh th́ cứ đè cha mẹ họ ra mà cắt hộ khẩu cho chết đói; trên sự hằn thù giết chóc: bộ đội buộc phải tiến về phía trước, chính trị viên và cấp chỉ huy dí súng đằng sau lưng, nếu bỏ chạy về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa xin hàng là bị chúng bắn, hay bỏ chạy về phía sau cũng bị bắn luôn, thậm chí bị xích vào vị trí chiến đấu. Và trên hết một quân đội được xây dựng hoàn toàn bằng sự nói láo và xô đẩy cán binh vào chỗ chết v́ sự dối trá tàn nhẫn ấy, th́ làm sao bọn tướng tá giặc có thể hy vọng cán binh của chúng thực tâm chiến đấu cho những tham vọng và ảo vọng khát máu của chúng cho được. Bởi vậy trận đánh Xuân Lộc ba ngày chiến bại chứng minh hoàn toàn quân đội miền Bắc là một đạo quân rời ră mà chỉ được kết dính bằng thứ keo của bạo lực, nhồi sọ, căm thù và láo khoét.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Ảnh hưởng của Quân đội VNCH trong sự phát triển của chiếc M113
    By mơtiên in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 4
    Last Post: 15-07-2012, 03:18 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 35
    Last Post: 19-10-2010, 03:13 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •