Page 4 of 8 FirstFirst 12345678 LastLast
Results 31 to 40 of 72

Thread: Cuộc Triệt Thoái Lớn Nhất của Quân Lực VNCH

  1. #31
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P5




    ** Thiếu Uư Lê Văn Thắng, Ban 3/TD/249DPQ/BT viết lại trân Phú Long :
    Nhớ lại “những ngày tái chiếm và tử thủ Phú Long ” Thiếu Uư Lê văn Thắng, Phụ Tá Trưởng Ban 3/TD249/DPQ, hiện tạm cư tại Úc, cũng viết gần giống sử liệu :
    Sau khi xuất viện từ bệnh viện Cà Mau, tôi được sự vụ lệnh thuyền chuyển về B́nh Thuận, tháng 12/1974 .Tôi về lại B́nh Thuận thân thương, nh́n lại trường cũ, thầy xưa, gặp lại bạn bè năm nào trong vui sướng. Tuy nhiên, về lại B́nh Thuận lần này, tôi được đưa về Tiểu Đoàn 249/ ĐPQ của Thiếu Tá Phan Sang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng lưng chừng núi Tà Dôn, cũng như ở B́nh An và B́nh Lâm, trên Liên Tỉnh Lộ 8 (Phan Thiết-Ma Lâm). V́ vết thương c̣n nhiều mủ, nên được làm phụ tá Ban 3 của Trung Úy Ba. Tôi chưa quen nhiều người tại Phan Thiết., ngoài những sĩ quan trong tiểu đoàn, như Trung Úy Thời (người Lại An), Đại Uư Tập (Mũi Né), Thiếu Úy Ba (bạn học cũ, PBC 72, Lại An), Thiếu Úy Quận (Y Sĩ Tiểu Đoàn).. Điều tôi thấy sung sướng là cấp số trong đơn vị đầy đủ. Tôi tự hào về B́nh Thuận. Theo chỗ tôi biết, mỗi đêm ông anh em về nghỉ, và luân phiên hết người nọ đến người kia. Khi trở lại, có những anh em đem cá, mực lên nhậu chơi. Tinh thần này đă khác biệt hoàn toàn với những đơn vị của tôi tại Bạc Liêu. T́nh huynh đệ chi binh, t́nh chiến hữu thật là đậm đà.
    Khi c̣n đóng quân tại núi Tà Dôn, Trung Úy Ba đề cử tôi đi theo đoàn khai quang của Công Binh vài ngày để tiếp ứng khi cần. Khai quang gần Tùy Ḥa. Ngày khai quang cuối cùng, màn đêm buông xuống. Hai anh Công Binh rủ tôi vào quán nhậu rồi đưa tôi về sau. Tôi không đi. Tôi gọi máy về nhờ Tiểu Đoàn cho người đến rước. Khi tôi được rước về Tiểu Đoàn, vừa bước xuống xe th́ hay tin hai anh Công Binh khi năy đă bị VC bắn lật xe chết rồi. Thế là tôi thoát chết trong gang tất.
    Tháng 3/1975, mất Ban Mê Thuộc, “tàn quân” chạy trên quốc lộ 1. Tôi chỉ nghe kể là chết chóc nhiều trên đường chạy loạn. Người giết người để cướp vàng, tiền. Xe hết xăng bị đẩy khỏi đường ..Về đến Phan Thiết, những người này đốt kho xăng, bắn vào các tiệm ở đường Gia Long, đốt chợ Phan Thiết … Sự thật th́ tôi không nắm vững v́ luôn luôn có mặt tại trận tuyến. Chúng tôi không lănh lương trọn hai tháng 3 và 4/1975.
    Đến đầu tháng 4/1974, Đại Úy Huỳnh Văn Quư thay thế Thiếu Tá Sang, làm Tiểu Đoàn Trưởng và tái chiếm Phú Long. Thị trấn này đă bị VC chiếm hai bên đường Quốc Lộ 1. Chúng tôi di chuyển lên từ hướng Phước Thiện Xuân, cách VC đang cố thủ tại Quốc Lộ 1 khoảng 50 thước. Nhiệm vụ thật nặng nề, vừa tái chiếm Phú Long, vừa bảo vệ tài sản và nhà cửa dân.
    Đối với chiến thuật chiến tranh trong thành phố mà chúng tôi học được qua phim ảnh, gnười Mỹ đă dùng lựu đạn và vũ khí để chiếm lại từng căn nhà. Khi chiếm được khu vực nào th́ nhà cửa của khu vực đó coi như thê thảm. QLVNCH th́ nghèo nàn hơn, không thể dùng số lượng đạn dược như vậy cho chiến tranh trong thành phố. Vả lại, chúng ta cần bảo vệ cả tài sản dân.
    Lúc này, dân Phú Long đă di tản hết. Tiểu Đoàn chúng tôi tiến từng bước một, chậm, v́ VC nằm trong bóng tối đâu đó trong khi ḿnh di chuyển trên hướng quan sát của địch. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng quân nới nào th́ chỉ trong ṿng 10 phút, VC pháo tới đó. Có lần, Đại Úy Quư đă đơn thân độc mă ra quan sát chiến trường. VC bắn vào áo giáp của ông mà đầu đạn vẫn c̣n trong áo.
    Sau vài ngày, chúng tôi cũng đă giải tỏa được khu vực bên này Quốc Lộ 1, tiến đến được mặt đường, có chốt đóng ngay cầu Phú Long.
    Tin đồn bắt đầu bất lợi là có nhiều đoàn xe VC tiến về Phan Thiết, Đại tá Nghĩa đă dời BCH từ Lầu Ông Hoàng ở Phú Hài, tới Bải Thương Chánh để chỉ huy và sẵn sàng rời bỏ Phan Thiết bất cứ giờ phút nào.
    Trong t́nh trạng khẩn cấp, tôi được lệnh đi với một người xạ thủ súng cối 81ly, đến đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tại đây, tôi làm bảng tác xạ, để kịp thời yểm trợ các vị trí khi được thông báothông báo, bằng khẩu súng cối 81 ly, khá chính xác.
    Thời gian không c̣n tác dụng trên chúng tôi hay nói đúng hơn, tôi không c̣n biết đến ngày tháng nữa. Sau này, tôi chỉ dựa vào sách để biết ngày mất Phan Thiết chứ thật t́nh tôi không biết là ngày 18, 19 hay 20/4/75.
    Trong ngày cuối cùng, Trung Úy Ba gọi tôi lên đài quan sát coi VC đi về hướng nào. Đài quan sát tuy cao nhung tôi không thể thấy được ǵ. Đêm ấy, tôi được lệnh bắn cối dồn dập nhưng chính xác về các tọa độ được cho. Chúng tôi bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi tôi báo cáo hết đạn 81, tôi được lệnh xếp càng súng, bỏ sẵn trên xe và đợi lệnh . Trung Úy Ba vừa cười vừa nói với tôi: ” Thắng, mày đừng có chạy trước nghen”. Tôi trả lời: ” Tôi sẽ chờ Tiểu Đoàn, có di th́ cùng đi, có chết th́ cùng chết”.
    Tôi theo dơi t́nh h́nh qua máy truyền tin của tôi. Một lát sau, có báo cáo từ chốt cầu Phú Long là xe tăng VC đến cầu Phú Long. Họ chạm trán nhưng không bên nào nổ súng, xin lệnh từ Tiểu Đoàn. Đại Úy Quư gọi về Tiểu Khu xin lệnh. Lệnh từ Tiểu Khu, Tiểu Đoàn chúng tôi về “Mă Trái Bí” chờ lệnh mới. Xe với súng cối chúng tôi chờ sản trước cổng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tiểu Đoàn chúng tôi di chuyển gần tới chỗ tôi.
    Trưởng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân mà tôi quên tên đă nói rằng: “Tiểu Đoàn chạy kệ họ, ḿnh phải tử thủ. Đứa nào chạy tao bắn bỏ mẹ”.
    Chính câu nói này làm tôi vẫn c̣n thấy nhục nhă từ ngày cuối cùng của Phú Long, của Phan Thiết. Sau ngày mất Phan Thiết, trong thâm tâm tôi, tôi luôn luôn kính phục người trưởng đồn Nghĩa Quân này. Khi cải tạo ra, tôi hỏi thăm tin tức về anh ta và nghe nói anh ấy vào rừng tiếp tục chiến đấu. Tôi theo Tiểu Đoàn di chuyển về Mă Trái Bí (mật mă của Lầu Ông Hoàng), nằm đó chờ lệnh. Khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi liên lạc được với Tiểu Khu và được lệnh về tăng phái cho Thiếu Tá Hàng Phong Cao (Hải Long). Tiểu Đoàn di chuyển suốt đêm về Mũi Né. Ai cũng mệt mỏi nhưng không có lệnh nghỉ ngơi. Tới gần sáng, chúng tôi đến cuối Rạng, gặp nhiều người lính bỏ ngủ, họ nói Thiếu Tá Cao (Chi Khu Trưởng Hải Long) đă ra tàu đi rồi. V́ Chi khu đả bỏ ngơ, nên Đại Uư Quư phải t́m thuyền đánh cá, để đưa TD249/DPQ về Vũng Tàu

    B-TỬ CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ PHAN THIẾT:

    Trong ngày 18-4-75, t́nh h́nh Phan Thiết đă bắt đầu hỗn loạn, dù giặc vẫn c̣n ở rất xa, bên kia pḥng tuyến của các Đơn Vị DPQ/BT đang tử thủ tại Tường Phong, Đại Nẳm, Phú Hội, Phú Long và Quận Hải Long. Từ 7 giờ đêm 18-4, sau khi BCH Nhẹ của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, rút về Phan Thiết ra biển, thi TrD 6/SD2BB và Thiết Giáp, cùng các TD249/DPQ, TD275/DPQ, DD283 và 290/DPQ biệt lập cũng rút, cùng lúc với Chi Khu Hải Long. Trong Thị Xă Phan Thiết, lúc 9 giờ tối đêm 18-4, xe tăng và bộ binh của Bắc Việt, đă chiếm được Ṭa Hành Chánh, nhưng khắp các vị trí, vẫn c̣n nhiều Đơn Vị DPQ /BT chống trả như DD206 Trinh Sát của Đại Uư Lê Văn Tṛ, ĐĐ954/DPQ của Đại Uư Mai Xuân Cúc, Tiểu Đoàn 229/DPQ của ThT Tiến, Trung Tâm Yểm Trợ TV của ThT Phạm Minh, Yếu Khu Châu Thành của ThT Cư và Xă Châu Thành Phan Thiết của ThT Hải. Nói chung, khắp thành phố lửa đạn mịt mù, VC tuy vào được trong thành phố nhưng chỉ cố thủ trong các vị trí vừa chiếm được, chứ không dám bung ra trong đêm, v́ chỗ nào cũng c̣n quân ta chiến đấu , chứ không tan hàng như các địa phương khác. Trong lúc đó, máy truyền tin của ba BCH.B́nh Thuận vẫn hoạt động liên tục, ra lệnh cũng như hướng dẫn các đơn vị , tới các vị trí an toàn, chờ các chiến hạm của BTL.Vùng 2 Duyên Hải, vào vớt chở tới Vũng Tàu.. Trong đêm 18-4, Đại Tá Nghĩa, sau khi được một tàu đánh cá chở ra chiến hạm, liền được một trực thăng của QD3, chở ngay về Vũng Tàu, cùng với Đại Uư Đặng Vũ Đàng, Trưởng Pḥng 2/TK, để chuẩn bị kế hoạch phương tiện, tiếp đón các Đơn Vị DPQ+NQ/BT , đang trên đường di tản tới. Có là nhân chứng sống thực trong giờ thứ 25 của VNCH, mới biết nào là thân phận của người lính Miền Nam.
    Gần nửa đêm 18-4-75, Thiếu Tá Nguyễn Cư, Yếu Khu Trưởng YK Châu Thành, nhận lệnh trực tiếp của BCH.TK/BT ban lệnh cho tất cả các Đơn Vị DPQ đang chiến đấu, trong thành phố, cố gắng tập trung về Bến Tàu Kim Hải, phía sau Phi Trường và QYV. Đoàn Mạnh Hoạch Phan Thiết. Do đó, ngay trong đêm, DĐ954/DPQ của DU.Mai Xuân Cúc , chiến đấu tại Ấp Đại Ḥa, đă phải vượt sông Cà Ti, tới Quận Đường Hàm Thuận ở Ngả Hai, rồi từ đó băng ngang qua Phú Khánh, đến điểm tập trung Kim Hải.
    Kính phục nhất là tại QYV. Đoàn Mạnh Họach, trong lúc giặc gần như đă chiếm trọn thành phố, th́ trong bệnh viện, ngoại trừ Chỉ Huy Trưởng, Thiếu Tá Bác Sĩ Vơ Đạm (Hiện có pḥng mạch tại Boston-Mỹ), khuân vác tất cả đồ đạc và cơng vợ con, trốn về Sài G̣n, để kịp qua Mỹ, trước khi giặc vào. C̣n đơn vị, từ các Y,Nha, Dược Sĩ cho tới quân nhân cơ hữu các cấp , dù biết giờ 25, vẫn miệt mài làm việc, cứu sống bao sinh mệnh của thương binh và đồng bào chiến cuộc. Do nhu cầu, Đại Uư Y Sĩ Lê Bá Dũng, khi vào Cục Quân Y tại Sài G̣n lănh thuốc men và y cụ, đă được Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục trưởng Cục QY, bổ nhiệm làm Q.Chỉ Huy Trưởng , đồng thời ban báo thị tầm nă, việc đào ngũ của ThT Đạm. Ngày 8-4-75, Đề Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lênh Hải Quân có tới Phan Thiết họp với Đại Tá Nghĩa, để soạn thảo kế hoạch di tản đường biển, nếu B́nh Thuận bị nguy cấp. Dịp này, TK đă cấp cho QYV một máy truyền tin PRC25, nhờ vậy có thể cập nhật tin tức từng giờ.
    Trong ngày 18-4-75, dù Phú Long mịt mù lửa đạn, nhưng mặt trận Nam Phan Thiết vẫn c̣n an ninh, v́ đă có sự pḥng thủ của Liên Đoàn DPQ.Hàm Thuận của Thiếu Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng. Ngoài ra khu vực này c̣n có nhiều đơn vị khác hiện diện, như Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ và nhất là 2 TD/BDQ di tản từ Quảng Đức về chờ phương tiên vào Nam. V́ vậy QYV. Đoàn Mạnh Hoạch rất an toàn. Chừng 7 giờ tối, VC đă vào Phan Thiết và ác chiến trong thành phố, QYV nhờ có máy PRC25, nên biết tin tức. Cùng lúc, lại có một đơn vị của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, do Thiếu Tá Phạm Minh hướng dẫn, trên đường tới Bến Tàu Kim Hải, có liên lạc với QYV cho biết tin tức chiến sự. Theo Phó Tỉnh Trưởng BT. Phạm Ngọc Cửu, lúc đó c̣n đang ở Phan Thiết, th́ hai chiếc xe thiết giáp tắt đèn chạy ngang qua đó, là của quân ta, chứ VC tới trưa ngày 19-4-1975 mới dám lên khu vực này, sau khi QLVNCH đă di tản hết.
    11 giờ 30 khuya cùng ngày, DU Dũng mới nhận được lệnh di tản. Cũng may, địa điểm của bệnh viện nằm sát bờ biển,lại đă làm sẳn con đường, nên việc di chuyển thương bệnh binh ra tàu Hải Quân, cũng không trở ngại. Mặc dù lúc đó chỉ c̣n một phần quân nhân ở lại, nhưng cũng đă di tản được 200 thương bệnh binh .
    Từ sáng ngày 19-4-1975, các đơn vị DPQ /BT đă tập trung rất đông trên băi biển Kim Hải, để chờ tàu vào rước. Buổi sáng nước thủy triều xuống, nên chiến hạm không thể vào sát bờ, nên phải thả các loại tàu há mồm LCM vào rước các đơn vị. Loại tàu này có thể chở được tới 2 thiết vận xa M113. Công tác hoàn tất lúc 12 giờ trưa nhưng các chiến hạm của Vùng 2 Duyên Hải, vẫn đậu ở ngoài khơi Phan Thiết chờ lệnh, tới 2 giờ trưa mới lên đường và cập bến Vũng Tàu lúc 2 giờ sáng, ngày 20-4-1975. Tại Bến Đ́nh, lúc đó có sự hiện diện của Đại Tá Vũ Huy Tạo, Thị Trưởng Vũng Tàu và Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, TT.BT chực sẵn, đón các đơn vị, đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, tái trang bị và tiếp tục chiến đấu khắp lănh thổ Phước Tuy, cho tới khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, mới ră ngủ. Sau đó, tất cả các Sĩ Quan của TK.B́nh Thuận, bị chở về Xuân Lộc và tập trung trong doanh trại củ của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 43/SD18BB và đi cải tạo chung với Sĩ Quan của SD5BB, khắp các trại tù miền Bắc. Ngoài ra, đêm 18-4-1975, Thiếu Tá Dụng Văn Đối, QT.Hàm Thuận , đă chỉ huy các Tiểu Đoàn DPQ, Liên Đội NQ, Cán Bộ XDNT, Cảnh Sát, Viên Chức Xă Ấp thuộc Chi Khu, cùng với Pháo Binh và một Chi Đội Thiết Giáp V100, di tản bằng đường bộ vào tới B́nh Tuy. Sau đó được tàu Hải Quân chở vào Vũng Tàu và tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh của Tướng Niệm, đang trấn giữ tại Cầu Bến Lức-Long An , cho tới khi tàn cuộc.
    20-4-1975, BT coi như đă lọt vào tay Hà Nội, VC lập ra ủy ban quân quản thị xă, do thiếu tá VC Từ quảng Tuyên làm Chủ tịch, khắp nơi lập ra 16 địa điểm để các quân, công,cán,cảnhVNCH tới khai báo tŕnh diện, để cùng nhau vào địa ngục trần gian tại Cà Tót, Huy Khiêm,Sông Mao và mọi nẽo đường tận tuyệt.
    Cuộc chiến đă qua nhưng không bao giờ xoá nḥa nổi vết tích trong tâm trí người Việt. Vinh hay nhục th́ nay đă được lịch sử xác nhận, nên không cần phải ca ngợi hay biện minh về cái thua hay cái thắng, một công việc thừa thải khi mặt thật của cộng sản Hà Nội được phơi bày suốt 30 năm qua., nên chỉ xin bạn bè ai có dịp về thăm quê hương miền biển măn, đừng quên :

    ‘có xuống bến qua nghĩa địa
    đừng quên mặc niệm những hồn oan
    bỏ ḿnh trên biển khi di tản
    u uất bao năm nỗi hận hờn
    đừng quên thăm lại Quân Y Viện
    thắp một nén hương mộ bạn ḿnh
    lính trận dân lành chung buổi giổ
    tháng Phan Thiết hận đao binh…’

    Xóm Cồn
    Mường Giang



    7.4.1975: Trận Chiến Miền Đông

    * Cộng quân gia tăng áp lực tại B́nh Dương, Long Khánh

    Tại miền Đông Nam phần, thuộc vùng trách nhiệm của Quân đoàn 3/ Quân khu 3, áp lực của CQ đă gia tăng tại B́nh Dương, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ binh do Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ làm tư lệnh; tại Long Khánh, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 18 Bộ binh mà vị Tư lệnh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.

    * 2 sư đoàn CSBV khai triển lực lượng gần Dầu Giây

    Ngày 7/4/1975, 2 sư đoàn Cộng quân 341 và 3 CSBV đă khai triển lực lượng tiến về gần Dầu Giây. (2 sư đoàn CQ này đă cùng với sư đoàn 7 CSBV mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh vào ngày 9 tháng 4/1975).
    *Lữ đoàn 2 Nhảy Dù bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang
    -Ngày 7 tháng 4/1975, pḥng tuyến Phan Rang được bảo vệ với nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù c̣n được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đă tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội h́nh của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.



    QĐ3 Pḥng Tuyến Phan Rang

    * Tổng lược t́nh h́nh 7 tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2 trước khi Quân đoàn 3 thành lập pḥng tuyến Phan Rang
    Như đă tŕnh bày, kể từ ngày 10/3/1975 ,ngày Cộng quân (CQ) mở trận tấn công cường tập vào thị xă Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc, cho đến ngày 3 tháng 4/1975, trong ṿng 23 ngày, CQ đă chiếm vùng Cao nguyên sau khi lực lượng VNCH triệt thoái, theo tŕnh tự sau đây.
    -Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku và Kontum, và CQ đă chiếm 2 tỉnh này mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đă mở nhiều cuộc tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được ghi nhận là thất thủ vào ngày này.
    -Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đă triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975.(Theo nhật kư hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2 ghi theo báo cáo của Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang th́ diễn tiến t́nh h́nh chiến sự tại Lâm Đồng như sau: “Vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đă tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thị xă tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị tràn ngập.” Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh Lâm Đồng, người đă rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29/3/1975, th́ ” không hề có vấn đề thị xă Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày này, mà chỉ có việc quân ta tự ư rút lui và đồng bào di tản theo mà thôi.)
    - Ngày 3/4/1975, tỉnh và thành phố cuối cùng của Cao nguyên bị CQ chiếm là tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt (Sau 1975, CS sát nhập 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ của tỉnh này).
    *Quân đoàn 3 phối trí lực lượng giữ pḥng tuyến Phan Rang
    Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉn NinhThuận,B́nh Thuận, thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH đă quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến pḥng thủ bảo vệ hai tỉnh này. Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tưlệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đă từng giữ chức Tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đă giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972).
    Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh Thuận và B́nh Thuận,theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lênh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, th́ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân mà Tư lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.
    Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng pḥng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận.Trong những ngày đầu của tháng 4/1975, lực lượng chính để bảo vệpḥng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ Sài G̣n ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.
    Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đến Phan Rang để thay thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đă khởi sự phối trí lực lượng để bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang như sau.
    Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù c̣n được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đă tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội h́nh của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.
    * T́nh h́nh Phan Rang trong thượng tuần tháng 4/1975:

    Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđă được văn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lậpviệc pḥng thủ quanh thị xă và điều hành công việc hành chínhtrong tỉnh. Tuy nhiên lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ c̣n một phần ba quân số tại hàng. Một số lớn binh sĩ và hạ sĩ quan đă bỏ đơn vị vào Nam t́m gia đ́nh.
    Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí pḥng thủgần thị xă, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ ǵnan ninh tại thị xă và các vùng phụ cận. Lực lượng ṇng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.
    Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và t́nhh́nh tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.

    * Phần bổ sung về cuộc hành tŕnh của Trung tướng Ngô Quang Trưởng trên đường vào Nam
    Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa th́ một số tàu Hải quân đang chở hàng ngàn quân sĩ của các đơn vị Quân khu 1 và một số tiểu đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lụcchiến từ Đà Nẵng vào Nam. Như đă tŕnh bày, chỉ có một ít đơn vịcủa Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 Bộ binh lên được tàu cùng với một sốsĩ quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu Hải quân HQ 404 vớtsau khi ông phải bơi từ bờ.
    Trong cuộc hải tŕnh vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng đă nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu ông chuyển qua HQ5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ tiện nghi và sạch sẽ hơn v́ HQ 404 quá chật chội, không có máy lạnh và chở toàn binh sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, th́ lúc đótàu này dơ bẩn và hôi hám v́ có nhiều người chết. Dù được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng Trưởng không đồng ư,
    Ông yêu cầu Trung tá Nhơn báo về Sài G̣n là ông xin ở lại trêntàu với anh em Thủy quân Lục chiến chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận.
    Khi HQ 404 đến Cam Ranh, Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một ḿnh Trung tướng Trưởng vào Sài G̣n. Để thực hiện lệnh này, HQ 404 được phép ủi băi Tân Cảng để đổ Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổquân bắt đầu, Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung tá Nhơn thấy vậy tiến đến tŕnh bày: “Lệnh Sài G̣n yêu cầu tôi chở Trung tướng về Sài G̣n. Xin Trung tướng ở lại tàu cho”. Với nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rơ từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài G̣n cho Thủy quân Lục chiến về Sài G̣n để dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh th́ tôi cũng xuống đây luôn.
    Liền ngay sau đó, Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về Sài G̣n và chờ đợi kết quả. Cuối cùng công điện trả lời: “Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận”. Quân nhân Thủy quân Lục chiến đă xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân nhân Thủy quân Lục chiến đă có mặt đầy đủ, với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào pḥng của ông.



    8.4.1975: Trận Chiến Quốc Lộ 20

    * 3 sư đoàn CSBV áp lực nặng pḥng tuyến Long Khánh
    Sau khi đă điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày 8 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến hiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vậttại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.
    Ngày 8/4/1975, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đă thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộng quân, tuy nhiên, các phi tuần này đă gặp khó khăn do màn lưới pḥng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh pḥng không của Cộng quân.

    *Dinh Độc Lập bị dội bom

    Cũng trong ngày 8 tháng 4/1975, 1 trung úy Không quân tên là Nguyễn Thành Trung, nội tuyến của VC, đă lái 1 phản lực cơ chiến đấu F5 thả bom xuống dinh Độc Lập. Vụ ném bom này chỉ gây hư hại 1 phần của đại sảnh đường. Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng “tin đồn được truyền đi cho rằng số phận miền Nam đă được định đoạt bởi những thế lực lớn”.



    9.4.1975: Trận Chiến Long An

    *Cộng quân đột kích vào thị xă Tân An, tỉnh lỵ tỉnh Long An
    -Ngày 9/4/1975, cùng lúc CQ mở cuộc tấn công vào thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh, th́ tại tỉnh Long An thuộc phạm vi trách nhiệm của Sư đoàn 25 Bộ binh, vào lúc 6 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975, 1 tiểu đoàn đặc công Cộng quân đă đột nhập vào thị xă Tân An (tỉnh lỵ Long An), 1 biệt đội đặc công đă tấn công vào một phi trường cách thị xă Tân An 1.5 km. Lực lượng pḥng thủ thị xă và đơn vị Địa phương quân pḥng thủ phi trường đă đẩy lùi được cuộc tấn công của Cộng quân vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày, hạ tại chỗ 25 CQ, tịch thu một số vũ khí đủ loại.
    *Mặt trận Long Khánh bùng nổ
    Rạng sáng ngày ngày 9 tháng 4/1975, sau khi đă đặt các chướng ngại vật tại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, CQ mở cuộc tấn công cường tập vào pḥng tuyến Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh. Cùng thời gian, CQ đă pháo kích dữ dội vào căn cứ Không quân Biên Ḥa, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, căn cứ Tiếp vận Long B́nh.



    9.4.1975, Long Khánh Bùng Nổ

    *Tổng lược về trận chiến Long Khánh ngày 9/4/1975


    Theo tài liệu ghi trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi đă điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày ngày 9 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật tại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Cùngthời gian khai triển lực lượng tại khu vực nói trên, rạng sángngày 9/4/1975, Cộng quân đă pháo kích như mưa vào Căn cứ Khôngquân Biên Ḥa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Căn cứ Tiếp vận Long B́nh.
    Tại tỉnh lỵ Xuân Lộc, từ 6 giờ sáng 30 cùng ngày (9/4/1975), Cộng quân đă đồng loạt pháo kích khoảng vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵXuân Lộc. Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266 thuộcsư đoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa T54, 2tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công tấn công vào ngay thị xă.
    Cũng với trận tấn công vào vào thời gian đó, CQ tấn công vào khu vực ngă ba Dầu Giây. Kế hoạch của Cộng quân là muốn chiếm Dầu Giây để từ đây tấn công vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh.
    Ngay trước khi trận chiến xảy ra, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đă thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộngquân, tuy nhiên, các phi tuần này đă gặp khó khăn do màn lưới pḥng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh pḥng không của Cộng quân được bố trí quanh ṿng đai pḥng tuyến của Sư đoàn 18Bộ binh.
    *Lực lượng VNCH tại mặt trận Long Khánh
    Về lực lượng tác chiến của Quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh, theo tài liệu của Pḥng 3/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH được Đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi kư, th́ tính đến sáng ngày 9/4/1975, các đơn vị pḥng ngự gồm có toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh, được tăng cường thêmTrung đoàn 8 Bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, Thiết đoàn 3 , hai tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh. Các đơn vị này được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318 và 322 được phối trí án ngữ quanh ṿng đai thị xăXuân Lộc. Tư lệnh mặt trận Long Khánh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo,Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, chỉ huy lực lượng diện địa là Đại táPhạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Long Khánh.

    * Diễn tiến các trận giao tranh trong ngày 9/4/1975.

    Theo bản tin chiến sự do phát ngôn viên Quân sự QL.VNCH phổ biến và được báo Chính Luận số ra ngày 10/4/1975 phổ biến, diễn tiến các trận giao tranh tại Xuân Lộc trong ngày 9/4/1975 được ghi nhận như sau.
    Tại pḥng tuyến quanh thị xă Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh), 7 giờ 30 sáng, Cộng quân đă mở nhiều đợt tấn công vào vị trípḥng ngự của các chiến đoàn 316, 318 và 320. Tại trung tâm tỉnhlỵ Long Khánh, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh ṭa vàgiữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùngthiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xă, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đă điều động thêm lực lượng đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.
    Lực lượng tăng viện và trú pḥng đă quyết chiến và đẩy lùi đượccác đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đă bị bắncháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốtcầm cự của Cộng quân trong tại thị xă Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Ṭađă hoàn toàn bị đẩy lui, 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa vớitrên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại cáckhu vực kế cận thị xă, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm mớitạm lắng sau khi lực lượng tăng viện giải tỏa được áp lực của Cộng quân.
    * Cuộc chuẩn bị của Cộng quân tại mặt trận Long Khánh
    Theo lời khai của 2 tù binh Cộng quân, những binh sĩ này thuộcmột trung đoàn mới từ miền Bắc xâm nhập vào Nam từ đầu năm 1975.Trước khi tấn công vào thị xă Xuân Lộc, đơn vị của hai tù binhnày đă được tập dượt trước với sự tham gia của một tiểu đoàn thiết giáp.
    Theo tài liệu trong Tạp chí “Lịch sử Quân đội” CSVN số 3/1998 ( do tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh Hứa Yến Lến trích dẫn phổ biến trong KBC số 22, th́ kế hoạch chuẩn bị cuộc tấn công vào Xuân Lộc được Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ chính trị CSVN, kể lại diễn tiến như sau: ” Sau 2 lần B 2 xin quân th́ tôi (Lê Đức Thọ) vào chiến trường gặp lúc hội nghị miềm Bắc vưà kết thúc. Lúc đó, tôi cũng được biết trước đó, anh em (CSBV) đă đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường. Ngoài ra địch c̣n chống cự
    như trận đánh vào Đồng Dù, Nước Trong là những trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta (CSBV) không phải là ít, tôi có ư định toan bàn với các đồng chí (Bộ Tham mưu trung ương của CQ tại miền Nam, nhưng nghe anh Dũng (Văn Tiến Dũng, đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV, tôi cũng nghĩ có thể ḿnh mới vào chưa rơ t́nh h́nh; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là an hem (CSBV) không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra.
    Cũng theo tài liệu nói trên, lực lượng CQ tại mặt trận Long Khánh trong những ngày đầu là quân đoàn 4 CSBV do tướng CSBV Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ là tướng CSBV Hoàng Đ́nh Hiệp. Các đại đơn vị thống thuộc quân đoàn này gồm có: sư đoàn 6 sư đoàn 7 và sư đoàn 341, sư đoàn này vưà di chuyển từ Thanh Hóa vào với thành phần Pháo binh cơ hữu. (Tài liệu phổ biến trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên có phần khác biệt về danh hiệu các sư đoàn CSBV, theo đó 2 sư đoàn 3 và 341 là những đại đơn vị đầu tiên của CSBV tại mặt trận Long Khánh, sau đó được tăng cường thêm sư đoàn 7 CSBV).



    10.4.1975: Trận Chiến Xuân Lộc

    *Trận chiến Xuân Lộc ngày N+ 1


    Ngày 10 tháng 4/1975, trận chiến tại mặt trận Long Khánh đă bước vào ngày thứ hai. Sau khi bị đẩy lùi khỏi trung tâm thị xă Xuân Lộc trong buổi chiều ngày 9 tháng 4/1975, 7 giờ sáng ngày 10 tháng 4/1975, CQ lại mở đợt tấn công thứ hai. Khởi đầu là CQ pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại vào thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh, và vào các vị trí trọng điểm dọc theo các pḥng tuyến ṿng đai tỉnh lỵ, trận mưa pháo kéo dài trong ṿng 1 giờ. Sau đó, các đơn vị bộ binh và thiết giáp của Cộng quân đă đồng loạt tấn công vào thị xă này từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc. Đợt tấn công này đă bị quân trú pḥng chận đứng từ các ngă ba dẫn vào tỉnh lỵ.
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 09:03 PM.

  2. #32
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P6



    * Kịch chiến tại ngă ba Dầu Giây

    Tại ngă ba Dầu Giây, trận chiến đă xảy ra quyết liệt. Cộng quân áp dụng chiến thuật “xa luân chiến”, các đơn vị Cộng quân thay nhau liên tục mở các đợt tấn công vào hệ thống công sự pḥng thủ của quân trú pḥng. Để triệt tiêu lối đánh của đối phương, các đơn vị trú pḥng VNCH đợi Cộng quân đến gần mới khai hỏa đồng loạt, mỗi đợt tấn công có ít nhất một trung đội Cộng quân đi đầu bị loại khỏi ṿng chiến. Để yểm trợ cho các đơn vị pḥng ngự, các pháo đội Pháo binh VNCH đă bắn trực xạ chận đứng các đợt tấn công biển người của Cộng quân.



    11.4.1975: Trận Chiến Dầu Giây

    -Tại Xuân Lộc, đến sáng ngày 11/4/1975, trận chiến đă bước vào ngày thứ ba. Sau hai ngày giao tranh 9 và 10/4/1975, hơn 500 CQ bỏ xác tại trận, 8 chiến xa T54 bị bắn cháy, lực lượng pḥng ngự VNCH thu được gần 200 vũ khí đủ loại. 7 giờ sáng ngày 11/4/1975, hai trung đoàn CQ từ hướng đông bắc và tây nam tấn công vào trung tâm thị xă, đây là đợt tấn công thứ ba. Quân trú pḥng từ những công sự chiến đấu quanh các khu vực đă giao tranh quyết liệt với Cộng quân.
    -Tại ngă ba Dầu Giây, liên tục trong 3 ngày từ 9 đến 11/4/1975, CQ đă tung 2 trung đoàn có thiết giáp yểm trợ quyết chiếm khu vực này, để từ đây mở những cuộc tấn công lớn vào pḥng tuyến của Trung đoàn 52 BB đang án ngữ hướng tây bắc của thị xă tỉnh lỵ. Tính từ 6 giờ sáng ngày 11/4/1975 đến 18 giờ ngày 11/4/1975, CQ đă mở đến 6 đợt xung phong biển người vào các vị trí ở mặt trận Dầu Giây, và đều bị đẩy lùi.



    Cuộc Di Tản Của Tiểu Khu B́nh Thuận

    Cuộc Di Tản Của Tiểu Khu B́nh Thuận Vào Những Ngày Cuối Tháng 4-1975

    Thành phố Phan Thiết sau mấy cơn mưa đầu mùa, đẫm đầy nước mắt, máu lệ và đạn pháo kích của quân Bắc Việt, làm cho tháng 4-1975 mùa hè hoa phượng, không c̣n thơm nồng trong những trang lưu bút. Khắp nơi, những trận đánh long trời lở đất đă diễn ra hằng ngày, càng lúc càng ập sát Phan Thiết cũng như Sài G̣n. Trong cơn mưa rào nước mắt tháng tư, mọi người ai cũng cố dầm mưa, để níu lấy một chiếc giây diều tuổi nhỏ, đang mong manh sắp đứt , giữa cơn băo tố loạn cuồng.
    Năm đó mưa đến sớm bất ngờ theo với tiếng súng nổ. Phía xa trên đỉnh Trường Sơn, lưa đạn cùng với giông chớp làm rung động đất trời. Những người lính trận B́nh Thuận, đêm ngày phờ úa với chiếc ba lô và đạn súng, chạy theo cơn lốc giữa đời nhưng không biết rồi đời sẽ đi về đâu, vào những ngày tháng tư lửa loạn.
    Suốt thời tuổi thơ sống ở Phan Thiết, đă quen với màu hoa phượng vỹ ven đường và tiếng ve rên tỉ tê trong gốc vông, một niềm chờ đợi. Nhưng sao tháng tư năm đó, màu hoa phương kể cả tiếng ve ran, như đă đổi thay một cách lạ lùng. Bởi v́ màu phương không c̣n là má em hồng thắm mỗi khi e thẹn, c̣n tiếng ve lại nỉ non rên khóc, khiến cho người lính trận thêm đứt ruột, buồn rầu.
    Những ngày tháng tư, Phan Thiết càng lúc thêm cô quạnh, v́ một số lớn người thành phố có phương tiện, đă nối tiếp di tản về nam lánh tai ương chiến nạn. Nhưng ai c̣n lại, cũng ở lỳ trong nhà v́ thời thế không biết đâu mà ṃ. Khắp nơi, ngoài gió mưa, bom đạn, gần như chỉ c̣n có những người lính trận, lúc nào cũng nhạt nḥa v́ lệ và giọt mưa cô đơn, lăn veo trên hai khóe mắt. Cứ đánh nhau và tiếp tục thay phiên chôn xác đồng đội, đồng bào bạn bè, giữa những cơn mưa sau chiến trận. Thảm nhất là lúc mà cỏ xanh vữa phủ đẹp trên nấm mộ của người lính, th́ tháng 5-1975 mất nước, vài ngày sau đó, người chết tử thi chưa ră, đă bị dầy mồ để trả thù. Tháng tư, những căn hầm tránh đạn của lính , ngày mưa đêm gió, nước ngập tới vơng, khiến cho lính lẫn quan, cứ mở to đôi mắt để mà nghe tiếng nước , từ trời ùa vào hầm sắp ngập tới bụng ḿnh.
    Thân phận của người lính miền Nam là như vậy. Ngoài kia bom đạn của cả hai phía, ác liệt từng giây. Phải cám ơn những giọt mưa đă làm nhạt nḥa nước mắt của người lính, bao chục năm đă sống âm thầm, chịu đựng hy sinh, giữa một xă hội vong ân bạc nghĩa như chưa từng biết đến nỗi đau thương và chết chóc bao giờ.
    Ra đời trong một đêm mưa đại bác, thời gian Pháp và Việt Minh đánh đấm loạn ngầu, ngay trong những đường phố Phan Thiết. Năm 1945 Việt Cộng cướp chính quyền, ba má bỏ thành phố, gánh anh em tôi, giữa cơn mưa chạy loạn. Từ đó cho tới nay, mưa và khói lưa cứ theo tôi hành hạ một đời. Ở đây nơi quê người, vậy mà cũng đă mấy chục mùa mưa đợi chờ thương nhớ. Năm nay tháng tư tuổi già, nhưng mà hồn sao vẫn cứ ngơ ngác , như muốn chực ôm choàng lấy mùa hè, hoa phượng . Ngồi trong nhà đếm giọt mưa tí tách, lại cứ tưởng tiếng mưa năm nào, gơ nhịp trên tàu chuối sau hè. Mưa Phan Thiết giống mưa Hạ Uy Di, bất chợt từng cơn đổ mưa như trút nước và ngưng. Nhưng mưa nào cũng buồn, nhất là những ngày tháng tư gợi nhớ, năm nao ngày mưa ḥ hẹn t́nh đầu. Năm nay cũng vẫn năm nào, một ḿnh cứ chạy ngược thời gian, trở về tuổi thơ, vẫn c̣n núp lén đâu đó. Cuối cùng rồi cũng nắm được áo em, đồng đội trong giọt nước mắt cuối đời, khi chuyến tàu ngườc đường dỹ văng, vừa ghé ga Phan Thiết, đúng vào những ngày tháng tư mất nước, của hăm chin năm về trước, mà khóc và cô đơn trong nổi đổi đời..



    1-NHỚ VỀ NGƯƠI CHỈ HUY CŨ TẠI B̀NH THUẬN :

    Giờ G, ngày N của liên quân khối cọng sản đệ tam quốc tế, tại Sài G̣n là 24 giờ ngày 29-4-1975. Đây là kế hoạch của Lê Duẩn , đặt ra cho tất cả các lộ quân Bắc Việt, các đội biệt động nằm vùng, đơn vị đặc công và cán bộ đảng, cán bộ chính trị..ngoi lên để đánh chiếm Sài Gón. Tại Phan Thiết, trái lại đă không có giờ G hay ngày N, v́ từ năm 1955 tới 1975, VC và Việt gian B́nh Thuận, lúc nào cũng có kế hoạch giờ G, ngày N, để chiếm cho được vùng đất, mà nhân gian thường gọi đó là ‘ biển bạc, rừng vàng’.
    Sau tết Mậu Thân 1968, dù tránh được tám máu và cảnh xác người quốc gia cột đá neo ghe, sau ba lần bị cọng sản tấn công. Nhưng t́nh h́nh an ninh tại B́nh Thuận càng thêm rối ren, v́ việt gian bên trong, việt cộng bên ngoài và trí thức, nhà giàu toa rập với sư-cha, đâm sau lưng người lính..Dù đả thay tỉnh trưởng từ Trung Tá Nguyễn Khắc Tuân tới Đại Tá Đàng Thiện Ngôn, nhưng t́nh h́nh càng tuyệt vọng, nhất là trong giai đoạn Quân Mỹ sắp rút về nước, càc đơn vị chính qui đang tăng phái cho B́nh Thuận như SD23BB, Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh, cũng rục rịch di chuyển , để đáp ứng với nhu cầu chiến thuật, chiến lược của giai đoạn quân sự.
    Trong bối cảnh sống c̣n của một tỉnh lớn và quan trong nhất Miền Trung. Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, cũng như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, quyết định thay thế hai tỉnh trưởng B́nh Định và B́nh Thuận. Như vậy, cuối năm 1969, Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, Trưởng Pḥng 2 của Quân Đoàn, được chỉ định rời Pleiku xuống Phan Thiết, làm Tỉnh Trưởng B́nh Thuận, thay thế Đại tá Đàng Thiện Ngôn.
    Cũng từ đó, nhờ tài thao lược, sự can đảm dấn thân nhưng trên hết là công lao góp phần xương máu của tất cả dân, quân, cán, chính B́nh Thuận..cũng như những đơn vị tăng phái, mà quan trong nhất là không quân. Đó là những chiến sĩ can trường, thuộc Không Đoàn Ó Đen, của Trung Tá Khôi, đóng tại phi trường Bửu Sơn-Phan Rang. Trong số này có người hùng Lư Tống,lái những con chim sắt phản lực A 37, hàng ngày nhởn nhơ trên khắp các ṿm trời B́nh Thuận, từ chiến trường bất chợt cho tới các khu vực được oanh kích tự do, tại các mật khu Lê Hồng Phong, Nam Sơn..rừng nuí không có người ở. Do sự phối họp nhịp nhàng chiến thuật, giữa tiểu khu và không đoàn, nên tất cả các cuộc hành quân vào mật khu hay sào huyệt của giặc, luôn là sự phối hợp giữa bộ b́nh dưới đất và oanh kích trên đầu, khiến VC hoang mang, rồi nghi kỵ phe ḿnh có gián điệp. Ngoài ra, không thể không nhớ tới sự yểm trợ tích cực của Hải quân Hoa Kỳ, với các pháo hạm hoạt động ngoài hải phận quốc tế, dọc theo lănh hải VN, trong đó có B́nh Thuận. Trong thời gian hai phía thi hành cái gọi là Hiệp Định Ba Lê 1973 BỊP, do Nixon-Kissinger dàn dựng để tái đắc cử Tổng Thống và bán đứng VNCH. B́nh Thuận được thông báo, là Hải Quân Hoa Kỳ có lệnh yểm trợ cho Tiểu Khu, trong thời gian này. Để hoàn thành nhiệm vụ, tránh pháo nhầm khu vực dân cư và quân ta, Hạm Đội Mỹ cần thả máy điện tử (sensors), tại các khu vực có hay khả nghi là vùng giặc đóng, để tiện theo dơi và phản ứng khi cần. Từ năm 1969-1975, ai cũng biết Đại Tá Nghĩa là cấp chỉ huy năng động, thường tới các tiền đồn, ấp xă, phân chi khu, hay Đơn vị Nghĩa Quân hoặc Xây Dựng Nông Thôn, vùng hẻo lánh, để ngủ đêm. Cho nên ta cũng không lạ khi biết chính Đại Tá Nghĩa, rủ ông cố vấn Mỹ của Tiểu Khu là Phillip Cook, cùng với ḿnh và con trai là Ngô Tấn Lể và một phi công, thực hiện phi vụ đầy nguy hiểm này. Đây cũng là một cách, trả lời cao thượng cho người Mỹ biết, không phải QLVNCH, ai cũng không chịu chiến đấu hoặc hèn nhát. Đó chỉ là thiểu số, v́ nếu cứ nghĩ theo người Mỹ nói, chắc VNCH đă bị Hà Nội đô hộ từ lâu đời, chứ không phải tới tháng 4-1975.
    B́nh Thuận đất rộng người thưa nhưng lại là một địa phương rất phức tạp về sắc tộc và tín ngưỡng. Người Kinh tuy chiếm đa số nhưng phần lớn sinh sống tại thị xă Phan Thiết và các quận phía Nam. Tại bốn quận miền bắc gồm Ḥa Đa, Hải Ninh, Phan Lư Chàm và Tuy Phong..gần như là giang sơn của người Tàu-Nùng và người Chàm. Trong tỉnh, ngoài Phật và Thiên Chúa Giáo là hai tôn giáo chính, c̣n có các tín ngưỡng dân gian như Thờ Cúng Nam Hải Đại Tướng Quân của ngư dân, Thờ Cúng Thầy Chúa trên Đảo Phú Quư, Hồi giáo và Bà La Môn của người Chàm cũng như các tôn giáo Tin Lành, Bà Hai, Cao Đài..Nói chung, trong thời gian làm tỉnh trưởng, Đại Tá Nghĩa dùng quân sự để chống Việt Cộng, Việt Gian và sử dụng t́nh cảm, ngoại giao, để thu phục ḷng người. Nhỡ vậy mà suốt thời gian c̣n lại của B́nh Thuận, coi như không có biểu t́nh, xuống đường và cảnh đâm sau lưng chiến sĩ như các thời tỉnh trưởng khác, nhất là mấy năm Trung Tá Điệp Viên Bắc Việt Đinh Văn Đệ (1965-1967).
    Trong những việc làm đầy ư nghĩa nhất của Chính quyền VNCH lưu lại sau ngày 30-4-1975, ngoài phố xá đẹp đẻ, dân trí được giáo dục mở mang và ngôi trường Trung Học công lập Phan Bội Châu uy nghi nề nếp, c̣n có hai công tŕnh văn hóa do Đại Tá Nghĩa thực hiện, đó là Tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo, đứng trước Ṭa Hành Chánh Tỉnh, kế ḍng sông Cà Ty. Tượng đài đêm ngày nhắc nhớ dân chúng cũng như quân nhân các cấp, phải trung thành với dân nước, hy sinh cho chính nghĩa quốc gia dân tộc, để không bị cười chê là hạng tiểu nhân, phản bội, thấy lợi đă chạy theo Việt Cộng, hại nước, phản dân, ngàn năm mang tiếng là Việt Gian hèn hạ. Ngôi tượng thứ hai là Tượng Phật Bà Quan Âm, ngự trên đỉnh cao nhất của đồi Bà Nài, kế lầu ông Hoàng, nơi xảy ra mối t́nh diễm tuyệt của Hàn mạc Tử và Mộng Cầm, một thời hoa mộng. Tượng Phật Bà đứng quay mặt hường về Biển Đông trùng hằng sóng vổ, với đôi mắt nhân từ và bàn tay mở rộng, như hằng sẵn sàng cứu trợ nhân sinh, trong những phút phong ba bảo táp.
    Tất cả mọi sự chẳng qua cũng chỉ làm để thu phục nhân tâm, trong một tỉnh mà cộng chung Phật giáo và các tín ngưỡng dân gian như Đạo thờ Cúng Ong Bà, Thờ Cúng Nam Hải Đại tướng Quân, Thầy Chúa, Lăo Giáo, Bà Hai, Cao Đài với số tín đồ chiếm hơn 80% dân số toàn tỉnh, th́ cái sự mà Tỉnh trưởng mời phe đối lập như Vũ văn Mẫu, Hồng Sơn Đông, Phật giáo Ấn Quang..tới cắt băng khánh thành hai pho tượng để đời trên, xét cho cùng, là một thái độ khôn ngoan của người chỉ huy toàn tỉnh.
    Thế nhưng cũng từ đó, Đại Tá Nghĩa đă bị báo cáo tới Tổng thống Nguyễn văn Thiệu là thiên vị, ngả theo phe Dương văn Minh. Cũng may trong cuộc bầu cử 1971, Tổng thống Thiệu tái đắc cử, tại Phan Thiết, Trương Gia Kỳ Sanh lọt sổ, nhường ghế cho Nguyễn Quốc Biền (công giáo) và Đinh Xuân Dũng (Phật Giáo).nên Đại Tá Nghĩa mới được để yên, và cũng nhờ vậy mà B́nh Thuận-Phan Thiết, tiếp tục chiến đấu cùng giặc Cộng, cho tới giờ phút cuối cùng vào ngày 19-4-1975.

    Con người trên cơi đời này, có ai dám vỗ ngực nói ta là tốt hay đúng hoàn toàn. Suốt thời gian làm tỉnh trưởng B́nh Thuận, Đại tá Nghĩa cũng đâu có ngoại lệ, nên chắc chắn là cũng có lúc sai lầm . Những lời đồn đăi về việc không phát lương cho lính trong tháng 3-1975 hay lớn hơn là chuyện khai quang ủi đất ở Lương Sơn..Nhưng tuyệt đối nói Đại Tá Nghĩa tham nhũng, nuôi lính ma lính kiểng, bán chức quận hay các đơn vị trưởng tiểu đoàn, đại đội..là chuyện khôi hài, kể cả con nít cũng không tin. V́ thời gian 1969-1975, B́nh Thuận chống tham nhũng dử tợn. Những Nguyễn Quang Chùy (Trưởng Ty Xă Hội), Thiếu tá Nguyễn Thanh Xuân (Quận trưởng Tuy Phong), Trung Uư Hàng Cà (sĩ quan Ban 4/Chi khu Tuy Phong.) và hằng trăm hằng ngàn những sâu bọ khác bị bứng ghế, vào tù ..đủ nói lên sự cương quyết làm sạch xă hội và guồng máy chánh quyền B́nh Thuận. Một cấp chỉ huy bê bối mà dám hành động tày trời như thế, thử hỏi làm sao sống yên với Trúc Viên, Lê văn Tho, Nguyễn Ngọc Hương (Sóng Thần), Phú Ngữ (Điện Tín), Đinh Xuân Dũng (Dân Biểu Đối Lập)..
    Theo Đại Tá Nghĩa, th́ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă bắt đầu nghi kỵ Ông từ sau cuộc bầu cử 1971. Chắc là t́nh h́nh chính trị càng lúc càng rối ren, nên Tổng Thống phải để yên. Sau này ở Mỹ, khi c̣n sinh tiền, có lần Tổng Thống Thiệu tới thăm Đại tá Lưu Yểm, tỉnh trưởng Biên Ḥa, ở Baloxi-Mississipi, đă tránh né không muốn tiếp Đại Tá Nghĩa. Tóm lại con người có cái nhầm lẩn lớn, là lúc nào cũng tưởng ḿnh hiểu rơ lịch sử, trong khi lịch sử th́ ngược lại chỉ là những mơ hồ và huyễn hoặc. Nói đúng hơn, như Alexis Tocqueville nói :’ lịch sử đâu có khác chi một cuộc triển lăm, tranh vẽ th́ ít , trái lại bản sao và phóng tác th́ nhiều. Đó là nơi bất tường của quá khứ. Người ta hay mượn những con số, ngày tháng chính xác, để trộn vào đó những tưởng tượng, rồi kết luận là lịch sử ‘. Nói cách khác, ngay cả những người có vai tṛ lớn trong lịch sử, phần lớn ,cũng đều không nói sự thật.. Điển h́nh là Hồ Chí Minh, Nixon, Kissinger, Bill Clinton..Đọc sử là đọc những sự kiện có rồi, được chép lại, sau khi bị lọc lựa qua lăng kính của thời họ sống. Cho nên khi nói tới một giai đoạn lịch sử, có liên quan tới nhân vật c̣n sống, rất khó giữ b́nh tỉnh, để mà nhận định trong lúc bên tai rạt rào những bia miệng bia đời.
    Dù ǵ chăng nửa, trong một xă hội đầy nhiễu nhương loạn lạc. Đội trên, đạp dưới, trí thức mượn đầu heo nấu cháo để vinh thân ph́ gia. Những cấp chỉ huy củ tại B́nh Thuận như Lưu Bá Châm, Đàm văn Quư, Nguyễn Khắc Tuân , Phạm Ngọc Cửu..và nhất là Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, xét cho cùng khi xếp hạng, cũng vẫn tốt hơn hằng trăm ngàn lần, những sâu bọ khác đội lớp người, làm quan, làm tướng, chính khứa, khoa bảng, sư-cha..mà chỉ hại dân, hại nước, khiến cho VN ngày nay, vào thế kỷ 21, mà vẫn c̣n ngoi ngóp trong vũng bùn ô uế, dưới gót sắt tù gông nô lệ của rợ Hồ.

    2-CUỘC DI TẢN CỦA TIỂU KHU B̀NH THUẬN, VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 4-1975

    Ngày 16-4-1975, pḥng tuyến Phan Rang vỡ, trước sự tấn công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lănh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Đại Tá Nguyễn Thu Lương..cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của QD3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SD2BB là tướng Trần văn Nhựt, phóng lên máy bay, vù ra tàu HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ, nên thoát nạn. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo quốc lộ 1, qua Cà Ná, tiến vào lănh thổ B́nh Thuận. Giờ thứ 25 đă tới, một số quân cán chính Tuy Phong được tàu HQ vớt tại Cà Na. Nói chung, toàn thể quân cán chính bốn quận miền Bắc như Tuy Phong, Hải Ninh, Phan Lư Chàm và Ḥa Đa, kể cả Tiểu Đoàn 274/DPQ của Thiếu Tá Xuân, làm Tiểu Đoàn trưởng, đóng tại Cầu Đá Chẹt, cũng rút theo các Bộ Chỉ Huy Chi Khu, tại Phan Rí Cửa. Như vậy từ đó, ranh giới của VNCH và Bắc Việt là Núi Tà Dôn, trên Quốc lộ 1, chạy ra tới quận Hải Long, trên bờ biển Đông. Cũng trong ngày 16-4-1975, chi khu Thiện Giáo do TD230/DPQ của Đại Uư Mai Vi Thành và TD /DPQ của Thiếu tá Tư, cũng được lệnh, rút về gần Phan Thiết. Như vậy B́nh Thuận đă bỏ ngỏ 5 chi khu, chỉ c̣n lại các chi khu Hải Long của Thiếu Tá Hàng Phong Cao, chi khu Hàm Thuận của Thiếu tá Dụng Văn Đối, Xă Phan Thiết của Thiếu Tá Nguyễn Thanh Hải nhưng quân số vẫn c̣n nguyên vẹn. Hai BCH/TK, một của Đại Tá Nghĩa, đóng tại Lầu Ông Hoàng, một của Trúng Tá Trí, TKP kiêm Tham Mưu trưởng, đóng tại Duyên Đoàn 28 Phan Thiết. Tại Hàm Thuận, t́nh h́nh an ninh khả quan v́ Quận Đối đă tổ chức lại các đơn vị DPQ thành Liên Đoàn DPQ.Hàm Thuận, gồm có TD275/DPQ của Thiếu Tá B́nh, TD229/DPQ của Thiếu Tá Tiến , các Đại Đội biệt lập và các Liên Đội Nghĩa Quan, các toán Xây Dựng Nông Thôn..đóng rải rác khắp xă ấp, từ Mường Mán về tới chi khu.
    Tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, nằm trên ngọn đồi sát biển, thuộc ấp Kim Hải, xă Kim B́nh, kế phi trường và hải cảng, cũng được các Đơn Vị DPQ. Hàm Thuận và nhất là sự hiện diện của 2 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân, thuộc Liên Đoàn 24 BDQ, rút về từ Tiểu Khu Quảng Đức, nằm tại Phi trường Phan Thiết, chờ phương tiện di chuyển về Nam, bảo vệ. Tóm lại, từ đầu tháng 4-1974, Chỉ Huy trưởng QYV/DMH là Thiếu tá Đạm, cùng lúc với Quận trưởng Thiện Giáo là Thiếu tá Lê Văn Thông, bỏ đơn vị , trốn về Sài G̣n, sau đó cả hai, cơng vợ con vàng bạc , đeo máy bay Mỹ di tản sang Hoa Kỳ vào ngày 30-4-1975. Nhưng t́nh h́nh Quân Y Viện vẫn không thay đổi, một mặt tiếp tục bổn phận nghề nghiệp, cứu chữa cho các thương bệnh binh, mặt khác tổ chức pḥng thủ doanh traị . Đây là truyền thống đă có từ thời Thiếu Tá Lăng, làm CHT , nên trong Tết Mậu Thân 1968, QYV đă chống lại sự tấn công của VC rất hữu hiệu. Từ đầu tháng 4-1975 cho tới khi được lệnh di tản vào sáng ngày 19-4-1975, cơ cấu chỉ tại QYV gồm có : -Đại Uư Y Sĩ Lê Bá Dũng (con của Thầy Lê Bảo, Hiệu trưởng trung học tư thục Bạch Vân), Chỉ Huy Phó/QYV-XLTV Chỉ Huy trưởng. – Đại Uư Y Sĩ Nguyễn Văn Lâm, trưởng Khối Giải Phẫu-XLTV/Chỉ Huy Phó. – Đại Uư Hành Chánh Nguyễn Văn Tư, Trưởng ban tài chánh, kiêm Phát Ngân viên. – Trung Uư Trợ y Tôn Thất Phùng ( PBC 57-64, con Phó TT/BT Tôn Thất Tương). – Trung Uư Phạm Văn Công, sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị..
    Bắt đầu ngày 18-4-1975, t́nh h́nh Phan Thiết đă hỗn loạn. Quân Bắc Việt từ các hướng, tấn công các Đơn Vị DPQ tại các pḥng tuyến trên Liên tỉnh lộ 8, Phú Long..bằng biển người và tăng pháo hiện đại của Nga-Tàu và khối cọng sản Đông Âu. Trong lúc đó B́nh Thuận chỉ có các Đơn Vị Địa Phương Quân-Nghĩa Quân-Cảnh sát Dă Chiến và Xây Dựng Nông Thôn, không có pháo binh, không yểm. Tàu Hải Quân của Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải , do Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh làm tư lệnh, chạy đầy ngoài biển nhưng cũng không thể nào yểm trợ hải pháo cho quân bộ bên trong, v́ nước cạn và tàu th́ không dám cặp sát bờ, sợ bị bắn trúng như tại Biển Cà Ná ngày 16-4-1975.
    Do t́nh h́nh trên, lần lược các pḥng tuyến đều vở, BCH/TK của Đại tá Nghĩa phải bỏ Lầu Ông Hoàng, rút theo bờ biển từ Phú Hài về Thương Chánh và được một ghe đánh cá chở ra chiến hạm. Trung Tá Trí th́ rút theo Duyên Đoàn 28, c̣n Phó Cửu, Trung Tá Mai Lang Luông và các viên chức hành chánh, cũng được một tàu đánh cá dân sự, chở thẳng tới Vũng Tàu. Riêng chiếc trực thăng của Đại Tá Nghĩa, đă được viên phi công lái giùm về Sài G̣n, vào ngày 17-4-1975, để kịp thời gian di tản ra hạm đội Hoa Kỳ. C̣n Chi Khu Hải Long của Thiếu Tá Cao cũng rút bằng tàu. Các Đơn vị DPQ pḥng thủ trong thị xă như DD206 Thám Sát Tỉnh Của Đại Uư Lê Văn Tṛ, DĐ948 của Đại Uư Mai Xuân Cúc, khi VC tràn ngập Tiểu Khu và Ṭa Hành Chánh B́nh Thuận, đă được Thiếu Tá Cư, Yếu Khu trưởng yếu Khu Phan Thiết, cho lệnh lội băng sông Cà Ty, t́m cách tập trung tại Bến Tàu Kim Hải, để các chiến hạm Hải Quân , chở về Nam.
    Tóm lại dù quân Bắc Việt, đă làm chủ Thi Xả Phan Thiết, đêm 18-4-1975 nhưng giặc vẫn không dám tấn công lên Phi trường, Bến Tàu và QYV, v́ tại khu vực này, có rất đông các Đơn vị DPQ và 2 Tiểu Đoàn BDQ, cũng như hằng chục chiến hạm xuôi ngược ngại khơi. Lúc 8 giờ sáng ngày 19-4-1975, một phản lực cơ A 37, từ Biên Ḥa ra bỏ bom đánh sập các cây cầu trên sông Mường Mán . Nhưng phi cơ đă lạc mục tiêu, bom bỏ nhằm khu vực dân cư tại Phố Gia Long-Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Tri Phương, làm hư hại nhiều nhà của dân chúng.
    Ngày 19-4-1975, lúc 8 giờ sáng, Đại Uư Lê Bá Dũng nhận được lệnh di tản, nên cho phép các quân nhân dưới quyền được tuỷ tiện. Riêng toàn bộ Chỉ Huy/QYV đều xuống tàu, di tản vào Nam. Buối sáng nước thủy triều xuống, nên các Chiến hạm HQ phải đậu ngoài xa nhưng đă thả rất nhiều Tàu Há Mồm LCM vào bờ chở các Đơn Vị. Loại LCM này có thể chở tới hai Thiết vận xa M113, nên công tác chuyển quân hoàn tất lúc 11 giờ sáng cùng ngày. Sau đó, tất cả LCM và Chiến hạm HQ rút ra khơi để đợi lệnh, tới 2 giờ trưa ngày 19-4-1975, th́ khởi hành về Vũng Tàu. Như vậy, tại B́nh Thuận, cuộc di tản, dù trong giờ thứ 25 nhưng nhờ có tổ chức và trật tự, nên đă thành công tốt đẹp. Các Đơn vị DPQ/B́nh Thuận, ngoài Liên Đoàn Hàm Thuận của Quận Đối, di tản đường bộ tới B́nh Tuy, hầu hết đă tập trung và được Hải Quân Vùng 2 Duyên Hải, chở tới Vũng Tàu vào lúc 2 giờ khuya, ngày 20-4-1975. Tại Bến Đính, Đại Tá Thị trưởng Vũng Tàu là Vũ Duy Tạo ra đón và ngay trong đêm, quân xa đă dưa về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, để bổ sung và tái trang bị, tiếp tục chiến đấu khắp các mặt trận tại tỉnh Phước Tuy, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi Dương Văn Minh, dùng quyền Tổng thống và Tổng Tư lệnh Quân đội VNCH, bắt buộc mọi cấp đầu hàng giặc. Từ đó QLVNCH nói chung và người lính DPQ/B́nh Thuận mới ră ngủ.
    Trong cuộc di tản tháng 4-1975 tại B́nh Thuận, làm sao mà quên được một trái tim vĩ đại, đó là Linh Mục Joe Delvelin, người đă dẫn dắt Đoàn con chiên Việt Kiều, từ đất Chùa Tháp về B́nh Thuận, vào năm 1970, khi bị dân Kampuchia cáp duồn tận tuyệt.. Từ đó, đồng bào được định cư tại Ấp B́nh Tú, kế phi trường Phan Thiết. Riêng Linh Mục Joe, sống thanh bạch với con chiên, trong một căn nhà gỗ tiền chế, thanh bạch. Và dù có một Trung Đội Nghĩa Quân bảo vệ Ấp nhưng suốt thời gian bao năm, VC vẫn không tha kẻ tu hành, bởi v́ ông là người Mỹ, nếu bắt được, th́ tha hồ mà đánh đối với chính phủ Hoa Kỳ. Vào những ngày cuối cùng, Linh Mục Delvelin, đề nghị với Đại tá Nghĩa, di tản bằng đường bộ, từ Phan Thiết về Sài Gón nhưng bị từ chối v́ không thể nào thực hiện được, khi VC đă bít rừng lá, c̣n Xuân Lộc th́ đang đại chiến long trời lơ đát , từ ngày 8-4-1975. Những ngày chót, Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n, ra lệnh cho cố vấn Mỹ ở Phan Thiết là Phillip Cook, phải đem cha rời khỏi chiến trường , cùng lược với các cố vấn của Tiểu Khu. Nhưng vị Linh mục này nhất định không chịu bỏ đám con chiên khốn khổ của ḿnh lại B́nh Tú, cuối cùng Người Mỹ phải dùng bạo lực mới đem được cha lên máy bay. Tại Sài G̣n, cha bỏ trốn khỏi Ṭa Đại Sứ, đi kiếm các lực lượng của Tiểu Khu B́nh Thuận, nhờ guíp các con chiên của ḿnh c̣n bị kẹt trong vùng giặc chiếm. Ngày 30-4-1975, Toà Đại Sứ phải t́m kiếm khắp nơi, mới chở Cha về Mỹ. Nhưng rồi Ông lại xin Chính Phủ, cho trở qua Thái Lan, phục vụ Trong Trại Tị Nạn Cọng Sản của Người Việt tại Sông Khai. Tại đây, Cha đă hết ḷng bênh vực Người Việt tị nạn, chống lại sự đàn áp của bọn Thái Lan. Đến khi sức khỏe quá suy yếu, cha mới chịu về lại Hoa kỳ và qua đời tại quê hương là Tiểu bang Utah.

    3-B̀NH THUẬN, TIỀN RỪNG-BẠC BIỂN :

    Xưa nay, khi nhắc tới tỉnh B́nh Thuận, mọi người hay dùng cụm từ ngữ ‘ Tiền Rừng-Bạc Biển ‘, ngụ ư nói về một vùng đất giàu có về tiềm năng ngư nghiệp, hải sản và nghề làm nước mắm cá biển, nổi tiếng ngay từ hồi Pháp thuộc.
    Theo lời Đại tá Ngô Tấn Nghĩa cho biết, B́nh Thuận ngoài tiềm năng ngư nghiệp trên, c̣n làvùng đất có hai tài nguyên quư hiếm, đó là Vàng Ch́m trong Biển và Dầu Hoả ở gần thềm lục địa Phan Thiết. Giữa năm 1974, có hai người tên là Charles Bauduoin (hay Charles Đức, một Pháp kiều gốc Việt) và người khác tên Allan Pang (Một Sĩ quan Nhật, gốc Đại Hàn). Theo Pang, trong Đại chiến thứ 2, Nhật đă vơ vét vàng bạc của các nước Á Châu, trong đó có Đông dương thuộc Pháp. Tất cả của cải cướp đoạt này, Nhật đem nấu và nguỵ trang thành những sợi ḷi tói, sơn màu hắc in, để trên tàu và chở về Nhật Bổn. Đoàn tàu gồm 18 chiếc ra khơi, nhưng bị gián điệp Đồng Minh phát hiện, gọi phi cơ Mỹ tới đánh bom, ch́m tất cả từ biển B́nh Tuy ra tới Nha Trang. Cũng theo Pang, th́ trong khu vực tỉnh B́nh Thuận, có ít nhất 8 chiếc tàu chở vàng bị ch́m. V́ không dám cho Hải Quân biết, nên những người đi ṃ vàng chỉ mướn các thợ lặn, nên đầu năm 1975 chỉ mới t́m được xác một con tàu nhưng không có vàg mà chỉ thấy những thùng chưa chất hàn Antimoine. Điều này cho thấy những lời đồn đại , có thể là thật nhưng vàng th́ biết đâu mà ṃ. Có điều sau ngày 30-4-1975, Bắc Việt hoàn toàn làm trùm cả nước, th́ Charles Đức vẫn ở lại và hợp tác với giặc, nên được Mai Chí Thọ, em ruột Lê Đức Thọ, lúc đó là trùm Công An, nên ban phát cho Charles Đức rất nhiều quyền hành, kể cả việc đưa nhà hàng nổi Mỹ Cảnh về làm ăn tại bến Sài G̣n. Sauk hi Mai Chí Thọ bị hạ bệ, Đức cũng theo chủ ch́m xuồng. Nhưng việc t́m vàng dưới biển, không biết đă tới đâu v́ hoàn toàn bí mật. Có điều bao năm qua, trên biển Đông, nhất là ngoài hải phận từ Nha Trang về B́nh Tuy, không lúc nào vắng bóng những con tàu của người Nhật và nhiều nước khác, mượn cớ khảo cứu đáy đại dương nhưng thực chất, ai biết được chúng làm ǵ. Mới đây, ngư dân Tuy Phong đă phát hiện được một chiếc tàu ch́m ngoải khơi , gần Phú Quư, đă trục vớt, t́m thấy nhiều cổ vật giá trị của Trung Hoa, từ tḥi nhà Minh..Cổ vật được Việt Cộng B́nh Thuận, cũng như Trung Ương , chia chác đem bán cho ngoại quốc, trong đó có Anh, Úc và Hồng Kông. .mà báo chí khắp nơi đều nhắc tới.
    Đầu năm 1973, khi hiệp định Ba Lê sắp kư kết, th́ Paul Van, Cố vấn trưởng của Mỹ tại QD2, có gởi tới B́nh Thuận một đoàn chuyên gia khai thác dầu hoả, từ Mỹ tới B́nh Thuận, để lập kế hoạch t́m dầu cũng như thiết lập một xưởng lọc dầu ngay tại Phan Thiết. Sau đó, các huyên gia cho biết . biển Phan Thiết có mỏ dầu nhưng số lượng dự trữ quá ít, không có đủ tiềm năng để tục hiện thị trường kinh tế. Rồi th́ Paul Van tử nạn máy bay, Nixon từ chức Tổng thống Mỹ v́ bị tố cáo nghe lén điện thoại của đảng dân chủ..khiến cho kế hoạch bị ch́m xuồng, theo với sự sụp đổ của VNCH ngày 30-4-1975.
    Năm ngoái, VC tuyên bố đả t́m thấy gần bờ Phan Thiết bốn mỏ dầu lớn, trong đó hai mơ đă bán cho công ty dầu Chevron của Mỹ khai thác. Mới đây lại nghe tin, VC sắp bán đứt đảo Phú Quư, cho các đại công ty da trắng, để biến nơi này thành một hải cảng quốc tế. Tin này rất phù hợp với nguồn tin của VC sắp lập một thành phố trên biển. Dù ǵ chăng nửa, th́ Đảo Trường Sa hiện nay thuộc Huyện Phú Quư của Tỉnh B́nh Thuận . Do trên VC hiện di chuyển rất nhiều súng đạn ra hải đảo, coi như một hậu phương yểm trợ trực tiếp cho Trường Sa. Nên nguồn tin sẻ đuổi hết dân chúng về đất liền, có thể là thật, v́ VC chuyện ǵ cũng dám làm. B́nh Thuận tiền rừng, bạc biển, dù có là chuyện thật, th́ ba trăm năm qua, người dân nghèo cũng đâu có hưởng được chút ǵ, ngoài nhục, hận và máu lệ.

    Sau ngày 30-4-1975, hầu hết quân công cán cảnh mọi cấp dều vào tù. Riêng những sĩ quan trong BCH tại QYV cũng không ngoại lệ. Các Đại Uư Lê Bá Dũng, Trung Úy Công học trên 5 năm , nên sau đó được sang Mỹ bằng HO. Đại uư Nguyễn văn Tư chết trong trại Kà Tót, chung với Trung Uư CTCT.Tôn Thất Ái, là anh ruột của Trung Úy Trợ y Tôn Thất Phùng.
    Phùng học hai năm, trở về Phan Thiết th́ nhà tan cửa nát, anh em cha mẹ cũng không c̣n. Chán đời nên Tôn Thất Phùng, cạo đầu vào tu tại Chùa Vạn Thiện từ đó tới nay. Bạn bè bên Mỹ duy nhất, chỉ c̣n Phạm văn Công, lâu lâu gửi về chút tiền c̣m, đủ mua vải và kim chỉ may áo cà sa . Đời lính là vậy đó, nên kể làm sao cho hết nổi đoạn trường ?

    Mường Giang
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 09:03 PM.

  3. #33
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P7




    12.4.1975: Kịch Chiến Ở Xuân Lộc

    * CQ tung 4 sư đoàn vào mặt trận Long Khánh
    -Trong ngày 12/4/1975, trận chiến tại Long Khanh đă trở nên quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngă ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Đông tấn công vào trung tâm thị xă.Kịch chiến đă diễn ra tại nhiều pḥng tuyến ṿng đai tỉnh lỵ Xuân Lộc của tỉnh Long Khánh.

    -Tính đến ngày 12/4/ 1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh) và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT 6 và CT 7, thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân, có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công.
    * Lữ đoàn 1 Dù nhảy vào mặt trận Xuân Lộc
    - Trước áp lực nặng của CQ, để đối đầu với 3 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo, 2 trung đoàn thiết giáp của CSBV, ngày 12 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tung lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến: đó là Lữ đoàn 1 Dù với 4 tiểu đoàn và tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.



    13.4.1975: Trận Chiến Bảo Định

    *Cộng quân áp lực pḥng tuyến Dầu Giây
    -Trong ngày 13/4/1975, tại tỉnh Long Khánh, trận chiến đă diễn ra quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường7) vào mặt trận tại ngă ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Đông tấn công vào trung tâm thị xă.

    * Lữ đoàn 1 Dù tái chiếm Bảo Định, tỉnh Long Khánh

    -Sau khi di chuyển từ Biên Ḥa đến Trảng Bom, lực lượng Lữ đoàn 1Nhảy Dù được phối trí như sau: hai tiểu đoàn Dù đầu tiên hành quân trực thăng vận xuống ấp Bảo B́nh, cách tỉnh lỵ Long Khánh 5km về hướng Nam, và cách Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18BB ba cây số về hướng Đông.
    -Theo phân nhiệm của Bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc, 2 tiểu đoàn Nhảy Dù được lệnh tái chiếm xă Bảo Định, cách ấp Bảo B́nh 2 km vềhướng Bắc. Xă này đă bị Cộng quân chiếm giữ từ ngày 10 tháng4/1975 khi trận chiến Xuân Lộc mới bước vào ngày thứ hai.
    -Một tiểu đoàn Nhảy Dù thứ ba được đổ xuống một khu vườn cao su, bênsuối Gia Cốp, cách xă Bảo Định 1 km về phía Bắc để đánh đuổi mộttiểu đoàn đặc công của Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ, cựu Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH từ
    1955 đến tháng 8/1963. Tiểu đoàn thứ 4 được đổ xuống ngay Xuân Lộc để giải tỏa áp lực Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu và pḥng tuyến của 1 tiểu đoàn Địa phương quân.



    14.4.1975: Nội Các Mới Tŕnh Diện

    *Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tŕnh diện thành phần nội các
    Sau 9 ngày tiến hành tuyển chọn nhân sự để thành lập chính phủ, vào ngày 14/4/1975, tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tŕnh diện thành phần nội các lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Tân chính phủ có 3 phó thủ tướng, 4 quốc vụ khanh, 15 tổng trưởng, 1 bộ trưởng (Phủ Thủ tướng), 6 thứ trưởng. Trong chính phủ mới, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, nguyên Phó thủ tướng của nội các Trần Thiện Khiêm, giữ chức vụ phó thủ tướng đặc trách Tổng thanh tra kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng; Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm Tổng trưởng Canh Nông và Kỹ Nghệ; Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng, phó thủ tướng đặc trách Chương tŕnh cứu trợ và định cư; Chuẩn tướng Phan Ḥa Hiệp giữ chức Tổng trưởng Thông tin-Chiêu Hồi; Luật sư Vương Văn Bắc giữ chức Tổng trưởng Ngoại giao.

    * Trận chiến khốc liệt tại ngă ba Dầu Giây

    Ngày 14/41975, tại ngă ba Dầu Giây, Cộng quân đồng loạt tấn công vào vị trí pḥng thủ của Trung đoàn 52 Bộ binh từ Kiệm Tân đến ấp Phan Bội Châu trên Quốc lộ 20. Trước t́nh h́nh mới, Bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc đă điềuđộng lực lượng tăng viện lên mặt trận ngă ba Dầu Giây để cùng với Trung đoàn 52 BB giữ pḥng tuyến tại ngay ngă ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.

    15.4.1975: Mặt Trận Long Khánh




    * Kịch chiến tại ngă ba Dầu Giây, tỉnh Long Khánh
    Tại pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây, đến ngày 15/4/1975, trận chiến tại đây bước vào ngày thứ 7. Lực lượng bảo vệ pḥng tuyến này là Trung đoàn 52 Bộ binh với sự yểm trợ của Thiết giáp và Pháo binh. Từ chiều ngày 14/4/1975 đến sáng ngày 15/4/1975, các tiền đồn, công sự pḥng thủ của các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 52 từ Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu đă bị Cộng quân tràn ngập. Chiều ngày 15/4/1975, trận chiến đă xảy ra quyết liệt ngay tại xă Dầu Giây, ở ngă ba Quốc lộ 1 và 20, giữa lực lượng trú pḥng và 2 sư đoàn chính quy và 1 trung đoàn thiết giáp của Cộng quân.
    Thế trận và tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch. Lực lượng trú pḥng c̣n khoảng 2 ngàn quân sĩ (kể cả các tiểu đoàn Địa phương quân của Tiểu khu Long Khánh từ Định Quán rút về hợp cùng với các đơn vị Trung đoàn 52 Bộ binh), trong khi đó lực lượng củaCộng quân đông gấp 10 lần. Những người lính VNCH tại pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây đă phải chiến đấu với thế trận 1 chống 10. Trận chiến đă diễn khốc liệt ngay từ những phút đầu. Cộng quân pháo kích như mưa xuống các vị trí công sự của quân trú pḥng, sau đó là đợt tấn công biển người.
    Sau 3 giờ kịch chiến, Cộng quân đă tràn ngập chia cắt các lực lượng của quân lực VNCH án ngữ trên quốc lộ 1 và quốc lộ 20. Do trời tối, và 4 chiến xa M-48 của Lữ đoàn 3 Thiết kỵ bị trúng đạn Pháo của Cộng quân ngay từ đầu nên việc yểm trợ của Thiết giáp đă không thực hiện được. Khoảng 8 giờ tối ngày 15/4/1975 th́ toàn pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây vị vỡ. Tất cả chiến xa và đại bác của quân trú pḥng VNCH bị hủy diệt. Về lực lượng Bộ binh và Địa phương quân, chỉ c̣n khoảng 200 người rút về tuyến sau.
    Chiếm được ngă ba Dầu Giây, 2 sư đoàn Cộng quân tiến về Xuân Lộc. Tuy nhiên đại quân của Cộng sản Bắc Việt đă không thể tiến ngay như Văn Tiến Dũng mong muốn, v́ rằng ngay sau khi pḥng tuyến Dầu Giây thất thủ, hai quả bom khổng lồ “Daisy Cutter” (do Mỹ cung cấp vào trung tuần tháng 4/1975) đă được Không quânVNCH thả xuống khu vực tập trung quân của Cộng quân, và một đoàn xe dài chở quân lính và đại bác Cộng quân trên quốc lộ 20. Theo các tài liệu t́nh báo, hơn 7 ngàn Cộng quân và hàng trăm vũ khí nặng, quân xa CSVN bị tiêu diệt bởi hai trái bom này.
    Theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ vào cuối tháng 2/1975, Đại tướng Cao Văn Viên đă yêu cầu Bộ Quốc pḥng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn băi đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand. Vào giữa tháng 4/1975, ba trái chuyển đến trước và sau đó ba trái nữa chuyển đến chỉ hai ngày trước khi cuộc chiến kết thúc. Một chuyên viên Mỹ đi theo chuyến này để hướng dẫn cho chuyên viên VN cách gắn ng̣i nổ và cách gắn bom lên phi cơ. Thế nhưng chuyên viên Mỹ này không đến kịp. Trước t́nh h́nh khẩn cấp và v́ mức độ nguy hiểm nếu tồn trữ thứ bom này tại Tân Sơn Nhất hay tại Long B́nh nên Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư lệnh Không quân VNCH phải chọn một phi công VNCH kinh nghiệm để bay thả thử trái đầu tiên.

    *Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tại mặt trận Long Khánh

    Như đă tŕnh bày trong phần trước, để tăng viện cho lực lượng pḥng thủ tại mặt trận Long Khánh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 đă điều động Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, lực lượng trừ bị cuối cùng, nhảy vào mặt trận Xuân Lộc.
    Theo kế hoạch, hai tiểu đoàn Nhảy Dù được trực thăng vận xuống ấp Bảo B́nh, cách Xuân Lộc 5 km về hướng Nam. Theo lệnh hành quân của Bộ Tư lệnh Chiến trường Long Khánh, sau khi nhảy xuống ấp Bảo B́nh, 2 tiểu đoàn Nhảy Dù mở cuộc tấn công tái chiếm xă Bảo Định, một xă nhỏ bé giữa rừng cao su, cách ấp này 2 km về hướng Bắc. Tin từ Trung tâm hành quân của bộ Tư lệnh chiến trường Long Khánh cho biết xă này đă bị một tiểu đoàn Cộng quân chiếm giữ từ
    ngày 10 tháng 4/1975 khi địch tung đợt tấn công thứ hai vào khu vực quanh tỉnh lỵ Long Khánh.
    Tiểu đoàn Nhảy Dù thứ ba được trực thăng vận xuống khu vườn cao su, cách xă Bảo Định 1 km về phía Bắc. Từ vị trí này tiểu đoàn được lệnh tiến đánh một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Theo sự phối nhiệm tác chiến, tiểu đoàn phải thanh toán thật nhanh mục tiêu nói trên để giải tỏa áp lực cho 1 tiểu đoàn Địa phương quân đang bị Cộng quân bao vây. Cùng thời gian này, tiểu đoàn thứ 4 được trực thăng vận xuống ngay trung tâm thị xă Xuân Lộc để đánh bật các đơn vị Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu, để bộ chỉ huy này có thể rút về phía sau, hoạt động chung với bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn
    18 Bộ binh. Cuộc tiến quân tái chiếm xă Bảo Định đă có những sự kiện bất ngờ, lạ lùng. Khi 2 đại đội đầu tiên của Tiểu đoàn 9 Dù tiến đến gần trụ sở xă Bảo Định th́ trời đă về chiều. Điều làm cho các đại đội trưởng ngạc nhiên là tại pḥng Thông tin xă, giáo đường Bảo Định, cờ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn bay phất phới, trong khi cả xă im vắng, không một bóng người, một sinh vật nào ở ngoài đường.
    Trung đội đi đầu của đại đội 2 được lệnh khai hỏa. Ngay khi đó, các loạt đạn từ bên trong bắn ra. Lại một bất ngờ nữa là tiếng súng từ trong xă bắn ra không phải là từ loại súng AK 47 của Cộng
    quân mà lại là tiếng súng M 16 và đại liên 30 của Quân lực VNCH. Vị tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 Dù cho lệnh các đại đội ngưng tấn công và bố trí chờ đợi. Vị tiểu đoàn trưởng gọi về
    Trung tâm Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh xin xác nhận lần chót về t́nh h́nh trước khi tiểu đoàn 9 Dù tấn công. Một sĩ quan có thẩm quyền của trung tâm hành quân quả quyết là xă Bảo Định đă bị Cộng quân chiếm trước đó vài ngày và yêu cầu tiểu đoàn 9 Dù thanh toán mục tiêu thật nhanh.
    Khi tiểu đoàn Dù sắp tấn công th́ chuông nhà thờ Bảo Định kéo lên, một sĩ quan Địa phương quân chạy ra hô lớn là lực lượng trong xă không phải là Việt Cộng. Thế là lệnh tấn công được hủy bỏ, các đại đội Dù tiến hành cuộc lục soát quanh khu vực đề pḥng Cộng quân ẩn núp. Sau khi kiểm soát xă Bảo Định, các đơn vị Dù tiến nhanh về phía suối Gia Cốp, cũng nằm trong rừng cao su, gần vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ.
    Lại thêm một bất ngờ là khi lực lượng Dù vừa rời khỏi xă Bảo Định khoảng 200 mét, khi đó trời đă tối, th́ “đụng đầu” một tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân. Trận tao ngộ chiến diễn ra hơn một giờ trong rừng cao su, những người lính Nhảy Dù với kinh nghiệm đánh đêm và cận chiến đă tiêu diệt gần trọn cả tiểu đoàn này. Theo tài liệu t́nh báo, tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân từ Định Quán được lệnh băng rừng di chuyển theo tỉnh lộ 332, bọc xuống phía nam Xuân Lộc để chiếm đóng xă Bảo Định, sau đó sẽ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị của sư đoàn có bí số CT6 đang tập trung tại đồn điền Xuân Lộc. Tuy nhiên vừa đến gần xă Bảo Định th́ tiểu đoàn
    Cộng quân đă bị Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù tiêu diệt.



    15.4.1975: Dầu Giây Thất Thủ

    *Pḥng tuyến Dầy Giây của Trung đoàn 52 Bộ binh bị tràn ngập
    -Từ chiều 14/4/1975 đến sáng ngày 15/4/1975, Cộng quân đă mở các trận tấn cường tập vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 52 Bộ binh từ Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu.
    -Chiều ngày 15/4/1975, kịch chiến đă ra quyết liệt ngay tại xă Dầu Giây, ở ngă ba Quốc lộ 1 và 20, giữa lực lượng của lực lượng trú pḥng VNCH Bộ binh và 2 sư đoàn Cộng quân. Lực lượng Pháo binh và Chiến xa yểm trợ cho Trung đoàn 52 Bộ binh và các đơn vị của trung đoàn này đă bị thiệt hại nặng.
    -Trận chiến tại Dầu Giây đă diễn ra vô cùng khốc liệt khi Cộng quân mở các đợt pháo kích dồn dập vào công sự của lực lượng trú pḥng, tiếp đó là đợt tấn công cường tập. Đến tối, hầm chỉ huy của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 52 Bộ binh bị bắn sập. Vị Trung đoàn trưởng cho lệnh rút quân.
    -Tối ngày 15/4/1975, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh nhận được báo cáo tuyến pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây do Trung đoàn 52 Bộ binh bị tràn ngập.


    16.4.1975 Tại Pḥng Tuyến Phan Rang

    * Lược ghi t́nh h́nh chiến sự tại pḥng tuyến Phan Rang
    Như đă tŕnh bày, pḥng tuyến Phan Rang được tăng cường lực lượng với nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Trước đó, vào ngày 4/4/1975, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại căn cứ Không quân Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, giữ chức Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3. Với hệ thống chỉ huy mới, lực lượng mới đến tăng cường, được sự yểm trợ hữu hiệu của Không quân, t́nh h́nh an ninh, trật tự tại Ninh Thuận-B́nh Thuận được văn hồi nhanh chóng.
    Trong tuần lễ đầu, chỉ có vài trận đụng độ nhỏ không đáng kể, chỉ có áp lực của sư đoàn 7 CSBV ở cạnh sườn Phan Thiết. Trong khi đó, tại Quân khu 3, áp lực của CQ đă gia tăng tại mặt trận Biên Ḥa-Long Khánh. Trước t́nh h́nh đó, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3, quyết định rút Lữ đoàn 2 Nhảy Dù từ Phan Rang về để củng cố lực lượng trừ bị phản ứng cấp thời. Thay thế cho Lữ đoàn 2 Dù và tăng cường lực lượng pḥng thủ B́nh Thuận là thành phần c̣n lại của Sư đoàn 2 BB được tái chính trang sau khi rút khỏi Quân khu 1 vào hai tuần trước đó, một liên đoàn Biệt động quân cũng vừa được củng cố cách đó ba ngày và một chi đoàn M-113 thuộc Quân đoàn 2 mới được tái thành lập.
    Theo tài liệu ghi trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên th́ lực lượng Sư đoàn 2 BB được tái thành lập với 2 trung đoàn BB, 1 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1 pháo đội 155 ly và chi đoàn M- 113. Việc chuyển quân ra thay thế vừa sắp hoàn tất th́ chiến trận bùng nổ. Ngày 14 tháng 4/1975, Sư đoàn F-10 CSBV được tăng cường bởi các đơn vị của Sư đoàn 3 CSBV tấn công vào cụm vị trí của Thiết giáp và Pháo binh. Trước t́nh thế nguy kịch, Trung tướng Nghi yêu cầu giữ lại một tiểu đoàn Nhảy Dù đang chuẩn bị rút về để đối phó.

    * Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn thị sát mặt trận Phan Rang.

    Ngày 15/4/1975, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng (nội các của Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn) đă bay ra Phan Rang để thị sát t́nh h́nh. Sau khi nghe Trung tướng tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, tŕnh bày về quân số, vũ khí và thực trạng chiến trường, Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn hứa là sẽ t́m mọi cách để cung cấp các loại vũ khí chiến lược như hỏa đạn CBU cho lực lượng bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang. Sau khi về đến Sài G̣n, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn cho mời Thiếu tướng Smith, Tùy viên Quân sự ṭa đại sứ Mỹ, đến gặp ông tại văn pḥng Tổng trưởng Quốc pḥng VNCH ở đường Gia Long. Trong cuộc gặp này, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đă yêu cầu Thiếu tướng Smith cung cấp cho Bộ Quốc pḥng VNCH những loại vũ khí mà Quân lực VNCH đang cần đến, trong đó có hỏa đạn CBU, ống ḍm và máy truyền tin cho các đơn vị chiến đấu.
    Trước yêu cầu của Bộ Quốc pḥng VNCH, Thiếu tướng Smith cho biết hiện trong kho vũ khí của Hoa Kỳ không c̣n những loại này. Tướng Smith hứa sẽ hỏi lại Bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, v́ vào thời gian này vũ khí và đạn dược đều nằm ở những tổng kho ngoài lănh thổ Việt Nam. Rời Bộ Quốc pḥng, Thiếu tướng Simth ghé qua Văn pḥng của Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, ông báo cho Đại tướng Viên biết qua về nội dung cuộc gặp gỡ của ông với Tổng trưởng Quốc pḥng VNCH. Thiếu tướng Smith nói với Đại tướng Viên: “Tôi được ông Tổng trưởng Quốc pḥng mời đến, tưởng ông bàn chuyện di tản gia đ́nh của ông, không ngờ ông bàn chuyện tiếp vận cho các đơn vị ngoài tiền tuyến. Lần đầu tiên, ông Tổng trưởng Quốc pḥng bàn với tôi vấn đề đó từ mấy tháng nay”.

    * Ngày 16-4-1975: trận chiến cuối cùng tại pḥng tuyến Phan Rang
    Trong khi Bộ Quốc pḥng VNCH đang t́m cách để cung cấp các vũ khí tối cần thiết cho các đơn vị tại chiến trường th́ tại mặt trận Phan Rang, ngày 16/4/1975, Cộng quân tung 2 sư đoàn tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xă. Pḥng thủ ṿng đai căn cứ Không quân là 1 tiểu đoàn Nhảy Dù và 1 tiểu đoàn Địa phương quân. Tiểu đoàn Nhảy Dùø này thuộc Lữ đoàn 2 Dù chuẩn bị về Sài G̣n theo kế hoạch chuyển quân của Bộ Tổng Tham mưu nhưng do t́nh h́nh chiến sự rất nguy ngập, nên Trung tướng Nghi đă xin giữ lại đơn vị này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 2 Dù cũng c̣n ở lại Phan Rang khi Cộng quân tấn công vào thị xă này. Tại Trung tâm thị xă, lực lượng pḥng thủ là một trung đoàn của Sư đoàn 2 BB và một tiểu đoàn Địa phương quân thuộc tiểu khu Ninh Thuận.
    Hệ thống bảo vệ từ xa của pḥng tuyến Phan Rang do một liên đoàn Biệt động quân, 1 tiểu đoàn Pháo binh, 1 chi đoàn M 113 phụ trách, đă bị Cộng quân tấn công từ ngày 14 tháng 4/1975. Để dọn đường cho bộ binh tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xă, Cộng quân đă pháo liên tục vào các vị trí pḥng ngự ṿng quanh căn cứ Không quân, đồng thời bắn phá dồn dập vào khu vực phi cơ đậu và phi đạo để không cho phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không quân cất cánh. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn công mạnh vào thị xă bằng ba hướng. Lúc bấy giờ đại đa số cư dân Phan Rang đă di tản vào Nam, thị xă chỉ c̣n lại quân nhân, cảnh sát và một số công chức. Lực lượng pḥng thủ thị xă chống trả quyết liệt, nhưng do Cộng quân quá đông nên lần lượt các tuyến pḥng thủ trung tâm đều bị chiếm. Cùng lúc đó, Cộng quân tung một trung đoàn cắt đứt đường giao thông trên Quốc lộ 1 ở khu vực Cà Ná cách thị xă Phan Rang khoảng 48 km về hướng Tây Nam cốt để chặn đường rút quân của các đơn vị VNCH.

    * Ngày 16-4-1975: Phan Rang thất thủ

    Không c̣n lực lượng trừ bị để tăng viện cho các tuyến pḥng thủ, trong khi đó căn cứ Không quân bị tấn công dữ dội, nên sáng ngày 16 tháng 4/1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 kiêm Tư lệnh mặt trận Phan Rang, họp khẩn cấp với Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, sư đoàn đang phụ trách căn cứ Không quân Phan Rang, và Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, để bàn kế hoạch rút quân. Giải pháp mà các vị tướng chọn lựa là phân tán và rút theo cá nhân.
    T́nh h́nh tại bộ Tư lệnh của Tướng Nghi vào lúc đó rất nguy kịch, do hệ thống truyền tin bị trúng đạn pháo kích của Cộng quân, nên Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 ở Phan Rang đă không c̣n liên lạc được với Bộ Tư lệnh chính của Quân đoàn 3/Quân khu 3 đóng tại Biên Ḥa, cũng như Bộ Tổng tham mưu ở Sài G̣n. Đến trưa ngày 16/4/1975, thị xă Phan Rang bị Cộng quân chiếm.
    Tại Bộ Tư lệnh mặt trận Phan Rang đặt trong căn cứ Không quân, Cộng quân xua quân tiến sát đến ṿng đai phi trường, Trung tướng Nghi và Chuẩn tướng Sang cho lệnh các sĩ quan và đơn vị trú pḥng tùy nghi phân tán. Riêng Chuẩn tướng Nhựt được trực thăng (dành riêng cho Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh) đáp xuống ngoài hàng rào phi trường Phan Rang bốc đưa ra biển. Trực thăng chở Tướng Nhựt gặp tàu Hải quân. Tướng Trần Văn Nhựt kể lại rằng từ trực thăng ông nhảy xuống biển và được chiến hạm HQ 3 vớt lên. Từ HQ3, Tướng Nhựt dùng máy truyền tin của Hải quân báo cáo về Sài G̣n là Phan Rang đă thất thủ.
    Trở lại với t́nh h́nh tại căn cứ Không quân Phan Rang, sau hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi trường, doanh trại và hệ thống công sự pḥng thủ trong căn cứ, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trong t́nh h́nh nguy kịch, Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đă mở đường máu ra khỏi phi trường và “bắt tay” Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù ở ngoài.
    Sau đó, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, đă liên lạc được với phi cơ quan sát, sĩ quan liên lạc của Sư đoàn Nhảy Dù trên phi cơ yêu cầu Đại tá Lương t́m băi đáp để 25 trực thăng sẽ hạ cánh bốc quân đi. Vị lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù tŕnh với Trung tướng Nghi đưa bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn và Sư đoàn 6 Không quân di chuyển đến băi trống phía trái phi trường để lên chuyến trực thăng đầu, c̣n toàn bộ anh em Nhảy Dù sẽ di chuyển bộ đi về hướng núi Cà Núi để gặp một số đại đội Nhảy Dù bố pḥng tại đây.
    Theo tài liệu của cựu thiếu tá Nhảy Dù Trương Dưỡng, th́ Trung tướng Nghi đă từ chối kế hoạch bảo vệ sự an toàn cho ông và các sĩ quan tham mưu của Quân đoàn tiền phương, ông nói với Đại tá Lương: “Báo cho đoàn trực thăng trở về túc trực, sáng mai sẽ tính. Bây giờ chúng ta tiếp tục di chuyển về Cá Ná lập pḥng tuyến chận địch tại đó”. Nghe Trung tướng Nghi nói như vậy, Đại tá Lương đành cho lệnh bố trí chờ đêm tối băng đường ra khỏi ṿng vây của Cộng quân. Về phần Trung tướng Nghi và Chuẩn tướng Sang, do từ chối kế hoạch đầy t́nh huynh đệ chi binh của Đại tá Lương, nên bị kẹt lại và cuối cùng đă bị CQ bắt.

    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 09:02 PM.

  4. #34
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P8



    16.4.1975: Phan Rang Thất Thủ

    *Cộng quân tấn công căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xă
    Ngày16/4/1975, Cộng quân đă mở cuộc tấn công cường tập vào vị trí pḥng ngự của lực lượng Dù và Địa phương quân ṿng quanh căn cứ Không quân, đồng thời pháo kích vào khu vực phi cơ đậu và phi đạo. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn công mạnh vào thị xă Phan Rang.

    -Trưa ngày 16/4/1975, thị xă Phan Rang nằm trong tay Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh mặt trận Phan Rang đặt trong căn cứ Không quân, Cộng quân xua quân tiến sát đến ṿng đai phi trường, Trung tướng Nghi, Tư lệnh Tiền Phương Quân đoàn 3, và Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, cho lệnh các sĩ quan và đơn vị trú pḥng tùy nghi phân tán.
    -Sau hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi trường, doanh trại và hệ thống công sự pḥng thủ, Cộng quân cho bộ binh và thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Sang đă bị Cộng quân bắt sau đó.



    17.4.1975: Trận Chiến Xuân Lộc

    * CQ tấn công vào phía Nam thị xă Xuân Lộc
    Trong ngày 17 tháng 4/1975, các đơn vị thuộc 3 sư đoàn 3, 6, 7 Cộng quân tiếp tục mở các đợt tấn kích vào pḥng tuyến phía Nam thị xă Xuân Lộc do 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù án ngữ. Những pha cận chiến giữa chiến binh Nhảy Dù và CQ đă diễn ra quanh các vườn cây rộng mênh mông của khu vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ, nằm sát đường rầy xe lửa. Không quân đă thực hiện nhiều phi tuần F-5 và A-37 oanh kích vào vị trí đóng quân của một trung đoàn Cộng quân trong khu vườn này.

    * Pḥng tuyến B́nh Thuận

    Tại pḥng tuyến Ninh Thuận-B́nh Thuận, sau khi CQ chiếm Phan Rang, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 Tiền phương và Sư đoàn 6 Không quân đă hoàn toàn tê liệt sau khi Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Sang bị bắt. Theo lệnh của tân Tổng trưởng Quốc pḥng VNCH Trần Văn Đôn, Quân đoàn 3 lập tuyến pḥng thủ tại Phan Thiết. Chỉ huy mặt trận Phan Thiết là Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh từ Phan Rang rút về. Lực lượng pḥng thủ thị xă Phan Thiết do Ttrung đoàn 6 của Sư đoàn 2 BB và lực lượng Địa phương quân của Tiểu khu B́nh Thuận phụ trách.



    18.4.1975: Trận Chiến Phan Thiết

    * T́nh h́nh Phan Thiết ngày 18-4-1975
    Sau khi tỉnh Ninh Thuận thất thủ, tỉnh B́nh Thuận trở thành pḥng tuyến cuối cùng của VNCH tại miền Trung. Biết trước Cộng quân sẽ tấn công chiếm Phan Thiết, lực lượng VNCH đă bố pḥng tại các ngă ba và ngỏ vào thị xă. Ngoài các đơn vị Địa phương quân của Tiểu Khu, lực lượng pḥng thủ Phan Thiết c̣n có Trung đoàn 6 Bộ binh thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh.
    Sángngày 18-4-75, t́nh h́nh Phan Thiết trở nên hỗn loạn, mặc dù Cộng quân c̣n ở xa ṿng đai tuyến pḥng thủ tỉnh lỵ. Tối 18/4/1975, sau khi bộ chỉ huy nhẹ của Tiểu khu B́nh Thuận rút khỏi lầu ông Hoàng để về bờ biển Phan Thiết, các đơn vị của Trung đoàn 6 Bộ binh, lực lượng Thiết giáp, Địa phương quân cũng lần lượt rút quân. Theo ghi nhận của Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, th́ trong t́nh h́nh Phan Thiết bất ổn, ông đă dặn riêng Trung tá Tôn Thất Hồ, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 6 Bộ binh, chuẩn bị các ghe đánh cá thuê của dân, khi cần th́ rút về Vũng Tàu.
    -Vào 9 giờ đêm 18-4-1975, Cộng quân tràn vào thị xă Phan Thiết, chiếm Ṭa Hành Chánh của Tỉnh B́nh Thuận.
    -Theo các tài liệu tổng hợp, phải đến rạng sáng ngày 19/4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 mới nhận được tin chính thức là Phan Thiết thất thủ (một số tài liệu ghi là Phan Thiết thất thủ vào ngày 19/4/1975, nhưng theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên viết theo sự cung cấp tin tức của Chuẩn tướng Trần Đ́nh Thọ-trưởng pḥng 3 bộ Tổng tham mưu, và theo lời của một số sĩ quan có mặt tại Phan Thiết khi trận chiến xảy ra th́ tỉnh lỵ này thất thủ vào ngày 18/4/1975, đến ngày 19/4/1975 toàn tỉnh B́nh Thuận lọt vào tay Cộng quân).



    19.4.1975: Trận Chiến Định Quán

    * Kịch chiến tại pḥng tuyến Định Quán
    -Tại mặt trận Long Khánh, sau khi pḥng tuyến Dầu Giây do Trung đoàn 52 Bộ binh pḥng ngự bị vỡ, Cộng quân chuyển mục tiêu tấn công sang khu vực Định quán do một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43 Bộ binh trấn giữ, đồng thời gia tăng áp lực tại pḥng tuyến của lực lượng VNCH tại núi Chứa Chan, Gia Rai. Cùng lúc đó, Cộng quân điều động 2 trung đoàn tấn công vào trung tâm thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.
    Tại khu vực Định Quán, Cộng quân tung 1 trung đoàn tấn công ồ ạt vào tuyến pḥng ngự của 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 43 Bộ binh. Quân trú pḥng đă dũng cảm đánh trả nhiều đợt xung phong của địch quân. Sau những giờ tử chiến với Cộng quân, tuyến pḥng thủ Định Quán đă bị vỡ trong ngày 19/4/1975. Một số chiến binh của tiểu đoàn nói trên rút về được tuyến sau.
    * T́nh h́nh chiến sự tại miền Nam ngày 19-4-1975
    Tính đến ngày 19 tháng 4/1975, Cộng quân đă chiếm toàn lănh thổ Quân khu 1 và Quân khu 2.
    Về lực lượng Lục quân của Quân Lực VNCH, c̣n 6 sư đoàn Bộ Binh đủ quân số và khả năng tham chiến: Sư đoàn 5, 7, 9, 18, 21, 25; 2 sư đoàn tổng trừ bị là Dù và Thủy Quân Lục chiến, 2 Lữ đoàn Thiết Kỵ (Lữ đoàn 3 và 4), gần 10 Liên đoàn



    20.4.1975: Kịch Chiến Ở Xuân Lộc



    * Những trận đánh cuối cùng tại chiến trường Long Khánh
    Tại chiến trường Long Khánh, rạng sáng ngày 20 tháng 4/1975, 2 trung đoàn Cộng quân từ hướng Đông Nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và Bộ Chỉ huy Tiểu Khu Long Khánh. Cộng quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 khoảng 3 km.
    Tại pḥng tuyến sát tỉnh lỵ Long Khánh, một trận chiến khác diễn ra rất khốc liệt giữa Tiểu đoàn 9 Dù và một trung đoàn Cộng quân trong khu vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Cộng quân đă xây dựng hệ thống pḥng ngự kiên cố trong khu vực này nên các đợt tấn công của Tiểu đoàn 9 Dù đă gặp rất nhiều khó khăn.
    * Bộ tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 rút quân khỏi pḥng tuyến Xuân Lộc
    Trong khi toàn mặt trận Xuân Lộc đang khốc liệt th́ 10 giờ sáng cùng ngày (20/4/1975), theo lệnh của Bộ tư lệnh Quân đoàn 3, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, đă có cuộc họp khẩn với các chỉ huy trưởng các đơn vị tăng phái và Tiểu khu trưởng Long Khánh. Trong ṿng 1 giờ, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh phổ biến lệnh mới của Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 là toàn bộ lực lượng VNCH rút khỏi Xuân Lộc.



    21.41975: Tổng Thống Thiệu Từ Chức



    -Trong khi cuộc rút quân của lực lượng VNCH tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc đang diễn ra trên liên tỉnh lộ 2, th́ tại Sài G̣n, vào sáng ngày 21/4/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia với sự tham dự của các nhân vật sau đây: Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang. Ngoài các thành viên kể trên, c̣n có Trung tướng Nguyễn Văn Toàn ( Tư lệnh Quân đoàn 3), Trung tướng Nguyễn Văn Minh (Tư lệnh Biệt khu Thủ đô), Thiếu tướng Nguyễn Khắc B́nh (Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia).
    -Một ghi nhận đặc biệt là phiên họp không có mặt Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn, nhân vật đáng lư phải được thông báo và được mời dự. Theo lời của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn th́ Tổng thống Thiệu không mời ông v́ biết ông đă hai lần họp với các tướng lănh và nghi ngờ ông vận động buộc Tổng thống Thiệu phải từ chức. Theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc họp này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă thông báo quyết định từ chức và trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Giải thích cho sự ra đi của ḿnh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói rằng Hoa Kỳ muốn ông từ chức và dù ông có bằng ḷng hay không th́ nhiều tướng lănh cũng muốn ông phải rút lui.
    -19 giờ 30 ngày 21/4/1975, lễ bàn giao chức vụ Tổng Thống đă diễn ra tại Dinh Độc lập và được trực tiếp truyền h́nh. Trong khi đó tại nhiều pḥng tuyến thuộc Quân khu 3 chiến trận vẫn diễn ra giữa các đơn vị Quân lực VNCH và các sư đoàn Cộng quân.



    22.4.1975 Pḥng Tuyến Trảng Bom



    Ngày 22/4/1975: Quân Đoàn 3 Lập Pḥng Tuyến Trảng Bom
    *Diễn tiến cuộc triệt thối của Lực lượng VNCH khỏi Long Khánh
    Sau hơn 10 ngày quyết chiến với 4 sư đoàn Cộng quân, vào ngày 20 tháng 4/1975, toàn bộ lực lượng VNCH tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc được lệnh rút khỏi chiến trườngnày để về Phước Tuy. Cuộc rút quân được diễn ra từ chiều ngày 20 tháng 4/1975, đến sáng ngày 22/4/1975, tất cả các đơn vị đă có mặt tại các vị trí mới do Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 phối trí.
    Theo kế hoạch rút quân, lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc sẽ sử dụng liên tỉnh lộ 2 phía Nam Long Khánh, rút về Phước Tuy theo thứ tự: Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị trực thuộc. Bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh và các tiểu đoàn Địa phương quân của tiểu khu này. Lữ đoàn 1 Dù và tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.
    Lộ tŕnh rút quân là các cánh quân sẽ xuất phát từ Tân Phong, Long Giao, theo Liên tỉnh lộ 2 về Phước Tuy. Theo kế hoạch, Lữ đoàn 1 Dù vẫn tiếp tục giao chiến và đánh bật Cộng quân ra khỏi các vị trí trọng điểm trong thị xă và là lực lượng hậu đoạn sẽ rút đi sau cùng. Các đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng Địa phương quân rút đi ngay trong buổi chiều. Cánh quân của Sư đoàn 18 BB rút đi tương đối an toàn. C̣n cánh quân do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh chỉ huy đă bị Cộng quân chận đánh. Gần tối 20/4/1975, khi Đại tá Phúc và bộ chỉ huy của ông đang di chuyển, một đơn vị Cộng quân từ trên một đồi cao sát với Liên tỉnh lộ 2, đă bắn nhiều loạt đạn B 40 và bích kích pháo xuống đoàn quân.
    Là lực lượng đi đoạn hậu (rút quân sau cùng), các tiểu đoàn của Lữ đoàn 1 Dù đă phải tử chiến với các trung đoạn Cộng quân trên đường lui binh. Do phải bảo mật cho cuộc rút quân, đồng thời để nghi binh, nên chỉ đến tối 20/4/1975, các tiểu đoàn Dù mới nhận được lệnh rời bỏ chiến tuyến. Tại khu vực Bảo Định, 7 giờ tốingày 20/4/1975, trong khi lực lượng Dù đang giao tranh quyết liệt với Cộng quân th́ được lệnh rút quân. Các đơn vị phân thành 2 bộ phận: một bộ phận tiếp tục đánh chận Cộng quân cho bộ phận khác rút. Nói một cách khác, Lữ đoàn 1 Dù vừa đánh vừa tiến hành kế hoạch di chuyển quân về pḥng tuyến mới. Lộ tŕnh rút quân của Lữ đoàn Dù dài hơn 40 cây số đường rừng ven theo Liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Đức Thành, Long Lễ về Bà Rịa…
    Trong cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc và khu vực phụ cận, các chiến sĩ Dù được lệnh mang theo tất cả cấp số đạn và lựu đạn, quân trang quân dụng. Nhưng có một điều đă làm xót xa các cấp chỉ huy và binh sĩ Dù, đó là những chiến sĩ Dù bị thương nặng trong những trận giao tranh trước khi có lệnh rút quân đang chờ đợi tải thương. Với những người bị thương, nhưng c̣n tỉnh táo, c̣n có thể đi được th́ từng tổ binh sĩ 4 người sẽ thay nhau d́u đi, c̣n với những chiến binh Dù bị trọng thương th́ thật đau ḷng. Trong một t́nh thế bất khả kháng, tất cả những người lính Dù đều khóc khi phải cố nén đau thương từ biệt những đồng đội của ḿnh đang bị trọng thương ở các chiến hào.

    Trước phút lên đường, nhiều người lính Nhảy Dù đă ̣a lên khóc lớn, ôm chầm lấy đồng đội, máu từ áo bạn thấm sang áo ḿnh, lần đầu tiên và cũng lần cuối cùng họ phải để bạn bè bị thương vĩnh viễn ở lại với chiến trường… Họ sửa lại ngay ngắn thế nằm của đồng đội, vuốt từng đôi mắt sau khi các quân y sĩ, y tá quân y đă chích cho thương binh những mủi thuốc an thần. Nón sắt của thương binh được lấy ra, đầu của họ được gối trên ba lô, súng cá nhân để bên cạnh. Như một thước phim bi tráng trong các tác phẩm điện ảnh về đề tài chiến tranh, những người lính Dù đứng nghiêm, chào vĩnh biệt đồng đội. Rồi, đoàn quân lên đường.
    Đến 9 giờ tối ngày 20 tháng 4/1975, các tiểu đoàn Dù ra đến Quốc lộ 1. Tại đây, đông đảo dân chúng của các khu Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo An đă đứng sẵn ở hai bên đường và xin đi theo các chiến sĩ Dù để di tản. Cuộc hành tŕnh gian khó bắt đầu…
    *Những cảm tử quân trên đường rút quân
    Theo kế hoạch rút quân, ngoại trừ Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù được di chuyển trên đường lộ với sự bảo vệ an ninh lộ tŕnh của đại đội Trinh sát Dù, các tiểu đoàn Dù đều phải băng rừng mở đường di chuyển. 4 giờ sáng ngày 21/4/1975, tại ấp Quí Cả, gần địa giới hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy, đoàn xe chở Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù và Đại đội Trinh Sát Dù bị 2 tiểu đoàn Cộng quân phục kích. Pháo đội C và một trung đội của đại đội Trinh Sát Dù bảo vệ pháo đội này đă bị tổn thất, đa số quân sĩ đều bị thương vong trước các đợt tấn công biển người của Cộng quân. Trên lộ tŕnh triệt thối, đại đội đi đầu của Tiểu đoàn 9 Dù đă đụng độ nặng với Cộng quân tại thung lũng Yarai, dưới chân núi Cam Tiên. Đại đội này đă bị những “chốt” của Cộng quân từ trên cao bắn xuống. Cuộc giao tranh kéo dài nhiều giờ. Để diệt các chốt của Cộng quân, các tốn cảm tử Dù được thành lập ngay tại trận địa với những quân nhân t́nh nguyên. Những cảm tử quân này mặc áo giáp, đeo súng phóng hỏa tiển cá nhân M 72, lựu đạn, ḅ đến các “chốt” Cộng quân ở trên núi cao. Có nhiều tốn vừa ḅ lên núi, đă bị cả chục trái lựu đạn của địch từ trên cao ném xuống.
    Họ phải lách thật nhanh, nằm xuống, trước khi lựu đạn địch quân nổ, hoặc chụp lấy và mém trả lại. Trong trường hợp bắn M-72 nếu không có kết quả, họ phải thay đổi ngay vị trí để tránh sự bắn trả của Cộng quân.
    Có những người lính Dù đă làm cho mọi người khâm phục về sự dũng cảm phi thường của họ. Chiếc bunker cuối cùng của Cộng quân trên núi Cam Tiên vô cùng kiên cố. Đó là hầm chỉ huy của một đơn vị CSBV. Hai cảm tư quân Dù đă bắn M72 vào bunker này nhưng vẫn không hạ được mục tiêu. Một đồng đội của họ từ lưng chừng núi đứng lên, để M 72 trên vai, bắn thẳng vào mục tiêu. Từng loạt đạncủa Cộng quân bắn trả tới tấp. Nhưng người xạ thủ gan dạ này vẫn đứng thẳng không chịu cúi xuống tiếp tục bắn: chiếc bunker chỉ huy và các ổ súng nặng của Cộng quân bị hủy diệt. Thanh tốn xong mục tiêu này, các đơn vị Dù tiếp tục cuộc hành tŕnh gian khó
    tiến về Bà Rịa. (Phần này biên soạn theo tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, 1 nhà báo quân đội, và lời kể của một số nhân chứng)

    * Tái phối trí tại pḥng tuyến mới: Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy.

    Ngày 22 tháng 4/1975, cuộc rút quân hoàn tất. Sư đoàn 18 Bộ binh sau khi về đến Long Lễ trong ngày 21/4/1975, đă được được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 cho di chuyển nghỉ dưởng quân hai ngày tại Long B́nh, sau đó các trung đoàn và đơn vị thuộc dụng được điều động đi tăng cường pḥng thủ tuyến mặt Đông thủ đô Sài G̣n, kéo dài từ Tổng kho Long B́nh đến Kho đạn Thành Tuy Hạ, tiếp cận với lực lượng của các quân trường như Trường Bộ Binh, Trường Thiết Giáp;
    Lữ đoàn 1 Dù được bố trí giữ Phước Tuy, bảo vệ Quốc lộ 15 từ LongThành về Bà Rịa, và là lực lượng tiếp ứng cứu Vũng Tàu khi thành phố này bị tấn công.
    Với kế hoạch phối trí mới của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 để bảo vệ Sài G̣n, kể từ sáng 22/4/1975, pḥng tuyến án ngữ phía Bắc và phía Đông của Quân đoàn 3 và Quân khu 3 được thành h́nh với liên tuyến Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy. Lực lượng chính tại pḥng tuyến này có Sư đoàn 18 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ (do Chuẩn tướng Trần Quang Khôi chỉ huy) và Lữ đoàn 468 Thủy quân Lục chiến. Trước đó, Lữ đoàn 147 và 258 Thủy quân lục chiến đă được tăng phái cho Quân đoàn 3 và là lực lượng bảo vệ phía Bắc của phi trường Biên Ḥa.
    Về lực lượng pḥng thủ ṿng đai xa của Sài G̣n, tính đến ngày 22 tháng 4/1975, có 3 sư đoàn Bộ binh: Sư đoàn 18 BB do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy; Sư đoàn 25 Bộ binh do Tướng Lư Ṭng Bá chỉ huy, phụ tại pḥng tuyến Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An; Sư đoàn 5 Bộ binh do Tướng Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, phụ trách pḥng tuyến B́nh Dương.



    22.4.1975: Trận Chiến Tây Ninh

    * T́nh h́nh tại Tây Ninh
    -Sau khi lực lượng VNCH rút khỏi Xuân Lộc, An Lộc và Chơn Thành, áp lực của Cộng quân gia tăng đáng kể từ nhiều hướng nhắm vào Sài G̣n. Quốc lộ 22 nối Củ Chi và Tây Ninh bị Cộng quân chốt nhiều đoạn. Các đoàn quân xa chở tiếp phẩm lên Tây Ninh thường xuyên bị phục kích. Cùng với các hoạt động trên quốc lộ và tỉnh lộ, trong ngày 22/4/1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của Lực lượng VNCH trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

    *Cộng quân gia tăng áp ṿng đai Sài G̣n.

    -Tại các tỉnh B́nh Dương, Biên Ḥa,Cộng quân gia tăng các đợt pháo kích bằng hỏa tiễn và đại bác 130mm. Các tin tức t́nh báo cho biết Cộng quân đang siết chặt ṿng vây quanh Sài G̣n bằng nhiều mũi dùi, mỗi mũi là một quân đoàn có từ 2 đến 3 sư đoàn bộ binh có thiết giáp và pháo binh yểm trợ.
    -Cũng trong ngày 22/4/1975, lực lượng VNCH tại Long Khánh đă hoàn tất cuộc triệt thối, rút về bảo vệ ṿng đai Sài G̣n và Biên Ḥa.



    23.4.1975 Dàn Xếp T́nh H́nh VNCH

    * Cuộc họp tại Bộ Tổng Tham Mưu

    Để ổn định t́nh thế, 6 giờ chiều ngày 23/4/1975, với chức danh là Tổng trưởng Quốc pḥng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đă họp các tướng lĩnh tại văn pḥng Tổng tham mưu trưởng. Tại buổi họp này, cựu Tướng Đôn nói “Dù có thương thuyết để đ́nh chiến, chúng ta cũng cố giữ những ǵ chúng ta có”. Vị Tổng trưởng Quốc pḥng yêu cầu Đại tướng Viên, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3 sắp xếp lại tuyến pḥng thủ để bảo vệ Sài G̣n và đoạn đường từ Sài G̣n.Cũng tại cuộc họp này, Đại tướng Viên đă báo cáo t́nh h́nh chiến sự và khả năng pḥng ngự của Quân lực VNCH tại khu vực ṿng đai thủ đô Sài G̣n và khu vực các tỉnh lân cận. Tướng Viên cho biết lực lượng Cộng quanh chung quanh Sài G̣n và Biên Ḥa đă lên đến 15 sư đoàn, trong đó có 1 sư đoàn pháo binh, nhiều lữ đoàn thiết giáp và các đơn vị pḥng không sử dụng hỏa tiển SAM.

    * Các cuộc dàn xếp về nhân sự lănh đạo VNCH trong những ngày cuối của cuộc chiến

    Cùng với những diễn biến dồn dập về quân sự, những dị biệt và bất đồng về vấn đề nhân sự lănh đạo miền Nam cũng đang được các nhà hoạt động chính trị bàn thảo ráo riết, trong đó có cả sự tham dự “nhiệt t́nh” của Đại sứ quán Pháp.
    Theo hồi kư của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, Ṭa Đại sứ Pháp đă nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đă gặp cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng của nội các do ông Nguyễn Bá Cẩn làm Thủ tướng. Nhà ngoại giao này đă cho Phó Thủ tướng Đôn biết sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh thêm: “Nếu có thương thuyết th́ Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Minh cần sự hợp của Tướng Đôn.
    Trước khi ra về, ông Brochard hỏi Phó Thủ tướng Trần Văn Đôn: Ông Minh có thể gọi điện thoại cho ông được không? Tướng Đôn gật đầu. Mười phút sau, ông Dương Văn Minh gọi điện thoại cho Tướng Đôn và xin một cuộc hẹn. Mười giờ tối ngày 22/4/1998, Tướng Đôn gặp ông Minh. Tướng Đôn hỏi ông Minh:
    - Anh có thể thương thuyết với bên kia được không?
    - Được, nhưng phải thật lẹ, nếu không chúng ta không có hy vọng.
    Tướng Đôn cho rằng ông Minh biết Cộng sản Hà Nội đang chờ ông nắm quyền rồi sẽ thương thuyết. Ông Minh chưa tiếp xúc với Tổng thống Trần Văn Hương v́ vị tân Tổng thống không thích ông Minh. Theo Tướng Đôn, việc này rất bất lợi nhất là sau khi VNCH bỏ Xuân Lộc. Ông Minh đề nghị Tướng Đôn đi gặp Đại sứ Mỹ Martin để thuyết phục Tổng thống Trần Văn Hương. Rời nhà ông Minh, ngay trong đêm 22/4/1975, Tướng Trần Văn Đôn đă đến nhà đại sứ Mỹ Martin dù đă gần 12 giờ khuya. Tướng Đôn kể lại khi ông vừa ngồi xuống trong pḥng khách th́ sĩ quan tùy viên của Đại sứ Hoa Kỳ đến nói nhỏ bên tai ông Martin. Vị đại sứ xin lỗi Tướng Đôn, bước vào pḥng riêng, khi trở ra ông nói: Có một phi cơ xin phép đáp xuống phi trường Manila, v́ bên đó Luật Tân nghi trên phi cơ có Tổng thống Thiệu nên họ điện thoại hỏi thử có đúng không. Hỏi lại th́ biết Tổng thống Thiệu c̣n ở trong Dinh Độc Lập.
    Cựu Tướng Đôn xin lỗi ông Martin v́ t́nh h́nh bắt buộc nên phải đến gặp vị đại sứ Hoa Kỳ trong giờ khuya. Sau đó, Tướng Đôn trao đổi với ông Marin về ư kiến của ông Dương Văn Minh và yêu cầu Đại sứ Martin đề nghị Tổng thống Trần Văn Hương giao quyền cho ông Minh đứng ra thương thuyết với CSBV. Ông Martin hứa với Tướng Đôn là sẽ cố thuyết phục Tổng thống Hương. Bấy giờ là 1 giờ sáng ngày 23/4/1975…
    Cũng theo tài liệu của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, để t́m một giải pháp ổn định trước những biến động thời cuộc, ngày 23 tháng 4/1975, một một số tướng lănh và sĩ quan cao cấp do Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, nguyên Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy Tham mưu, lúc bấy giờ đang giữ chức Tổng cục trưởng Quân Huấn; Trung tướng Vĩnh Lộc, nguyên Chỉ huy trưởng trường Cao Đẳng Quốc Pḥng, hướng dẫn, đă đến tư dinh của Tướng Trần Văn Đôn. Phái đoàn này đề nghị Tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc pḥng chỉ định người thay thế Đại tướng Cao Văn Viên trong chức vụ Tổng tham mưu trưởng v́ theo các vị này, Đại tướng Viên không c̣n thiết tha với quân đội nữa.
    Trước đề nghị của một số tướng lănh, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn nói: “T́nh thế sắp thay đổi, tôi không cần chỉ định ai, tự nhiên cũng có người thay thế.” Khi đó, Trung tướng Nguyễn Bảo Trị đề nghị: “Thôi Trung tướng làm Tổng trưởng Quốc pḥng kiêm luôn Tổng Tham Mưu trưởng đi.” Cựu Trung tướng Đôn từ chối và nói: “Tôi đă về hưu lâu rồi, lâu nay không c̣n mặc quân phục nữa, nhưng nếu cần tôi cũng có thể đảm nhận vai tṛ Tổng Tham mưu trưởng lúc khó khăn này. Nhưng tôi thấy t́nh thế biến chuyển quá mau, chưa biết nó sẽ đi tới đâu.” Tướng Trần Văn Đôn hỏi lại Trung tướng Trị: “Vậy th́ ai có thể thay thế Đại tướng Viên?” Trung tướng Trị trả lời: “Trung tướng Nguyễn Đức Thắng, gần hai năm nay ông ấy không có làm việc.”
    Theo lời cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong hồi kư th́ ông biết rơ khả năng của Trung tướng Thắng và đă gợi ư nhưng Tướng Thắng đă từ chối. Tướng Thắng xuất thân khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định-Thủ Đức năm 1952, là một trong bốn tiểu đoàn trưởng đầu tiên của binh chủng Pháo binh VNCH. Từ 1960-1969, ông đă giữ nhiều chức vụ quan trọng: đầu năm 1961, khi c̣n ở cấp trung tá, ông đă được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh và chỉ 1 tháng sau, được thăng cấp đại tá. Tháng 10/1961, ông bàn giao chức vụ nói trên cho Đại tá Nguyễn Văn Thiệu (1967 là Tổng Thống VNCH) và về làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh, cuối năm 1962, ông được điều động về Bộ Tổng Tham mưu, phụ trách về kế hoạch hành quân; được thăng Chuẩn tướng vào tháng 8 năm 1964, thăng Thiếu tướng tháng 11/1965 và giữ chức Tổng trưởng bộ Xây dựng Nông thôn trong nội các của Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ (từ 1965-1967), Tổng Tham mưu phó đặc trách Địa phương quân-Nghĩa quân (tháng 9 năm 1967); cuối tháng 1/1968 được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 4 & Quân khu 4 (năm 1968), thăng trung tướng vào tháng 5/1968, một tháng sau ông xin thôi giữ chức tư lệnh Quân đoàn, trở lại Bộ Tổng tham mưu giữ chức phụ tá Kế hoạch của Tổng Tham mưu trưởng (1969 đến 1972); năm 1973, ông xin nghỉ dài hạn không lương 5 năm để hoàn tất chương tŕnh cử nhân và cao học toán (trước đó ông đă thi đổ một số chứng chỉ Toán của đại học Khoa học với hạng ưu).
    Tại cuộc gặp gỡ nói trên, một số tướng lănh c̣n đề nghị với cựu Tướng Đôn là nên bắt tất cả những người Mỹ c̣n lại làm con tin để Mỹ tiếp tục viện trợ giữ miền Nam. Tướng Đôn trả lời với phái đoàn là chuyện đó đă có tin đồn rồi, thế nào Mỹ cũng biết và có kế hoạch đối phó. Lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ đang chờ ở ngoài khơi sẽ đổ bộ với lực lượng hùng hậu, chừng đó, theo Tướng Đôn sẽ có đổ máu và t́nh thế sẽ rối rắm nguy ngập hơn nữa. Cựu Tướng Đôn cũng phân tích là hơn một ngàn người Mỹ c̣n lại ở Việt Nam muốn cùng với Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa để cùng chiến đấu đồng thời thúc đẩy, xoay chuyển dư luận Mỹ yểm trợ cho miền Nam. Cuối cùng cựu Trung tướng Trần Văn Đôn khuyên mọi người là cần phân biệt chính quyền Mỹ và những người Mỹ ở Sài G̣n. Ông nói rằng chính quyền Mỹ ở Sài G̣n chỉ có ông đại sứ đại diện mà thôi, bỏ rơi Việt Nam là chính phủ Mỹ và Quốc hội Mỹ, chứ không phải là những người Mỹ đang ở Sài G̣n, nếu bắt một số người Mỹ ở Sài G̣n làm con tin th́ tội nghiệp cho họ và chẳng có ích lợi ǵ.

    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 09:01 PM.

  5. #35
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những trận chiến cuối cùng QLVNCH
    P9




    23.4.1975: Thủ Tướng Cẩn Từ Chức




    * Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn từ chức
    -Sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/19975, và sau cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không c̣n thiết tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, ông muốn từ chức và ra khỏi quân đội. Trong khi đó, tân Tổng thống Trần Văn Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Viên làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà tướng Viên đă nắm giữ từ tháng 10/1965.
    -Trong khi chưa t́m ra một người để giao trọng trách tổng chỉ huy Quân đội VNCH trong giai đoạn cam go nhất của lịch sử th́ ngày 23 tháng 4/1975, nội các do ông Nguyễn Bá Cẩn làm Thủ tướng nộp đơn lên Tổng thống Trần Văn Hương xin từ chức. Tổng thống Trần Văn Hương đă yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn và các thành viên của nội các tiếp tục xử lư thường vụ cho đến khi có nội các mới được thành lập.



    27.4.1975 Sư Đoàn 3BB Giữ Bà Rịa

    * Sư đoàn 3 Bộ binh và Lữ đoàn 1 Dù bảo vệ Bà Rịa và Quốc lộ 15
    Tại khu vực Phước Tuy-Vũng Tàu, Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, được cử làm Tổng trấn Vũng Tàu. Sư đoàn 3BB gồm cả số quân sĩ từ Sư đoàn 1 Bộ binh nhập lại chỉ c̣n hơn 1 ngàn người, tạm thành lập được 2 tiểu đoàn, 1 tiểu đoàn cho trung đoàn 2 Bộ binh và 1 tiểu đoàn cho trung đoàn 56 Bộ binh.
    Ngày 24/4/1975, Sư đoàn 3 BB được giao trách nhiệm pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu với lực lượng tăng cường gồm 1 chi đoàn Thiết xận xa (chi đoàn 2 của thiết đoàn 15), và lữ đoàn 1 Dù. Theo lời của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 BB, th́ quân số của các tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù ở mức thấp, mỗi tiểu đoàn chỉ c̣n khoảng trên dưới 400 quân sĩ.

    * Tái phối trí lực lượng tại các pḥng tuyến quanh Sài G̣n

    Sau hai ngày nghỉ ngơi dưỡng quân để chỉnh đốn đội ngũ, ngày 24 tháng 4/1998, Sư đoàn 18BB được giao trách nhiệm pḥng thủ khu vực Đông Nam Biên Ḥa và tuyến phía đông Thủ đô Sài G̣n. Pḥng tuyến này trải từ tổng kho Long B́nh đến kho đạn Thành Tuy Hạ, tiếp giáp với pḥng tuyến của lực lượng Dù, Trường Thiết giáp và Trường Bộ binh.



    25.4.1975: Trận Chiến B́nh Dương

    * Giao tranh ở pḥng tuyến B́nh Dương
    Tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng quân gia tăng áp lực tại Phú Giáo, Tân Uyên nằm về phía Đông Nam tỉnh B́nh Dương. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân tại đây đă bị các trung đoàn Cộng quân của khu Miền Đông tấn công liên tục, cuối cùng phải rời bỏ pḥng tuyến.
    Tại Bến Sắn, Cộng quân điều động Sư đoàn có bí số CT-7 và 2 trung đoàn cơ động áp sát tuyến pḥng thủ của Sư đoàn 5 Bộ binh. Cộng quân muốn chọc thủng mặt Đông của tỉnh B́nh Dương và mặt Tây của tỉnh Biên Ḥa để tiến về Sài G̣n.

    * Tuyến pḥng thủ Long An

    Tại mặt trận Long An, Sư đoàn 22 Bộ binh, vừa được tái tổ chức sau khi từ B́nh Định rút vào Nam, được giao nhiệm vụ pḥng thủ ṿng đai thị xă Long An và khu vực từ Tân An về Sài G̣n. Các đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ binh được đặt thuộc quyền điều động của Biệt khu Thủ đô do Trung tướng Nguyễn Văn Minh làm tư lệnh. Trước tháng 4/1975, chiến trường Long An do Quân đoàn 3 và Quân khu 3 trách nhiệm và Biệt khu Thủ đô (gồm Sài G̣n và tỉnh Gia Định) chịu sự chỉ huy tổng quát của Bộ Tư lệnh Quân khu 3. Từ tháng 4/1975, Biệt khu Thủ đô chịu trách nhiệm cả Long An.



    26.4.1975: Kịch Chiến Ở Bà Rịa

    * CQ tấn công thị xă Bà Rịa

    -Vào 6 giờ chiều ngày 26/4/1975, mặt trận Phước Tuy bắt đầu sôi động trở lại. Cộng quân pháo kích vào thị xă Bà Rịa, bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, tư dinh tỉnh trưởng, Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp. Trận mưa pháo kích kéo dài 3 tiếng. Toàn bộ hệ thống điện trong thị xă Bà Rịa đều bị hư hại. Khoảng 10 giờ đêm, Cộng quân tổ chức tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp CSBV phối hợp đánh vào trung tâm tiếp vận tiểu khu và tư dinh tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc theo xa lộ mới ở phía Nam thị xă Bà Rịa.
    -Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa điều động 1 tiểu đoàn Dù và đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Cộng quân ra khỏi trung tâm thị xă. Tiểu đoàn Dù đă bắn cháy 5 chiến xa Cộng quân ngay trong đêm 26/4/1975.

    * CQ tấn công Long Thành

    -Tại Long Thành, tối 26 tháng 4/1975, Cộng quân tấn công vào trường Thiết Giáp, chiếm quận lỵ Long Thành và cắt đứt Quốc lộ 15 nối liền Vũng Tàu và Sài G̣n. Cũng trong ngày 26 tháng 4/1975, một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đánh chiếm cầu xe lửa về hướng Tây Nam thành phố Biên Ḥa trong khi đại bác của các đơn vị pháo binh Cộng quân bắn phá vào căn cứ Không quân Biên Ḥa.



    27.4.1975: Bầu Tân Tổng Thống



    *Quốc hội VNCH họp khẩn xét 2 đề nghị của Tổng thống VNCH Trần Văn Hương về chức vụ Tổng Thống và Thủ tướng VNCH
    Sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương đă mở cuộc họp đặc biệt tại tư dinh với thành phần tham dự gồm các ông: Trần Văn Linh, Chủ tịch Tối cao Pháp viện; Trần Văn Lắm, Chủ tịch Thượng viện; Phạm Văn Út, Chủ tịch Hạ Viện ; cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng (Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đă từ chức từ 23-4-1975), và 1 phụ tá Tư pháp của Tổng thống. Tại cuộc họp này, Tổng thống Trần Văn Hương nhắc lại 2 biện pháp mà ông đă đề nghị trong phiên họp với Quốc hội ngày 26/4/1975:
    Thứ 1: Giao cho Tổng thống đương nhiệm toàn quyền chỉ định 1 Thủ tướng toàn quyền.
    Thứ 2: Bầu ông Dương Văn Minh làm Tổng thống.
    Theo lời kể của Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, trong phiên họp sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương tŕnh bày diễn tiến cuộc họp riêng với ông Dương Văn Minh, và cho biết “ông có mời ông Minh làm Thủ tướng toàn quyền nhưng ông Minh không nhận, mà yêu cầu ông phải từ chức, giao chức vụ Tổng thống cho ông Minh để ông Minh có toàn quyền nói chuyện với Việt Cộng”.
    Chiều ngày 27 tháng 4/1975, Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn cầm đầu một phái đoàn gồm nhiều Tướng lănh trong Bộ Tổng Tham mưu và vị Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô đến tham dự cuộc họp đặc biệt của lưỡng viện Quốc hội. Phái đoàn của Tổng trưởng Quốc pḥng đến trước, và khoảng 7 giờ 30 phút tối ngày này th́ có 138 nghị sĩ, dân biểu hiện diện. Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn tóm tắt t́nh h́nh quân sự: Sài G̣n đang bị bao vây bởi 15 sư đoàn CSBV đặt dưới quyền của ba quân đoàn CSBV. Quốc lộ Sài G̣n-Vũng Tàu bị cắt đứt và CQ đang tiến về Long B́nh. Đến 8 giờ 20 ngày 27 tháng 4/1975, Đại hội đồng lưỡng viện Quốc hội bỏ phiếu (136 thuận-2 chống) chấp thuận trao chức vụ Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh.

    * Cuộc gặp gỡ giưă Tổng thống Trần Văn Hương và cựu Đại tướng Dương Văn Minh.

    Như đă tŕnh bày, sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức vào ngày 21/4/1975, Ṭa Đại sứ Pháp đă nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đă gặp Tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng. Ông Brochand đă cho Tướng Đôn biết sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh rằng “Nếu có thương thuyết th́ Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Dương Văn Minh cần sự hợp của Tướng Trần Văn Đôn.
    Theo sự sắp xếp trung gian của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, 10 giờ sáng ngày 24 tháng 4/1975, cựu Đại tướng Dương Văn Minh đă đến gặp Tổng Thống Trần Văn Hương tại tư dinh của Đại tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham mưu. Tiếp đó, vào buổi trưa, cựu Trung tướng Đôn cũng đến nhà Đại tướng Khiêm để t́m hiểu t́nh h́nh, ông đă gặp bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ tướng và Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Canh nông của nội các Nguyễn Bá Cẩn (nội các này từ chức ngày 23/4/1975 và được yêu cầu xử lư thường vụ trong khi chờ nội các mới). Tại cuộc gặp này, các nhân vật trên đă nói là cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa Tổng thống Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh đă thất bại v́ ông Minh từ chối ghế “Thủ tướng toàn quyền”.
    Trước t́nh h́nh như thế, Đại tướng Khiêm đề nghị cựu Trung tướng Đôn nên nhận chức vụ thủ tướng để thương thuyết. Cựu Tướng Đôn đă kể cho Đại tướng Khiêm nghe lời của ông Brochand là Pháp đă liên lạc với CS Hà Nội và phía CS chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi. Sau đó cựu Trung tướng Đôn đến thẳng Ṭa Đại sứ Pháp. Các viên chức cao cấp sứ quán này lặp lại ư kiến trên và cho biết thêm rằng Cộng sản chờ đến ngày Chủ nhật 27/4/1975, nếu không tiến triển ǵ th́ CQ sẽ pháo kích vào Sài G̣n. Theo lời kể của cựu Trung tướng Đôn, sau khi nghe tin này, ông lo ngại cho dân chúng sống chen chúc trong thành phố bị trúng đạn pháo của Cộng quân bắn bừa băi, nên ông hứa sẽ cố gắng dàn xếp để t́m một giải pháp tạm thời. Chiều hôm đó, Đại tướng Khiêm điện thoại cho cựu Tướng Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định ông Nguyễn Ngọc Huy làm Thủ tướng. Theo Đại tướng Khiêm, ông Huy là người chống Cộng triệt để nên khó có thể ḥa giải được. Cựu Trung tướng Đôn điện thoại báo cho cựu Đại tướng Minh, ông Minh mời cựu Trung tướng Đôn lại nhà để bàn tính t́m một giải pháp.
    Lúc 5 giờ 45 ngày 24/4/1975, cựu Trung tướng Đôn vào Dinh Độc Lập th́ gặp ông Nguyễn Ngọc Huy đang nói chuyện với ông Nguyễn Xuân Phong, Quốc vụ khanh đặc trách ḥa đàm, từ Pháp mới về. Vừa lúc đó, Đại sứ Martin từ trong văn pḥng Tổng Thống Trần Văn Hương đi ra. Cựu Trung tướng Đôn hỏi Đại sứ Mỹ là có phải Tổng Thống Hương chỉ định ông Huy làm thủ tướng hay không. Nhưng ông Martin đă trả lời là không có chuyện đó. Thế nhưng, sau đó, Đại tướng Khiêm vào gặp Tổng thống Hương và ra báo cho cựu Trung tướng Đôn biết là ông Hương sẽ chỉ định ông Huy làm thủ tướng. Đến lượt ông Huy vào gặp Tổng thống Hương. Cuối cùng là Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn và Đại tướng Viên vào tŕnh bày cho Tổng thống Hương t́nh h́nh quân sự: Cộng quân đang tiến sát ṿng đai Sài G̣n, vũ khí, quân dụng, đạn dược thiếu, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút… Nghe xong phần tŕnh bày, Tổng Thống Hương nh́n Đại tướng Viên và nói: “Ông sẽ Tổng tư lệnh Quân đội”. Tổng Thống Hương nói tiếp rằng ông sẽ chia xẻ với số phận của anh em quân nhân trên các chiến trường, nghĩa là ông sẽ chết cùng với anh em binh sĩ.
    Trước khi rời Dinh Độc Lập, cựu Trung tướng Đôn nói với Tổng thống Hương: “Cụ nghiên cứu lại, v́ bên kia họ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi”. 8 giờ tối hôm đó, cựu Trung tướng Đôn trở lại nhà ông Dương Văn Minh và thấy một số nhân vật ở đây: ông Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng nghị viện, giáo sư Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn chính trị sứ quán Pháp. Cựu Tướng Đôn giải thích với ông Dương Văn Minh: “Ông Hương vừa mới lên mà yêu cầu ông từ chức th́ cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa c̣n Hiến pháp, c̣n Quốc hội.” Ư kiến của cựu Trung tướng Đôn chỉ có ông Huyền đồng ư, c̣n ông Minh và ông Mẫu th́ cho rằng ông Hương tŕ hoăn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận.

    * TT Nguyễn Văn Thiệu gặp cựu Trung tướng Trần Văn Đôn lần cuối cùng

    8 giờ sáng ngày 25 tháng 4/1975, cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho cựu Trung tướng Đôn ngỏ ư muốn gặp ông tại Dinh Độc Lập (sau khi từ chức, cựu TT Nguyễn Văn Thiệu vẫn c̣n ở trong dinh này) để nhờ lấy giúp cho bạn của ông một giấy chiếu khán đi ngoại quốc. Khi cựu Trung tướng Đôn vào dinh Độc Lập, cựu Tổng Thống Thiệu cho biết là ông đă hiểu rơ diễn biến. Câu chuyện nửa chừng th́ cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho Tổng thống Hương và nói: “Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm Thủ tướng toàn quyền th́ cụ t́m một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Đôn”.
    Để điện thoại xuống, cựu Tổng Thống Thiệu nói với ông Đôn: “Theo tôi, ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận trách nhiệm này. Tôi đă nghĩ đến ông từ năm 1973. Tôi đă biết ông từng tiếp xúc nhiều giới chức…Ông có uy tín trong giới chính trị và quân đội. Nhưng tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với Cộng sản. Nếu chịu thương thuyết tôi đă mời ông làm Thủ tướng từ năm 1973 rồi. Nhưng ngày nay th́ tôi đề nghị với ông Hương mời ông làm việc”.
    Cựu Trung tướng Đôn hỏi lại cựu TT Thiệu: “Ông có nghĩ là bây giờ đă trễ không?” Ông Thiệu im lặng không đáp. Trước khi từ giă, cựu Trung tướng Đôn nh́n thẳng cựu TT Thiệu, rồi nói: “C̣n phần ông, chừng nào ông đi? Tôi biết Mỹ không muốn chuyện xảy ra như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ ông nhất là khi nghe có tân thủ tướng và chính phủ mới. Ông phải đi cho nhanh. Nếu tôi làm Thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ đ̣i bắt ông và tôi làm theo.”
    Từ biệt cựu TT Thiệu, cựu Trung tướng Đôn ghé nhiều nơi để trao đổi ư kiến với một số yếu nhân và sau đó trở về nhà. Đến nhà, cựu Trung tướng Đôn được biết cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho ông mấy lần và có để lại số điện thoại. Cựu tướng Đôn gọi lại th́ cựu Tổng thống Thiệu nói lời từ giả với cựu Tướng Đôn: “Chúc anh thành công và cám ơn anh.” Cựu Tướng Đôn nhắc lại những ǵ đă nói khi gặp cựu Tổng thống Thiệu và nói: “Ông đừng quên những ǵ tôi đă nói hồi sáng, nghĩa là ông phải ra đi.” Sau đó, cựu Tướng Đôn được báo là người Mỹ đă giúp cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cả gia đ́nh hai vị này rời khỏi Việt Nam bằng máy bay đặc biệt đến Đài Bắc, Thủ đô Đài Loan.



    27.4.1975: Tân Cảng Sàig̣n

    *Cộng quân bị tổn thất nặng trong cuộc tấn công vào khu Tân Cảng Sài G̣n
    Sáng ngày 27 tháng 4/1975, t́nh h́nh Thủ đô Sài G̣n đă trở nên sôi động khi Cộng quân bắt đầu pháo kích vào ṿng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công CSBV đă tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Ḥa. Lực lượng bộ chiến của Biệt khu Thủ đô đă được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch. Đến chiều ngày 27/4/1975, Cộng quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.
    * Kịch chiến tại Bà Rịa, Nhơn Trạch, Trảng Bom
    -Rạng sáng ngày 27/4/1975, tại Bà Rịa, lực lượng Nhảy Dù đă quét Cộng quân ra khỏi tỉnh lỵ. Để ngăn chận các đợt tấn công kế tiếp của Cộng quân, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tăng thêm quân pḥng thủ bên ngoài thị xă. Khoảng 8 giờ sáng, Cộng quân điều động hai trung đoàn bộ binh và khoảng 30 chiến xa từ hai hướng mở đợt tấn công thứ 2 vào thị xă Bà Rịa. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đă chống trả quyết liệt gây thiệt hại nặng cho Cộng quân.
    -Vào 2 giờ chiều ngày 27/4/1975, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù được lệnh rút khỏi Bà Rịa và về pḥng thủ tuyến Cỏ May (nằm trên đường Bà Rịa-Vũng Tàu). Cùng trong buổi chiều ngày 27/4/1975, một đơn vị Công binh Thủy quân Lục chiến được điều động đến để giật sập cầu Cỏ May hầu ngăn chận Cộng quân tràn qua.
    -Cũng trong ngày 27/4/1975, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp tiến đến gần liên tỉnh lộ 25 và nhắm quận lỵ Nhơn Trạch, một đơn vị CSBV đánh chiếm các đồn Địa phương quân và Nghĩa quân dọc trên đường tiến quân. Khu vực Trảng Bom do một đơn vị của Sư đoàn 18BB phụ trách đă bị Cộng quân pháo liên tục.



    28.4.1975: Tướng Minh Nhận Chức

    * Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương Văn Minh.

    Trong khi Cộng quân áp lực nặng quanh ṿng đai Thủ đô Sài G̣n, th́ một sự kiện trọng đại đă xảy ra trong ngày 28/4/1975: Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền nguyên thủ quốc gia cho ông Dương Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều ngày 28 tháng 4/1975. Trong buổi lễ này, Quân lực VNCH cử Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không quân và Trung tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân thay mặt Đại tướng Cao Văn Viên đến dự lễ. Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn Minh đọc diễn văn nhận chức, Tổng thống Trần Văn Hương đă công bố sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên khỏi chức vụ Tổng tham mưu trưởng (theo nguyện vọng của Đại tướng Viên). Sau nghi lễ nhậnchức, ông Dương Văn Minh đă giới thiệu ông Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng thống và ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.

    *Tướng Trần Văn Đôn kể lại những biến cố, sự kiện trong ngày 28/4/1975.

    Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong Việt Nam Nhân Chứng, trong buổi lễ bàn giao, ông Dương Văn Minh đă “trầm tĩnh đọc bản tuyên bố đường lối của ḿnh là “sẽ chấm dứt chiến tranh bằng cách thương thuyết và ḥa giải với Mặt trận Giải phóng miền Nam”. Vào 6 giờ chiều, cuộc lễ xong, ông Minh tiễn cụ Trần Văn Hương ra cổng. Nhà của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ở gần dinh Độc Lập nên chỉ vài phút sau ông đă về đến nhà, lại nghe “tiếng nổ ầm ầm, súng bắn lung tung, phi cơ bay. Trên dinh Độc Lập. Nưả giờ sau, tiếng súng ngưng nổ, tiếng động cơ máy bay nhỏ dần rồi im lặng. Tướng Đôn điện thoại cho Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Không quân th́ được báo cáo có 3 phi cơ của Không quân VNCH bị bỏ lại ở Đà Nẵng và Việt Cộng đă sử dụng để bay vào Sài G̣n dội bom. Hai phản lực cơ F-5 của Không quân đă bay lên nghinh chiến đuổi 3 phi cơ này. (Tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên cho biết đó 3 phi cơ tham gia cuộc dội bom là phản lực cơ A-37 ).
    Cũng theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, trước lễ bàn giao chức vụ Tổng thống VNCH diễn ra vào buổi chiều 28/4/1975, th́ vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4, cựu Trung tướng Đôn đă đến văn pḥng Tổng tham mưu trưởng như thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo dơi t́nh h́nh quân sự. (Theo tài liệu ghi trong Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn là Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu , ông Cao Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng pḥng 4 Bộ Tổng Tham mưu).
    Trong cuộc gặp nói trên, Tướng Viên nhắc với Tướng Đôn rằng Tổng thống Trần Văn Hương đă kư sắc lệnh cho ông nghỉ, do đó, ông yêu cầu Tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc pḥng, cử người thay thế. Ngay lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh gọi cho Tướng Đôn, dặn ông cố gắng giữ Tướng Viên ở lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, đừng cho Tướng Viên đi.
    Trước sự việc như thế, Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn không biết xử sự làm sao v́ Tướng Viên đă được Tổng thống Trần Văn Hương cho nghỉ ( sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn Hương công bố vào chiều ngày 28/4/1975). Tướng Đôn hỏi Tướng Viên:
    -Nếu anh đi, th́ theo anh ai sẽ thay thế được ?
    Tướng Viên không trả lời thẳng mà hỏi lại Tướng Đôn:
    -Anh sẽ làm ǵ ?
    Tướng Đôn trả lời:
    -Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày trước ông Minh và ông Mẫu muốn tôi tiếp tục giữ ghế Tổng trưởng Quốc pḥng nhưng tôi chưa trả lời, nay ông Minh cho tôi biết Hà Nội không muốn có người nào trong nội các cũ ở lại trong nội các mới.”
    Về lại văn pḥng, Tướng Đôn nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đă kư cho phép Tướng Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần Văn Hương đă kư trước khi bàn giao chức vụ Tổng thống.

    *Chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH vào những ngày cuối tháng 4
    Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, như đă tŕnh bày, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không c̣n thiết tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, trong khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà Đại tướng Viên đă nắm giữ từ tháng 10/1965. Thế nhưng, Đại tướng Cao Văn Viên đă tŕnh xin Tổng Thống Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng thống Trần Văn Hương không đồng ư và yêu cầu Đại tướng Viên tiếp tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng Thống Trần Hương trao quyền cho ông Dương Văn Minh th́ Đại tướng Viên mới nhận được quyết định giải nhiệm. Kể lại chuyện này, Đại tướng Cao Văn Viên ghi trong hồi kư như sau: “Trước khi Tổng Thống Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra một sắc lệnh giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến khi tân Tổng Thống (cựu Đại tướng Dương Văn Minh) muốn chọn người thay thế tôi, tôi đề nghị Tướng Đồng Văn Khuyên, lúc ấy đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận”.

    *T́nh h́nh chiến sự trong ngày ông Dương Văn Minh nhận chức Tổng Thống.

    T́nh h́nh chiến sự trong ngày 28/4/1975 ghi nhận nhiều diễn biến dồn dập. Cộng quân đă tung thêm lực lượng áp sát ṿng đai SàiG̣n.Tại B́nh Dương, sau khi đă đưa một sư đoàn vào khu Đông Nam và tấn công vào các khu vực Phú Giáo, Tân Uyên, Cổ Mi, Cộng quân đăđiều động 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 CSBV tiến sát đến các tuyến pḥng tuyến do các trung đoàn 7, 8, 9 của Sư đoàn 5 Bộ binh. Trong các trận đánh tại B́nhDương vào 10 ngày cuối của tháng 4/1975, nổi bật nhất là trận Bến Sắn giữa sư đoàn 5 Bộ binh và 1 sư đoàn chủ lực Quân đoàn 1 củaCộng quân. Cộng quân muốn chiếm Bến Sắn để từ đó chọc thủng mặtđông của tỉnh B́nh Dương và mặt tây của tỉnh Biên Ḥa nhưng đă bịsự kháng cự mănh liệt của Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng quân bị tổn thất nặng.
    Cũng trong ngày 28/4/1975, Căn cứ Không quân Biên Ḥa bị pháo kích dữ dội. Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, tất cả các phi cơ tại căn cứ này đều đă được dời qua phi trường Tân Sơn Nhất hay xuống phi trường Trà Nóc ở miền Tây. Sư đoàn 3 Không quân bắt đầu phá hủy những phương tiện c̣n lại trong căn cứ Biên Ḥa.



    28.4.1975: Sư Đoàn 5BB Tử Chiến

    *Sư đoàn 5 Bộ binh tử chiến tại B́nh Dương
    -Ngày 28/4/1975, sau khi chận đứng được đợt tấn công tại khu đông tỉnh B́nh Dương, Sư đoàn 5 Bộ binh đă tử chiến để đối đầu với 2 sư đoàn Cộng quân từ hướng Chơn Thành-An Lộc. (Trước tháng 4/1975, pḥng tuyến chính ở An Lộc và Chơn Thành do 2 liên đoàn Biệt động quân, 2 tiểu đoàn Địa phương quân án ngữ. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, trước áp lực của Cộng quân, lực lượng Biệt động quân đă rút từ An Lộc về hợp cùng các đơn vị Địa phương quân, Nghĩa quân của Chơn Thành lập pḥng tuyến mới tại nam Chơn Thành và đă chống trả quyết liệt các đợt tấn công của địch quân muốn chọc thủng pḥng tuyến này).

    * Trận chiến tại Vũng Tàu
    -Tại pḥng tuyến Vũng Tàu, căn cứ Cát Lở và Trung tâm huấn luyện Chí Linh bị pháo kích. Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh kiêm Tư lệnh mặt trận Vũng Tàu, đă ra thông cáo thiết quân luật từ 19 giớ đến 6 giờ sáng.

    *Cụ Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh
    -Chiều ngày 28/4/1975, tại Dinh Độc Lập, cụ Trần Văn Hương trao quyền Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh theo quyết định của Quốc hội VNCH trong phiên họp chiều ngày 27/4/1975.




    Nguồn: http://linhphuongngoc.tripod.com/
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 09:04 PM.

  6. #36
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những Phi Vụ Hành Quân Cuối Cùng Của Không Quân VNCH Trên Không Phận Sàig̣n


    'Ngay trong đêm đó (28 tháng 4), tại Sàig̣n, cuộc chiến đău của KQ VNCH tiếp diễn với các AC 119G của Phi đoàn 819 Hắc Long và AC-119K của Phi đoàn 821 Tinh Long ở Tân sơn Nhất; các khu trục cơ A-1 của 2 Phi đoàn 514 Phượng Hoàng và 518 Phi Long, bay lên từ Cần Thơ

    Khoảng 7 giờ sáng ngày 29 tháng 4, Tinh Long 7, chiếc AC-119K cuối cùng, đang tiêu diệt VC ở ṿng đai phi trường Tân Sơn Nhât, bị trúng hỏa tiễn SA-7 bốc cháy và nổ tung trên bầu trời, phi hành đoàn hy sinh Cùng thời gian, chiếc A-1 Skyraider của Thiếu tá Trương Phùng, danh hiệu Phi Long 2, thuộc Phi đoàn 518, từ B́nh Thủy bay lên, chặn địch ở Phú Lâm cũng bị pḥng không của địch bắn hạ. Tinh Long-7 và Phi Long-2 được ghi nhận là những nhân viên phi hành cuối cùng của KQ VNCH hy sinh trong lúc chiến đău..'

    Tác giả Robert Mikesh trong Flying Dragons: The South Vietnamese Air Force (trang 146) viết:

    '..khoảng thời gian quá nửa đêm 28, răng 29, CQ đă dùng các đại bác 130 pháo kích phi trường TSN, phá hủy một số phi cơ..Cuộc chiến đấu của Không quân VN hầu như kết thúc, ngoại trừ phi hành đoàn của một phi cơ AC-119 vẫn tiếp tục tuần tiễu suốt đêm trên không phận quanh phi trường TSN. Phi cơ đáp xuống, đổ xăng, tái trang bị và sau đó tiếp tục bay lên lại chiến đău..khi trời mờ sáng. Nhiều người đang chờ di tản đă theo dơi trong lo âu, chiếc hỏa long đang rải đạn ngăn chận CQ nơi ṿng đai phía Đông phi trường..và khoảng 7 giờ sáng, phi cơ bị trúng hỏa tiễn SA-7 để cắm đầu rơi xuống đất trong lửa cháy..Một Skyraider A-1 cũng bị chung số phận vài giờ sau đó..'

    Tác giả Bernard C. Nalty trong 'Air War over South Viêt Nam 1968-1975 (trang 421-422) ghi lại:

    ...Một số phi công và phi hành đoàn dũng cảm của KQVN, bất chấp hỏa lực pḥng không và hỏa tiễn SA-7 của CQ, tiếp tục những cố gắng ngăn chặn quân CS tiến vào Sài g̣n..một A-1 và một C-119 đă bị bắn ha...' và ở trang 424: ' ngay sáng 30/4 khi Dương văn Minh ra lệnh buống súng, vẫn c̣n những phi công A-37 tiếp tục chận đánh các xe tăng T-54 VC đang tiến vào SàiG̣n..'

    Tác giả Wayne Mutza trong 'The A-1 Skyraider in Viêt Nam, The Spad's last war' (trang 144) cũng ghi lại sự kiện của 2 phi cơ C-119K và A-1 bị hạ trên không phận Sài G̣n và kết luận: Skyraider là phi cơ đă chiến đău..cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam'

    Các phi vu. Tinh Long:

    KQ VNCH có 3 phi đoàn Vận tải vơ trang (Gunship):

    Phi đoàn 817 Hỏa Long, thành lập vào tháng 2/1969, trang bị bằng các AC 47

    Phi đoàn 819 Hắc Long, thành lập vào tháng 9 năm 1971, trang bị càc phi cơ AC-119 G.

    Phi đoàn Tinh Long 821 được thành lập vào tháng 12 năm 1972, trang bị các AC-119 K, có khả năng yểm trợ hỏa lực và chiến đấu ban đêm

    Cả 3 Phi đoàn đều được đặt tại Căn cứ Tân Sơn Nhất

    Trên kh6ng phận Sàig̣n trong đêm 28 rạng 29 tháng 4 có các phi vu. Tinh Long mang danh hiệu:

    Tinh Long 6

    Phi vu. Tinh Long 6, do Trung Úy Trần văn Bảo làm trưởng phi cơ, hoa tiêu phụ là Tr/u Trần văn Hiền, đă bao vùng trong đêm 28, rạng 29 trên không phận Sài G̣n, đồng thời chỉ điểm các vị trí đặt súng pháo kích của CSBV để các A-1 Skyraider oanh kích..Tinh Long 6 rời vùng về đáp tại TSN sau khi được Tinh Long 7 thay thế vào khoảng 5 giờ 30 sáng 29/4.

    Tinh Long 7:

    Phi vu. Tinh Long 7, trên AC-119 K, do Trung Úy Trang văn Thành làm trưởng phi cơ, hoa tiêu phó lá Tr/Ú Tào Thuận đă cất cánh từ TSN lúc 5 giờ sáng ngày 29 tháng 4 và thay thế cho Tinh Long 6. (Robert Mikesh đă nhầm khi cho rằng chiếc C-119 trên không phận Sàig̣n đă đáp xuống, đổ xăng và bay lên lại, trên thực tế đây là 2 phi vụ nối tiếp nhau và bằng 2 phi cơ khác nhau)

    Trong khi hướng dẫn các phi vu. A-1 tấn c6ng các vị trí pháo và thả hỏa châu soi sáng khu vực trách nhiệm, Tinh Long 7 đă bị trúng hỏa tiễn pḥng không SA-7 của CQ..

    KQ Thái Ngùng ghi lại sự kiện như sau (Quân sử KQ trang 320-321): '..Khoảng 7 giờ sáng, trên không phận phi trường TSN, có một chiếc phi cơ bay lượn rất thấp, tôi ươc lượng không quá 5 ngàn bộ. Đứng ở tầng trên của dăy nhà cư xá độc thân nh́n về hương phi đạo, không bị một vật ǵ cao cản trở tầm mắt, tôi đă nhận dạng được đó là chiếc AC-119 K của phi đoàn tôi (lúc đó cũng có hai chiếc A-1 đang dội bom xuống mục tiêu). Chiếc phi cơ từ hướng Hốc Môn bay dọc theo phi đạo hướng về phia Tổng Y viện Cộng Ḥa rồi lại ṿng lại. Từ trên phi cơ những khẩu đại liên 6 ṇng và cây đại bác 20 ly khạc ra những làn đạn đỏ rực, liên tục băn vào đầu địch quân đang tấn công vào ṿng đai phi trường TSN...' Máy bay bay vẩn ṿng đi ṿng lại trên không. Đạn từ trong phi cơ bắn ra, được trả lại bằng hỏa tiễn tầm nhiệt địa không SA-7 từ dưới đất bắn lên..'..'Phi cơ trúng hỏa tiễn: con tàu phát hỏa, chao đảo cố gắng gượng lấy lại thăng bằng nhưng rổi nổ tung và găy làm đôi. Tôi thấy có một người nhảy dù ra, nhưng không biết v́ lư do ǵ lại rơi thật nhanh. Đầu thân và một phần đuôi (C-119 có hai đuôi) cùng rơi nhanh, riêng một phần đuôi c̣n lại v́ nhẹ hơn nên lơ lửng,lượn qua lượn lại rơi xuống như một chiếc lá cuối mùa..'

    Phi hành đoàn của Tinh Long 7 gồm các Tr/úy phi công Trang văn Thành, Tào Thuận và các điều hành viên Trương Ngọc Anh, Phạm Tấn Đức, Phan Quốc Tuấn, Nguyễn Thái B́nh, Nguyễn văn Tần và Nguyễn Tiến Cường (8 người hy sinh), riêng xạ thủ Nguyễn văn Chinh, nhảy dù được, tuy sông sót nhưng bị thương nặng. Phi cơ bị rơi trong ṿng rào của Phi trường TSN. Hài cốt của Phi hành đoàn đă được bốc và cải táng đầu tháng 8 năm 2010 do sự cố gắng t́m kiếm và yểm trợ tài chánh của các thân hữu KQVN. (Lư Tưởng Úc châu, số Xuân Tân Măo 2011)

    Ngoài ra, c̣n một AC-119 cũng bị rơi trong ngày 29/4 tại đường Ngô Quyền Chợ Lớn. Đây là chiếc phi cơ di tản không rơ v́ bị trúng đạn hay v́ trục trặc kỹ thuật. Chiếc phi cơ này do Đ/úy Huỳnh Đ́nh Chiến điều khiển..

    Các phi vụ Phi Long và Phượng Hoàng:

    Phi Long và Phượng Hoàng là danh hiệu của các phi vụ do Skyraiders thực hiện. Phi đoàn 518 đă từ Biên Ḥa di tản về Sài g̣n từ 28 tháng 4..

    - Phi Long 51:

    Khoảng 4 giờ sáng ngày 29 tháng 4, trong khi VC đang pháo kich mạnh vào phi trường, Pḥng Hành quân PĐ 518 nhận lệnh hành quân khẩn cấp gửi một phi tuần lên để oanh kich cac vị trí đặt pháo của CQ. Phi tuần gồm 2 chiếc Skyraider: một do Đại úy Trần văn Phúc điều khiển, bay ở vị trí phi tuần trưởng (lead), chiếc thứ 2, do Thiếu tá Trương Phùng, t́nh nguyện, bay ở vị trí thứ nh́ (wingman).. Đ/úy Phúc cất cánh trước, sử dụng phi đạo 07R tương đối ngắn để tránh đường đạn pháo kích (nếu dùng phi đạo 25). Phi cơ cất cánh bằng 'kỹ thuật ép máy hết mức' vào khoảng 4 giờ 25 phút sáng.. Phi cơ của Th/Tá Phùng trục trặc b́nh điện nên đành cất cánh sau..(Quân sử KQ đă nhầm khi viêt Phi Long 51 bay từ B́nh Thủy, Cần Thơ lên).

    Phi cơ của Đ/u Phúc trang bị 10 quả bom 250 pound, loại MK-81 và dưới sự điều khiển, chỉ điểm mục tiêu của Tinh Long 6 dang bao vùng trên cao 5000 ft, thả hỏa châu yểm trơ... Chiếc AH-1 của Đ/u Phúc bay ở cao độ 4000 feet và được phép tự chọn mục tiêu cần đánh (random attack).

    Đ/u Phúc kể lại:

    'Tinh Long 6 hướng dẫn mục tiêu cho biết vị trí pháo 122 l của CQ tập trung tại Phú Lâm, cách TSN khoảng 7-8 miles.. và cách đài radar Phú Lâm chừng 600 m về phía Tây-Nam..Tôi đă thả 2 quả bom vào hai mục tiêu có khói trắng bay lên. Sau dó tôi ngưng lại và tiếp tục bao vùng và thấy vài trực thăng đang quây quần ở hướng Đông..và hướng Bắc Phú Lâm.. Khoảng vài phút sau, tôi nhận được lệnh từ hệ thống vô tuyến: Phi Long 51, thả hết bom xuống mục tiêu và hẹn gặp tại nhà tôi, tối naỵ.Tôi trả lời: Đây Phi Long 51, giới chức nào vừa ra lệnh cho tôi..xin cho biết danh xưng..Đây là Thần Phong 01, Tướng Kỳ..Tôi trả lời cho biết tôi cất cánh đơn độc với 10 bom MK-81 và sẽ đánh từng mục tiêu.. tôi sẽ tiếp tục bao vùng trong 3 giờ..

    Khoảng 15 phút sau, VC cho rằng tôi.. hết bom nên pháo kích trờ lại với nhiều dàn pháo, mỗi dàn 4 quả..tập trung trong một khu vườn xoài..Đạn pháo phóng lên như pháo bông hướng về TSN.. Tôi tập trung và nhào xuống mục tiêu, đánh từng quả bom..bay lên lại cao độ 4000 ft và thay đỗi trục nhào xuống đánh tiếp để tránh đạn pḥng không. Sau khi thả quả bom thứ 6 vào mục tiêu, tôi được Tinh Long 6 thông báo là có thêm một A-1 nữa đang tiếp tay với tôi.. đó là chiếc phi cơ của Th/ tá Phùng do trục trặc vô tuyến nên đă không liên lạc được với tôi..

    Sau khi đánh trái bom sau cùng, quan sát mục tiêu đă bị thanh toán, tôi cho Tinh Long 6 biết sẽ để dành 800 viên đạn đại bác 20 Tôi bay về TSN vào khoảng 5 giờ 25 phút, bay quanh trên cao độ 500 ft, qua hệ thống vô tuyến, được biết một AC-119 khác là Tinh Long 7 đă lên vùng để thay thế cho Tinh Long 6.. Ngoài ra cũng qua tần số của đài Kiểm báo Paris, tôi nghe Th/tá Hồ ngọc Ẩn, PĐ 514/ Biệt đội Cần Thơ thông báo cùng Tinh Long 7 là phi tuần Phượng Hoàng 11 gồm 2 A-1 cât cánh từ Cần Thơ đang trên đường bay vào không phận Sài g̣n để góp sức chống pháo kích.. Chiếc A-1 thư nh́ do Đ/u Nguyển Tiến Thụy điều khiển (tuy nhiên theo Đ/u Thụy th́ chiếc bay số 1 lead là do Thiếu tá Đinh văn Sơn)...

    Khoảng 6 giờ 25, từ Tinh Long 7, Tr/u Thành cho biết có một toán đặc công CS đang xâm nhập, cắt kẽm gai hàng rào pḥng thủ phi trường TS ở hướng Bắc, gần khu vực An nhơn, khoảng 1 mile về phía Bắc của Đài kiểm soát không lưu và Tr/u Thành yêu cầu Phượng Hoàng 11 oanh kich khu vực này..Biết chắc là Phượng Hoàng 11 c̣n ở xa, chưa thể vào vùng, tôi đă xà xuống cao độ 2000 ft, quan sát và định dùng đại bác với số đạn c̣n lại để thanh toán mục tiêu..nhưng bất ngờ tôi thấy một quả bom được thả ngay vào mục tiêu do Tinh Long 7 chỉ điểm và sau đó Tr/u Thành yêu cầu thả thêm một quả bom vào một mục tiêu khác cách xa hơn khoảng 100 ft, nhưng lần này bom rơi xa hơn, đến khoảng 200 ft..Tinh Long 7 gọi Phượng Hoàng 11 để thông báo bom rơi xa hơn mục tiêu co thể vào khu vực dân cự.Nhưng Th/tá Ẩn cho biết là lúc này Phượng Hoàng 11 đang ở vùng Bến Lức.. Tôi cho Thành biết, chiếc A-1 vửa thả bom là Phi Long 52 do Th/t Phùng bay, do vô tuyến trục trặc nên không thể liên lạc..Tôi cũng cho Tinh Long biết là chúng tôi đă hết bom nên sẽ rời vùng.

    Ngay lúc đó, tôi liên lạc được với Th/t Phùng, ông cho biết đă cất cánh sau tôi và bay cùng nhưng chỉ nghe được các trao đổi vô tuyến..mà không..nói được.Chúng tôi cùng về đáp tại TSN, v́ vô tuyến của Th/t Phùng bất thường nên tôi nhường Anh đáp trước, nhưng trước khi chạm bánh, anh đă đột nhiên tống ga bay lên lại và bảo tôi đáp trước rồi chờ anh.Tôi đáp xuông phi đạo lúc 6.55 phút..Khoảng 5-7 phút sau, tôi c̣n đứng ngoài phi đạo và theo dơi chiếc Tinh Long 7 đang bắn phá dọc ṿng đai phia Bắc..th́nh ĺnh đuôi phải phi cơ bị gẫy, kế đó cánh phải đứt ĺa, phi cơ cắm đầu quay như con vụ và rơi xuông..

    Chờ thêm không thấy Th/t Phùng về đáp, tôi thầm nghĩ anh đă bay về Cần Thơ?

    (Những lời kể lại của Đ/úy Phúc được trích dẫn từ Lư Tưởng Úc châu Xuân Canh Dần 2010 và từ The last flying combat mission in Saigon trên vnafmamn.com)

    Th/tá Phùng đă bay ṿng trỡ lại khu vực ông vừa oanh kích để quan sát và phi cơ đă bị trúng đạn pḥng không. Th/t Phùng cố đem phi cơ về ngoài QL 4, nhưng không kịp và phải đáp khẩn cấp gần cầu B́nh Điền. Ông thoát được khỏi phi cơ và sau đó bị dân quân CS của Huyện đội B́nh Chánh bắt dẫn đi. Ông đă bị hành quyết ngay trong đêm 29 và vùi xác trong vườn nhà dân..

    (Ngày 2 tháng 12 năm 2008, qua những cố gắng của đồng đội và sự giúp đỡ của những nhà ngoại cảm, hài cốt của Th/tá Phùng đă được t́m thấy, và được cải táng đưa về với gia đ́nh - Lư Tưởng số 1-2009)

    Về Phi vụ Phượng Hoàng 11: Phi công a1driver514 viết:'Sáng ngày 29 tháng 4, 1975 Tinh Long 7 đă làm việc với nhiều phi tuần A-1 trên không phận ṿng đai Sài g̣n-Tân sơn Nhất, nhưng phi tuần A-1 đang làm việc với Tinh Long 7 khi chiếc AC-119 K này bi. SA-7 bắn rơi ở hướng cuối phi đạo 07 của phi trường TSN vào sang hôm đó thuộc phi đoàn 514/Biệt đội Cần Thợ Phi tuần A-1 này cất cánh từ Cần Thơ (B́nh Thủy), số 1 là Thiếu tá Đinh văn Sơn, và tôi bay số 2. Khi đến vùng th́ Tinh Long đang bay ở cao độ cao hơn phi tuần của chúng tôi, để hướng dẫn mục tiêu oanh kich v́ lúc đó không có FAC, phi tuần của chúng tôi vừa đánh được pass bomb thứ nhất, chuẩn bị cho pass kế tiếp th́ chiếc AC-119 K bị trúng SA-7..' (Có lẽ Đ/úy đă lầm khi gọi phi vụ này là Phượng Hoàng 61?).

    Các phi vụ A-37 sau cùng:

    Sau khi hầu như toàn bộ các phi cơ A-37 tại TSN bị hủy diệt do đạn pháo kích của CQ (một lệnh bí ẩn cho kéo hết các A-37 trang bị bom đạn sẵn sàng ra khỏi các ṿm trú để xếp hàng? -Xem Ngày chim vỡ tổ) các phi vụ sau cùng của A-37 trên không phận Sài G̣n đều do PĐ 520 từ Cần Thơ bay lên thực hiện:

    Phi công Đinh Tiến Đạo ghi lại:' Sáng ngày 30 tháng 4, tôi có trong danh sách trong phi tuần đầu tiên. Phi tuần tôi được lệnh cất cánh bay về Sàig̣n để yểm trợ cho quân bạn đang giao tranh với địch quân ở vùng ngoại ô của Thủ độ.Khi chiếc A-37 vừa vào ṿng đai Sàig̣n, tôi chuyển tần số để liên lạc với Paris, danh hiệu của Trung tâm liên lạc hành quân chiến cuộc, xin chi tiết để yểm trơ...th́ chỉ nghe tiếng rè rè mà không một ai trả lời..Không một chiếc máy bay quan sát nào hướng dẫn chúng tôi?. Chúng tôi được lệnh bay trở về Trà Nóc..và trên đường bay nghe được lệnh buông súng của DV Minh...'

    Một phi vụ khác, thực hiện trong khoảng 9-10 sáng ngày 30 tháng 4 (trước giờ DV Minh ra lệnh buông súng) do một phi tuần A-37 của PĐ 526, từ B́nh Thủy (Cần Thơ) bay lên vơi nhiệm vụ yểm trợ diệt chiến xa CQ tại khu vực Hoàng hoa Thám, Bảy Hiền.

    Phi vụ có Tr/úy Nguyễn Mạnh Dũng làm phi tuần trưởng, Th/ú Đông phi tuần viên. Phi tuần được hướng dẫn bỡi phi cơ quan sát thuộc PĐ 122, cất cánh từ Căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho) do Đ/ú Mai Tri Dũng bay cùng Th/ú Biện (Quân sử KQ trang 350).

    Trần Lư (tháng 5-2012)
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 08:52 PM.

  7. #37
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Những Trận Đánh Cuối Cùng

    Sơn-Tùng

    Quân đội VNCH chính thức buông súng và tan ră vào trưa ngày 30/4/75, sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng 18 năm, hầu như vẫn c̣n in rơ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang theo.

    Mười tám năm sau khi tan hàng ră ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân dung thật của người lính VNCH vẫn c̣n bị che mờ sau những màn khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngă như người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đă buông súng hằng chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngă bám theo ḿnh.

    Người lính VNCH: biểu tượng cho sự chịu đựng gan dạ và bền bỉ trong cuộc chiến chống cộng ṛng ră suốt 3 thập niên.

    Tuyên truyền CS vu cáo họ là "những tên lính đánh thuê", là bọn "ngụy quân" phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bào. Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công - qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng - vẽ lên h́nh ảnh những người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và "không chịu chiến đấu". Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH bị lăng nhục hơn nữa. Kẻ thù, sau khi "lượm được chiến thắng", đă tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những người lính bại trận. "Bạn bè", khiếp sợ trước "chiến thắng thần thánh"của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của ḿnh, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đă bị bắt buộc phải buông súng.

    Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, cho đến gần đây nhất là Trần Văn Đôn. Chưa hết, c̣n sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài nước, những người đă nhờ máu của người lính VNCH mà được hưởng tự do trong hơn 20 năm để viết ra những ǵ họ nghĩ, cái tự do trong cái giới hạn trong một xă hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn nầy đă và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sỉ hơn nữa, vu cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát máu, không nhân tính, không lư tưởng. Đâu là chân dung thực của người lính VNCH?

    Năm 1984, trước bộ phim được gọi là "tài liệu lịch sử" dài 13 giờ chiếu mang tên Vietnam: A Television History (Việt Nam: Một Bộ sử Truyền H́nh) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đă viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ư của những người làm phim. Cuốn sách của ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là giặc), rút từ câu tục ngữ Việt Nam "được làm vua, thua làm giặc". Cái tựa đề ấy đă xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong "thế giới tự do" đă đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người lính VNCH.

    Cũng trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn "Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực VNCH", dùng những chất liệu lịch sử và những bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ găy những sư vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đă chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho là "kể về sự khắc khổ và chịu đựng c̣n vượt xa con đường Vạn Lư Trường Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quư c̣n vượt xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ."

    Chân dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở b́a cuốn sách, với h́nh ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới đầu gối và cây súng thô sơ trên vai. Qua gần 300 trang sách với thật nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đă đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đă đi, từ những ngày đầu được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt tḥi bất công vô lường, cho đến cái chết tức tửi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.

    Ngay sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đă có rải rác những cái nh́n công bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.

    Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đă viết một bài b́nh luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề "Truy điệu Nam Việt Nam", trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau:

    "...Nam Việt Nam đă chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đă không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xă hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy... Quân lực VNCH đă chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta c̣n nhớ, thí dụ như trận An Lộc. Quân đội ấy đă chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không c̣n nhớ địa danh. Quân lực ấy đă can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ...

    Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đă tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đă bị thương... Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đă thua rồi th́ vẫn c̣n những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đă tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đă là phía tốt hơn".

    Không phải đợi tới ngày nay, 18 năm sau, người ta mới khẳng định được rằng "phía mạnh hơn không phải là phía tốt". Phía tốt hơn đă trở thành phía yếu hơn và đă bị đánh bại trên chiến trường chỉ v́ đă trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bội. Người lính VN đă chiến đấu cho tự do đă bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất. Trong cuốn "Not with guns alone", nhà báo lăo thành người Úc Denis Warner đă lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng. Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ c̣n được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nă vào các căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.

    Tác giả Mỹ Louis A. Fanning cũng viết như sau trong cuốn "Sự phản bội tại VN" (Betrayal in Vietnam):

    "Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ th́ quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiều. Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ c̣n được phát có một trái".

    Những kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ đă kết tội người lính ấy "không chịu chiến đấu" trong khi cả "thế giới tự do" không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng vơ lực. Sự hèn nhát nầy đă bị nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, v́ ư chí tự vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới c̣n thua xa ư chí chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam, phần đất đă bị bỏ rơi với lời biện hộ "không thể bảo vệ những người không có ư chí để tự bảo vệ!"

    Sự hèn nhát và vô đạo ấy đă làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ vơ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đă có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng "bộ đội giải phóng" để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đă phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đă làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những ǵ họ viết ra.

    Jean Larte'guy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Saigon:

    Thứ Hai 28/4/75.

    Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ c̣n cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn ḿnh trong những đổ nát của Saigon.

    Và những binh sĩ tuyệt vớ nầy vẫn c̣n có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem t́nh h́nh ra sao. Ông trả lời:

    - Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hăy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải v́ Thiệu, v́ Hương hay v́ Minh.

    Sau khi Dương văn Minh đă tuyên bố đă đầu hàng. Larte'guy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QDVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:

    "Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy c̣n đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung v́ đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ ǵ, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết". Larte'guy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Vơ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa.

    "Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Vơ Bị Đà Lạt đă đi vào chỗ chết. Chỉ c̣n thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng".

    Một đồng nghiệp của Larte'guy là Raoul Coutard đă thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:

    - Các anh có biết là sắp bị giết chết không ?

    Một thiếu úy trả lời:

    - Chúng tôi biết chứ.

    - V́ sao?

    - Tại v́ chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

    "...Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Ḥa... Bộ binh th́ tiến từ phía Bến cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều. Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy đă bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lịnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó, chúng c̣n phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon: một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngă tư Hồng Thập Tự và Lê văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù vơ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành ṿng tṛn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát.

    Đến chiều tối. 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và c̣n chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lịnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng."

    Darcourt cho biết đại tá Vinh đă ở lại vị trí và tự sát.

    Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại. Nhà báo lăo thành người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:

    "...Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liên lạc với quân khu III tại Long B́nh. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát".

    Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, kư giả Mỹ Alan Daeson thuật lại:

    "...Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, tư lịnh vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đă hết, khi ông ta nghe thấy tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lănh cương quyết ở lại, tướng Nam đă chiến đấu cho đến phút chót... Ông ra lịnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.

    Ông ta c̣n đích thân đi quan sát tiền tuyến nữa. Ông ta đă bắn viên tỉnh trưởng Sa đéc ở ngay phía đông Cần Thơ, v́ kẻ ấy nhất định đ̣i đi theo người Mỹ chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên Giang trái lịnh của tướng Nam, và dùng tàu rời khỏi Rạch Giá để đi về phía Nam th́ tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng vơ trang đuổi theo, rồi bắn ch́m chiếc tàu ấy bằng đại liên và hỏa tiễn.

    Tướng Nam chẳng có ǵ để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một chiến binh. Ông đă thật sự dâng cuộc đời ḿnh cho cuộc chiến đấu ấy. Trong ṿng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lịnh đầu hàng trên đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp c̣. Ông ta chết ngay tại chỗ."

    Những trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong đó theo viên tướng Pháp Vanuxem th́ cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được sống tự do trong 1/4 thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đă trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đă được "những con người may mắn" thủ đắc. Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa. Và đây là cái "phần thưởng" mà xă hội miền Nam ngày trước đă đền đáp cho sự hy sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ng̣i bút của Phan Nhật Nam:

    "Người chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát, 30 đêm ngũ vơng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một người đàn bà và 4 đứa con trong tháng".

    Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, th́ đây là thân phận vợ con người lính:

    "Người lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính. Không hết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặc cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những rễ cây khẳng khiu... Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ..."

    Cuộc chơi rơ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay! Cuộc chơi tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạo. Đui, què, mẻ sứt... không c̣n được ai nhắc tới, biết tới. những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.

    Ba mươi bảy cái 30/4 đă trôi qua, hào quang của những kẻ đă chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đă tắt lịm trong cái xă hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn c̣n muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH ?

    Sơn-Tùng
    Last edited by alamit; 04-02-2013 at 08:51 PM.

  8. #38
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Thiết Giáp Binh QLVNCH - Trận Đánh Cuối Cùng
    Chuẩn tướng Trần Quang Khôi



    Trong 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam

    T́nh h́nh vào hạ tuần tháng 4/75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng, tôi được Quân đoàn tăng cường Trung đoàn 8/SĐ5-BB do Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc, Ngă Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Ḥa để chận đứng địch và giải cứu Chiến đoàn 52/SĐ18-BB của Đại tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. Ở Sài G̣n có âm mưu lật đổ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Ḥa đóng cửa.

    Ngày 20/4-75 SĐ18-BB của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long B́nh. Ngày 21/4/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung tướng Charles Timmes, phụ tá Đại sứ Martin ở Sài G̣n, đại ư nói: “Thưa Trung tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các sư đoàn Cộng Sản ở đây th́ cũng là lúc quốc hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không. T́nh h́nh gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ quốc hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho quân lực chúng tôi đi nữa th́ cũng đă quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung tướng giúp cho gia đ́nh tôi được di tản đến một nơi an toàn…”



    Sau khi SĐ18-BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25/4/1975 Bộ Tư Lệnh Quân đoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom, Hưng Lộc, Ngă Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III được rút về Biên Ḥa dưỡng quân. Trung đoàn 9/SĐ5-BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân đoàn.

    Về tới Biên Ḥa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25/4/1975, có tin lực lượng địch chiến trường ???) Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân đoàn, tôi liền phái Chiến đoàn 322 tăng cường 1 Tiểu đoàn TQLC do Trung tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngă Ba Long Thành và trường Thiết Giáp. Chiến đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, th́ chạm địch nặng và giao tranh dữ dội với chúng đến khuya, bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức ḷng toàn dân ở Biên Ḥa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III hứa sẽ thưởng 1,200,000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100,000 đồng.

    Ngày 29/4/1975 có lệnh mới của Quân đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III ngoài Liên đoàn 33 BĐQ, được tăng phái thêm: Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ đoàn 4 Nhảy Dù(1 Tiểu đoàn) và Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu đoàn 46 PB-155ly và Tiểu đoàn 61 PB-106ly Quân đoàn.

    12 giờ trưa ngày 29/4/1975, Trung tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SĐ18-BB ở Long B́nh. Chỉ có Toàn, Đảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SĐ18-BB của Đảo pḥng thủ khu vực Long B́nh và kiểm soát xa lộ Biên Ḥa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi pḥng thủ bảo vệ thành phố Biên Ḥa và đặt lực lượng Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) của Tiểu khu Biên Ḥa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SĐ25-BB ở Củ Chi đă bị địch chiếm, SĐ25-BB đă bị đánh tan và Tướng Lư Ṭng Bá đă bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn.

    Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Đại tá Hiếu, Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 43/SĐ18-BB với giọng run run xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bom và Trung đoàn 43-BB đang rút quân về hướng Long B́nh, mặt Đảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Ḥa ở Trảng Bom của SĐ18-BB khó có thể cầm cự nổi v́ SĐ18-BB đă bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.” Xoay qua tôi, anh nói tiếp: C̣n số tiền thưởng 1,200,000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ đoàn.” Đấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân đoàn III.

    Về đến Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn Vị Yểm Trợ. Tiểu khu Trưởng và Tiểu khu Phó Biên Ḥa đă bỏ trốn từ mấy ngày trước. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Ḥa kể từ 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, chỉ thị cho các đơn vị ĐPQ và NQ chung quanh thị xă Biên Ḥa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Ḥa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để pḥng thủ bảo vệ thành phố Biên Ḥa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III như sau:



    - Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Ḥa, giữ mặt Bắc BTL/Quân đoàn III.
    - Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC): 1 Tiểu đoàn bảo vệ BTL/Quân đoàn III, 1 Tiểu đoàn bố trí pḥng thủ mặt Nam BTL/Quân đoàn III.
    - Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều Tiểu đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới và Cầu Sắt Biên Ḥa, và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Ḥa.
    - Chiến đoàn 315: Bố trí án ngữ từ ngă Tư Ḷ Than đến ngă Tư Ḷ Than (gần trại Ngô Văn Sáng).
    - Chiến đoàn 322: Bố trí án ngữ từ ngă tư Ḷ Than đến cổng phi trường Biên Ḥa (trừ bị 1).
    - Chiến đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Ḥa đến Cầu Mới Biên Ḥa (trừ bị 2).
    - Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.
    - BTLLĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III: Đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân đoàn III.



    Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân đoàn, th́ th́nh ĺnh chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống băi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. ThiếuTá Cơ (phi công) vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long B́nh, Cơ đưa Tướng Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lăm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ư v́ đơn vị trực thăng của anh giờ này không c̣n ở Biên Ḥa nữa.

    Lúc 17 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một ṿng quan sát t́nh h́nh trong và chung quanh thành phố Biên Ḥa. T́nh h́nh chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và TQLC. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân BĐQ của Chiến đoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến pḥng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có t́nh trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến pḥng thủ.

    Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Sài G̣n. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân đoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách ǵ liên lạc được. Tôi nóng ḷng chờ lệnh của Sài G̣n. Tôi tự hỏi Đại tướng Dương Văn Minh, tân Tổng thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp ǵ không ? Có lệnh ǵ mới cho chúng tôi không?

    Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: “Tôi là Trung tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Đại tướng, anh cho chúng tôi biết t́nh h́nh ở Biên Ḥa như thế nào?” Thưa Trung tướng, tôi giữ thị xă Biên Ḥa, Lê Minh Đảo giữ Long B́nh, Toàn đă bỏ chạy, phi trường Biên Ḥa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Ḥa.” 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp ” “Đại tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng mai, để Đại tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự ” Được, tôi có thể giữ vững Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: “Lệnh của Đại tướng cho anh: Chỉ huy pḥng thủ bảo vệ Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975. Chúc anh thành công.” Tôi đáp nhận.

    Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xă Biên Ḥa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung đoàn từ Ngă Ba Hố Nai – Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân đoàn III. Chiến đoàn 315 của Trung tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch rút lui.

    Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long B́nh đă bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần ǵ tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần Nghĩa trang Quân Đội, đang rút đi về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Lê Minh Đảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, v́ Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SĐ18-BB của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân đoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ư đến hai chúng tôi v́ đă gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng “điên cuồng” nhất.



    Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Ḥa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đă chiếm được Long B́nh. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xă Biên Ḥa trở nên yên tĩnh.

    Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn vị trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận t́nh h́nh ở mặt trận, t́nh h́nh trong thành phố Biên Ḥa. Áp lực địch bên ngoài không c̣n nữa. Chung quanh bên ngoài thị xă, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Ḥa. Không có t́nh trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có t́nh trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có t́nh trạng hăm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SĐ18-BB ră ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm v́ sợ có t́nh trạng gây mất tinh thần ră ngũ giây chuyền như đă xảy ra ở miền Trung trước đây.

    Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30/4/1975, tôi kết luận buổi họp: “Biên Ḥa không c̣n là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài G̣n. Rơ ràng chúng bỏ Biên Ḥa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III về tiếp cứu Sài G̣n.” Tất cả các Đơn vị trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.

    Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III tiến về Sài G̣n theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Ḥa-Sài G̣n và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.

    a) Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn) do Đại tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài G̣n. Đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.

    b) Lữ đoàn 2 TQLC do Trung tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài G̣n. Đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.

    c) Lữ đoàn 3 Kỵ Binh + Liên đoàn 33 BĐQ: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND, và TQLC rời vị trí pḥng thủ, rút an toàn qua Cầu Mới Biên Ḥa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Sài G̣n theo thứ tự như sau:

    - Chiến đoàn 315 do Trung tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy: Đi trước, đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, bố trí bên này cầu B́nh Triệu, chờ lệnh.
    - Chiến đoàn 322 do Trung tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Đi sau CĐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, bố trí sau CĐ 315, chờ lệnh.
    - Chiến đoàn 318 do Trung tá Nguyễn Đức Dưỡng chỉ huy: Đi sau cùng, đến Sài G̣n, bố trí sau BTL và Đơn vị Yểm Trợ, chờ lệnh.

    Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Ḥa trong ṿng trật tự, quân phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi c̣n Đại tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30/4/1975.

    Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Ḥa, quan sát thấy t́nh h́nh bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài G̣n. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo v́ không liên lạc được với Sài G̣n, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó th́ đột nhiên Thiếu tá Cơ hỏi tôi: “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: “C̣n anh th́ sao?” “Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con c̣n ở Biên Ḥa.” “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đă quyết định việc này từ lâu rồi.”



    Chúng tôi bay về hướng G̣ Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân CSBV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Ḥa và trên Quốc Lộ 13 ḅ vô Sài G̣n. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phù Đổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân đoàn III. Tôi vội đi vào văn pḥng t́m sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn pḥng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung úy mang huy hiệu Quân đoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Đô (BKTĐ) báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngơ Bắc Sài G̣n để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến B́nh Triệu gần khu nhà thờ Fatima.

    Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTĐ và Bộ Tổng Tham Mưu, th́ th́nh ĺnh tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nh́n đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.

    Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của ḿnh và xem nhiệm vụ của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng thống. Tôi không có ǵ để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đă cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tṛn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Đội và Tổ Quốc.

    Quan Điểm và Kết Luận

    Sau khi ngưng chiến theo lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh, tôi bị địch bắt, truy vấn, tù đầy 17 năm và sang Mỹ năm 1993 theo diện tỵ nạn chính trị. Mỗi năm cứ đến ngày 30/4, tôi đọc đi đọc lại nhiều bài viết của bên Cộng Sản cũng như của bên ta về cuộc chiến Việt Nam. Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên Ḥa th́ không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Ḥa là vị trí chiến lược số 1 của miền Nam, Việt Nam, phi trường Biên Ḥa c̣n là nơi đặt bản doanh BTL/Quân đoàn III và Vùng III Chiến Thuật, đầu năo của bộ máy quân sự miền Đông. Biên Ḥa là cửa ngơ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài G̣n. Để mất Biên Ḥa là mất Sài G̣n, mất miền Nam Việt Nam.

    Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rơ về Biên Ḥa trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, v́ nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày. Vả lại khi viết về cuộc chiến tranh mà ḿnh là nhân chứng trực tiếp, không khỏi phải nói nhiều rất nhiều về ḿnh, cái mà tôi không hề thích v́ như Pascal nói: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Nhưng anh Nguyễn Minh Tánh đă viết sai sự thật về Lữ Đoàn 3-Kỵ Binh (LĐ3KB) do tôi chỉ huy, đă xúc phạm đến DANH DỰ của chúng tôi nên tôi có bổn phận với những người đă hy sinh và những người c̣n sống, phải cải chính và nói lại cho rơ để không phụ ḷng những chiến sĩ anh hùng đă cùng tôi chấp nhận ở lại chiến đấu đến cùng.

    Những năm đầu trong ngục tù, cán bộ cộng sản luôn truy vấn tôi kịch liệt. Chúng làm tổng kết chiến tranh để rút kinh nghiệm chiến trường, chúng ngạc nhiên trước sức chiến đấu của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, đặc biệt chúng bắt tôi viết đề tài Những nguyên nhân nào mà LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III do tôi chỉ huy không b tan ră trước sức tấn công của Quân Đội Cách Mạng.

    Chính miệng chúng nói với tôi: “Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III là đại đơn vị duy nhất của Quân Đội Sài G̣n chiến đấu tới cùng cho đến khi có lệnh ngưng bắn.” Chúng kể ra những thành tích chiến đấu của Chiến đoàn 318 trên chiến trường Campuchia thời Tướng Đỗ Cao Trí của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III mà chúng gọi là những tội ác “Trời không dung Đất không tha” và kết tội tôi đă kéo dài chiến tranh nhiều năm.

    Chúng đă chọn và định đưa một số chúng tôi ra Ṭa Án Chiến Tranh của chúng để xét xử như những tội phạm chiến tranh nếu không có áp lực mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Cộng Đồng thế giới tự do cũng như của dư luận Quốc Tế lúc bấy giờ.

    Tôi không hề ân hận việc ḿnh đă làm, không hề hối tiếc hay than van về những hậu quả mà ḿnh phải gánh chịu sau khi bị bắt. Nếu phải làm lại từ đầu, th́ tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ.

    Chuẩn tướng Trần Quang Khôi

  9. #39
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Trận Đánh Cuối Cùng Của Địa Phương Quân
    (Quan Thu Thua,Tinh Long An)

    Quốc Thái


    Quốc Thái là bút hiệu của Thiếu tá Đinh Hùng C., một sĩ quan trẻ đầy nhiệt huyết. Trong những năm tháng cuối của cuộc chiến tại Việt Nam, anh giữ chức vụ Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Thủ Thừa tỉnh Long An.
    Quốc Thái và gia đ́nh hiện cư ngụ tại thành phố Reston thuộc tiểu bang Virginia. Nhân dịp đọc Đặc San Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa
    Anh đă nhiệt t́nh gửi bài đóng góp.
    Chân thành cám ơn Quốc Thái và mong có dịp được đọc bài vở của anh nhiều hơn.

    Quận Thủ Thừa , tỉnh Long An, nằm dọc theo Quốc lộ 4 khi chúng ta nh́n về bên phải từ hướng Saigon đi xuống qua quận Bến Lức. Thời điểm mà tôi ghi lại những gịng chữ này xảy ra vào nhừng ngày cuối tháng Ba, năm 1975 khi Ban Mê Thuộc vừa thất thủ, áp lực của cộng quân đè nặng trên khắp 4 vùng chiến thuật. Chúng tôi đang ngăn chận đường giây xâm nhập của địch từ vùng Mỏ Vẹt, Ba Thu và Kiến Tường...

    Giờ này đại quân của VC đă tràn xuống. trận đánh mở màn làm cho tôi xính vính. Tôi biết chủ lực bọn Cộng sản nằm bên kia biên giới Cam Bốt, nhưng một bộ phận chính đang nằm ở phía bắc xă Long Ngăi Thuận, chúng hăm he muốn "chơi" Tiểu đoàn của Cử. Thiếu tá Cử xuất thân khóa 9 Thủ Đức, là một sĩ quan anh hùng, có tài chỉ huy và biết chỗ đứng của ḿnh nên tôi rất kính trọng và quư mến ông. Tôi đối xử với ông như bạn, xung trận cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi nơi trận địa. Tôi triệu Cử về, bàn định là phải tính kế với bọn này. Tôi làm lệnh hành quân dùng tuần giang đưa Tiểu đoàn Cử đi hành quân và thay thế khu này là một đại đội biệt lập. Tiểu đoàn dời đi buổi sáng chẳng ngay trong đêm là đoàn tàu lại bốc đủ Tiểu đoàn đem về Mỹ An Phú, một xă đối diện, để ém quân đợi lệnh. Mưu kế của tôi và Cử có phần thành tựu. Ngay đêm sau, xă Long Ngăi Thuận bị tấn công. Địch chiếm ấp và vây hăm căn cứ hành quân của tiểu đoàn mà hiện chỉ có một đại đội biệt lập trấn đóng. Hai khẩu 155 ly đă kín đáo dời lên xă Mỹ Lạc Thạnh từ trước. Tiểu đoàn Cử sẽ được chia làm hai cánh, một mặt chận đường rút, một mặt tấn công vào hông của địch, đồng thời trong đồn cũng nhận lệnh phản công mănh liệt. Cuộc chạm súng bắt đầu từ tờ mờ sáng. Sư đoàn 3 Không quân cho một chiếc L19. Tôi yêu cầu quan sát viên ở lại để cho tôi được xử dụng máy bay. Người phi công là dân chịu chơi, bất chấp hiểm nguy, anh ta xuống thấp gần 500 bộ (khoảng 200 thước cách mặt đất) để tôi nh́n rơ hầm hố và khả năng tham chiến của địch. Địch đă kẹt cứng trong ấp là vùng śnh lầy nước ṛng, không giống như những vùng đất đỏ như Tam Giác Sắt, Bời Lời hay Dương Minh Châu nên không thể đào hầm hố để trú ẩn. Ở đây lộ mục tiêu là chết! Gần 3 tiếng đồng hồ tôi dùng phi pháo, đánh cho địch nhào ra trước khi Tiểu đoàn của Cử có thể tiến quân tiếp địch.

    Kết quả sau cùng, Tiểu đoàn của Cử toàn thắng. Mối thù tháng trước đă trả, nhưng vấn đề từ nay có lẽ phức tạp hơn thế nhiều. Một câu hỏi khúc mắc cứ lởn vởn trong đầu tôi. Từ trước đến nay lính Cộng Ḥa gọi tụi Cộng sản là "chuột" v́ chúng luôn luôn trốn chui trốn nhủi, chỉ nhảy ra cắn trộm như nổ ḿn, phục kích hay pháo kích, nay bổng dưng chúng công khai ra mặt, đối đầu đánh lớn với quân ḿnh; có thể là Mỹø yểm trợ chúng tôi yếu, hay chúng muốn đi đến hồi kết của chiến tranh?
    Chỉ huy là tiên liệu. Tôi phải lo toan trước khi quá trễ. Lợi dụng hai trận đánh lớn vừa qua, tôi động viên toàn thể quân sĩ từ bộ chỉ huy đến đơn vị, chỗ nào tôi cũng tạo không khí chiến tranh sôi sục. Lệnh tích lũy 60 ngày ăn với nước uống được ban hành, lính tráng hành quân liên miên trừ sĩ quan là không phải chạy, từ hạ sĩ quan trở xuống, nếu cấp trên gọi cấp dưới th́ cấp dưới phải chạy, anh nào đi đứng tà tà là bị đưa đi ngay. Tất cả cao ốc, bồn nước, lính phải đặt bao cát, đem đồ ăn dự trữ trên đó. Làng xă nhân dân tự vệ cho vào khuôn phép, không c̣n đắc nhân tâm ǵ cả, anh nào lôi thôi bị đá thẳng cánh. Có lần Bộ chỉ huy tập báo động, Chỉ huy trưởng Cảnh Sát coi thường, vẫn để đèn, c̣n vặn máy thu thanh nghe cải lương trong khi lính Chi khu đang phải chạy vào hầm hố. Lập tức Chỉ huy trưởng Cảnh Sát bị gọi qua để nhắc nhở và cảnh cáo. Ngay ngày hôm sau, đích thân Cảnh sát trưởng phải đi hành quân với Chi khu. Hôm đó Trung tâm Phượng Hoàng lên kế hoạch hành quân cảnh sát ngay vào ổ Việt cộng, và tôi đă yêu cầu ông Thiếu tá Cảnh Sát nhảy tàu với tôi. Nước ngập tới ngực, chưa vào tới bờ đă bị du kích bắn tỉa. Chỉ huy trưởng Cảnh Sát mặt mày xanh lè, không phải v́ nước lạnh mà v́ mạng sống người cảnh sát đang làm việc ở nơi an lành bỗng dưng ra đây thí mạng "cùi". Sau cuộc hành quân Phượng Hoàng này, mỗi khi Chi khu nổi c̣i báo động là đèn đóm tắt ngúm và bên cảnh sát kỷ luật hơn ai hết. Mọi người biết là lệnh thật, không c̣n ai đùa nữa. Chỉ thị ban ra điều được kiểm soát để thi hành nghiêm chỉnh. Tôi mật lệnh cho Đại úy Lộc, Trưởng Ban 4, khi có chiến tranh là lập tức thi hành hai việc: Đem đoàn tàu ra thu kho gạo của ông Ba Bài về nuôi quân và phát cho lính pḥng thủ ăn, đồng thời lấy lực lượng trừ bị chiếm cây xăng, lấy xăng cho lính chở quân. Hành động chiếm đoạt của tư này dễ làm tôi bay chức, có khi c̣n đi tù nữa, nhưng tôi nếu mọi sự xảy ra như dự đoán chắc cái mạng ḿnh cũng sẽ chẳng c̣n, không lấy th́ Việt cộng cũng nhào vô cướp, vô t́nh ḿnh nhường đồ tiếp tế cho chúng đánh ḿnh. Thà chơi trước, chết tính sau!

    Phần lính đă lo xong, phần dân cũng phải động viên tinh thần họ. Đại úy Phước được lệnh tổ chức Tiểu Diên Hồng tại quận để công khai cho dân lành biết là Thủ Thừa đánh Việt cộng đến cùng. Tất cả làng xă, viên chức, tư chức, thầy giáo, dân cử, thân hào nhân sĩ được mời đến rạp hát lớn của quận để dự lễ Tiểu Diên Hồng. Cả cái sân khấu rộng thênh thang, được Đại úy Phước chuẩn bị cho tôi. Phó quận, cảnh sát trưởng, 9 ông xă trưởng, 9 ông chủ tịch đại diện sẽ ngồi đối diện với hội trường. Không khí trang nghiêm và khí thế đấu tranh ngùn ngụt. Tôi tỏ bày tâm tôi thật, ḷng tôi thật, thể hiện lên lời nói chân thành và rất mạnh dạn. Tôi không chấp nhận bất cứ một đầu hàng nào, kẻ nào bất kể quân hay dân mà quay lưng lại kẻ thù là bị tôi bắn trước. Hăy mạnh dạn chiến đấu, "sống hùng và chết hùng". Tôi kết thúc những lời ngắn gọn trong một hội trường im phăng phắc. Tôi hiểu người dân dưới kia ưu tư nhiều lắm. Họ đă biết rằng miền Trung vừa thất thủ, quận Tánh Linh đă mất khồng đầy một tháng. Ở cái quận nhỏ này ta và địch đă trao đổi nhau gần 200 mạng người.

    Tôi ra về với tiếng hô chào dơng dạc của Đại úy Phước làm mọi người phải đứng lên tiễn chân. Tôi biết là đă để lại sau lưng những người dân nhiều lo âu và ngại ngùng. Tôi nào khác họ? Cũng là con người th́ ai cũng có những điều suy nghĩ giống nhau, nhưng tôi bị đưa lên cái thế có trách nhiệm, cái trách nhiệm này chỉ có đánh Việt cộng th́ mới chết ít, c̣n chạy th́ chỉ tổ chết nhiều. Chạy sao được? Đánh đă, sống chết tính sau. Quận Tánh Linh là vựa gạo của Quân khu, thế mà Việt cộng bao vây có 3 ngày, cả quận đầu hàng và đói. Bài học này tôi phải thuộc. Tôi đă không ngần ngại viết lệnh rơ ràng cho Đại úy Lộc đi tịch thu kho gạo của ông Ba Bài một khi Việt cộng tấn công.

    Đêm 8 rạng 9 tháng 4 năm 1975, một lực lượng Việt cộng đánh vào tỉnh Long An chiếm phi trường Cần Đốt, một lực lượng khác đánh vào bên hông tỉnh chiếm xă Lợi B́nh Nhơn của Thủ Thừa. Cuộc chiến bắt đầu. Quả là sau những toan tính của con người có thiên định. Hai cánh quân đánh vào Long An chỉ là để dương đông kích tây để cầm chân quân tiếp viện. Chủ lực địch là công trường 6 (sư đoàn - thực ra cái lối hù của Việt cộng - chúng gọi là sư đoàn nhưng quân số chỉ bằng trung đoàn của ta) nằm phía sau cánh quận 5 cây số. Chúng tung từng toán đặc công tinh nhuệ, táo bạo đánh thẳng vào hông quận qua ngă chợ. Chúng mong giết tôi xong và chiếm Bộ chỉ huy Chi khu làchúng kéo cờ lên, đại quân của chúng sẽ tràn ngập, và với khí thế đó, quân ta phải tan hàng như đă chạy ở miền Trung.

    Có thể Đức Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đang an nghỉ trên mănh đất này đă thương cho cái công khó nhọc của đám quân dân quận nhà, nên Ngài mới tạo ra những cơ may hy hữu. Bọn cộng sản đă điều nghiên kỹ càng là không bao giờ đoàn tàu đi tuần lại về đậu ở đó trước 6 giờ sáng, nếu chúng đánh vào quận giờ đó th́ gần như là lổ trống, chỉ thọc bộc phá phá hàng rào kẻm gai là giết được tôi dễ dàng. Không may, điều nghiên đúng, nhưng sai cho ngày hôm đó, v́ nước thủy triều cao, đoàn tàu về bến lúc gần sáng, đúng lúc đặc công di chuyển đến nên vô t́nh chúng đă bị tao ngộ. Không chịu nổi những khẩu đại liên bên thành tàu, toán đặc công đành lẩn vào dân, chạy dạt ra chợ. Ba đêm trước, toán đặc công Việt cộng đă điều nghiên và thả lục b́nh để đánh ch́m tàu, chiếc tàu đi tuần về đậu chệch trên băi, phía trước đám lục b́nh mà Việt cộng đă dấu ḿn. Đặc công Việt cộng cố vượt bóng đêm đẩy lục b́nh ngược con nước để đẩy đám lục b́nh tấp vô thành tàu. Lính gác nhanh trí thấy lục b́nh trôi ngược nước bèn nổ súng. Biết bị lộ, tên đặc công trên bờ đă hy sinh hai tên dưới nước bằng cách phải cho nổ quả ḿn. Tiếng nổ như trời gầm làm tôi hoảng hồn phóng ḿnh ra khỏi hầm.

    Như vậy là cái may thứ nhứt đă giúp cho Bộ chỉ huy thoát chết. Cái may thứ hai: theo thường lệ, Đại úy Khánh, Trưởng Ban 3 ra lệnh cho 200 lính Nghĩa Quân về quận nhận lệnh đi phát quang xạ trường, tránh không cho Việt cộng ẩn núp. Khi toán đặc công dạt ra chợ th́ trông quận đă có 200 lính với súng đạn sẵn sàng, Đại úy Khánh chỉ việc điều động cho đánh, công việc xẩy ra nhịp nhàng như ông Trời xếp sẵn . Tính trạng tấn công tràn ngập đă không xảy ra, v́ tất cả những chuẩn bị trước đă nhịp nhàng ăn khớp. Từ trong hàng rào pḥng thủ, Đại úy Lộc ra liên lạc với đơn vị Thủy Quân Lục Chiến mới về tăng phái, phóng ḿnh lên đoàn tàu trực chỉ nhà máy gạo Ba Bài. Trung đội trừ bị chiếm cây xăng. Bộ chỉ huy của tôi với Nhất kiếm (Ban 1), Nhị hà (Ban 2), Tam sơn (Ban 3), Tứ hải (Ban 4) , Ngũ hổ (Ban 5) và Lục bảo (Ban 6) phân tán ngay vào các cánh quân chiến đấu trong đường phố. Lệnh oang oang của nhiều máy phóng thanh thuộc Chi Tin tức Quận ra lệnh cho tất cả tàu bè dời về phía bên này sông, không cho địch chiếm để vượt sông. Nói là con sông th́ hơi quá, nó chỉ là con kinh bề ngang 100 thước nằm ngang quận. Vài tên đặc công Việt cộng chạy lạc vào Thánh Thất Cao Đài đă bị lực lượng chiếm cao ốc hạ sát ngay. Cả toán c̣n lại bị dồn vào trong rạp hát. Chúng tử thủ bên trong. Cảnh sát dă chiến và tổ t́nh báo Chi khu đă trổ nóc đánh xuống, giết một mớ và bắt sống trọn ổ. Thiếu tá Tống, Chỉ huy trưởng Cảnh sát tỉnh, đích thân chở tù binh về khai thác. Trong khi đó t́nh h́nh ở tỉnh cũng lắng dịu, lực lượng Việt cộng đă bị đánh văng khỏi phi trường Cần Đốt. Vĩnh Đường gọi tôi báo Công trường 5 Việt cộng ở sau lưng nên ông cho 2 tiểu đoàn ĐPQ xuống tăng cường, dàn quân thanh toán bọn chúng. Vừa chiến thắng trận đầu lại bảo toàn được chủ lực, ḷng tôi vui sướng vô cùng. Tin tức bay nhanh không tả. Phóng viên, kư giả từ Sài G̣n đổ xuống nườm nượp. Cả Đại tá Cục phó Cục Quân y cũng xuống ủy lạo thương binh.

    Hai Tiểu đoàn ĐPQ bây giờ đổ xuống ngập chợ. Cả cái quận lỵ nhỏ bé chứa toàn là lính. Lấy văn pḥng quận làm tâm điểm, một tiểu đoàn cánh trái, một tiểu đoàn cánh phải lần lượt qua sông dàn quân xuất phát. Từ trên nóc công sự pḥng thủ, tôi liên lạc với cả hai cánh quân. Trên 600 người lính dàn hàng ngang đă tạo một chiều dài cả cây số. Tôi chưa cho lệnh tiến quân v́ khi xă Lợi B́nh Nhơn thất thủ, Chi khu đă ra lệnh cho Đại úy Hải, Đại đội trưởng Đại đội Biệt lập vượt sông Vàm Cỏ về làm tuyến án ngữ phía cầu Long An để chận đặc công Việt cộng có thể xâm nhập phá cầu, đồng thời cũng để ḍ xét dọc sông Vàm Cỏ xem Việt cộng có ém quân ở đó không. Hải chạm súng lẻ tẻ chứng tỏ chỉ có du kích quân chận ḿnh. Đây là lúc hai tiểu đoàn được lệnh xuất quân. Trời tháng Tư, chưa vào mùa cầy cấy, đất c̣n khô và nứt nẻ. Những thửa ruộng bỏ trống đă làm cho quân ta có xạ trường quan sát rất xa. Hai cánh quân liên lạc hàng ngang tiến song song. Từ trên lô cốt, tôi theo dơi bằng mắt và giữ liên lạc máy với hai Tiểu đoàn trưởng. Quân đi khoảng 800 thước th́ bắt đầu chạm địch. Điều khủng khiếp nhất là chạm súng trên một tuyến dài cả cây số, hỏa lực địch mạnh đến nỗi đạn cày dưới chân tôi như đàn dế rúc. Đủ loại súng mạnh, cối 61, cối 82 và 130 ly choảng liên hồi về phía bạn. Quân ta chỉ chống trả bằng những vũ khí cá nhân, và là khu dân chúng nên không thể dùng hảo lực pháo binh.

    Trời ạ! Không thể ngờ được. Sau những đợt hỏa lực dũng mảnh, cộng quân bắt đầu xung phong và tràn ngập. Chúng ùa lên đen cả cánh đồng trước mặt, cuộc cận chiến không xảy ra, nhưng tấn công biển người vũ băo. Hai tiểu đoàn ĐPQ buộc phải rút về tuyến A. Và chỉ chớp nhoáng là 600 người lính đâm đầu xuống nước. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ đă bị địch áp đảo đến nỗi không c̣n sức phản công. Điềm may mắn cuối cùng là nhờ con sông thiên nhiên chắn lối, nếu không, sự lui quân của hai tiểu đoàn đă lôi theo 60 ngàn dân trong quận Thủ Thừa sẽ thất thủ chớp nhoáng vào tay địch. Tôi đứng như chết sững giữa lằn đạn của quân thù. Sự lâm nguy của tiểu đoàn làm tôi quên cả sợ chết, nếu không phản ứng kịp th́ chỉ trong năm, mười phút nữa Việt cộng sẽ tràn đến bờ sông. Chúng sẽ tha hồ xả súng tiêu diệt quân ta đang loi ngoi dưới sông. Tuy nhiên, điều may mắn cuối cùng đă đến, cũng do ḷng trời c̣n thương cái mạng quèn của tôi và đám quân dân, thảng hoặc sự linh thiêng của Đức Tiền quân một lần nữa đă xui khiến ra không chừng. Số là vịnh Thủ Thừa ăn thông với sông Vàm Cỏ, tại đây bị ảnh hưởng của nước thủy triều khi lên khi xuống, và nếu gặp nước ṛng th́ tàu bè xuống thấp, có khi mũi tàu chưa lên cao bằng bờ đất nên vũ khí trên tàu hoàn toàn bất khả dụng. Trong lúc này vào đầu tháng âm lịch, nước không lên mà cũng không xuống. Nó luôn luôn đầy bờ và giữ nguyên mực. Nhờ vậy khi tôi chỉ thị, đoàn tàu được che dấu từ cái lạch con tiến ào ra xung trận.

    Lệnh của tôi rất rơ ràng:"di chuyển trên sông và tác xạ. Mỗi tàu có 6 đại liên 50. Một bên thành tàu là 3 đại liên. Sáu chiếc tàu tuần giang có 18 khẩu đại liên, mỗi phút có thể nhả 6.000 viên đạn, đă di chuyển hàng dọc trên sông và tác xạ nhịp nhàng. Đại đội trưởng Tuần giang nhận lệnh rơ ràng chiếc nào trúng B40 bị ch́m là bỏ, không tàu nào được dừng lại để tiếp cứu tàu nào, tiếp tục xạ kích cho đến khi đẩy lui được địch. Đại quân của địch đang hăng tiết xung phong đến điểm chiến thắng, bất ngờ bị hỏa lực quá mạnh của đoàn Tuần giang làm chúng gục xuống như sung rụng. Bọn Cộng cũng phản ứng nhanh, chúng phản công bằng B40, B41 và các loại súng cối thi nhau nổ trên sông, rơi xuống như mưa băo. May mắn cho đoàn tàu ở thế di chuyển nên chưa chiếc nào trúng đạn, nhờ vậy mà hàng rào hỏa lực đă chận đứng được cuộc xung phong khổng lồ này. Đoàn tàu đă tạo một lưới lửa trên sông. Tôi vui mừng cứ đứng ỳ trên lô cốt quên cả sợ chết. Bốn thầy tṛ tiếp tục trên đỉnh lô cốt mà quan sát và liên lạc. Gần một tiếng đồng hồ sau, hai tiểu đoàn ĐPQ mới ngoi lên khỏi mặt đất, tái bố trí và bắt đầu tiến lên để tiếp tục giao tranh với bọn Việt cộng. Hai tiếng đồng hồ sau đó địch bị đẩy lui hoàn toàn. Cám ơn tất cả những đấng thiêng liêng đă cho bọn Cộng sản chọn cuộc tấn công lúc nước thủy triều không xuống thấp, đă cho đoàn tàu không bị sức mẻ, sáu cái c̣n nguyên vẹn và tạo ra một chiến thắng lẫy lừng, cứu được Quận và cứu được 600 mạng lính. Địch chẳng c̣n bao nhiêu đă rút thật xa, không lấy được xác, chúng nắm ngổn ngang đầy một cánh đồng. Trận sống mái nghiêng phần thắng về quân ta, làm các đồn bót nức ḷng lên tinh thần, các nghĩa quân bắt đầu làm chỉ điểm cho hai con gà cồ 155 ly pháo kích vào những nơi địch quân lẩn trốn. Một quả đạn 155 ly nặng 45 kg, sức nổ tàn phá và sát hại 50 thước vuông. Với sự chỉ điểm của các đồn bót, buổi chiều hôm đó ta đă tác xạ khoảng 800 quả đạn, thương vong của địch lên cao độ khó mà phối kiểm.

    Ngày một ngày hai đă đi qua nhanh chóng. Quận nhà vẫn đứng hiên ngang. Chiến thắng Thủ Thừa đă vang dội cả miền Nam và thế giới. Nước bạn Hoa Kỳ cũng buồn v́ muốn đồng minh chết sớm mà c̣n có những chiến thắng này th́ khó "nhá"quá. Đài VOA và BBC đă đặt bản tin là chiến thắng lớn tại Thủ Thừa và phát thanh trên băng tầng của họ.

    Nói chung, chiến thắng Long Khánh, chiến thắng Long An đă đem lại phần nào niềm tin cho người dân, người lính. Sau trận thất thủ Ban Mê Thuột, thượng cấp sử dụng danh từ "di tản chiến thuật" để che dấu sự thất trận và tháo chạy của ta, trong khi đó lại bồi thêm bằng tất cả xảo thuật tuyên truyền để lung lạc quân sĩ và dân chúng miền Nam, nào là "ngưng bắn da beo", Mỹ chỉ cho mất Vùng 1 và Vùng 2 thôi, c̣n Vùng 3, Vùng 4 sẽ được giữ lại. Cứ thế mà người lính chạy dài v́ yên trí là Mỹ và chính phủ Sài G̣n đă đồng ư như thế nên tin đồn tung ra tới tấp. Bộ Dân vận cũng như Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị vẫn giữ im lặng một cách đáng sợ. Điều buồn nhất là trong t́nh thế một mất một c̣n, lănh đạo miền Nam không tung được một đ̣n phản công nào đánh địch để thức tỉnh đồng bào, cứ lặng lẽ để bọn Cộng sản thao túng trên chiến trường, và tuyên truyền mạnh mẽ đến làm tan ră hàng ngũ Quốc Gia.

    Chiến thắng lớn ở Thủ Thừa và Long An chỉ là một chiến thắng về chiến thuật nhất thời, không lật ngược được thế cờ, và địch bổ sung quân xố rất nhanh, chỉ hai ngày sau chúng đă tập trung lực lượng, không dại dột tấn công biển người nữa. Chúng nhổ tất cả những đồn bót của ta đóng rải rác trong tỉnh và quận để che tai bịt mắt Bộ chỉ huy. Lư do mà chúng tăng cường nhanh, v́ tất cả những đường xâm nhập vào Nam, một khi người Mỹ đă có mật ước, họ bỏ ngỏ hết. Trước năm 1975, một cán binh cộng sản muốn xâm nhập vào miền Nam, hắn phải đi đường bộ, thời gian mất từ 9 đến 16 tháng mới đến được miền Nam. Đầu năm 1975, người cộng sản vào Nam tham chiến chỉ đi mất có 11 ngày. Bọn này được chở bằng xe Molotova, đi xuyên qua đường ṃn HCM đến thẳng vùng Mimot, nơi cục R của Việt cộng (Bộ chỉ huy Trung ương cục miền Nam), từ đó bổ sung cho các đơn vị chiến đấu nhanh cấp kỳ.

    Liên tục những ngày sau, Cộng sản thay đổi chiến thuật, dùng pháo 130 ly và những súng lớn bắn sập một số cao ốc có quân ta chiếm đóng ở trong thị xă. Hai khẩu đại bác 155 ly bị pháo kích bể bánh xe, không thể di chuyển được. Hai con gà cồ này đành thúc thủ, trực xạ tại chỗ và chờ chết. Phía Bắc đa số đồn bót đă bị thất thủ. Thằng Tám Bụng ở đồn có 12 người lính bị hơn 100 VC tấn công, nó không ngần ngại xin pháo nổ ngay trên đồn. Tôi không đành ḷng cứ giữ máy liên lạc cầm chừng và chuẩn bị sẽ cho đạn nổ chụp khi mất liên lạc hoàn toàn. Thằng Nam Lùn có 8 người lính th́ 2 chết, 2 bị thương, nó vẫn b́nh thản chiến đấu cầm chân bọn cộng sản ở bên ngoài.

    Lính chết, đồn bị mất, quân ta không có tiếp viện. Máy bay chiến đấu không, trực thăng cũng không nốt v́ Vĩnh Đường và 31 đang sử dụng cho mặt trận ở Tân Trụ. Đến ngày thứ tư Saigon (phi trường Biên Ḥa đóng cửa) cho được một chiếc trực thăng Workship, tôi leo lên bay lượn để quan sát địch t́nh, thăm viếng những đồn bót và mấy thằng em c̣n sống sót. Ḷng dũng cảm của những người lính chất phát và tuân hành kỹ luật này làm tôi hănh diện vô cùng. Trong tiếng trực thăng nổ phành phạch, truyền tin liên lạc theo kiểu nói lóng, chỉ thấy đánh và đánh. Trong cơn phấn chấn đó, bất giác tôi nhớ hai khẩu hiệu mà một người lính đă kể ở một cḥi canh cạnh quốc lộ 4: "Dân ta hằng anh dũng; quân ta vẫn oai hùng". Chưa cảm khái được mấy phút th́ nh́n lại quận nhà thấy tiêu điều quá, cháy rải rác khắp nơi, những luồn khói đen thi nhau cuộn lên trời. Dân lành sợ đạn lạc đă đổ xô ra phía quốc lộ. Hàng chục ngàn người đói khát chờ đợi sự tiếp tế của chánh quyền.. T́nh h́nh vô cùng rối rắm. Trong cái đầu nhỏ bé của tôi biết bao là chuyện: làm sao ngăn chận Việt cộng, làm sao cứu dân... và làm sao để sống c̣n. Trực thăng chưa bay được nửa tiếng đồng hồ, người phi công cho biết lệnh Saigon là phải trở về ngay. Chiếc trực thăng đảo một ṿng, vứt tôi xuống bải đáp và trực chỉ Saigon mất dạng. Đánh nhau đến ngày thứ sáu, quân ta bắt đầu mệt mỏi, thiếu đạn dược và tiếp liệu. Sài G̣n vẫn bàng quan tọa thị để địa phương tự đánh. Mười giờ sáng, Trung tướng Toàn, Tư lệnh Quân khu đến BCH hành quân của tôi bằng xe jeep. Tôi không thích lối nói "huề vốn" của một số sĩ quan cao cấp ở BCH. Tôi phủ nhận tất cả những lời tŕnh bày của vị Trung tá Chỉ huy trưởng BCH Chiến thuật. Tôi nói với Tướng Toàn rằng tôi trực tiếp chỉ huy trận đánh này trong 6 ngày qua. Thế địch rất mạnh v́ chúng bổ sung tổn thất cũng như đạn dược rất nhanh. Lư do tôi c̣n giữ được quận là nhờ con sông thiên nhiên làm chướng ngại vật. Tôi e rằng nếu địch đem PT-76 hay chiến xa xuống th́ Thủ Thừa sẽ thất thủ ngay v́ sự kinh hoàng của lính. Ruộng vào tháng Tư khô rang, hai mươi cây số đường chim bay từ Cam bốt, địch dễ dàng chạy chiến xa xuống. Tôi yêu cầu Quân khu, thứ nhất tăng viện thêm quân, thứ hai tăng cường chiến xa và M-113. Trung tướng Toàn ngồi thừ với cặp kính đen trên mắt, không nói một câu. Theo lệnh Vĩnh Đường, tôi tạm giao trách nhiệm chỉ huy chiến thuật cho Trung tá Liên đoàn trưởng BĐQ tăng phái để bước ra lo cơm nước cho cả chục ngàn người dân. Đây cũng là lúc Tướng Toàn chỉ thị cho Đại tá Tường, Trưởng pḥng 3 Quân đoàn theo tôi ra quận để điêu nghiên địa thế. Tôi chưa kịp mở bản đồ thuyết tŕnh, pháo nặng của địch đă phóng tới. Đại tá Trưởng pḥng 3 lên xe dông tuốt, tôi chạy vội xuống hầm chỉ huy.

    Sự mệt mỏi của cả một tuần lễ không ăn không ngủ làm tôi kiệt sức. Tôi dựa lưng vào tường nhưng mắt vẫn không rời lổ châu mai quan sát những diễn tiến của ta và địch bên kia sông. Hai tiểu đoàn thoát chết, biết khôn đă đào hố cá nhân pḥng thủ chiều ngang. Tôi không c̣n một lực lượng nào để phản công ngoài hai tiểu đoàn ĐPQ bị cầm chân tại chỗ. T́nh thế này địch sẽ tiến lên chiếm quận và không hề có ư rút. Địch đă bắt đầu pháo gần đến BCH v́ lư do đại kỳ VNCH của chúng ta vẫn bay ngạo nghễ trước gió, vô t́nh làm chuẩn đích cho Việt cộng tác xạ. Nhị Hà đă nhiều lần đề nghị hạ đại kỳ nhưng tôi nhất định không chấp thuận, v́ nó là biểu tượng sự sống c̣n của quận, là niềm tin của chiến sĩ. Họ kiêu hănh khi nh́n thấy lá cờ nầy mà chiến đấu. Một loạt 130 ly rơi trúng sân cờ. Nhị Hà đă gục tại đây. Một mảnh đạn bay trúng cổ thằng Thành, đệ tử trung thành của tôi, lo lắng cho tôi như một người thân. Cổ họng nó máu phun có ṿi. Nó gầm lên như con heo bị chọt tiết, cứ thế chạy từ pḥng này qua pḥng khác, máu phun tung tóe lên trần nhà. Nó gục xuống và chết khi ḍng máu ở cổ ngừng chảy. Một quả 130 rơi trúng Trung tâm Hành quân, ngay trước lổ châu mai mà tôi đang quan sát. Điều lạ là đúng lúc quả đạn này rơi xuống là lúc Trung sĩ Minh - người cận vệ của tôi - bỗng dưng đến trước mặt tôi, quay lưng vào lô cốt. Sức nổ và mảnh đạn theo lổ châu mai bay vào, ghim đầy ḿnh. Anh chồm lên ngă chúi vào người tôi dẫy chết. Cũng đúng lúc đó, một mảnh đạn nữa đâm bổ vào mặt tôi nhanh như một luồng ánh sáng. Trong tốc độ khủng khiếp ấy, rơ ràng nó đâm vào mắt tôi, nhưng như có một bàn tay vô h́nh nào đă đẩy mảnh đạn vào ngay hốc mắt, ghim vào xương sọ ngay trước mũi và tôi thấy máu mồm máu mũi ộc ra. Trước lúc tôi bất tỉnh, tôi lờ mờ nhận thức được ḍng máu nóng hổi trong thân thể Trung sĩ Minh vẫn tiếp tục chảy ướt đẫm người tôi. Tôi lịm dần...

    Sau này có dịp nghe kể lại, tôi được biết lúc đó BCH hành quân đang điều động phối hợp lực lượng giải tỏa Tân Trụ đồng thời phản pháo cho tỉnh lỵ. Riêng Vĩnh Đường, ông đang thị sát trận địa trên quốc lộ 4 khi VC đống chốt làm gián đoạn cầu Voi. Đây là quốc lộ huyết mạch tiếp tế chính cho thủ đô Saigon từ miền Tây nên việc gián đoạn này làm ông điên đầu. Theo trù liệu th́ có thể lực lượng của Trung đoàn 14 thuộc SĐ 9 BB sẽ từ Bến Tranh di chuyển lên xă Hải Yến, Trung đoàn trưởng cương quyết tuyên bố: "Đêm nay tôi sẽ có mặt ở Phú Lâm".

    Được báo tin tôi bị "tróc sơn", Vĩnh Đường (danh hiệu trên vô tuyến của Đại tá Tiểu khu trưởng) và 31 (danh hiểu của Thiếu tá Trưởng pḥng 3 TK) đă tức tốc đổi hướng, cho trực thăng bay ngay vào vùng với ư định lấy hỏa lực pháo binh áp đảo địch đồng thời bốc tôi ra khỏi trận địa. Ư định này không thực hiện được v́ lưới pḥng không 37 ly của địch đan chằng chịt, phi cơ phải bay thật cao và cuối cùng phải về hạ cánh tại BCH. Măi tới xẩm tối, nhóm phi công thân hữu và 31 đă lại một lần nữa xin Vĩnh Đường cho bay vào vùng. Được chấp thuận, 31 đă hướng dẫn phi cơ bay ngược lên phía Bắc, không bay ṿng để lừa địch, rồi dùng hệ thống vô tuyến trên tầng số riêng dặn ḍ Tam Sơn phối hợp thật đẹp. Nhào qua lưới đạn pḥng không, chiếc trực thăng đáp "auto" khẩn cấp và bốc được tôi. Vừa lên khỏi mặt đất là pháo địch rơi ngay bên cạnh. Nhóm phi công và 31, người bạn thân của tôi đă ôm tôi mà reo lên. Phi cơ bay thẳng về Tổng y viện Cộng Ḥa. Lúc đáp kiểm lại, phi hành đoàn ngạc nhiên là tại sao phi cơ không nổ rớt khi nó bị trúng đạn nhiều như thế. Hai mươi hai năm dài, ngồi kể lại chuyện này, tôi vẫn tưởng như ngày hôm qua. Vinh quang của tôi là xương máu của những người đồng đội. Sự sống c̣n của tôi là những sự hy sinh đến mất mạng của những người lính. Trận đánh cuối cùng của đời tôi để bị loại khỏi ṿng chiến chỉ là một giai đoạn chiến thuật. Thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng tôi phải đánh một trận đánh thực sự cuối cùng với bọn Việt cộng. Nó thực sự gọi là cuối cùng khi mà bọn bạo quyền Hà Nội không c̣n tiếp cai trị nhân dân ta, khi mà quyền căn bản của con người ở Việt Nam c̣n bị chà đạp, th́ không có trận đánh nào được gọi là trận cuối cùng.

  10. #40
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    TĐ4TQLC - Trận đánh cuối cùng

    MX Trần-Ngọc-Toàn



    1. Địa thế:

    Từ Huế đi ra Quăng-Trị, vượt con sông Bồ, đến cây số 17 qua khỏi ấp Thượng-An, bắt đầu một con dốc ngắn dẩn lên một dải địa-h́nh cao hơn mặt nước biển 50 thước nối dài đến quận Phong Điền và Mỹ-Chánh tiếp giáp với tĩnh Quăng-Trị về phía Bắc.

    Phía Đông là quận Quăng-Điền nối ra sông Vĩnh-Định và Phá Tam-Giang. Phía Tây, thung lũng b́nh nguyên nối dài dưới chân rặng núi Trường-Sơn với xóm làng và ruông lúa dọc theo bờ Bắc con sông Bồ, vốn là quê của Tướng Việt-Cộng Nguyễn-Chí-Thanh đă tử-thương trong Mật-khu miền Đông Nam-Bộ vào đầu thập niên 1960. Con đường sắt từ Huế ra Quăng-Trị chạy song song về phía Tây với Quốc Lộ I qua hai chiếc cầu bắt ngang sông Bồ. Chiếc cầu sắt được xây dựng từ hồi Pháp thuôc vẫn c̣n nguyên vẹn. Chiềc cầu trên QLI đă được Công-binh Hoa-Kỳ thay tạm bằng cầu gỗ.

    2. Phối-trí quân:

    Từ sau ngày Lữ-Đoàn 3 Nhảy-Dù được lệnh di-chuyển vào Đà-Nẵng, tháng 6 năm 1974, Lữ-Đoàn 147 TQLC trách-nhiệm trấn-giữ mặt trận Phong-Điền dọc theo tuyến QL1 ra Mỹ-Chánh, Quăng-Trị với Lữ-Đoàn 1 Thiết-Kỵ đóng tại căn-cứ Ḥa-Mỹ.

    Tiểu-Đoàn 4 TQLC được tăng-phái Tiểu-Đoàn 130 Địa-phương quân Huế trấn-giữ pḥng tuyến phía Tây sát chân rặng núi Trường-Sơn với ngọn dồi 51 dôi ra thung-lũng dầy cỏ tranh, nối liền tuyến pḥng-thủ cũa TĐ7TQLC về phía Bắc và TĐ5 TQLC ở phía Nam.

    Một Pháo-Đội 155 ly TQLC được bố trí tại Thượng An do một Trung Đội trừ bị của TĐ4TQLC bảo vệ. TĐ135 ĐPQ được đưa ra chạm tuyến ngay giữa pḥng-tuyến của TQLC.

    3. T́nh h́nh quân VC:

    Từ sau ngày kư-kết Hiệp định Paris năm 1974, với nguồn tiếp-viện không ngừng của Liên-bang Sô-Viết và Trung-Cộng, VC đă khai mở thêm tuyến đường xâm-nhập, từ Bắc vào Nam, nằm ở phía Đông dảy Trường-Sơn, với ám số 555B hoặc Trường-Sơn Đông, suốt từ Nghệ-Tĩnh vào tận Kon-Tum, Plei-Ku.

    Lợi dụng sơ-hở của Hịêp-định Paris, VC đă ngang-nhiên chuyển quân lính và đại pháo cùng xe tăng ngày lẫn đêm vào Nam, ngay trước mắt của quân pḥng vệ TQLC mà Ủy Ban Kiểm Soát Đ́nh Chiến chỉ ghi-nhận chiếu-lệ.

    Từ giữa năm 1974, suốt từ Mỹ-Chánh vào sông Bồ, Huế, VC cho bọn Tập-kết 1954 và quân chính-qui hàng đêm xâm qua những khe hở của pḥng tuyến TQLC vào ém-dấu ở Hải-Lăng, Quăng-Trị và Quăng-Điền, Huế.

    Nhiều toán xâm-nhập đă bị TQLC phục-kích tiêu-diệt hoặc bị ḿn Claymore gài trên nhưng lối ṃn gây tổn-thất.

    Trung-Đoàn B́nh-Trị-Thiên đă được thành-lập để tạo cuộc nỗi dậy ở địa-phương nhằm kết-hợp với quân chính-quy từ Miền Bắc khi vượt tuyến sông Thạch-Hăn xâm-chiếm Miền Nam.

    Các loại vũ-khí cũng được chuyển-tải vào những điểm “tập-kềt” từ đường Trường-Sơn Đông và ngay cả mặt biển dưới dạng tàu đánh cá. Điễn h́nh là chiếc tàu sắt chở vũ-khí và lương khô Trung-Cộng đă bị Thiết-giáp của ta bắn ch́m ngay cửa biển Mỹ-Thủy, Quăng-Trị, giữa năm 1974.

    4. Diễn-Tiến Trận Đánh:

    Tiểu-đoàn 4 TQLC với 4 Đại-đội tác-chiến và 1 Đại-đội Chỉ-Huy & Hành-chánh bố-trí TĐ135 ĐPQ Huế tăng-phái từ chóp cao độ phía Nam, giáp với xóm làng Thượng An Hạ dọc theo bờ Bắc sông Bồ men theo bờ núi cao chạy về phía Bắc, nh́n xuống thung-lũng hẹp với ruộng lúa và cỏ tranh cao ngập đầu người lớn tiếp giáp vào tận chân núi Trường Sơn. Nối liền là ĐĐ 1 và ĐĐ2 bắt tay với Tiểu-đoàn 7 TQLC trên mạn Bắc. Đại-đội 4 làm trừ-bị. Đại-đội 3 đóng quân bảo-vệ Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Đoàn ngay sát QLI phía sau với 1 Trung-Đội tăng-phái giữ an-ninh cho Pháo-đội 155 ly TQLC ở Thượng-An.

    Ngày 11 tháng 3 năm 1975, Ban-Mê-Thuột bị thất-thủ trước sức ép tấn-công của 3 Sư-đ̣an CS Bắc-Việt.

    Ngày 15 tháng 3 năm 1975, Trung-đoàn B́nh-Trị-Thiên CS mở cuộc tấn-kích, vào lúc 4giờ sáng, qua pḥng tuyến của TĐ4 TQLC.

    Trước khi thọc mủi dùi lấn chiếm ngọn Đồi 51, do 1 Trung-Đội của ĐĐ 2 trấn giữ với 1 tổ Súng không giật 90 ly, xuyên tuyến pḥng-ngự của ĐĐ2, quân CSBV đă pháo-kích hàng trăm quả đạn 100, 120, và 130ly lên suốt các cứ điểm của TĐ 4 TQLC.

    Sơ-khởi, Trung-đội do Thiếu Úy Sáng chỉ-huy bị tràn-ngập trên ngọn Đồi 51. Thiếu Úy Sáng tử thương tại mặt trận với Hạ sĩ Nguyễn-Văn-Hồng Tổ-trưởng Tổ SKZ 90ly hy-sinh sau nhiều loạt súng chận đứng đợt tấn-công gây cho VC tổn-thất nặng nề. Tức th́, ngay sau đó, khi trời c̣n tối mịt, ĐĐ4 được điều-động tiến lên , từ phía sau, tăng-cường cho Đại-Đội 2 để thu quân tiến chiếm lại ngọn Đồi 51.

    Do quân số VC đă bị tổn thất-nặng khi tiến chiếm cao điểm 51, tờ mờ sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975, ĐĐ2/TĐ4 TQLC đă tái-chiếm cứ-điểm chiến-thuật 51 và lập lại pḥng-tuyến.

    VC đă rút chạy vào núi bỏ lại hơn 10 xác chết và 60 vũ-khí các loại.Trong số có 1 khẩu Súng Cối Trung-Cộng 61 ly, B41, AK47 và 3 khẩu Tiểu-Liên Tiệp-Khắc K59 mới xuất-hiện trên chiến-trường là nột loai tiểu-liên ṇng ngắn có thể thu nhỏ lại như một khẩu súng lục.

    Cùng một lúc, với những phát đạn pháo kích mở đầu cuộc tấn-kích, VC đă xách-động dân chúng trong Quận Quăng-Điền cùng với quân-số chính-quy xâm-nhập cở Tiểu-Đoàn đă bắt loa gây rối loạn phía sau trận tuyến ra vẻ như một nổi dậy của “Nhân dân” Quăng Điền.

    Tương tự, ở mặt trận phía Bắc Mỹ-Chánh, tại Hải-Lăng, Quăng-Trị, chúng cũng dàn dựng một cuộc nổi dậy của dân chúng cùng một lúc với cuộc vượt tuyến tấn-kích.

    Rạng ngày 16 tháng 3 năm 1975, Sư-Đoàn TQLC đă điều-động Lữ-Đoàn 369 phối-hợp với Lữ-Đoàn 1 Kỵ-Binh tiến đánh vào cà hai mặt trận.

    LĐ-TQLC đă bắt được 112 tù binh CSBVvới quân-phục quân chính-quy và vũ-khí.

    Đặc biệt là 15 khẩu K59 c̣n mới tinh.

    Đồng thời, trước khi nổ súng tấn-công, đặc-công VC đă ôm bụi cây khô thả trôi theo ḍng sông Bồ, với chất nổ bọc trong bao nylon, định gài vào chân cầu sông Bồ để phá sập nhưng đă bị quân-nhân thuộc 1 Trung-đội của ĐĐ3-TĐ4 TQLC tăng-cường giữ cầu, bắn hạ.

    Ḿn nổ chỉ làm lệch nhẹ một vài nhịp cầu phía Nam. Xác của 2 tên đặc-công đă nổi lên sáng hôm sau ở Phong-Điền. Công-Binh của Quân-Đoàn I đă bắt ngay một nhịp cầu Bailey nối lại giao-thông ngay ngày hôm sau là 16 tháng 3 năm 1975.

    Kết-quả về phía TĐ4 TQLC tổn thất 7 chiến-binh trong đó có Thiếu Úy Sáng và Hạ sĩ Hồng, vũ khi đươc băo toàn.

    Ngày 16 tháng 3 năm 1975, dân chúng từ Quăng-Trị ùn ùn kéo nhau chạy về Huế, vừa đi bộ, vừa xe kéo tay, xe đạp thồ khi được tin Lữ-Đoàn 369 TQLC bàn-giao vị-trí đóng quân cho Liên-Đoàn 15 Biệt-Động-Quân và Liên-Đoàn Địa-Phương-Quân tĩnh Quăng-Trị, rút về Đà-Nẵng theo lệnh của Quân-Đoàn.

    Biến cố Cao-Nguyên Trung-phần thất-thủ và cuộc tái phố- trí quân của Nhảy-Dù và TQLC đă khiên cho mọi người chẳng c̣n quan-tâm đến chiến-thắng trong trận đánh cuối cùng của Tiểu-Đ̣an 4 TQLC. Và từ đó, TĐ4 TQLC chỉ thi-hành lệnh di-tản bỏ Quăng-Trị, Huế cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 đầy tang-thương và chua xót khi nghe lệnh “Buông Súng” của Cựu Đại-Tướng Dương-Văn-Minh.

    MX Trần Ngọc Toàn

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Ảnh hưởng của Quân đội VNCH trong sự phát triển của chiếc M113
    By mơtiên in forum Quân Sử Việt Nam Cộng Ḥa
    Replies: 4
    Last Post: 15-07-2012, 03:18 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 22-09-2011, 05:14 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 13-08-2011, 02:18 PM
  4. Replies: 35
    Last Post: 19-10-2010, 03:13 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •