Page 2 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 11 to 20 of 35

Thread: KƯ SỰ TRONG TÙ - ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA

  1. #11
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 6 / Trại tập trung Yên Bái.
    p2



    Tôi siết tay anh trong niềm vui vừa vượt qua cái chết:
    “Chính tôi cũng không tin là tôi sống được khi tôi cảm thấy mất hết sinh lực, thậm chí đến khả năng phát âm cũng không c̣n.”
    (Năm 2005, anh Dương Hiếu Nghĩa vào chùa tu. Thời gian đầu ở Nam California, sau đó chuyển sang Houston)
    Vừa b́nh phục là phải theo Tổ chúng tôi lên núi đốn cây đốn chổm.
    Lên rừng lấy củi.
    Tuần sau đó, Tổ chúng tôi chuyển sang công tác lấy củi. Củi là loại cây bồ đề trên đỉnh núi chớ không phải loại bồ đề trồng ở sân chùa trong miền Nam. Cây này trồng chớ không phải mọc tự nhiên, họ giải thích cây bồ đề là nguyên liệu làm giấy. Lúc trồng phải trồng với mật độ dày, khi lớn lên ngành lâm nghiệp đốn bớt những cây không đủ tiêu chuẩn phát triển, và đó là những cây chúng tôi t́m vác về trại làm củi. Cứ sáng sớm, sau khi lót dạ bằng nửa chén cơm độn bắp dành lại từ chiều qua, xuống nhà bếp xin lon guigoze nước nấu chín, cả Tổ kéo nhau lên núi. Ngày nào cũng vậy, tên quản giáo và tên vơ trang dắt chúng tôi đến chân núi ở khoảng cách thường là từ 6 cây số trở lên, rồi ra lệnh:
    “Các anh mỗi người vác một bó ít nhất là 6 cây, mỗi cây dài ít nhất là 5 mét. Nếu buổi sáng vác đủ chỉ tiêu, buổi chiều nghỉ. Nếu không th́ chiều đi nữa.”
    Chúng nó thả chúng tôi lên núi nhưng đâu sợ chúng tôi trốn, v́ rừng núi ở mạn nam sông Hồng này mênh mông trùng trùng điệp điệp và hoàn toàn xa lạ với chúng tôi, biết đường đâu mà trốn. Với lại nghe chúng nó nói là người dân quanh vùng này được lệnh bắt nếu chúng tôi trốn trại hay họ nghi ngờ chúng tôi có ư trốn trại.
    Những vùng núi trồng cầy bồ đề do các Lâm Trường quản trị, có thể do sự thỏa thuận giữa trại với bên Lâm Trường, nên bọn quản giáo bảo chúng tôi leo lên các ngọn núi bồ đề, cứ thấy cây nào đă bị đốn ngă và khô th́ vác về. Thông thường những cây này dài từ 5 thước trở lên, đường kính ở gốc cũng bằng cổ chân. Những cây bồ đề nằm rải rác đó đây trên đỉnh núi, sườn núi, và cả dưới thung lũng nữa. Trong thời gian lên núi lấy củi bồ đề, trung b́nh mỗi ngày đi bộ trên dưới 15 cây số kể cả khoảng 4 cây số trên núi. Những anh bị tim như anh Cao Văn Ủy (Đại Tá Biệt Động Quân), anh Vơ Hữu Hạnh (Đại Tá Bộ Binh), không thể vác bó củi theo chỉ tiêu bọn họ bắt buộc. Anh em tiếp tay bằng cách mỗi người cố gắng nhận giúp 1 cây, dù rằng anh nào cũng ướt đẫm mồ hôi, mặt vừa xanh vừa đỏ v́ mệt dưới cái nắng oi bức của mùa hè đầu tiên trên đất Bắc khắc nghiệt! Trên núi cao, khi cơn nắng “nổ đom đóm mắt” th́ cơn khát bắt đầu hành hạ ghê gớm lắm. Trong lon guigoze nước phải cho vào một ít muối để giữ mồ hôi, v́ lượng mồ hôi ra nhiều quá có thể ngất xỉu. Những lúc khát quá, anh em chúng tôi cứ lội ra giữa ḍng suối, úp mặt xuống ḍng nước màu nâu sậm của lá rừng ngập dầy bên dưới mà uống, dù biết rằng nước suối giữa rừng già là mầm bệnh kiết lỵ và sốt rét. Từ trại Tam Hiệp, Biên Ḥa, tôi mang theo 50 viên Vitamine C, tôi đă ngậm hết từ vài tuần nay. Thuốc ngừa sốt rét do vợ tôi gởi trong gói quà hồi Tết lúc ở trại Tam Hiệp, vẫn c̣n nhiều nên tôi vẫn uống hằng tuần.
    Ngạc nhiên thứ nhất.
    Một buổi chiếu, khi về ngang ḍng suối cạn c̣n cách trại hơn cây số, anh em chúng tôi dừng lại giữa suối rửa tay chân mặt mũi. Cùng đứng giữa ḍng suối cạn với chúng tôi là hai ông già rửa xe đạp, trong khi tiếng loa phóng thanh từ khu cư xá Lâm Trường trên sườn đồi, oang oang tiếng người xướng ngôn loan tin về vụ mùa thắng lợ” ở Hà Nam Ninh. Một trong hai ông già, vừa rửa xe vừa chửi đổng:
    “Bố tiên sư nó, vụ nào cũng thắng lợi mà năm nào dân cũng đói. Nói khoét măi mà không ngượng!”
    Tôi ngẫng lên nh́n ông ta để đánh giá câu chửi của ông có phải là thật không. Ông ta cũng nh́n tôi kèm theo nụ cười héo hắt. Thấy thế tôi hỏi ông: “Có thật vậy không ông?”
    Ông ta đáp ngay:
    “Các anh sống trong Nam, các anh chưa hiểu được họ đâu. Tôi khuyên các anh hăy hiểu ngược lại lời họ nói th́ đúng sự thật.”
    Cả hai ông đẩy xe đạp lên bờ, đạp tiếp. Tôi khều anh Thống:
    “Anh có đồng ư với tôi rằng hai ông già này là người dân dưới chế độ cộng sản nhưng không phải cộng sản?”
    “Đúng. Tôi càng tin chắc là trong dân chúng cũng nhiều người như vậy chứ không ít đâu.”
    “Tôi nghe nói vùng này là vùng họ chỉ định cư trú số anh em quân nhân viên chức bị kẹt lại hồi năm 1954, có thể do vậy mà họ có cảm t́nh với ḿnh, nên ḿnh chưa thể đánh giá người dân ở vùng khác cũng như người dân vùng này đâu anh.”
    Lại giọng quát của thằng vơ trang: “Các anh khẩn trương đi về.”
    Bạn tôi trốn trại.
    Trong thời gian chúng tôi lên núi t́m củi, có 4 anh trốn trại. Chuyện như thế này: Hôm ấy có 2 Tổ đi đốn cây chổm cách trại khoảng 8 cây số, về một hướng khác với hướng chúng tôi. Đến chiều trở về th́ thiếu 4 anh: Anh Nguyễn Phương Thành (Đại Tá, Sư Đoàn 7 Bộ Binh). Anh Vơ Quế (Đại Tá Không Quân). Anh Đỗ Trọng Huề (Đại Tá Hành Chánh Tài Chánh). Và anh Nguyễn Văn Thi (Đại Tá Pháo Binh).
    Tối đến, bọn cộng sản chia nhau ŕnh rập các dăy nhà xem tù chính trị bàn tán những ǵ may ra từ đó chúng nó có thể t́m ra manh mối các anh ấy. Nghĩ vậy nên anh em chúng tôi rất thận trọng. Tôi chui sang nằm sát cạnh anh Nghĩa và anh Nguyễn Xuân Dung (Đại Tá Thiết Giáp) để bàn luận chung quanh việc các anh trốn trại. Tôi hỏi:
    “Anh Nghĩa. Anh có nghĩ là các anh ấy có thật sự trốn trại hay bị tai nạn như rắn cắn, trăn quấn, lọt hố sâu, hay bị cọp tha không?”
    “Tôi cho là mấy ảnh trốn thật v́ trong nhóm đó có anh Huề giỏi tướng số tử vi lắm. Mấy tuần nay mấy ảnh đẩy xe cải tiến ra Sông Hồng lấy cát, rất có thể mấy ảnh móc nối được với dân ngoài đó để tổ chức trốn trại. Chớ tai nạn th́ đâu đến nỗi một lúc bị đến bốn anh.”
    “Cầu xin các anh ấy trốn thoát để có được tiếng nói của ḿnh ra bên ngoài, chớ cái kiểu họ giấu tụi ḿnh trong tận cánh rừng già heo hút này chỉ có Trời mới biết thôi.”
    Anh Nguyễn Văn Của (Đại Tá Thiết Giáp, bạn cùng khóa với tôi) chen vào:
    “Trong nhóm có thằng Thành ngon lắm. Nó rất xông xáo, có thể thoát được.”
    “Anh Nghĩa. Anh có biết là trong toán lấy cát có anh Lại Đức Chuẩn (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) đă lén tiếp xúc được với bà con của ảnh không?” Tôi hỏi.
    “Có. Tôi có nghe.”
    “Nếu được giúp đỡ của người địa phương th́ mức độ hy vọng trốn thoát cao hơn anh à! Biết đâu người mà anh nghĩ có thể đă móc nối là đây chăng?”
    “Không đoán nỗi.”
    Và rồi 4 ngày sau. Trong lúc Tổ chúng tôi đang ngồi trên mái nhà của bộ chỉ huy trại để kéo vĩ tre lên giằng mái tranh. Tôi chợt thấy từ xa và khều nhẹ anh Luân:
    “Trời ơi! Anh đi đầu giống anh Vơ Quế quá Luân ơi!”
    Anh Quế với anh Luân cùng phục vụ trong quân chủng Không Quân, nhưng anh Luân biệt phái sang Tổng Cục Tiếp Vận, phụ trách chuyển vận hàng không quân sự.
    “Đúng. Vậy là mấy anh em ḿnh bị bắt rồi.”
    “Sao có ba anh hà. C̣n một anh nữa đâu?”
    “Chúng nó nh́n ḿnh ḱa. Làm đi.”
    Một lúc sau, bọn chúng dắt cả ba anh vào trong sân căn nhà bộ chỉ huy trại, trong khi Tổ chúng tôi làm xong trên mái nhà. Tất cả tuột xuống và đem vật dụng c̣n lại vào kho. Tôi cố ư đi sát lại anh Vơ Quế:
    “Anh Thành đâu anh Quế?”
    “Nó bị nhốt riêng rồi.”
    Đến tối, chúng nó dắt ba anh lên Liên Trại, chắc là nhốt các anh trên đó. Sáng hôm sau, thay v́ đưa Tổ chúng tôi lên núi, bọn họ dắt chúng tôi ṿng ra triền núi bên kia dăy nhà ngói, để đào đất:
    “Các anh đào 3 cái hầm sâu vào trong núi theo kích thước sau đây: Mỗi hầm ngang 1 mét, sâu vào 2 mét. Cách 1 mét th́ đào hầm thứ hai, rồi hầm thứ ba cũng khoảng cách đó. Ḷng hầm ngang 1 mét, dành 0.6 mét làm chỗ nằm, c̣n 0.4 mét kia tiếp tục đào xuống 0.5 mét là thành cái giường nằm.”
    Chúng ra lệnh, nhưng lúc nào cũng đứng bên cạnh thúc hối đào cho nhanh. Đào xong, bọn họ dắt chúng tôi lên núi đốn cây lót làm trần bên trên, rồi đổ đất lên như triền núi lúc chưa đào. Cánh cửa làm bằng cây chổm, có khóa. Cái gọi là “giường nằm”, chỉ là đất sét ướt, ngang 0.6 mét x dài 2.0 mét x cao 0.5 mét. Tôi không rơ là chúng nó có cho các anh trải chiếu hay lót cái ǵ đó để tránh lưng bị lạnh không, chỉ biết là khi làm xong vào lúc hoàng hôn th́ bọn họ dắt ba anh vào nhốt trong hầm này! Rồi mùa Đông, liệu các anh có chịu nỗi không? Tuy tôi chưa biết mùa Đông nơi đây ra sao, nhưng nghe người dân vùng này mô tả hăi hùng lắm.
    Đêm nằm nghĩ lại, mỉa mai quá! Ḿnh đào hầm để nhốt bạn ḿnh! Nhưng nghĩ cho cùng, không đào cũng không được với chúng nó. Và qua đó, chúng tôi nhận thức rơ thêm về cách của chúng đối xử với tù chính trị chúng tôi!
    “Liệu quốc tế làm cách nào để hiểu được mức độ tàn bạo nghiệt ngă của cộng sản Việt Nam?”
    Vài hôm sau, chúng tôi nghe mấy thằng vơ trang nói với nhau là anh Nguyễn Phương Thành đă tự tử trong hầm giam ở Liên Trại. Lại mấy ngày sau nữa, chúng tôi mới biết là anh Thành đă chết thật sự, nhưng không rơ là anh ấy bị chúng nó giết hay là anh tự tử. Anh Nguyễn Phương Thành, một Trung Đoàn Trưởng rất can đảm của Sư Đoàn 7 Bộ Binh.
    Người Mỹ Tên Nam.
    Tổ chúng tôi lại đi hái trà gần khu vực Liên Trại 1. Nơi đây có cái máy phát điện với năng suất chỉ đủ cho khu vực bộ chỉ huy và các trại lân cận với những áng sáng vàng vọt. Phụ trách kỹ thuật là một người Hoa Kỳ. Nếu nh́n từ sau lưng th́ vóc dáng anh ta chẳng khác ǵ người Việt Nam bao nhiêu. Tù chính trị không được đến gần anh ta. Trong gian nhà tranh của anh ta bên kia đường nh́n từ đồi trà, có một phụ nữ và một bé gái khoảng 2 tuổi (năm 1976), có lẽ là vợ và con anh ta. Nhân lúc gạ chuyện với mấy tên bộ đội phụ trách điều hành nhà máy xay lúa mà họ gọi là máy xay xát, và phụ trách an ninh máy phát điện, mới biết thêm tin tức nhưng không rơ sự thật ra sao. Theo đó , anh ta là Trung Úy Biệt Kích Hoa Kỳ (mũ nồi xanh), đă lái xe Jeep băng qua cầu Bến Hải đầu hàng quân cộng sản tại đó. Anh ta lấy tên là Nam, nên gọi là anh Nam. Khi Đoàn 776 thành lập cách nay vài tháng, anh Nam này mới chuyển đến đây làm việc. Lương mỗi tháng 75 đồng. Nghe nói anh ta nói được chút ít tiếng Việt. Nhưng anh em chúng tôi chưa dám tin, v́ chỉ riêng cái hành động một sĩ quan Hoa Kỳ lái xe băng qua bên kia cầu Bến Hải mà vẫn c̣n sống, quả thật là khó tin.
    Có những lúc anh ta như muốn tiếp xúc với chúng tôi, nhưng trong những lần gặp th́ anh ta không bao giờ đứng một ḿnh, ít nhất bên cạnh cũng có người đàn bà có vẻ như vợ anh ta. Một hôm, nhân lúc hái trà xong và trên đường về trại, trông thấy anh ta đi sau một tên bộ đội, tôi cố lướt lên với hy vọng nói được với anh ta vài câu, nhưng tên bộ đội bất chợt quay lại trông thấy, hắn liền dừng lại rồi đi ngang với anh ta. Lỡ bộ, nhóm chúng tôi đi với tốc độ nhanh hơn và qua mặt anh ta luôn.
    Một dịp khác, khi đang làm cỏ ở lưng chừng đồi trà, tôi trông thấy anh chàng Mỹ tên Nam lửng thửng từ chân đồi đi lên, tôi bước vội xuống th́ một tên bộ đội bên kia đường trông thấy, hắn nhanh chân băng qua đường theo sát anh ta. Tôi quay lên đồi, không ngờ lại gặp anh chàng khật khùng “tùy viên của Thiếu Tướng Nguyễn Huệ” lúc ở trại tập trung Tam Hiệp, từ bên kia triền đồi qua khu vực chúng tôi. Vẫn nụ cười mà thật sự không rơ là anh ta cười với ai. Có lẽ cộng sản cũng xếp anh ta vào loại tù chính trị nguy hiểm như chúng tôi hay sao mà đưa anh ta từ trại Tam Hiệp, Biên Ḥa, ra đây nữa.
    Chuyển trại.
    Tháng 09/1976, tất cả tù chính trị cấp Đại Tá được lệnh chuyển từ “trại nhà ngói” này đến một trại có tên là “Trại Cốc” nằm sâu trong một thung lũng, cách trại này khoảng 4 cây số. Thế là chúng tôi gồng gánh mang vác đi bộ thành một đoàn dài ngoằng, và nhiều anh gần như chỉ nhấc nỗi từng bước chân! Trên đoạn đường đầy người gồng gánh đó, tôi gặp anh Đại Úy Nguyễn Ngọc Chươu cũng dọn trại nhưng ngược chiều. Trong những năm 1956-1958, chúng tôi cùng phục vụ ở Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 35 Sư Đoàn 12 Khinh Chiến ở Catecka, Pleiku, rồi chuyển lên Kontum. Chúng tôi chỉ ôm nhau rồi chia tay ngay, để theo kịp các bạn!
    “Trại Cốc”, gồm khu nhà của bộ chỉ huy trại trên sườn đồi bên kia ḍng suối nhỏ. Phần nhà cho hơn 300 Đại Tá chỉ có hai gian nhà tranh cấu trúc như chữ L, dưới chân đồi bên này ḍng suối. Ḍng suối nhỏ này là nguồn cung cấp nước duy nhất cho chúng tôi và đơn vị quân đội cộng sản canh giữ chúng tôi. Nếu so sánh th́ chúng tôi ở trại này chật hơn trại nhà ngói, nhưng có phần sạch và thoáng hơn trại nhà ngói, nhất là có ḍng nước thoạt xem là tốt.
    Đêm đầu tiên tôi bị đau bụng dữ dội. Không thể nào chịu đựng được tới sáng nên nửa đêm phải đi tiêu. Với cái đất Bắc xă hội chủ nghĩa này không nói là đi tiêu hay đi cầu, mà nói là “đi ỉa”. Khổ nỗi là cái cầu tiêu họ làm bên kia triền đồi, hoàn toàn vắng vẻ. Vừa ôm bụng vừa bấm bụng mà lần ṃ trong đêm tối. Vừa bước ra khỏi nhà trại phải báo cáo theo nội qui của họ:
    “Báo cáo bộ đội, tôi đi ỉa.”
    Tối thui tối mịt. Chẳng cần thấy ai nhưng vẫn cứ báo cáo như vậy. Cứ từng bước khập khễnh theo sự thúc giục của “tào tháo” trong khi trống ngực đánh liên hồi v́ rừng vắng giữa đêm khuya. Ngồi lên hai thanh cây rừng làm cái việc “sản xuất phân bón ưu việt xă hội chủ nghĩa”, trong khi mắt láo liên dù chỉ thấy lờ mờ chung quanh, tai lắng nghe khu rừng bên kia nhỡ có tiếng xào xạc nặng nề của cọp của beo c̣n chạy cho kịp. Bỗng có tiếng bước chân chầm chậm, tôi lên tiếng ngay:
    “Có tôi đây.” Tôi nói khá lớn, vừa nói cho ai đó nghe, cũng vừa tự trấn an do âm thanh dội lại từ đồi bên kia thật rơ ràng.
    “Sao lâu thế?” Tên bộ đội đứng đâu đó hỏi tôi.
    “Báo cáo bộ đội, tôi đau bụng.”
    “Tại anh không quyết tâm chứ đau bụng ǵ lâu thế.”
    “Đi ỉa cũng có quyết tâm sao bộ đội?”
    “Anh không có quyết tâm làm sao nó ra. Khẩn trương lên. Không có lư sự nữa.”
    Tôi mỉm cười trong đêm tối, trong khi hắn càu nhàu:
    “Các anh đừng tưởng qua mặt chúng tôi được nhé! Các anh không thoát được chúng tôi đâu.”
    “Tôi thiếu quyết tâm một chút mà bộ đội nói sang chuyện trốn trại làm chi.”
    “Khẩn trương lên, đừng có ở đó mà lư sự”.
    Dù sao th́ lượt vào tôi đi một cách “hiên ngang” v́ có tên bộ đội “hộ tống”. Sáng sớm, tôi thuật cho anh Dương Hiếu Nghĩa với anh Nguyễn Phán nghe, hai bạn cười ngất.
    Ngạc nhiên thứ hai.
    Hôm ấy chúng nó dẫn chúng tôi đào lỗ trồng cột bằng cây rừng để kéo dây điện thoại dọc theo đường đá lởm chởm, từ bộ chỉ huy Liên Trại 1 đến Trại Cốc chúng tôi. Ngoài tên bộ đội cầm súng canh giữ, c̣n có tên quản giáo hướng dẫn công tác. Hắn tự xưng là cán bộ binh chủng thông tin. Anh ta áng chừng 25 tuổi, ăn nói tương đối dễ chịu chớ không quát tháo mắng chửi như cái đám gặp ngày đầu tiên. Nói chuyện với hắn một lúc mới biết, các trại tập trung tù chính trị thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn này có đến hằng mấy chục trại lận. Chỉ huy tất cả các trại là Đoàn 776, dưới Đoàn 776 có 6 Liên Trại, mà trại đang giam giữ cấp Đại Tá chúng tôi là Trại 2 thuộc Liên Trại 1. Các Liên Trại kia nằm rải rác đến sát biên giới Trung Hoa cộng sản. Thế là được biết thêm, tất cả tù chính trị chúng tôi bị giữ ở vùng rừng núi này do Bộ Quốc Pḥng của họ quản trị chớ không phải Công An.
    Những vị trí hắn chỉ chúng tôi đào lỗ hầu như toàn đá nên khá vất vả. Mọi người mồ hôi nhỏ giọt từ hai bên má. Tên quản giáo đến cạnh nhóm chúng tôi nói nhỏ:
    “Các anh chưa quen lao động dưới cái nắng oi bức của mùa hè miền Bắc nên mau mệt.”
    Nói xong, anh ta hướng sang tên cầm súng và nói lớn:
    “Các anh nghĩ giải lao 10 phút.”
    Khi chúng tôi dừng tay, đến cạnh bếp đang nấu chảo nước sôi với lá bàng. Lá bàng là loại lá lớn bằng bàn tay x̣e, mùa này nó rụng quanh gốc cây. Khi nấu nước, tên cầm súng bảo chúng tôi:
    “Các anh lượm những lá bàng chuyển màu nâu (sắp khô) bỏ vào chảo mà uống như uống chè (trà) cho đỡ khát”.
    Khi tên cầm súng đến gốc cây bàng xa xa đằng kia ngồi, tên quản giáo từng bước đến cạnh tôi với anh Trần Ngọc Thống (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu), anh ta nói thật nhỏ, có lẽ sợ tên cầm súng nghe:
    “Các anh có thiên đường mà các anh không biết giữ.”
    Tôi nh́n anh Thống, anh Thống nh́n tôi. Tuy không nói ra, nhưng chúng tôi ngầm hiểu với nhau “không rơ tên này muốn bẫy ḿnh hay sao đây”, nên hai đứa làm thinh. Chừng như hắn nhận ra điều đó, hắn nói tiếp:
    “Tôi đă vào Sài G̣n và tôi đă hiểu các anh.”
    Nói xong anh ta bước đi ngay.
    Quí vị quí bạn thấy không, qua thái độ của anh chàng gọi là cán bộ thông tin hay quản giáo vừa rồi, cho thấy giữa những người cộng sản với nhau, họ cũng canh chừng nhau nữa, huống ǵ là chúng tôi.
    Chúng tôi đến ngồi quây quần với các bạn cạnh chảo nước lá bàng như là cùng nhau giải khát, rồi thuật lại hai câu nói của anh ta cho các bạn nghe. Anh Thống nói:
    “Tôi thấy thằng này tuy trẻ nhưng câu nói của nó đáng cho ḿnh để ư lắm.”
    Tôi góp thêm:
    “Hoặc nó nói thật, hoặc nó xỏ ḿnh. Nhưng quan sát thái độ của nó nh́n trước nh́n sau, và khi nói xong là vội vàng đi ngay, tôi nghĩ là hắn nói thật. V́ hắn nói hắn đă vào Sài G̣n, được hiểu là hắn đă nghe tại chỗ về ḿnh, được thấy tận mắt về cuộc sống của người miền Nam ḿnh rồi.”
    Anh Lê Minh Luân (Đại Tá Không Quân) chen vào:
    “Liệu trên đất Bắc xă hội chủ nghĩa 20 năm này có một thằng bộ đội trẻ dám nhận xét ngược với đảng của nó không?”
    “Chính tôi cũng tự hỏi như anh.”
    Anh Thống tiếp lời:
    “Tôi vẫn tin, không phải mọi người trên đất Bắc này đều là cộng sản đâu. Riêng trường hợp thằng bộ đội này, tôi tin là hắn nói thật.”
    Tôi tiếp lời anh Thống:
    “Từ nay, anh em ḿnh nên lắng nghe những mẫu chuyện của người dân quanh vùng mà ḿnh gặp, tôi chắc là ḿnh có thể t́m hiểu được ư thức chính trị của người dân đất Bắc xă hội chủ nghĩa này ra sao. Biết đâu ḿnh sẽ ghi nhận được nhiều điều mà ḿnh không ngờ như trường hợp thằng nhóc này cũng như với hai ông già rửa xe đạp hôm trước cũng nên.”
    X́ xầm nhỏ to đến đây th́ thằng cầm súng từ xa quát lớn:
    “Đi làm đi. Thông tin cái ǵ đó?”
    Chúng tôi không ai trả lời. Mạnh ai người ấy vác dụng cụ đào lỗ trồng cột tiếp. Anh bộ đội quản giáo quay lại sát chúng tôi:
    “Các anh cẩn thận trong mọi t́nh huống.”
    Nói xong là anh ta đến với tên vơ trang. Có lẽ nảy giờ anh ta theo dơi chúng tôi to nhỏ với nhau nên anh ta sợ đến tai tên vơ trang chăng? Thêm một câu nói giúp chúng tôi tin hắn không phải là người cộng sản cuồng nhiệt, nhưng nhất thiết phải giữ một khoảng cách nhất định khi tiếp xúc với bất cứ tên cộng sản nào.
    Ngạc nhiên thứ ba.
    V́ trại chưa có rau nên họ chỉ định 6 người đi mua rau ở chợ Yên Bái. Trong số này có tôi và anh Nghĩa. Một tên vơ trang dẫn đi. Hắn đưa chúng tôi 3 cái đ̣n khiêng và 3 cái bao bố (loại bao gạo 100 kí lô), nghĩa là hai người một khiêng. Trên quảng đường đá lổm chổm chừng 6 cây số, chúng tôi đi ngang một trại. Nhanh tay lẹ chân tiếp xúc với anh bạn đang cuốc đất bên đường, chúng tôi được biết đây là Trại 1, giam giữ các anh cấp Trung Tá.
    Đến bờ nam sông Hồng, hắn không đưa toán chúng tôi sang phà Ô Lâu qua chợ Yên Bái mà ghé vào khu nhà bên nay Sông Hồng mua khoảng 150 kí lô chuối xanh c̣n trên cây. Tôi trông thấy cây ớt hiểm chín đỏ mà phát thèm, thèm chất cay của ớt để kích thích khẩu vị. Tôi mon men đến ông cụ đang ngồi hút thuốc lào ở thềm nhà:
    “Chào cụ. Cụ có thể cho tôi một trái ớt được không?”
    “Ông ăn cay được không? Ớt này cay lắm đấy.”
    “Dạ được.” Nói xong, tôi bước đến cây ớt cạnh thềm nhà. Ông cụ lên tiếng:
    “Ông ngồi đây xơi nước. Tôi bảo con gái tôi nó hái cho ông.”
    Vừa nói ông vừa kéo cái ghế nhỏ cho tôi ngồi, vừa rót chun trà:
    “Hồng à! Con vặt (hái) cho ông này nắm ớt rồi gói lại đàng hoàng nghe con”.
    “Cám ơn cụ.”
    “Chè xanh đó. Xơi vào ông thấy thấm giọng và chống được cơn khát. Mùa hè của chúng tôi oi bức hơn trong Nam nhiều. Các ông chưa quen nên mau mệt lắm.”
    Cô con gái đưa ông cụ một gói ớt lớn bằng cái chén ăn cơm. Ông cụ cho tôi hết gói đó. Tôi nói:
    “Cụ làm ơn nói với bộ đội vơ trang giùm, nếu không th́ tôi không dám nhận.”
    “Này anh bộ đội. Tôi cho ông này gói ớt đấy nhé!”
    Ông chỉ nói thế chớ không xin phép tắc ǵ cả, chứng tỏ ông cụ xem thường hắn. Chừng như hắn cũng nễ ông cụ, không biết có phải do hắn “tán” con gái ông cụ mà hắn nễ không?
    Sau lời cám ơn rối rít, tôi chạy lại các bạn đang may mấy bao chuối. Tôi với anh Nghĩa một khiêng. Anh Nghĩa nghiêm giọng:
    “Ông cụ này có thiện cảm với anh em ḿnh đó.”
    “Đúng anh. Ông ta gọi chúng ḿnh là “các ông” với ư kính trọng, chớ không như cái đám phụ nữ với con nít trong ngày đầu tiên trên đất Bắc mà ḿnh gặp ở gần phà Ô Lâu. Tôi nghĩ là rồi đây người dân vùng này sẽ nh́n ḿnh tốt hơn, và cư xử với ḿnh tốt hơn. Rơ ràng là ḿnh có cơ hội tiếp xúc với người dân, ḿnh với họ sẽ hiểu nhau hơn. Nghĩ cho cùng, đây cũng là một h́nh thức chiến tranh chính trị mà.”
    Mỗi hai người khiêng 50 kí lô. Dọc đường nghỉ ba lần. Sáu cây số chớ gần gủi ǵ đâu! Lần nghỉ thứ nh́ do chúng tôi cố t́nh đi không nỗi để được dừng lại gần cổng Trại 1. Tiếp xúc chớp nhoáng ngang qua hàng rào, chúng tôi được biết thêm là tất cả các anh từ cấp Trung Tá trở xuống, họ đưa ra Bắc bằng tàu chở hàng cặp vào bến thành phố Vinh hoặc Hải Pḥng, từ đó đưa lên vùng rừng núi Yên Bái này bằng xe lửa. Nhưng không phải tù chính trị được ngồi trong các toa hành khách đâu, mà là bị chúng nó nhốt trong các toa chờ hàng hóa súc vật kín mít, chỉ có những lỗ nhỏ sát trên nóc toa có không khí vào thôi. Anh Trung Tá Hùng, bộ tham mưu Tổng Cục Chính Trị bị suyển, lại trong t́nh trạng ngột ngạt trong toa chở hàng nên đă chết v́ nghẹt thở trước khi đến trại này!
    Số chuối xanh mua về, họ bảo các anh nhà bếp xắc từng khoanh rồi chẻ làm hai cho vào chảo, cho thêm muối và bột ngọt vào, quậy những thứ ấy vào nhau, gọi là “món ăn mặn” nhiều ngày của chúng tôi.
    Ngạc nhiên thứ tư.
    Cuối tháng 8 năm 1976, bọn họ cho chúng tôi viết thư về gia đ́nh. Vẫn cái cách hướng dẫn viết thư y chang bài bản như lúc ở trại Long Giao (Long Khánh) với Tam Hiệp (Biên Ḥa). Vẫn có sức khỏe tốt, lao động tốt, học tập tốt, gia đ́nh an tâm và chấp hành tốt những lệnh địa phương. Họ cho biết là các địa phương đă thông báo cho các gia đ́nh được gởi quà cứ mỗi ba tháng một lần, với trọng lượng tối đa là 5 kí lô. Hầu hết anh em chúng tôi khi nhận thư gia đ́nh đều có mẫu tin trên báo “Nhân Dân”, mới biết được trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn và Lai Châu có tất cả 82 trại, đánh số mà họ gọi là “ḥm thư” từ AH 1 đến AH 82, thuộc Đoàn 776 giam giữ mà họ gọi là “quản lư giáo dục”. Bây giờ th́ chúng tôi tin con số đó là thật.
    Lần đi chợ thứ nh́ cũng dùng đ̣n khiêng. Lần này sang chợ Yên Bái bằng con đ̣ nhỏ chớ không phải bằng phà. Anh Nghĩa, anh Phán, anh Hồ Văn Thành (Đại Tá Quân Vận), anh Luân, anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Quân Tiếp Vụ), và tôi. Yên Bái nhỏ lắm, nhà cửa lụp xụp, không thể gọi là phố xá được. Có một dăy khoảng chục căn bằng gạch, c̣n lại là nhà tranh. Các cửa hàng rải rác nhưng tất cả có ghi hàng chữ quốc doanh hẳn ḥi. Tiệm may th́ trên bảng ghi “Cửa hàng đo may”. Bên cạnh có “Cửa hàng bách hóa”, nhưng ôi thôi bên trong chỉ có khoảng chục cái kệ với lơ thơ vài chục mặt hàng, mà là hàng hóa thô kệch quá sức. Bên ngoài nhà chợ có nhà máy đường với cơ sở rất ư là ọp ẹp. Tôi nói nhỏ với anh Phán: “Phán ơi! Chợ ǵ mà giống trại lính quá.”
    “Trông chẳng giống làng xă ǵ của ḿnh cả.”
    “Thị xă Yên Bái xă hội chủ nghĩa, chẳng khác buôn làng của đồng bào Thượng vùng Pleiku Kontum trong những năm 1950!”
    Chuẩn bị đi chợ lần thứ ba. Tên vơ trang ra lệnh:
    “Các anh đi lấy 2 xe cải tiến. Hôm nay mua cải bắp.”
    Tôi nh́n qua nh́n lại có ư t́m xe cải tiến, hắn thấy tôi làm thinh mà cứ nh́n qua nh́n lại, hắn quát:
    “Không đi lấy xe mà nh́n ǵ thế kia?”
    “Tôi không thấy xe ở đâu làm sao lấy.”
    “Thế cái ǵ kia?” Vừa gắt gỏng hắn vừa chỉ chiếc xe cút-kít ở gần chuồng heo bên kia ḍng suối.
    “Cái đó là xe cải tiến hả bộ đội?”
    Hắn trừng mắt nh́n tôi:
    “Anh đùa à. Xe để đấy mà c̣n hỏi”.
    “Không. Tôi không biết đó là xe cải tiến mà cán bộ”.
    “Cái anh này buồn cười chưa. Thế các anh gọi nó là cái ǵ?”
    ‘Trong Nam chúng tôi gọi nó là “xe cút kít”.
    “Ra lấy đi, đừng có đứng đó mà lư sự”.
    Chúng tôi qua chiếc cầu nhỏ, lôi hai chiếc cút-kít từ trong bờ rào ra. Chưa biết phải làm ǵ tiếp, hắn lại quát:
    “Vào kho mượn giây để kéo. Đứng đó làm ǵ?”
    Hóa ra chuyện như thế này. “Xe cải tiến” là chiếc xe mà những năm 50 người Sài G̣n gọi là xe “cút-kít”, loại xe của những toán sửa đường dùng chở gạch đá lặt vặt. Xe cút-kít bằng kim loại, có một bánh xe ở giữa phía trước, cái thùng xe bầu xuống, hai chân đứng phía sau với hai cái càng để đẩy. Với dạng xe đó được xă hội chủ nghĩa “cải tiến” phía trước có hai bánh xe (thay v́ một), cái thùng xe h́nh chữ nhật (thay v́ bầu), phía sau cũng có hai chân đứng, và hai cái càng để đẩy. Vật liệu đều bằng cây với ván. Theo họ nói th́ trọng lượng xe khi chở đầy vào khoảng 150 kí lô. Chiếc xe cải tiến vận chuyển được những ǵ trong cái thùng h́nh chữ nhật đó, là do 3 “nhân lực” (không phải mă lực) kéo và đẩy. Hai sợi dây cột hai bên cái thùng phía trước cho hai người kéo, một sợi dây khác cột ở hai cái càng sau và người cầm càng máng lên vai cho hai cái chân xe cao khỏi mặt đất, và ra sức đẩy tới. “Xe cải tiến chuyển động bằng ba nhân lực” là như vậy.
    Đến đám bắp cải của hợp tác xă nào đó sát bờ nam Sông Hồng, trông thấy một cô gái mặc quần tây áo sơ-mi, mang giày ống, cổ quấn khăn quàng ấm, tóc uốn dợn phần đuôi. Nh́n chung, cô ta là cô gái sáng sủa so với hai cô gái đang trong rẫy bắp cải. Cô ta giao việc cho hai cô kia đang quần quật chặt gốc bắp cải và mang vào sân nhà lều. Tên vơ trang bảo chúng tôi đứng chờ, hắn đến nói chuyện với cô gái mang giày ống chắc là về chuyện mua bán. Hắn trở lại anh em chúng tôi:
    “Đấy là con gái của nữ đồng chí lănh đạo Công An Huyện (Trấn Yên). Người ta đưa bao nhiêu th́ nhận bấy nhiêu, cho lên xe cột lại. Các anh cẩn thận, không được nói linh tinh nghe chưa?”
    Nói xong, hắn đi về phía ngôi nhà gần bờ sông. Chẳng hiểu hắn muốn dọa chúng tôi hay ngăn cấm chúng tôi nói chuyện với con gái của Công An quận này? Khi nghe hắn nói cô này là con bà Trưởng Công An cũng hơi ớn, chỉ nghe hai chữ Công An đă cảm thấy lạnh lùng rồi, huống chi là con gái của Trưởng Công An, mà lại là Công An quận nữa chớ.
    Một cô lo cân. Cân xong, cô kia chất sang một bên, lúc ấy có tiếng của cô mang giày ống:
    “Yến. Em gở hết những lá xanh bên ngoài rồi cân lại cho mấy anh đó.”
    Thế là hai cô gái phụ việc làm lại từ đầu mà chẳng nghe càu nhàu ǵ cả, trong khi cô gái mang giày ống gọi chúng tôi đến nhận bắp cải. Đang chất bắp cải lên xe, cô ta đứng cạnh tôi:
    “Anh biết dùng lá cải bắp làm dưa ăn không?”
    Tôi dùng chữ bắp cải c̣n cô ta dùng chữ cải bắp. Thấy cô ta nói chuyện có vẻ nhẹ nhàng và tự nhiên, tôi đáp:
    “Có. Tôi biết cách làm và cũng biết ăn nữa cô.”
    “Tôi cho các anh những lá này, đem về cắt ra phơi một nắng,nấu nước muối đổ vào. Vài hôm là ăn được.”
    “Không được đâu cô.”
    “ Anh vừa nói anh ăn được mà?.”
    “Cô phải nói với anh bộ đội vơ trang mới được. Nếu cô không nói th́ anh bộ đội vơ trang cho là tôi ăn cắp, tôi sẽ bị phạt giam khi về trại.”
    “Được. Tôi sẽ nói cho anh.”
    Trong khi chờ tên vơ trang trở lại, cô ta hỏi:
    “Quê anh ở đâu?”
    “Tôi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mà trong Nam chúng tôi thường gọi là Miền Tây, nhưng tôi sống ở Sài G̣n lâu rồi cô.”
    “Anh có thường được thư gia đ́nh không?”
    Tôi khựng lại, v́ không hiểu cô ta hỏi thật hay ḍ xét. Con của Trưởng Công An quận mà. Thấy tôi ngập ngừng, cô ta nói:
    “Tôi hỏi thật, anh đừng sợ. Tôi có vào Nam rồi. Tôi thấy người miền Nam thành thật mà dễ mến nữa. Tôi nói thật đấy.”
    Tôi có phần vững dạ:
    “Vâng. Thỉnh thoảng thôi, v́ người ta ấn định thời gian chớ không phải lúc nào cũng được gởi đâu cô.”
    “Lần sau các anh có ra đây, mang theo thư đưa tôi gởi cho. Các anh đừng sợ. Tôi hỏi thêm, các anh có bị người ta đánh không?”
    Tôi nh́n thẳng cô ta và chậm răi trả lời để ḍ xem cô ta hỏi thật hay giăng bẫy:
    “Cám ơn cô. Chúng tôi không mang thư theo được đâu v́ bộ đội vơ trang xét kỹ lắm. Về đánh đập th́ tôi và các bạn cùng Tổ với tôi chưa bị, những chửi rủa nhục mạ th́ thường lắm, thường đến mức mỗi khi người ta bắt đầu th́ chúng tôi thuộc luôn mấy câu sau rồi. Đối với chúng tôi, điều đó c̣n đau hơn đánh đập v́ tŕnh độ của chúng tôi ít nhất cũng phải tốt nghiệp trung học rồi cô.”
    Cô ta đứng yên một lúc, chừng như có chút xúc động:
    “Họ có cho các anh ăn no không?”
    “Nếu tôi nói với cô là chốc nữa đây tôi sẽ ăn hai củ khoai ḿ mà cô gọi là sắn, để chiều về tôi ăn một lúc hai phần, cô có tin tôi không? Hai phần gộp lại là hai chén cơm độn bắp, đó là hạnh phúc của chúng tôi!”
    Cô ta xoay mặt ra bờ sông. Yên lặng. Tôi tiếp:
    “Cô hỏi tôi những câu ẩn chứa t́nh người làm tôi cảm thấy ngại ngùng. Ngại ngùng v́ vị trí giữa cô với anh em chúng tôi là một khoảng cách chính trị, mà chúng tôi là những người bị tù đày sau khi chúng tôi thua trận!”
    “Vào Nam, tôi mới hiểu người miền Nam các anh. Trong ấy có người thân của gia đ́nh tôi vào đó từ năm 1954, cũng ở trong quân đội như mấy anh. Tôi muốn giúp các anh điều ǵ chớ không có ư ḍ xét các anh. Bây giờ tôi phải lo công việc.”
    Nói xong cô ta trở lại nhà lều ở đầu đám rẫy. Có lẽ cô ta thấy tên vơ trang đang đến nên cô ta không nói nữa th́ phải?
    “Cám ơn cô.”
    Tên bộ đội vơ trang đến bảo chúng tôi ăn trưa rồi chuẩn bị về trại. Nói xong, hắn quay lại nhà lúc nảy. Sáu anh em chúng tôi đang ngồi ăn khoai ḿ, cô gái mang giày ống đi ngang, đứng nh́n:
    “Các anh ăn thế làm sao no?”
    “Tôi nói với cô rồi. Chúng tôi đâu có cách nào khác. Hai củ khoai này là phần ăn của mỗi anh em chúng tôi đây!”
    “Các anh ráng giữ sức khỏe để về với gia đ́nh. Chào các anh. Tôi về ăn trưa.”
    “Chào cô.”

  2. #12
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 6 / Trại tập trung Yên Bái.
    p3



    Phải nói rằng, sau cái lần nghe ông cụ già rửa xe đạp vạch trần sự tuyên truyền dối trá trên làn sóng phát thanh, đến tên quản giáo nói như trách chúng tôi có thiên đường mà không biết giữ, rồi đến lần mua chuối xanh nh́n thấy thái độ của ông cụ đối xử với chúng tôi rất t́nh người, hôm nay đến cô gái con bà Trưởng Công An quận mà họ gọi là huyện Trấn Yên này nói chuyện với chúng tôi ẩn chứa sự thông cảm với chúng tôi, cho phép tôi nhận ra rằng: “Không phải mọi người dân 20 năm xă hội chủ nghĩa trên đất Bắc đều là cộng sản dù họ sinh ra và lớn lên trong chính sách giáo dục của cộng sản, ngay cả cô con gái của Trưởng Công An quận Trấn Yên này cũng vậy. Tôi nghĩ, chúng ta thua trận gần hai năm rồi, nhưng có vẻ như chúng ta thắng cộng sản về chính nghĩa th́ phải. Bởi v́ qua nét nh́n, người dân xă hội chủ nghĩa vùng rừng núi nơi đây dù chưa thể xem là tiêu biểu cho cả miền Bắc, nhưng rơ ràng họ cư xử với chúng tôi có đạo nghĩa. Tôi nghĩ, điều đó không mang ư nghĩa của ḷng thương hại, mà là ư nghĩa của sự đồng cảm ư thức chính trị. Phải chăng, sự thua trận của chúng ta lại giúp cho người dân có cơ hội cũng như hoàn cảnh nhận định được chế độ nào là chính nghĩa? Trong cái rủi (ro) có cái may (mắn), trong cái nguy (hiểm) có cái cơ (hội) là thế. Chúng tôi vẫn tiếp tục quan sát để có được nhận định vững vàng hơn”.
    Tổ nấu bếp ở trại này là chuyên nghiệp, nghĩa là không luân phiên như ở trại Long Giao hay Tam Hiệp trong Nam. Anh Nguyễn Kỳ Nguyện (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) nấu nước, anh Cao Văn Phước (Đại Tá Quân Vận) với anh Lê Ngọc Ẩn (Đại Tá Quân Cụ) nấu thức ăn, anh Nguyễn Hữu Phước (Đại Tá Quân Cảnh) nấu cơm.
    Cung cấp củi cho nhà bếp là Tổ của anh Tạ Đ́nh Siêu (Đại Tá Thiết Giáp). Họ ấn định “chỉ tiêu” mỗi người/một ngày một bó từ 25 đến 30 kí lô. Ai lấy đủ th́ nghỉ, bằng không th́ chiều đi tiếp. Củi là chặt cây rừng trên các đỉnh núi, cột lại từng bó. Xuống chân núi, phải qua sự kiểm soát của tên vơ trang. Hắn ngắm nghía xem chừng đủ chỉ tiêu th́ hắn dắt về, giao cho nhà bếp. Các bạn trong nhà bếp, cứ đẩy nguyên bó cây xanh tươi đó vào ḷ, một lúc th́ cháy thôi.
    Ngạc nhiên thứ năm.
    Tổ chúng tôi là Tổ cơ động, nên hết việc này họ bảo làm việc kia mà hầu hết là leo núi đốn cây. Đầu tiên là đốn cây cung cấp cho mấy Tổ kia cất thêm căn trại. Cứ sáng sớm, mỗi người lănh vài củ khoai ḿ cho vào túi áo treillis, lon guigoze nước chín xách tay, đến nhà kho gặp anh Tạ Văn Kiệt (năm 1955 là Quận Trưởng Quận Trà Ôn, Vĩnh Long) mượn dao. Tên vơ trang dắt đến chân núi, hắn chờ ở đó và chúng tôi cùng leo núi. Tổ chúng tôi 20 người, khi lao động phải từ 17 người trở lên, nếu dưới con số đó th́ tên quản giáo là Trung Úy Bật hạch hỏi đủ điều. Nhức đầu lắm! V́ những cây dùng làm cột nhà có đường kính từ 20 phân tây trở lên nên nặng lắm. Đến những cây dùng làm kèo làm đ̣n tay cũng không phải là nhẹ. Anh em chúng tôi kết lại thành từng nhóm để giúp đỡ lẫn nhau. Tôi, anh Hồ Văn Thành, anh Nguyễn Văn Sang (Đại Tá Tiếp Vận), anh Trần Văn Lễ (Đại Tá Tiếp Vận) một nhóm. Anh Sang với anh Lễ kém sức khỏe, khi lên núi xuống núi, hai anh ḅ nhiều hơn là đi, do vậy mà tôi với anh Thành trợ giúp. Lên đỉnh núi, thường khi phải theo đường đỉnh đi từ núi này sang núi kia, đôi khi phải xuống thung lũng t́m cây đúng với nhu cầu của Tổ cất nhà. Tôi với anh Thành đốn cây, anh Sang với anh Lễ t́m chặt dây cột lại thành bó để khi lăn xuống núi không bị văng tứ tung. Vác đến triền núi, hai người nắm chặt hai đầu bó cây, tôi chụm hai tay lại rồi nói thật to cho âm thanh phóng đi xa để báo động người bên dưới tránh xa dù có thấy hay không thấy người nào:
    “Chú ư. Chú ư. Chúng tôi phóng cây xuống.”
    Báo động xong, tôi đếm đếm một, hai, ba, hai bạn cùng buông tay cho bó cây lăn xuống chân núi. Trông cái cảnh ấy gợi cho anh Lễ nhớ lại truyện Trung Hoa ngày xưa. Anh vắn tắt cho bớt nỗi nhọc nhằn:
    “Tôi nhớ cái trận đánh mà ông Tiết Nhơn Quư chinh đông chinh tây ǵ đó, khi địch quân bao vây từ chân núi tiến lên, ông ta áp dụng chiến thuật “dứt dây lăn gỗ” giống như chúng ḿnh vừa rồi đẩy bó cây xuống núi. Vậy mà ổng gây thiệt hại nặng nề cho quân địch v́ không tránh vào đâu được.”
    Anh em cười x̣a, cùng nhau xuống núi.
    Cũng cái hôm ấy, khi vác cây trên đường đỉnh để xuống núi, trông thấy một ông có lẽ cũng khoảng 50-60 ǵ đó đang ngồi ôm đứa con trai trong ḷng, chúng tôi dừng lại nhưng cũng ngài ngại v́ không biết thái độ ông ta đối với chúng tôi ra sao. Thấy ông không có vẻ ǵ phản đối, tôi hỏi:
    “Cháu làm sao mà ông ôm cháu vậy?”
    Nh́n chúng tôi một lúc, ông đáp:
    “Cháu nhà tôi bị sốt rét ông à! Ở đây người ta chỉ phát cho mỗi thứ thuốc xuyên tâm liên không trị được ǵ hết.”
    “Nếu ngày mai ông với cháu có đến đây, tôi sẽ tặng cháu vài viên thuốc uống chống sốt rét. Ông cho cháu uống thử xem sao”.
    “Cám ơn ông. Mai tôi chờ ở đây. Ông coi chừng mấy đứa bộ đội bắt gặp là nó phạt ông đó.”
    Ngày hôm sau là ngày chót của Tổ chúng tôi đốn cây trên núi này. Tôi gặp ông già và đứa bé áng chừng 10 tuổi, nhưng thật sự th́ cháu 16 tuổi. Thiếu dinh dưỡng mà! Tôi đưa ông già 10 viên Chloroquine và dặn mỗi ngày uống một viên. Tôi quá đổi ngạc nhiên về sự vui mừng của ông già:
    “Ông cho cháu uống thử chớ tôi không dám chắc là cháu hết bệnh ngay đâu, v́ tôi không phải là thầy thuốc.”
    “Tôi mừng v́ ở miền Bắc này có bao giờ tôi trông thấy thuốc ngoại đâu, tôi tin là cháu sẽ hết bệnh.”
    Từ hôm sau tôi không có dịp gặp ông cho đến một hôm. Hôm ấy chúng tôi sang dăy núi khác để đốn cây chổm lợp nhà, làm vách nhà, và làm vạt giường nằm, xa hơn khu vực đốn cây làm cột nhà. Khi vừa lên đến đỉnh núi, tôi trông thấy ông với đứa bé mạnh khỏe. Ông nh́n qua nh́n lại, tôi đoán là ông sợ có thằng vơ trang đi theo, tôi nói ngay:
    “Bộ đội vơ trang ở dưới đường chớ không theo chúng tôi. Ông sợ anh ta trông thấy phải không?”
    Hai bàn tay ông già nắm lấy tay tôi thật chặt, miệng ríu rít:
    “Cả gia đ́nh tôi cám ơn ông. Cháu chỉ uống viên đầu tiên là hết sốt rét, tôi cho cháu uống thêm 2 viên nữa, mấy viên c̣n lại gia đ́nh tôi chia cho hai đứa cháu cũng bị sốt rét. Tất cả chúng nó khỏe hết rồi. Thuốc ngoại hay lắm ông ơi!”
    “Sao ông biết chúng tôi đốn cây ở đây mà chờ?”
    “Mấy hôm tôi đến chỗ cũ không gặp ông, tôi phải t́m hỏi măi mới biết là Tổ đốn cây của ông đă chuyển sang đốn chổm. Tôi đoán mấy ông đốn ở núi này nên tôi chờ. May quá, được gặp ông.”
    Rồi ông xuống giọng như tâm t́nh:
    “Gia đ́nh tôi nghèo lắm, có cơm độn ngày hai bữa là khá rồi. Tôi có mang biếu ông hai củ lang (khoai lang) ông nhận giùm tôi. Ơn của ông to lắm.”
    Vừa nói ông vừa bước đến gốc cây, dùng tay bươi đám lá khô lôi ra cái gói lá chuối, sau khi thổi bụi trên củ khoai, ông cầm hai tay run run đưa tôi làm tôi xúc động thật sự. Sự xúc động của tôi một phần v́ hai củ khoai mà tôi nghĩ có thể ông trích trong phần ăn của gia đ́nh ông, phần khác là thái độ cùng cách xử sự của ông đối với anh em chúng tôi nói chung và với tôi nói riêng. Ông đă lặn lội t́m cách gặp tôi để đền ơn mà không ngại núi rừng, cũng không sợ bị tên quản giáo hay vơ trang bắt gặp, nếu không phải là tấm ḷng th́ ông đâu cần phải hành động như vậy. Nhưng ở đây tôi c̣n nh́n sang hai góc độ nữa:
    Một là góc độ chính trị. Rơ ràng là người dân xă hội chủ nghĩa nơi đây không phải ai cũng ủng hộ chế độ cộng sản. Sống trong ḷng chế độ nhưng sự phản kháng vẫn tiềm ẩn trong ḷng họ, có cơ hội thích hợp là họ bộc lộ như trường hợp ông già nêu trên.
    Và hai là góc độ kinh tế. Cả một quốc gia chỉ uống toàn thuốc “xuyên tâm liên” th́ một dân tộc bệnh hoạn yếu đuối là đúng thôi! Tuy ông chưa biết công hiệu của viên thuốc ra sao, chỉ cầm trong tay viên thuốc ngoại quốc đă đủ làm cho ông tin tưởng con của ông hết bệnh rồi. Tội nghiệp cho người dân 20 năm xă hội chủ nghĩa này biết bao!
    Anh Nguyễn Phán đi lạc.
    Mời quí vị quí bạn thử theo chúng tôi lên núi đốn cây chổm một lần nhé!
    Đường dẫn đến vùng núi có nhiều cây chổm có ḍng suối mà chúng tôi phải lội qua. Lúc không mưa th́ mực nước ngang lưng quần, khi mưa lớn hoặc mưa nhỏ mà liên tiếp vài ngày, mực nước có thể cao đến tận cổ. Những lúc như vậy, mọi người muốn mặc áo quần ướt hay khô là tùy. Muốn khô phải cởi trần trụi ra lội sang bên kia bờ mặc lại, nếu muốn ướt cứ để nguyên qua suối. Rồi bắt đầu leo núi. Độ dốc của núi này khá cao, có lúc chân bước lên là đầu gối chạm vào triền núi. Anh nào lên đến đỉnh trước th́ ngồi chờ, đủ mới đi. Phải theo đường đỉnh qua ba ngọn núi, rồi tuột xuống lưng chừng thung lũng sâu mới t́m thấy rừng chổm. Thung lũng này dốc cao lắm, không thể bước được mà là tuột dốc từ từ. Đốn được một cây chổm đă khó v́ nó chen chúc nhau rất dầy nên đưa được cây dao vào vị thế để chặt không phải dễ. Chặt xong phải giữ nó lại, nếu không th́ nó tuột luôn xuống tận đáy thung lũng, vừa phí sức vừa không đủ số lượng mà tên quản giáo ấn định!
    Chưa hết, tôi phải chuyển ngược từng cây lên hướng đỉnh cho anh Thành. Hành động này rất nguy hiểm! Nếu chẳng may anh Thành ở trên nắm không chắc, cây chổm lao xuống sườn núi rất có thể nó đâm thẳng vào tôi một cách ngọt xớt v́ cho dẫu trông thấy nó lao xuống cũng không dễ ǵ tránh được v́ chỗ đứng rất khó xoay trở!
    Anh Thành có sức khỏe, rất tốt với bạn nhưng thị lực rất kém, suưt nữa anh bị cây chổm xé mặt khi luân phiên tôi đứng trên, anh đứng dưới đốn chổm chuyền lên tôi. Anh chặt nhát dao thật mạnh, cây chổm ngă dần xuống hướng triền núi, bất ngờ phần c̣n lại của gốc chổm tét làm hai và bật mạnh lên. Rất may, trước khi xuống nhát dao anh đứng xéo qua một bên để giữ thế, nếu không th́ phần tét ra của cây chổm chém nát mặt anh chớ không vừa. Khi cây chổm bị tét ra nó nhọn và rất bén, nó mà đâm vào da thịt con người th́ khiếp lắm quí vị quí bạn à!
    Nhiều lần chúng tôi trông thấy bọn quản giáo với vơ trang làm heo, họ dùng ngọn cây chổm vạt nhọn, thọc vào cổ con heo. Cả cơ thể con heo oằn oại miệng la eng éc. Con heo càng la, họ càng ấn sâu khúc chổm vào, rồi kéo ra đẩy vào cho máu theo khúc chổm chảy vào cái thau phía dưới. Trông cách thọc huyết heo của họ dă man quá! Vậy mà họ cười một cách thích thú, cứ như họ vừa lập được thành tích vậy. Thật không thể tưởng tượng tính dă man của cái đám cháu của ông Hồ!
    Có một anh Thiếu Úy bị bắt khi Ban Mê Thuột bị tấn công chiếm đóng hồi tháng 3 năm 1975, chúng nó đưa anh ấy ra Bắc trước, và năm 1976 nhập vào chúng tôi trong Nam ra nhưng khác trại. Khi chặt chổm, chân trái của anh sát cây chổm mà cây dao của anh rất bén, anh lại c̣n trẻ nên khỏe so với chúng tôi. Chỉ một nhát dao cây chổm đứt ĺa, nhưng bắp đùi của anh cũng bị chiều dài lưỡi dao phập vào khá sâu. Về sau chúng tôi không rơ cái chân của anh như thế nào nữa!
    Họ ấn định chúng tôi mỗi người 10 cây, dài ít nhất là 5 thước. Tuy “thịt cây chổm” không dầy bằng “thịt cây tre” nhưng 10 cây tươi cũng nặng lắm. Khi tuột xuống triền chỉ có con dao trên tay đă thấy khó khăn, khi chuyển được cây chổm trở lên càng khó khăn hơn nữa! Nhưng vẫn phải làm bằng tất cả sức lực cộng với mức độ nguy hiểm không phải là thấp! Trở về đến đỉnh cuối cùng, chúng tôi cùng nhau ngồi lại nghỉ chân trước khi xuống ḍng suối, mạnh ai người ấy moi hai củ khoai ḿ trong túi ra ăn. Ăn khoai ḿ, ăn cả mùi mồ hôi chen lẫn trong mùi quần dơ với nước suối đục ngầu trong đó! Nh́n mặt trời ngă về tây khá lâu, chúng tôi đồng ư với nhau là xuống núi, đưa những bó chổm qua bên kia ḍng suối. Chúng tôi tự quyết định với nhau, v́ tên quản giáo với tên vơ trang chờ bên kia suối.
    Tên vơ trang đi tới đi lui nh́n mấy bó chổm. Xem chừng đủ số lượng ấn định nên hắn làm thinh. Xong hắn đếm từng người, hắn hỏi vội:
    “Anh Hoa. C̣n một anh nữa đâu?”
    “Tôi làm sao biết bộ đội.”
    “Anh khẩn trương xem lại mất anh nào?”
    Tên này thường dùng chữ “khẩn trương” khi thúc hối chúng tôi nhanh lên, cho nên chúng tôi khi nói với nhau về hắn, không cần nói tên mà chỉ dùng chữ “khẩn trương” là hiểu.
    Tôi kiểm lại, măi một lúc mới nhận ra:
    “Báo cáo bộ đội, c̣n thiếu anh Phán. Anh ấy yếu lắm, có thể v́ vậy mà ảnh về chậm.”
    Hắn quát ngay: “Các anh phải lên núi t́m. Khẩn trương lên.”
    Trời đất ơi! Giờ này nghe nói đến lên núi, cơ thể như ră rời làm sao mà đi nỗi. Anh em chúng tôi nh́n nhau như muốn nói với nhau rằng: “Tôi đuối rồi”. Không ai nói năng ǵ cả. Hắn quát lớn hơn:
    “Khẩn trương lên. Tại sao các anh ngồi yên đó?”
    Không nh́n nhau nữa mà mỗi người nh́n thẳng về phía trước, chừng như vừa lo cho bạn, vừa lo cho ḿnh. Chẳng đặng đừng, tôi đứng dậy:
    “Báo cáo bộ đội. Tôi đi.”
    “Hai anh nữa đi với anh Hoa. Đề pḥng nguy hiểm.”
    Không hiểu chữ nguy hiểm mà hắn dùng, là hắn sợ thú rừng giùm tôi hay sợ tôi nhân cơ hội này trốn trại?
    “Không được đâu bộ đội. Các bạn tôi mệt lắm rồi, cần phải lấy sức vác chổm về nữa. Một ḿnh tôi đủ rồi.”
    Nói xong là tôi đi luôn. Anh Hồ Văn Thành chạy theo. Tôi nói ǵ anh ấy cứ một mực cùng đi với tôi. Thế là hai chúng tôi cởi áo quần lội qua suối. Lên đến đỉnh núi đầu tiên là tôi với anh Thành luân phiên, dùng hai tay chụm lại đưa lên miệng làm ống loa: “Anh Phán ơi! Anh Phán!” Tôi gọi không to lắm nhưng giữ hơi ngân dài để âm thanh đi được xa. Từ trên cao gọi xuống thung lũng âm thanh đi xa lắm. Cứ mỗi tiếng gọi, âm thanh từ các triền núi chung quanh dội lại rất rơ. Hết đỉnh núi này sang đỉnh núi kia, tôi với anh Thành đều cất tiếng gọi như vậy. Đến thung lũng thứ ba bên trái thung lũng cây chổm, sau “tiếng loa” của anh Thành, tôi nghe tiếng anh Phán như xa lắm:
    “Tôi .. đây .. nè!”
    “Anh nghe tiếng chúng tôi rồi, anh hăy đi về hướng chúng tôi đi.”
    “Không .. được. Tôi .. không .. dám .. đi .. nữa. Tôi .. sợ .. lắm.”
    “Anh ngồi yên đó. Khi tôi gọi th́ anh lên tiếng để chúng tôi t́m đến anh.”
    Chúng tôi theo đường ṃn quanh co xuống thung lũng theo hướng có tiếng nói của anh ấy:
    “Anh Phán ơi! Hăy lên tiếng giùm coi, chúng tôi xuống đến thung lũng rồi.”
    “Tôi . đây . nè. Tôi . đây . nè.”
    “Tôi nhận ra hướng của anh rồi. Anh đứng dậy và nắm cái cọng ǵ đó quơ qua quơ lại cho chúng tối thấy đi.”
    Và rồi chúng tôi đến nơi. Hóa ra khi anh vác bó chổm lên đường đỉnh, lại không để ư đến ngă ba nhỏ xíu để quẹo trái theo đường đỉnh mà ra điểm tập trung, lại đi thẳng theo đường ṃn xuống thung lũng bên này.
    “Tôi sợ quá hai anh ơi! Tôi nghĩ là chết ở đây chớ không thể nào về được. Nghe tiếng hai anh tôi mừng quá, nhưng không đủ can đảm đứng dậy đi về hướng mấy anh, sợ đi lạc xa nữa.”
    “Bó chổm anh đâu?”
    “Đằng kia ḱa. Tôi không vác nỗi đâu. Về trại nó làm ǵ tôi th́ làm.”
    “Tụi ḿnh lớn tuổi rồi, không nên để thằng nhóc đó nó mắng. Bây giờ tôi với anh Thành vác cho anh, nhưng từ chỗ tập trung về trại, anh cố gắng nghe.”
    Chúng tôi về đến điểm tập trung, tôi thuật lại sự kiện anh Phán đi lạc, vậy mà hắn vẫn hạch hỏi:
    “Tại sao anh đi lạc?”
    Tôi đỡ lời v́ anh Phán đâu đă hoàn hồn:
    “Bộ đội thông cảm, anh Phán c̣n run sợ lắm, chưa đủ b́nh tỉnh để trả lời bộ đội đâu. Nếu nhớ đường về th́ đâu có ai đi lạc bao giờ.”
    “Tất cả đi về.” Hắn quát nhưng nhẹ thôi.
    Thừa lúc hắn đến phía trước kiểm lại từng người, tôi rút một cây anh Thành rút một cây cho vào bó của chúng tôi, giúp anh Phán đỡ nặng. Chúng tôi khệnh khạng rồi cũng về đến trại. Lội suối tắm xong, chờ lănh phần ăn trưa lẫn phần ăn chiều gộp lại ăn một lần cho no. Anh em khỏe muốn được đi lao động “thông tầm” tức là đi từ sáng đến chiều, nhịn đói một chút để buổi chiều có được hai phần ăn, tức hai cái bánh bột ḿ luộc. Gần đây chúng nó cho chúng tôi ăn bánh bột ḿ luộc, trông như cái bánh bao nhưng hoàn toàn chỉ có bột mà thôi. Số bột ḿ này do một quốc gia nào đó ở Châu Âu (dường như là Thụy Điển) viện trợ, họ bán cho dân thay khẩu phần gạo + bắp, nhưng người dân không quen ăn nên đưa vào trại tù chính trị chúng tôi. Bánh bao bột ḿ luộc bằng cái chén nhỏ, chấm với muỗng nước muối và mấy cọng rau muống gọi là canh. Ở đây họ không cho ăn muối hột v́ họ sợ chúng tôi trữ lại để trốn trại, nên họ buộc nhà bếp bỏ muối vào nồi đổ nước vô ḥa tan, một muỗng nước muối là phần ăn mặn của mỗi tù chính trị chúng tôi.
    Ăn cắp thức ăn của trại.
    Thường ngày trong mỗi bữa ăn, anh Nghĩa chuẩn bị một rổ rau má. Rau má ở khu rừng này “mập” lắm, cọng lớn lá to. Anh Nghĩa rửa thuốc tím hẳn ḥi. Cứ mỗi miếng ăn kèm theo một cuộn rau má chấm mắm tôm. Buổi chiều ba anh em chúng tôi -Anh Nghĩa, anh Điệp, và tôi- ăn no là nhờ độn rau má. Những hôm tôi đi thông tầm có hai phần ăn trong bữa ăn chiều, tôi chia làm ba phần nhưng anh Nghĩa với anh Điệp không nhận. Hai anh cho rằng tôi lên núi vất vả, cần giữ sức khỏe hơn. Một hôm anh Nghĩa lần ṃ sang bên kia triền núi, nơi có rẫy khoai lang họ đă đào lấy củ rồi, nhưng anh cũng mót được khoảng 20 củ chỉ bằng ngón tay út. Anh lại mang cái gà-mèn xuống tận thung lũng nấu được lon guigoze chè. Nuốt vào đến đâu nghe ngọt lịm đến đó. Thật ḷng mà nói, không phải chúng tôi ăn, mà là chúng tôi thưởng thức đến tận cùng cái chất bột của khoai ngấm trong đường, cái chất ngọt của đường ḥa trong chất the the của lá gừng ăn cắp. Cho nên chỉ ăn có chén chè nhỏ xíu mà thời gian bằng cả bữa ăn. Ngon lắm quí vị quí bạn à!
    Do được ăn khoai lang, tôi nghĩ đến cách ăn cắp khoai ḿ mà người miền Bắc gọi là sắn. Cứ sau Tết Nguyên Đán, chúng nó bắt tù chính trị chúng tôi trồng khoai ḿ trên hằng chục ngọn đồi quanh trại giam, thế nhưng tên vơ trang ngồi trên cḥi cao dễ bắt gặp lắm, v́ khi ḿnh nắm cây khoai ḿ kéo lên th́ ngọn cây lắc lư là nó báo động đến bắt ngay. Tôi nghĩ cách, và thực hành luôn. Tôi may cái túi nhỏ, dùng cây kim tây ghim vào bên trong nách áo. Miếng kim khí mài sẳn thay con dao đem ra ngoài trại giấu trước. Những khi lao động gần các ngọn đồi khoai ḿ, giờ trưa chui vào khoảng giữa, dùng miếng kim khí như lưỡi dao moi từ từ tránh đụng vào thân cây khoai ḿ, mỗi cây chỉ khứa lấy một củ thôi, v́ lấy hai củ cây sẽ ngă khi có gió. Chỉ cần 2 hoặc 4 củ tùy lớn nhỏ là đủ cho một lần ăn. Lột vơ chôn xuống đất ngay gọi là phi tang dấu tích. Xuống suối rửa, khứa nhỏ, cho vào cái túi gài trong nách áo.
    Đến giờ về, cứ thản nhiên vào cửa v́ trên tay không mang theo ǵ hết nên không bị xét. Chưa xong đâu. Khi về trại, nhét vào lon guigoze, cho vào miếng đường tán, cho nước vào, đậy nắp lại, xách ṭn teng đi xuống xuối như đi lấy nước vậy. Nhà bếp sát lối đi xuống suối. V́ họ cấm nấu, nên khi ngang nhà bếp phải nh́n trước ngó sau, lượm thanh cây nhỏ xỏ vào cái quai đẩy lon guigoze vào sát một bên ḷ đang nấu. Bước ra tức th́ và xuống suối làm bộ rửa tay, rồi lên trại. Chừng một tiếng đồng hồ sau lại lảng vảng nhà bếp, thuận tiện là kéo lon guigoze ra, xách về. Đến khi tiếng kẻng ngủ, tôi với anh Nghĩa mới đem ra ăn. Ăn sớm sợ các anh khác thấy rồi nói tới nói lui đến tai tụi quản giáo hay vơ trang biết được là nguy lắm. Nếu c̣n đường th́ ăn chè, hết đường th́ ăn khoai luộc, miễn no là được rồi.
    Cũng v́ ăn cắp mà tôi đă một lần bị hạch hỏi, nhưng từ đầu đến cuối đều chối nên không bị phạt biệt giam. “Biệt giam” là nhốt vào một chỗ chật hẹp, tay chân bị c̣ng lại, khẩu phần ăn chỉ bằng một nửa. Mấy ngày họ mới cho ra ngoài tắm một lần. Nhưng không phải tôi ăn cắp khoai ḿ mà là ăn cắp trứng gà. Thật ra nói tôi ăn cắp cũng không hoàn toàn đúng, v́ không phải tôi sang chuồng gà ăn cắp. Chẳng là một hôm khi giao củi cho nhà bếp xong, tôi về chỗ nằm tḥ tay lên cái kệ bằng cây chổm trên mái nhà để lấy quần áo xuống suối tắm. Dọc theo vạc giường cây chổm làm chỗ ngủ của chúng tôi, nếu nằm ngửa nh́n lên trần nhà th́ trên đó có cái kệ để đồ dùng. Tôi đụng vật lạ trên đó như là cái trứng, cầm xuống hóa ra là cái trứng gà. Tôi chưa biết phải làm sao, lúc ấy các bạn Tổ bên kia tắm xong đang vào nhà, tôi vội bóp bể vơ và cho cái trứng tuột vào miệng ngay. Quí vị quí bạn ơi, tôi ăn sống cái trứng gà đó. Và ngày nào tôi cũng “ăn cắp” một cái trứng gà và ăn như vậy. Thật t́nh tôi không biết là con gà mái leo lên đó đẻ lúc nào, cứ có cái trứng là ăn mà chẳng cần biết ǵ thêm. Một hôm khi vào nhà th́ con gà kêu oác oác rồi cục tác cục tác. Hóa ra chị gà ta hôm ấy đẻ “trễ giờ”, thay v́ đẻ lúc sáng hay trưa ǵ đó, hôm nay đến chiều mới đẻ nên tôi mới có dịp trông thấy. Thế nhưng thời gian tôi được ăn cái trứng gà kéo dài chỉ được gần hai tuần th́ tên quản giáo gọi tôi sang văn pḥng trại: “Anh ăn cắp trứng bao lâu rồi?”
    “Tôi đâu có ăn cắp trứng cán bộ.”
    Tôi có ư xỏ hắn khi tôi nhấn mạnh âm thanh trứng cán bộ!
    “Con gà đẻ ở chỗ nằm của anh mà anh c̣n nói không có.”
    “Không. Tôi không hề thấy con gà nào đến chỗ tôi cả. Nhưng mà gà đẻ ở chuồng chớ sao đẻ ở chỗ tôi nằm”
    Im lặng một lúc, hắn quát: “Tôi bắt gặp là anh biết tay tôi.”
    Thế là con gà mái bị nhốt vô chuồng nên không sang đẻ ở chỗ nằm của tôi nữa. Cũng may, nếu nó không bị nhốt mà nó tiếp tục sang chỗ tôi để đẻ th́ nguy. Tôi biết anh bạn đă “báo cáo” sự việc đó, nhưng tôi thấy không nên viết lại làm chi. Chuyện nhỏ mà.
    Đốn cây.
    Đốn cây rừng với cây chổm làm nhà, nhưng không có dây th́ làm ǵ cột với kèo và đ̣n tay dính vào nhau. “Cây dang” (có thể tôi viết không đúng chữ) cũng là ḍng họ của tre, trúc, chổm, dùng làm dây cột rất chắc. Nhưng loại này mọc ở những chỗ nguy hiểm lắm, đốn dang khốn khổ hơn đốn chổm nhiều. Dang chẻ được nhiều dây, rất dai.
    Đây là đoạn đường chúng tôi lần ṃ từng bước đến rừng dang. Thời tiết vào đông, vùng núi rừng Tây Bắc này nhiệt độ khá thấp so với đồng bằng Sông Hồng. Nhóm chúng tôi đi đốn dang gồm năm người: Anh Huỳnh Thanh Sơn, anh Hồ Văn Thành, tôi, và hai anh nữa mà tôi không nhớ. Tên vơ trang dắt đi khoảng 3 cây số trên đường liên tỉnh Hoàng Liên Sơn - Lai Châu, đến ngă ba có cái ḷ gạch bên đường là quẹo xuống suối với mực nước lưng chừng đầu gối. Ḷng suối nhiều đá lởm chởm. Chúng tôi phải b́ bỏm ngược ḍng suối dưới những tàng cây phủ xuống đến mặt nước, có lúc phải dùng tay đẩy những cành lá sang một bên để có lối đi. Trên thí ánh mặt trời không soi sáng được bao nhiêu, dưới th́ nước mùa Đông quá lạnh. Tấm vải nhựa dùng làm áo mưa phủ từ bờ vai xuống đến lưng quần, chống đỡ phần nào cơn mưa phùn lất phất từ lúc ra khỏi trại.
    Chúng tôi đi như vậy với khoảng cách tương đương đi trên đường, mới đến khu rừng cây dang. Thân cây dang lớn hơn cây chổm nhưng ngắn. “Thịt cây dang” rất dầy. Lóng cây dang ngắn so với lóng cây chổm hoặc cây nứa trong Nam. Độ rỗng ruột như cây tầm vông trong Nam. Vơ có những đốm mốc chớ không trơn láng như cây chổm hay cây nứa. Cây dang không lên thẳng đứng mà lại oằn thấp gần như song song với mặt đất. Chui vào chặt được nó rất khó, kéo được nó ra khỏi “bà con ḍng họ nó” càng khó hơn. Cuối cùng, mỗi người chúng tôi cũng có được một bó 6 cây nhưng gian nan hơn 10 cây chổm rất nhiều. Dưới cơn mưa nhẹ giữa đám rừng dang âm u với tiếng muỗi vo ve không ngưng nghỉ, chúng tôi lôi trong túi ra mấy củ khoai ḿ pha trộn nhiều thứ mùi bên trong với những vệt đen đúa bên ngoài. Sau khi gọi là ăn xong, vác bó dang lên vai bắt đầu b́ bỏm xuôi ḍng suối cạn lởm chởm đá. Đến ngă ba có ḷ gạch là hết đoạn đường suối, leo lên đường liên tỉnh, về trại.
    Với những cây rừng, cây chổm, cây dang, hơn 300 tù chính trị cấp Đại Tá chúng tôi đă nới nhà bếp vừa rộng vừa thoáng, gian trạm xá trông cũng khang trang. Tổ chúng tôi lại đi đốn cây chổm làm hàng rào ṿng quanh trại để tự rào ḿnh rào bạn! Lần này là loại chổm nhỏ bằng ngón chân cái hoặc lớn hơn chút ít. Họ ấn định mỗi người 60 cây. Loại chổm nhỏ này trên các đỉnh núi gần hơn loại chổm lớn, với lại 60 cây này chắc là nhẹ hơn 10 cây chổm lớn v́ vừa nhỏ vừa ngắn. Nhóm chúng tôi gọi là trợ giúp nhau, vẫn là anh Sang, anh Lễ, anh Thành, và tôi. Lên đến đường đỉnh, tôi với anh Thành cứ đi trước chỉ cần bẻ nhánh cây dọc đường làm dấu cho anh Sang với anh Lễ từ từ đến sau. Đốn đủ cho 4 bó, cũng là lúc anh Sang với anh Lễ chặt dây xong. Cột lại chặt chẽ, chúng tôi vác trở lại triền núi để thả xuống như ông Tiết Nhơn Quí trong truyện dă sử Trung Hoa với chiến thuật “dứt dây lăn gỗ” vậy. Bốn bó xuống núi xong, tôi với anh Thành xuống trước, anh Sang với anh Lễ tuột xuống sau.
    Kiểm điểm đủ người, tên vơ trang bắt cả Tổ xếp hàng đôi để hắn kiểm soát số lượng. Nó đếm từng bó, bó nào thiếu nó đẩy mạnh qua một bên. Cuối cùng là nó mắng:
    “Các anh là những người phản quốc, các anh đă bóc lột nhân dân, bây giờ các anh c̣n qua mặt chúng tôi? Những bó tôi đẩy qua một bên, chỉ có hơn 50 cây thôi. Các anh bỏ cái tính gian dối đó đi, tập sống lương thiện để c̣n nuôi vợ nuôi con. Lần này tôi tha, lần sau các anh biết tay tôi.”
    Tất cả chúng tôi, mặt người nào người nấy dài xuống một cách thảm hại, v́ cái thằng nhóc con nó chửi như tát nước do thiếu vài cây chổm.
    Hắn nói như quát một cách khô khan: “Về trại”.
    Bó chổm lúc nảy không nặng bao nhiêu, nhưng bây giờ th́ quá nặng! Anh Lễ ra dấu bảo tôi chờ. Tôi chầm chậm đến khi anh lên ngang tôi. Anh nói:
    “Theo anh, thằng chó đẻ này chửi tụi ḿnh là do cá nhân nó hay là do chính sách của tụi nó?”
    “Thằng Bật quản giáo đứng im khi thằng vơ trang chửi ḿnh, tôi không cho là vấn đề cá nhân, mà là chính sách của tụi nó sỉ nhục ḿnh, hay ít ra cũng là một loại chính sách không thành văn.”
    Lại bệnh tưởng chết.
    Hôm sau tôi vờ bệnh xuống trạm xá lấy thuốc uống. Khi đến Trại Cốc này, chúng nó bắt buộc chúng tôi phải gói tất cả các loại thuốc lại và đem gởi ở trạm xá, khi có bệnh th́ đến xin nhận lại và uống tại chỗ. Anh Huỳnh Ngọc Lang (Đại Tá An Ninh Quân Đội) là người giữ thuốc của chúng tôi. Nhân đến trạm xá, lần đầu tiên trông thấy anh Dư Thành Nhựt (Đại Tá, Bộ Quốc Pḥng) nhổ răng quá ư độc đáo, nhưng rất công hiệu. Một anh từ ngoài bước vào, tay bụm hàm bên trái, mặt nhăn nhó chứng tỏ là anh đau lắm. Đau răng mà quí vị quí bạn, nó thấu lên đầu chớ giỡn đâu! Anh Nhựt chậm răi như lúc nào:
    “Chịu hết nỗi phải không? Tôi bảo đưa tôi nhổ mấy hôm nay mà không chịu”
    “Anh làm ơn nhổ giùm tôi đi. Chịu hết nỗi rồi.” Anh bệnh nhân rên rỉ.
    “Chờ tôi một phút là xong ngay.”
    Mời quí vị quí bạn xem anh Dư Thành Nhựt nhổ răng như thế nào mà ảnh nói tỉnh bơ. Anh Nhựt bảo:
    “Nhắm mắt lại, chừng nào tôi bảo mở mới mở nghe chưa.”
    Anh nắm tay anh “bệnh binh” dẫn đến sát cánh cửa, lấy sợi dây nhỏ mà anh đă se sẳn, một đầu cột vào chân răng c̣n đầu kia cột vào cánh cửa. Anh nói:
    “Anh vẫn nhắm mắt nhé, ngẩng mặt lên trần nhà đi.”
    Anh “bệnh binh” vừa ngẩng mặt lên th́ anh Nhựt đẩy mạnh cánh cửa nghe cái “phựt”, thế là cái răng theo sợi dây ra ngoài. Một chút máu rướm ra khóe miệng. Sau khi nhét tí xíu bông g̣n vào lỗ chân răng để cầm máu, anh nói:
    “Anh ngồi nghỉ một chút, súc miệng, tôi thay miếng bông g̣n khác là về lán. Hôm nay anh ăn cháo, tôi qua nhà bếp ghi tên cho anh.”
    Phải công nhận là anh Nhựt rất dạn tay. Tôi không rơ trước năm 1975, anh có học Đông Y hay không, nhưng khi anh được chỉ định vào trạm xá trại này th́ anh rất nhiệt t́nh, từ cạo gió, nhổ răng, đi rừng t́m những cây dược liệu về cắt gọt phơi khô nấu nước cho anh em uống. Thật sự có bổ hay không th́ không ai quả quyết, nhưng có điều chắc chắn là nếu uống hết một tô th́ “no bụng”. V́ vậy mà nhiều anh em đến xin “nước bổ” của anh Nhựt. Tôi cũng vậy.
    Giả vờ bệnh, không ngờ lại bệnh thiệt. Tại chỗ nằm, anh Nghĩa bên phải và anh Nguyễn Phán bên trái tôi, mỗi người khoảng 7 tấc (0.7m). Áng chừng giữa đêm, v́ chúng nó bắt gởi đồng hồ nên chúng tôi không biết giờ giấc ǵ hết mà chỉ áng chừng thôi. Tôi biết là tôi thức, nhưng không thể nhúc nhích được để lay anh Nghĩa hay anh Phán thức dậy giúp đỡ, cũng không phát âm thành tiếng để gọi hai anh ấy nữa. Tôi cứ ú ớ, và rên. Chắc cũng khá lâu. Bỗng anh Nghĩa giật ḿnh v́ tiếng ú ớ của tôi. Tôi nghe anh gọi “Anh Hoa. Anh Hoa”, nhưng không thể nào đáp lại được, quai hàm như cứng lại rồi. Anh Nghĩa lật đật ngồi dậy, một tay đỡ đầu tôi một tay anh t́m hộp dầu cù là, v́ thường ngày tôi có nói với anh là tôi để nó dưới đầu nằm để khi anh ấy cần th́ cứ sử dụng, cũng là cách tôi dự pḥng trường hợp này sau lần bị “thương hàn” suưt chết ở trại nhà ngói. Anh xoa dầu vào tay, chân, ngực, cổ, và cạo gió. Tôi ấm người và tỉnh lại. Thở ra một cái thật mạnh, giống như hơi thở bị dồn nén bên trong bây giờ mới đẩy nó ra được là cảm thấy khỏe ngay. Anh nói:
    “Anh bị trúng gió nặng quá. Tôi mà ngủ mê là anh dám đi luôn lắm.”
    “Đúng. Lúc ấy tay chân tôi như đóng băng cứng lại, trong khi tôi cảm thấy nghẹt thở có lẽ v́ không đẩy hơi thở ra ngoài được. Cám ơn anh rất nhiều. Đây là lần thứ hai tôi thoát chết nếu không có anh và các bạn.”

  3. #13
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 6B / Trại tập trung Yên Bái



    Trồng rau và phân bón.
    Từ đầu năm 1977, trại có đủ rau ăn. Rau mùa Đông là bắp cải, trái su-le. Sang Xuân, theo lệnh chúng nó, mấy Tổ trồng rau bắt đầu trồng rau muống. Tổ chúng tôi vẫn là Tổ cơ động nên trước mắt không liên quan đến trồng rau. Phân bón duy nhất là nước tiểu và phân người. Đi tiêu th́ họ nói là “đi ỉa”, nhưng cái món hàng bị đẩy ra ngoài th́ không nói “cứt người” mà gọi là “phân bắc”. Không biết chữ “phân bắc” có phải là phân của người xă hội chủ nghĩa miền Bắc, hay có ư nghĩa nào khác?
    Trong mỗi Tổ trồng rau -phần lớn các anh nhiều tuổi hoặc có bệnh khó trị- cử các toán khiêng nước tiểu từ hộc chứa gần các dăy nhà chúng tôi ở mà họ gọi là “lán”, và khiêng phân bắc đem chứa tại khu trồng rau. Tên quản giáo giao số lượng mỗi sáng ba khiêng và mỗi chiều hai khiêng. Nước tiểu th́ có hai hộc chứa c̣n phân bắc chỉ có một cái cầu, cho nên giữa các Tổ trồng rau phải chia “quyền sở hữu” để xúc và khiêng. Mỗi hai anh có một hoặc hai cái thúng trét bằng nhựa đường để đừng ṛ rỉ, cái xẻng cán dài để xúc phân bắc và cái đ̣n để khiêng. Tôi chứng kiến cái cảnh thật là ngậm ngùi cho cái long đong nghiệt ngă của anh em chúng tôi! Nhưng không thể tránh cái ngậm ngùi đó được, v́ khiêng không đủ số lượng chúng giao là đâu có yên với chúng nó.
    Cái cầu tiêu hai chỗ ngồi dựng sơ sài bên sườn đồi. Chỗ ngồi đi tiêu có chiều cao khoảng 2 thước kể từ mặt đất để người đứng dưới dễ xúc “phân bắc xă hội chủ nghĩa ưu việt”, cho nên khi trong tư thế ngồi mà có những ngọn gió lùa mát ơi là mát. Tôi không nhớ từ đâu ra cái câu “nhất Quận Công nh́ ỉa đồng”. Làm Quận Công sướng ở điểm nào không biết, chớ “ỉa đồng” được hưởng gió mát phải biết. Nhưng cái cầu tiêu này bốn bên có vách che cao chừng 6 tấc đủ che cái mông người tù, nên chúng tôi xếp hạng khi ngồi lên cầu này làm cái việc sản xuất phân bón xă hội chủ nghĩa ưu việt là “Quận Công hạng ba”. Khi hai anh Quận Công hạng ba ngồi bên trên -tôi là một- trong khi bốn anh đến đứng bên dưới xa cột cầu tiêu chừng 2 thước. Hai anh trưởng toán cầm cái xẻng cán dài chống trên nền đất, và giành quyền sở hữu: (trong bản ghi nhớ của tôi có ghi họ tên, nhưng tôi nghĩ là không nên viết vào đây)
    “Hôm nay là Tổ tôi, sao anh đến?”
    “Th́ anh cứ lấy thúng đó đi, thúng sau cho tôi v́ Tổ tôi cần lắm.”
    “Đâu được. Tổ tôi cũng cần như Tổ anh. Tới phiên Tổ nào th́ Tổ đó lấy chớ chơi ǵ kỳ vậy.”
    “Cho một thúng chớ có ǵ đâu mà anh la om ṣm.”
    Rồi anh có quyền sở hữu hôm nay cũng đành “tặng” anh bạn Tổ kia một thúng “phân bón ưu việt” để giữ t́nh bạn tù với nhau trong ấm ngoài êm.
    Thế rồi phân bắc do hai anh “Quận Công hạng ba” vừa sản xuất rơi “lạch bạch” xuống nền đất, lập tức cái xẻng tḥ vào xúc rẹt rẹt cho vào thúng. Xong, dựng xẻng đứng chờ. Hai anh “Quận Công hạng ba” làm xong công việc sản xuất, rời khỏi “nhà máy”. Hai toán khiêng vẫn đứng chờ những “quận công” khác v́ chưa đầy thúng.
    Tôi nghĩ quí độc giả đọc vài ḍng chữ ngắn ngủi trên đây có thể ph́ cười v́ thấy những chữ “hơi khó nghe” mà tôi sử dụng, nhưng khi viết đến những ḍng chữ này tôi phải dừng lại và lặng yên trong giây lát … v́ không nén được những giọt nước mắt xót xa thương cảm, thương cảm chính ḿnh và thương cảm bạn ḿnh! Hơn 30 năm qua, h́nh ảnh ấy vẫn nguyên vẹn trong tôi!
    Đến chuyện mất phân chuồng. Phân của trâu với ḅ gọi là “phân chuồng”. Trong Tổ chăn nuôi có hai anh giữ trâu, cũng là giữ phân trong chuồng để bón lúa. Buổi trưa lùa trâu về th́ hởi ơi, cứt đái của trâu bị “kẻ trộm” vét láng te. Hai anh tức quá, đến các Tổ trồng rau ŕnh. Nhận dạng được “số hàng đă mất”, càu nhàu một lúc rồi huề nhau chớ chẳng lẽ làm ǵ trước cái sự thể ấy.
    Đến lượt tôi đi kiếm phân ḅ, nói huỵch tẹt là “cứt ḅ”. Tổ chúng tôi chuyển sang trồng bí rợ mà cộng sản gọi là bí đỏ. Tên quản giáo giao chỉ tiêu -lại chỉ tiêu- mỗi đầu người phải trồng 5 hốc bí trong một ngày ở một bên triền đồi gần trại. Phân bón là phân chuồng và “phân xanh”. Phân xanh, là loại cây tạp, đúng hơn gọi là bụi cây. Thịt mềm, cao khoảng 5 tấc đến 1 thước. Loại này thường mọc ở những khu rừng chồi. Nhổ đem về chặt từng đoạn 5 phân bỏ xuống hốc bí mà cộng sản gọi là “bón lót”. Xong, bỏ vào mỗi hốc 3 hột bí. Nói là 5 hốc bí nhưng v́ triền đồi toàn đá nên vất vả lắm mới đào được. Gọi là làm phân xanh th́ dễ thôi, nhưng lấy phân chuồng cũng lắm nhiêu khê. Nếu ăn cắp trong chuồng của hợp tác xă, nhỡ bị họ bắt th́ bị phạt là cái chắc. V́ họ bênh họ chớ đâu bênh ḿnh. Có Trại 8 gần Trại Cốc chúng tôi, chỉ khoảng vài cây số là cùng. Chuồng trâu ở đó được xem là lớn nhất trong vùng này, nhưng lại gần cḥi canh nên không dám đến đó. Chúng tôi chia nhau, cứ hai người một cái khiêng đến các chuồng trâu ḅ, ngồi chờ khi nó được thả lên núi kiếm ăn th́ quảy cái khiêng đi theo. Cứ nh́n vào cái đuôi của nó, khi nhổng lên là y như rằng nó “ị”. Cứ dùng xẻng mà xúc cho vào thúng, rồi đi tiếp. Sang ngày thứ nh́ th́ hai chúng tôi có chút kinh nghiệm, khi trâu với ḅ lên dốc chúng “ị” nhiều hơn là lúc xuống dốc hay đứng gặm cỏ.
    Có lúc chúng tôi luân phiên, một đứa ngồi chờ một đứa đi t́m bầy trâu ḅ. Gặp th́ ơi ới gọi nhau cùng đi. Tôi mới ngồi một lúc, có hai cô gái đi trên đường. Đến ngang tôi, một trong hai cô dừng lại:
    “Phải anh mua cải bắp ngoài Sông Hồng tháng trước không?”
    Tôi ngờ ngợ một lúc mới nhận ra:
    “Đúng. Tôi đây cô. Cô đi đâu trong này?”
    “Tôi đi mua heo con về nuôi. Các anh có khỏe không? Sao không thấy các anh ra ngoài ấy mua rau quả nữa?”
    “Cám ơn cô. Anh em chúng tôi cũng khỏe. Vài tuần nay chúng tôi có đủ rau ăn nên trại không dắt đi mua.”
    “Sao anh ngồi đây một ḿnh?”
    “Tôi có người bạn vừa vào rừng. Một lát anh ấy trở ra.”
    “Tôi đi nhé! Các anh giữ sức khỏe để về với gia đ́nh. Chào anh.”
    “Chào cô”.
    Đó là cô gái con của bà Trưởng Công An quận Trấn Yên mà tháng trước chúng tôi đến mua bắp cải của cô ta, cô ta cho chúng tôi rất nhiều lá cải c̣n xanh để làm dưa. Có thể đánh giá là cô ta không thù hận chúng tôi dù là con của Công An. Thế mới biết, dù chế độ có bịt mắt bịt tai bịt miệng mọi người như thế nào đi nữa, đến khi mọi người nh́n ra sự thật, con người vẫn là con người. Chẳng khác đem cây trúc kéo cong thật cong, khi buông ra, thẳng đứng vẫn là thẳng đứng.
    Khi viết lại đoạn trên đây, tôi không có ư nói đến con người mà từ con người dẫn đến sự kiện. Sự kiện một chế độ chính trị kéo tŕ bước tiến tự nhiên dẫn đến t́nh trạng một xă hội chậm tiến và lỗi thời. Đang vào những thập niên cuối của thế kỷ 20, một thế kỷ bùng nổ của thời đại điện toán nhanh chóng và chính xác, thời đại của truyền thông rộng khắp toàn cầu, thời đại của những con người sáng tạo thực tế, thời đại của hợp tác phát triển toàn cầu, thế nhưng Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam đă và đang tiếp tục đẩy dân tộc vào hoàn cảnh sống tồi tệ như vậy mà luôn miệng hô hào “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xă hội!” Không thể nào hiểu được những con người cộng sản ấy!
    Gặp Lê Nghĩa Nhơn.
    Tổ chúng tôi lại leo núi lấy củi, nhưng không phải củi “bồ đề” mà là những cây khô trên các đỉnh núi hoang. Từ xa đứng nh́n, trông thấy cây khô th́ vạch bụi rậm hay chen giữa rừng cây mà tới. Những cây khô trên những núi này thường là rất lớn, đường kính dưới gốc cở 3 tấc (0.3m) trở lên. Chiều cao có cây đến chục thước. Chặt bằng dao rất mệt, chặt ra từng khúc cũng bằng dao càng mệt hơn, mà khiêng về càng mệt hơn nữa. Dốc núi nh́n từ xa tưởng như thẳng đứng, đến gần t́m dốc thoai thoải một chút mà leo. Khi có được khúc cây khô là củi, phải khiêng đến “băi phóng”. Chẳng biết ai đă làm băi phóng, nó có đường rănh vừa rộng vừa sâu, nếu có cái cây đường kính cả thước phóng xuống cũng được nữa. Ở những đỉnh núi trước đây chúng tôi đốn cây làm cột hoặc cây chổm làm nhà, chúng tôi cho nó lăn xuống chân núi, c̣n ở đây chúng tôi phóng những khúc cây khô làm củi từ trên đỉnh chạy theo đường rănh xuống đến sát chân núi. Khi chạy nghe ầm ầm vang động cả khu rừng nghe dễ sợ lắm, v́ chẳng may nó văng ra ngoài rănh là nó va vô gốc cây rồi văng qua văng lại làm những anh đứng phía dưới phải t́m thân cây lớn ẩn núp. Đến chân núi, chúng tôi lăn nó ra băi trống mới có thế để lên vai khiêng về trại. Mỗi khi dừng chân đỡ mệt, chúng tôi phải t́m thế dựng nghiêng nó vào thân cây, để khi tiếp tục th́ hạ dần xuống vai anh Thành rồi dần dần nâng lên vai tôi. Nếu quẳng nó trên mặt đất, đến khi lên vai trở lại rất khó và nguy hiểm nữa, v́ có thể bị nó đè lên người là gảy xương hoặc chết như chơi!
    Hết cây khô trên các đỉnh núi, tên quản giáo và tên vơ trang “khẩn trương” dắt chúng tôi đi hết con đường đỉnh đó, rồi hắn chỉ:
    “Các anh sang bên kia mà t́m”.
    Câu nói ngắn ngủn nghe nhẹ nhàng như vậy mà chúng tôi phải xuống thung lũng sâu mới trèo lên đỉnh núi bên kia được. Đến nơi, mồ hôi ướt đẫm cả áo quần mặt mũi! Ngồi nghỉ một lát, vạch bụi rậm từng bước đến cây khô. Ở đây rất nhiều cây khô mà lại nhỏ nữa, nên có được một bó 25 kí lô không mệt lắm. Đang vác bó củi xuống thung lũng sâu để sang núi bên kia rối leo lên đỉnh nghỉ mệt và ăn trưa, sau đó ra đường đá về trại. Chỉ mới xuống lưng chừng triền núi, nghe tiếng của một bạn từ triền núi bên kia:
    “Phải anh Hoa đó hông?”
    Tôi nhướng mắt nh́n một lúc, nhận ra dáng vấp của Lê Nghĩa Nhơn, người bạn trẻ của tôi:
    “Trời ơi! Anh Hai nè Nhơn”.
    Lê Nghĩa Nhơn, người yêu của cô em gái xa xôi của vợ chồng tôi: Nha Sĩ Phạm Thị Minh. Nhơn nhanh chân tuột xuống thung lũng rồi trèo lên chỗ tôi ngồi ở lưng chừng triền núi. Tội nghiệp, trẻ mà cũng thở hổn hển! Anh em ôm nhau mà rơi nước mắt! Không ngờ lại gặp nhau giữa rừng già hoang vu trên đất Bắc! Chúng tôi tạt qua một bên có khoảng đất nhỏ bằng phẳng.
    “Ngồi đây Nhơn. Em ở trại nào?”
    “Em ở trại 8, gần bệnh xá Liên Trại đó anh”.
    “Anh biết trại đó. Đi trên núi nh́n thấy máng dẫn nước suối từ triền núi bên kia lận mà. Em có được thư nhà và thư của Minh không?”
    “Có anh. Em mới nhận gói quà của Minh cách đây vài tuần. Anh c̣n ngồi đây bao lâu?”
    “Anh ở ngoài rừng này đến chiều mới về. Anh đi thông tầm mà, nếu về sớm nghỉ sớm. Bây giờ anh phải đem bó củi này qua núi bên kia rồi trở lại tiếp anh bạn vác thêm bó củi nữa. Sau đó ăn trưa rồi mới về. Mà chi vậy?”
    “Anh để em vác bó này qua bên kia rồi em về trại lấy thức ăn đem lại cho anh.” Nói xong, Nhơn vác bó củi giùm tôi xuống thung lũng …”
    Trong lúc tôi và các bạn ngồi ăn khoai ḿ th́ Nhơn trở lại. Có lẽ Nhơn chạy nhiều hơn đi, nên mồ hôi ướt cả áo.
    “Anh giữ cái lon guigoze này xài. Bên trong có 2 tán đường của Minh gởi. C̣n củ khoai ḿ là em ăn cắp trên đồi và nấu tối hôm qua.”
    “Đào trộm khoai ḿ của tụi nó cũng là “nghề” của anh mà. Nhơn, ăn với anh một nửa đi”.
    Tôi bẻ làm hai, đưa Nhơn một nửa nhưng Nhơn nhất định không nhận:
    “Em no rồi anh. Khoai này nhiều bột, anh ăn với đường tán ngon lắm. Em có đem theo nước trà xanh cho anh đây”.
    Tôi ăn củ khoai ḿ một cách chậm răi để góp thêm phần “trang trải” cái bao tử đang đói, cũng vừa để thấm thía ḍng t́nh cảm của Nhơn với Minh đối với tôi trong t́nh cảnh tù đày!
    Trà xanh mà Nhơn nói là hái trộm đọt trà của chúng nó, cho vào nước sôi có mùi thơm thoang thoảng, dễ chịu. Trong thời gian ở trại nhà ngói chúng nó bắt đi hái trà, ngày nào tôi cũng ăn cắp rồi cột quanh hai ống chân. Tối về trại lén nấu lon guigoze nước trà xanh, tôi với anh Nghĩa nhâm nhi chẳng khác các bạn nhâm nhi rượu đế. Tháng sau đó, tôi được tin đa số các anh ở trại 8 đă bị chuyển lên Liên Trại ở Thác Bà (nơi có nhà máy thủy điện) xây dựng “khu kinh tế mới” cho người dân vùng biển lên lập nghiệp. Trong số chuyển trại có Lê Nghĩa Nhơn. Từ đó về sau tôi không gặp lại Nhơn.
    Măi đến năm 1991, khi vợ chồng tôi sang Houston, Texas, Hoa Kỳ, được biết Lê Nghĩa Nhơn đă ra trại tập trung và vượt biển sang đây. Nhơn với Minh đă thành hôn trên đất Mỹ. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau đó bị bắn chết trong lúc lái xe trên đường từ chỗ làm về nhà.
    Ngạc nhiên thứ sáu.
    Đến vụ mùa, Tổ chúng tôi chuyển sang làm ruộng. Tổ trồng rau cứ trồng rau, Tổ nhà bếp cứ nấu nướng, Tổ lấy củi chỉ biết lấy củi, Tổ thợ mộc tối ngày cứ đục đẽo, nhưng Tổ cơ động chúng tôi phải làm mọi việc không thuộc những Tổ vừa nói.
    Vùng ruộng mà chúng tôi phải làm là ruộng bậc thang ở đất triền chớ không bằng phẳng như đồng ruộng miền Nam. Ngăn cách giữa bậc thang này với bậc thang kia là một đường đê nhỏ bao quanh giữ nước cho bậc thang trên. Chân của hai triền đồi giáp nhau tạo thành đường thông thủy. Mỗi người lănh một cây cuốc với “chỉ tiêu” 50 thước vuông (50m2), đứng hàng ngang mà cuốc cho đất vỡ lên rồi san bằng. Tiếp theo, cứ hai người một cái gàu với hai sợi dây hai bên miệng gàu, cùng nhịp nhàng đưa nước từ đường thông thủy lên bậc trên, hai anh bên trên lại đưa tiếp lên bậc thang trên nữa. Và cứ như vậy mà đưa nước từ ḍng suối nhỏ lên đến bậc thang trên cùng.
    Khi sẳn sàng để cấy, có nghĩa là đất ở mỗi bậc thang tương đối bằng phẳng, chuyền nước lên đủ rồi, phân chuồng đă bón lót xong, lúc ấy anh Trần Thanh Liêm (Đại Tá Quân Tiếp Vụ) là người phụ trách nhổ mạ. Mạ ở đây khi nhổ để cấy, nó cao chỉ khoảng 10 đến 12 phân thôi (0.12m). Trông cây mạ nhỏ nhắn gầy g̣ đến thảm hại, th́ liệu đến mùa “sinh nở” nó cho được bao nhiêu hột lúa? Khi cấy th́ tù chính trị chúng tôi không cấy, mà có toán thợ cấy hơn chục đàn bà con gái từ Hợp Tác Xă Việt Cường vào cấy “vần công đổi công”. Bà nhiều tuổi nhất đứng nh́n những bó mạ bé tí xíu, lắc đầu, sau khi nhổ toẹt băi nước trầu đỏ choét xuống ruộng, bà vừa cười vừa nói:
    “Mấy ông tướng nhổ mạ kiểu này làm sao bọn tôi cấy được.”
    Không biết chữ “tướng” mà bà vừa nói, là do quen miệng hay có ư vỗ về an ủi hoặc xách mé ǵ chúng tôi đây?
    Tiếng nhỏ nhẹ của cô gái trẻ:
    “Thôi, ḿnh chuẩn bị lại đi, đứng đó mà nói bao giờ mới xong.”
    Thế là cô gái vừa nói vừa tháo các bó mạ ra, xếp từng cọng mạ ngay ngắn gốc ngọn. Trong toán thợ cấy có cô trẻ nhất mà mấy cô trong toán gọi là “thợ cấy chuẩn”. Nhiệm vụ của cô gái này là cấy các đường chuẩn ngang dọc, và các thợ cấy khác theo đó mà cấy sẽ thẳng hàng. Cấy chuẩn xong, cô ta sang mảnh ruộng bậc thang kế tiếp vẫn với nhiệm vụ cấy chuẩn. Thợ cấy, để nắm mạ nhỏ nhắn trên ḷng bàn tay trái, trong khi ngón cái của tay phải tách từng nhúm mạ vài ba cọng, và ấn gốc mạ xuống ruộng. V́ cọng mạ nhỏ như vậy nên thợ cấy không dùng “cây nọc cấy” như thợ cấy ở đồng ruộng miền Nam.
    Một tháng sau, quản giáo với vơ trang hướng dẫn chúng tôi “làm cỏ sục bùn”. Nghe chúng tôi bàn tán cái công việc lạ tai quá, có vẻ như tên vơ trang tưởng chúng tôi nói xiên nói xỏ ǵ đó nên hắn giải thích với giọng khó ưa:
    “Này, đừng có lư luận lôi thôi. Làm cỏ sục bùn là vừa làm cỏ vừa quậy cho bùn lên bồi dưỡng cho cây lúa. Trong bùn có phân đấy. Khẩn trương lên.”
    Mỗi người chúng tôi đứng cách nhau 4 hàng lúa tức khoảng một thước, khom người xuống, mười ngón tay thay cho bàn cào lùa xuống bùn đẩy tới kéo lui giữa hai hàng lúa, ngón tay hơi cong lại cào bùn đất lên c̣n cỏ th́ tróc gốc “lăn quay cu đơ” nổi chềnh ềnh trên mặt nước mà chết tức tưởi.
    Trong khi chờ đợi mùa gặt mà họ gọi là “thu hoạch”, Tổ chúng tôi phải vào xă Việt Cường (quận Trấn Yên) trả công cho toán thợ cấy tháng trước, bằng cách đắp đập làm hồ nuôi cá trắm cỏ. Tại sao gọi đắp đập làm hồ? Vùng này núi rừng trùng trùng điệp điệp. Mỗi hai bên triền núi là cái thung lũng, cứ đắp đập chận hai đầu, chỉ cần dành cái cống nhỏ cho ḍng nước thượng nguồn vào, và cái đập tràn ở hạ nguồn để thoát bớt, là có cái hồ rồi.
    Cứ sáng đi chiều tối về trên đoạn đường dài cộng chung áng chừng trên dưới 12 cây số. Tổ nhà bếp cử một toán theo nấu ăn tại chỗ. Mỗi người mỗi ngày được Hợp tác Xă cấp cho một kí lô khoai ḿ sống để ăn thêm lúc giữa trưa mà họ gọi là “bồi dưỡng”. Tôi thấy ông cụ mặc chiếc áo dạ của quân đội Pháp ngày trước, mà lúc học ở Trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt tôi được lănh để mặc lúc canh gác ban đêm. Ông ta cư xử với chúng tôi phải nói là lịch sự, luôn luôn gọi chúng tôi bằng ông. Tôi bắt chuyện:
    “Xin lỗi cụ. Cái áo dạ này mặc ấm lắm. Ở đây có bán sao cụ?”
    “Không ông ơi! Trước kia tôi là Thượng Sĩ trong quân đội Pháp, tôi giữ cho đến bây giờ đấy. Gia đ́nh tôi cùng nhiều gia đ́nh trong quân đội Pháp ở lại sau Hiệp Định 1954, đều bị chỉ định cư trú vùng này từ năm 1955. Tôi ở Thái B́nh chứ có phải quê quán nơi đây đâu.”
    “Số gia đ́nh chỉ định cư trú ở đây đông không cụ?”
    “Vùng xă Việt Cường này h́nh thành là do các gia đ́nh bị chỉ định cư trú đấy.”
    “Trước khi đến đây, họ có bắt cụ đi cải tạo như chúng tôi không?”
    “Không. V́ tôi là Hạ Sĩ Quan. C̣n Sĩ Quan th́ họ bắt đi hết. Có người cũng đến hai ba năm mới về. Mấy ông bao lâu rồi?”
    “Gần 2 năm rồi cụ.”
    “Họ có nói với mấy ông thời hạn bao lâu không?”
    “Khi thông cáo gọi đi học tập cải tạo họ bảo chuẩn bị cho 30 ngày. Sau 12 lần 30 ngày, họ bắt học tập chính sách cải tạo thời hạn 3 năm, nhưng mù mờ lắm cụ ơi!”
    “Mấy ông tin họ là chết đấy. Tôi chỉ khuyên mấy ông một điều là phải giữ sức khỏe, chớ để bỏ xác ở cái xó rừng này như chúng tôi. Không ai thương mấy ông đâu, chỉ có mấy ông thương mấy ông thôi. Đừngbao giờ nghe hai chữ nhân đạo họ nói”.
    “Cám ơn cụ rất nhiều.”
    Trông thấy tên quản giáo lù lù đến, tôi nói to cho hắn nghe:
    “Cụ ơi! Cụ nói là các cô ấy lột vơ khoai và luộc giùm chúng tôi phải không cụ?”
    “Phải. Mỗi ngày chúng nó làm giúp mấy ông v́ bếp mấy ông có hai người làm sao kịp. Chúng nó là thợ cấy ra cấy vần công cho mấy ông đó.”
    “Kia rồi. Cô gái áo trắng chính là cô thợ cấy chuẩn, phải không cụ? Nhanh tay mà lại thẳng hàng nữa.”
    “Nó giỏi nhất của Hợp Tác Xă này đó ông.”
    Tên quản giáo -Trung Úy Bật- hướng dẫn việc:
    “Các anh vạt triền núi kéo đất ra đắp đập, c̣n hai bên má đập sẽ có trâu của Hợp Tác Xă ra “đầm”. Ngoài dụng cụ mang theo từ trại, Hợp Tác Xă sẽ cho mượn ván để làm bàn trang kéo đất. Tất cả dụng cụ để lại tại chỗ trước khi về trại. Bây giờ các anh tổ chức công việc mà tiến hành.”
    Chúng tôi chia ra: Toán xén đất triền núi, toán dùng bàn trang kéo đất ra mặt đập, toán dùng cuốc san bằng mặt đập. “Bàn trang”, là một tấm ván dầy một chút để dùng được lâu, kích thước ngang 0.4m dài 0.8m. Hai bên hông đóng hai cây đinh lớn để cột dây, và đầu dây cột vào thanh gỗ tṛn do hai người kéo từ phía trước, trong khi người thứ ba từ phía sau, cầm thanh gỗ đóng chặt vào tấm ván để dựng đứng bàn trang lên. Thế là một lượng đất bị cái mặt bằng của tấm ván mà họ gọi là bàn trang đẩy đi. Cứ như thế mà ngày này sang ngày khác trong ba tuần liên tiếp, chúng tôi làm xong cái hồ cho Hợp Tác Xă vừa nuôi cá vừa có nguồn nước tưới cho vùng này.
    Trong thời gian đắp đập, chúng tôi thêm một lần trông thấy bản chất dă man của mấy tên gọi là cán bộ. Chuyện về con chó của tên quản giáo. Một hôm trong lúc giải lao giữa buổi, anh Nguyễn Văn Kim (Đại Tá Tổng Nha Tài Chánh & Thanh Tra Quân Phí) trông thấy tên quản giáo bắt con chó của hắn đem làm thịt. Anh nói:
    “Con chó hắn dắt theo hằng ngày, gọi một tiếng là con chó đến nằm ngay dưới chân. Thế mà chúng nó trói con chó lại rồi đem cắt cổ một cách thản nhiên. Sao chúng nó tàn nhẫn thế! Trông bất nhẫn quá!” Ngưng một lúc anh tiếp:
    “Tôi là dân Bắc Kỳ, tôi cảm thấy dân miền Bắc bây giờ không như dân miền Bắc ngày trước nữa. Ngay cả cái đạo đức gia đ́nh theo cái điều mà thằng Xê coi tụi ḿnh ở Long Giao đă nói, cũng thay đổi hoàn hoàn”.
    Không hiểu do đâu mà tên quản giáo -Trung Úy Khảm- nghe được câu nói của anh Kim, thế là trước khi về trại, nó mắng chúng tôi một trận như tát nước:
    “Chuyện cán bộ ăn thịt chó là chuyện b́nh thường, nhưng anh nào trong số các anh dùng chuyện đó để xuyên tạc cách mạng. Các anh có giỏi th́ buớc ra khỏi hàng mà nhận đi. Các anh đừng tưởng là chúng tôi không biết ư đồ của các anh. Các anh đang làm cái việc lấy nạng chống trời đấy à! Nào, ai nói nhận đi?”
    Anh em chúng tôi im phăng phắc, muốn cười nhưng không dám cười. Muốn cười, v́ nó dùng cái chữ “lấy nạng chống trời”, v́ lúc ở trại tập trung Long Giao tên giảng bài chính trị gọi là giáo viên, hắn ngông nghênh cái mặt mà huênh hoang nào là; chủ nghĩa Mác Lê là vô địch, ba ḍng thác cách mạng là bách chiến bách thắng, Việt Nam ta trong 10 năm tới sẽ vươn lên ngang bằng nước Pháp, ..v..v… Muốn cười, v́ chính họ mới là đám người lấy nạng chống trời đó. (Bây giờ là năm 2008, không biết cái tên “giáo viên chính trị” đó c̣n can đảm để nói theo cái kiểu ấy nữa hay không?)
    Đến chuyện học tṛ xă hội chủ nghĩa. Nơi chúng tôi xẻ núi đắp đập là con đường làng. Ngày nào đám học tṛ tiểu học cũng đi ngang đây, chúng nó thấy mặc đồ “quân đội nhân dân” th́ mấy đứa con trai vừa chạy vừa la:
    “Chú bộ đội lội chuồng heo. Chú bộ đội lội chuồng heo.”
    Tên quản giáo đỏ mặt, và hét: “Ai dạy chúng mầy thế?”
    Tụi nó vừa chạy vừa trả lời tỉnh bơ: “Cô giáo dạy đó. Làm ǵ không?” Và chúng nó biến vào khu vườn mất dạng.
    “Đồ mất dạy.”

  4. #14
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 6B / Trại tập trung Yên Bái
    P2


    Rồi hắn xoay qua hỏi ông cụ: “Tụi này con ai vậy?”
    Ông cụ cũng tỉnh bơ:
    “Cả xóm này đều thế, có biết là con ai đâu. Trẻ con nó hỏng hết anh ơi!”
    Một hôm khác, tụi nhỏ c̣n bạo hơn nhiều. Chúng nó cũng vừa chạy vừa hát:
    “Như có bác Hồ trong chuồng heo hợp tác.”
    Tụi nhỏ chạy nhanh lắm, với lại có rượt nó th́ nó quanh co vào vườn một hồi là không thấy đâu nữa. Tên quản giáo tức lắm nhưng làm ǵ được lũ trẻ, trong khi chúng tôi ngạc nhiên là thằng vơ trang không có phản ứng ǵ cả, hắn ngồi như không có chuyện ǵ xảy ra hết. Chẳng biết là hắn đồng t́nh với tụi nhỏ, hay v́ không rượt theo kịp nên ngồi một chỗ cho khỏe?
    Đến chuyện cúng giỗ. Trong miền Nam từ ngày xửa ngày xưa đến nay, cúng giỗ là một trong những tập quán gia đ́nh, tập quán xă hội. Nhưng trên đất bắc xă hội chủ nghĩa mà cúng giỗ quả là sự kiện lạ. Khi mang dụng cụ vào gởi trong nhà ông cụ, chúng tôi quá đổi ngạc nhiên v́ thấy nhà bên cạnh bày thức ăn cúng bàn ông thiên kê trên chiếc bàn nhỏ ngoài sân. Trong nhà th́ mâm cỗ nhang khói um tùm. Tôi ghé tai ông cụ:
    “Cụ ơi! Họ không cấm cúng giỗ hả?”
    “Cấm chứ. Công An bắt gặp là lập biên bản, rồi kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, phiền lắm ông ơi!”
    “Vậy mà bà con c̣n giữ được phong tục tập quán dân tộc. Hay lắm.”
    Ngần ngừ một lúc, ông cụ hỏi tôi:
    “Chúng nó đưa mấy ông ra đây bằng ǵ?”
    “Anh em chúng tôi đây th́ đi bằng phi cơ, nhưng hầu hết trong số hằng trăm ngàn anh em sĩ quan và viên chức chúng tôi th́ họ chở bằng tàu ra đến Vinh hoặc Hải Pḥng, từ đó họ nhốt trong những toa xe lửa chở hàng hóa với súc vật chuyển đến các trại.”
    “Tôi có nghe dân vùng xă Việt Hồng thuật lại những gian nan của các anh bị nhốt trong đó, khốn khổ lắm! Rồi đây thời gian càng dài, nỗi khổ của mấy ông c̣n nặng hơn nữa chứ không phải thế này đâu.”
    “Cám ơn cụ cho chúng tôi thêm kinh nghiệm từ bản thân của cụ.”
    Ngạc nhiên thứ bảy.
    Ông cụ nói đến xă Việt Hồng (cũng thuộc quận Trấn Yên) sâu bên trong xă Việt Cường, làm tôi nhớ lại những lần đi mua đường mía ở đó mà chúng gọi là mật đường. Mật đường, thật ra nó chỉ là nấu từ mía ra chớ không có ǵ khác. Trước khi vào đây đắp đập, tên Trại Phó kiêm tiếp liệu mà chúng gọi là hậu cần, dẫn một toán 8 người -có tôi trong số đó- mỗi hai người một khiêng khoảng 15 kí lô. Tất cả tiền chúng tôi gởi mà họ gọi là đăng kư, đều do tên này giữ. Anh nào muốn mua bao nhiêu th́ ghi tên, rồi họ chỉ định số người đi mua. Khoảng 8 cây số đường đá, chúng tôi đi ngang Trại 11 và Trại 13, giam giữ các bạn cấp Đại Úy. Do vậy mà chúng tôi mới biết Liên Trại 1 này (trong 6 Liên Trại) có 13 Trại.
    Rẽ vào đường làng. Dân làng thưa thớt, nhà này cách nhà kia khá xa, hầu hết đều quanh quẩn theo ḍng nước giữa hai triền đồi. Chuyện trả giá mua bán và cân đong do 2 tên vơ trang với những người bán đường, tù chính trị chúng tôi không được thông báo ǵ cả. Khi nó gọi vào nhận là nhận chớ chẳng biết trọng lượng bao nhiêu. Chẳng hạn như hắn cho biết mỗi chậu thau 15 kí lô, nhưng thật sự là giữa những thau để cạnh nhau không có cái nào bằng cái nào cả, nhưng không được thắc mắc với hắn.
    Khi mua bán và nhận hàng xong, hai tên vơ trang bảo chúng tôi sang băi đất trống cạnh cửa hàng hợp tác xă mua bán mà ăn trưa. Bên cạnh cửa hàng là trạm xay lúa mà họ gọi là trạm xay xát. Trạm này chỉ có cái máy xay lúa nhỏ xíu, nhỏ đến mức mỗi lần đổ vào đó chỉ một thúng lúa cỡ như cái thúng giê trong miền Nam thôi. Anh Nguyễn Hữu Có đi đâu một lát quay lại:
    “Anh Hoa. Chỗ máy xay lúa có con nhỏ tên Thanh nó đang xay lúa.”
    “Trời ơi! Lạng quạng coi chừng nó mắng à anh.”
    “Hổng có đâu. Ở đây mà có con nhỏ ngồ ngộ mới lạ chớ.”
    “Ở đâu mà chẳng có con gái, trong nhiều đứa th́ thể nào cũng có đứa ngồ ngộ như anh nói thôi. Mà sao anh biết tên nó?”
    “Nghe mấy đứa nhỏ kêu.”
    “Đừng hỏi ǵ nghe anh, tụi con gái xă hội chủ nghĩa nó mắng khiếp lắm. Anh có nhớ lúc ở trại nhà ngói nghe hai bà sồn sồn chửi nhau kinh khủng chớ. Chửi có vần có điệu từ sáng đến trưa, hưu chiến ăn cơm độn bắp xong lại chửi tiếp đến chiều. Dữ thiệt.”
    Tiếng thằng vơ trang từ nhà bên kia đường:
    “Các anh được ăn đường tại chỗ, nhưng không ai được lấy ra mang về trại.”
    Tức là 8 anh em chúng tôi được ăn trong số đường mía mua chung đó. V́ cơ thể thiếu chất ngọt nên anh nào cũng ăn. Phần tôi, cho hai muỗng đường vào gà mèn cơm độn bắp, ăn một cách ngon lành. Ăn xong, vào cửa hàng định mua cái khăn nhỏ để lau mặt. Mang danh là “cửa hàng hợp tác xă mua bán” mà hàng hóa lơ thơ tơ liễu buông mành, kệ th́ nhiều nhưng hàng th́ lác đác. Vào cửa, cô bán hàng đang cho con bú. Lỡ bộ, tôi hỏi luôn:
    “Cô làm ơn bán cho tôi cái khăn lau mặt.” Vừa nói tôi vừa chỉ lên kệ.
    “Anh ra xem tấm bảng ngoài cửa.” Cô ta buông vạt áo xuống vừa n1oi vừa chỉ ra cửa.
    Tôi cứ ngỡ tấm bảng chỉ dẫn cách mua hàng xă hội chủ nghĩa, nhưng không, đó là tấm bảng treo ở tay nắm cửa có 4 chữ: “Nghỉ cho con bú.” Tức cười mà không dám cười v́ sợ cô mậu dịch mắng. Không biết cô ta c̣n có tấm bảng “nghỉ tắm con” hay “nghỉ cho con ỉa” không nữa? Và cười v́ sau chữ “nghỉ” không có dấu phết, làm cho câu đó có nghĩa là “không cho con bú nữa”. Thế là tôi có mua được cái khăn đâu. Ra ngoài, tôi gọi anh Có:
    “Anh vô coi cửa hàng hợp tác xă ngộ lắm. Tại chỗ tay nắm cửa có tấm bảng treo ở đó th́ anh thấy.”
    Anh Có chẳng những đến xem tấm bảng mà c̣n đi tuốt vào trong xem cô bán hàng cho con bú rồi trở ra, cứ như không thấy tấm bảng vậy.
    Khắc nghiệt.
    Bất luận lúc nào chúng tôi nhận quà đều qua sự kiểm soát của tên quản giáo mà hắn gọi là “kiểm tra”. Trong mỗi lần gởi quà, vợ tôi đều cho tôi hộp bơ thực vật và một gói đường cát, v́ trong cơ thể thiếu chất ngọt với chất béo kinh khủng. Tất cả những hộp những lon những gói đóng kín, hắn đều mở tung ra hết, cho dù các hộp đóng kín từ những hăng sản xuất trên thế giới cũng vậy. Chẳng những mở ra, mà hắn dùng chiếc đủa ngoáy tưởng chừng thực phẩm bên trong nát bét ra, để hắn t́m tịch thu những thứ gọi là cấm kỵ. Cái kỳ lạ là với những cái hộp thực phẩm sản xuất từ ngoại quốc hắn cũng nghi ngờ nữa. Một lần hắn ngoáy măi mà không t́m được những thứ cấm kỵ, nhưng cạnh cái hộp có cây viết Pilot của Pháp sản xuất. Hắn nói:
    “Tôi mang về kiểm tra rồi cho biết sau.”
    “Hay là cán bộ đưa tôi tháo ra cho cán bộ xem.”
    “Không được. Tôi phải gởi đến chuyên viên kiểm tra.”
    “Báo cáo cán bộ, cây viết rất đơn giản tôi tháo ra ngay trước mặt cán bộ, chớ có ǵ đâu mà cán bộ gởi đến chuyên viên.”
    Hắn lườm tôi: “Chuyện của tôi, anh không cần biết.”
    Đút cây viết vào túi, hắn quay sang xem thư. Xem xong, hắn ném vào người tôi:
    “Chồng là chồng, c̣n gọi là chồng yêu quí là thế nào?”
    Đó là ḍng chữ mở đầu của vợ tôi thường viết như vậy. Tôi tức quá:
    “T́nh cảm vợ chồng người miền Nam chúng tôi là như vậy, có vi phạm điều cấm nào của trại đâu mà cán bộ la.”
    “Viết dài ḍng như thế chúng tôi đâu có th́ giờ kiểm tra. Bảo vợ anh lần sau viết ngắn lại.”
    “Chỉ một trang giấy mà vợ tôi nói địa phương đă hướng dẫn, đâu có ǵ sai.”
    “Anh không được lư sự. Về chỗ”.
    Y như rằng, hễ chúng nó “bí” là chúng nó bảo không được lư sự, tệ hơn th́ gọi là ngoan cố. Tôi nói với anh Lễ đang cùng nhau về chỗ nằm:
    “Tôi chẳng biết thằng này muốn lấy cây viết, hay nó nghi ngờ cây viết cũng là cây súng trong ngành t́nh báo chăng?”
    “Tụi nó sợ t́nh báo Hoa Kỳ kinh khủng. Con mắt nó nh́n vào bất cứ món ǵ do ngoại quốc sản xuất cũng nghi là t́nh báo hết trơn.”
    “Nghĩ mà tức. Tức v́ ḿnh thua cái tụi chẳng ra ǵ, nếu không nói là cái tụi ngu đần hết biết.”
    Mấy tuần sau đó, hắn đưa cây viết lại tôi. Hắn nói:
    “Tôi phải mang lên Liên Trại, Liên Trại lại đưa đến Bộ Tư Lệnh Đoàn mới xong đấy.”
    Chừng như hắn kể ơn với tôi th́ phải. Tôi bèn nói hai tiếng “cám ơn” để lấy cây viết cho rồi.
    Trong một kỳ gởi thư về gia đ́nh, anh Trần Duy Bách (Đại Tá, Tỉnh Trưởng Lâm Đồng) nói riêng, và tất cả chúng tôi nói chung, bị tên quản giáo của ảnh “chụp cho cái mũ” rất buồn cười. Chuyện là mỗi người chỉ được phép viết thư gởi về gia đ́nh trên một trang giấy mà thôi. Anh Bách cũng như tất cả anh em chúng tôi đều viết đúng như vậy. V́ đi rừng quá nhiều nên anh nào cũng xin gia đ́nh gởi cho đôi giày vải để không bị rách chân. Trên trang viết, anh Bách có ghi số của cở giày, nhưng để cho chắc, anh bèn để cái bàn chân lên mặt sau trang giấy rồi lấy viết kéo sát ṿng chân để yên tâm là có đôi giày vừa vặn. Chỉ có như vậy thôi, mà trời ơi, thằng quản giáo nó chửi tối tăm mặt mũi! Không phải chửi riêng anh Bách, mà chửi tuốt luột tù chính trị chúng tôi:
    “Tôi nói cho các anh biết, đảng với nhà nước đă rất nhân đạo khi cho các anh viết thư về gia đ́nh. Các anh lại chà đạp lên chính sách khoan hồng nhân đạo đó bằng cách in bàn chân lên bức thư. Hành động này là không thể tha thứ.”
    Anh Bách tŕnh bày:
    “Báo cáo cán bộ, tôi hoàn toàn không có ư ǵ khác ngoài cái mục đích giúp gia đ́nh tôi mua đôi giày vừa với đôi chân tôi. Thế thôi.”
    Tôi chỉ nghe đến đó rồi đi về v́ cảm thấy trong người không khỏe nên không rơ hắn c̣n mắng mỏ ǵ nữa. Đến tối tôi nghe các bạn nói lại là anh Bách bị hắn bắt viết kiểm điểm mới được viết thư khác. Kiểm điểm là một h́nh thức trừng phạt nhẹ. Về sau cứ mỗi lần nhắc đến anh Bách, chỉ cần nói “chà với đạp” là hiểu nhau rồi.
    Những người “trồng” được.
    Những tháng đầu năm 1977, hơn 300 anh em chúng tôi cấp Đại Tá bị tách ra làm hai, một nửa chuyển vào Trại 3 phía trong Trại Cốc. Tổ chúng tôi vẫn tại chỗ. Trong một lần các bạn trong Trại 3 đi mua nước mắm ngoài chợ Yên Bái. Sau đó, nhân đi lao động gặp nhau, anh Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) kể chuyện. V́ trong một lần lao động ngoài trại, thằng quản giáo Tổ của anh Tây tên là Tước mà lúc ở Trại Cốc chúng tôi thường gọi là “Tước mặt đỏ”, v́ mặt của hắn lúc nào cũng đỏ như người say rượu. Hắn nói đường xe lửa xă hội chủ nghĩa trên đất Bắc này rộng 1.4 thước. V́ vậy mà lần này có dịp ra Yên Bái, anh đo thử xem sao. Nếu thật sự đường xe lửa 1.4 thước là tiến bộ lắm. Ra đến nơi, việc đầu tiên là anh Tây dùng bàn tay đo đường rầy xe lửa. Đúng 4 gang tay, hay là trên dưới 8 tấc (0.8m). Anh lại lấy sợi dây từ trong túi ra đo nữa để về trại đo lại trên cây thước. Anh cột hai đầu dây làm dấu bề ngang đo được.
    Ngày hôm sau, trong lúc lao động, anh đến trước mặt “Tước mặt đỏ”, anh cười cười với vẻ thắng thế:
    “Báo cáo cán bộ. Đường xe lửa ngoài Yên Bái có 8 tấc chớ đâu phải 1.4 thước cán bộ.”
    Tước mặt đỏ quát liền:
    “Đảng với nhà nước đă nói 1.4 thước là 1.4 thước. Anh dám xuyên tạc đảng với nhà nước phải không?”
    Anh chàng Tây chúng tôi bèn nổi gân cổ để biện minh:
    “Tôi đo 8 tấc th́ tôi nói 8 tấc chớ tôi đâu có nói sai, sao cán bộ nói tôi xuyên tạc.”
    “Anh không được lư sự. Về chỗ làm.”
    Sau lần đó tôi không rơ là anh Tây c̣n bị ǵ nữa không, nhưng qua mẫu chuyện bé tí xíu và sự thật sờ sờ trước mắt mà chúng nó vẫn phải hiểu khác đi, khác đến mức ngu đần không thể tưởng. Họ nhắm mắt, chỉ để tai mà nghe theo đảng với cái nhà nước độc tài, và cái miệng để phát lại những ǵ tai nghe, mà không cần mắt thấy sự thật. Nền giáo dục xă hội chủ nghĩa, là cái máy nhào nặn ra những thế hệ có bộ óc đầy bụi mờ bao phủ, có hai mắt nhưng mù ḷa, một lỗ tai để nghe một chiều, và nửa cái miệng đủ để phát như cái máy cát-xét. Tội ác này bắt nguồn từ ông Hồ với “Mười năm trồng cây trăm năm trồng người”.
    Theo tác giả Trần Trung Đạo th́ câu nói đó ông Hồ lấy ư từ câu: “nhất niên chi kế mạc như thọ cốc, thập niên chi kế mạc như thọ mộc, bách niên chi kế mạc như thọ nhân”. Nghĩa là kế hoạch cho một năm không ǵ bằng trồng lúa, kế hoạch cho mười năm không ǵ bằng trồng cây, kế hoạch cho trăm năm không ǵ bằng trồng người. Và câu này trong văn học Trung Hoa thời phong kiến xa xưa.
    Kết quả là ông Hồ và nhóm đàn em của ông đă trồng lên được những thế hệ như vậy đó! Thế hệ hiện nay và nhiều thế hệ mai sau, không thể nào dung thứ tội ác dă man này do ông Hồ và tất cả những đảng viên lănh đạo trong bộ chính trị, cơ quan lănh đạo có quyền uy tuyệt đối, từ khi cái đảng độc tài tàn bạo đó h́nh thành đến ngày sụp đổ. Sự không thể dung thứ này, áp dụng với những kẻ đó đă chết cũng như đang sống. Và không biết đến bao giờ, vết nhơ tàn bạo này mới được xóa sạch, cho những thế hệ mai sau có cơ hội đối mặt với những con người tử tế trên thế giới năm châu? Tội cho dân tộc Việt Nam dưới chế độ xă hội chủ nghĩa biết chừng nào!
    Nhân nhắc lại với anh Lễ về chuyện anh Nguyễn Kim Tây “chọc quê” thằng Tước mặt đỏ, nhưng rồi bị hắn “chụp mũ kiểu xă hội chủ nghĩa” một cách quái đản, anh Lễ lại nhớ đến vụ bị mắng khi học chính trị ở trại tập trung Long Giao. Anh nói”
    “Anh nhớ trong lúc ở Long Giao ḿnh thảo luận bài ǵ đó mà thằng Chiến -quản giáo- nó kêu anh Phụng -B trưởng- ra ngoài nó chửi một trận như lá mùa thu rơi rụng tiêu điều không? Sau đó anh Phụng trở vô càu nhàu với tụi ḿn”.
    “Cán bộ nói mấy anh tào lao, đảng với nhà nước nói như vậy là phải hiểu như vậy, sao các anh bàn tới bàn lui ra ngoài đề chi vậy. Mà anh nhớ bài học đó là ǵ không?”
    “Có. Bài học hôm đó họ đả kích tôn giáo, nhất là đạo Thiên Chúa. Khi giảng bài, anh chàng cán bộ giáo viên từ Bộ Công An ở Hà Nội vào, hắn nói tôn giáo là thứ thuốc phiện ru ngủ con người, cần phải diệt bỏ… Khi về căn trại thảo luận th́ anh Trần Trọng Minh (Đại Tá Bộ Binh) phát biểu. Tôi không nhớ nguyên văn, nhưng ư của anh là con kiến cũng có bản năng sinh tồn chớ không phải chỉ là con vật vô tri vô giác. Điều đó trong chương tŕnh học triết, ai trong chúng ḿnh mà chẳng học. Thế nhưng nó hoàn toàn khác với nội dung anh chàng giáo viên giảng trong bài. Nó chửi là v́ ḿnh hiểu theo cách của ḿnh, mà không chấp nhận mù quáng ngông cuồng theo cách hiểu của chúng nó. Thế thôi.”
    Anh Lễ: “Tụi nó giáo điều kinh khủng, vậy mà cứ tự cho là chủ nghĩa khoa học.”
    “Họ chẳng bao giờ nh́n thấy được họ cả. Vẫn cứ như vậy th́ dân tộc Việt Nam ḿnh bị họ kéo theo, sẽ đi về đâu giữa một thế giới văn minh phát triển?”
    Thả tù
    Hạ tuần tháng 05/1977, có một đợt thả. Qua một số h́nh ảnh họ đem dán ở trại như để “quảng cáo cái chính sách khoan hồng nhân đạo của họ”, chúng tôi mới biết có 91 người thuộc 82 trại do Đoàn 776 cai quản được thả. Trong số đó có Y Sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y. Và anh Nguyễn Cao Thăng (không phải ông Thăng dược sĩ), gốc Phật Giáo Ḥa Hảo.
    Khi ở trại tập trung trong Nam, lác đác cũng có anh ra về, như: Trung Tá Cầu (Tổng Cục Tiếp Vân), Y sĩ Trung Tá Hoàng (Tổng Y Viện Cộng Ḥa), Đại Tá Nguyễn Văn Lộc (Tư Lệnh Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân). Tôi không biết rơ nguyên nhân.
    Sau đợt tha đó, lác đác cũng có anh được tha, nhưng cách tha của họ chẳng khác một hành động bí mật. Một sáng sớm, nhiều anh vừa tự tập thể dục xong và đang làm những động tác vệ sinh, tên quản giáo bên bộ chỉ huy trại sang khu “lán trại” chúng tôi. Hắn hỏi khi tôi đang đứng bên ngoài cửa: “Anh Sơn đâu?”
    “Bác cáo cán bộ, anh Sơn đây.”
    Vừa nói tôi vừa chỉ anh Huỳnh Thanh Sơn đang ngồi rửa mặt.
    “Anh họ ǵ?”
    “Báo cáo cán bộ, tôi họ Huỳnh.”
    “Không. Tôi gọi anh Dương Thanh Sơn.”
    Anh Đại Tá Dương Thanh Sơn từ trong nhà nghe, anh bước ra:
    “Báo cáo cán bộ, tôi đây.”
    Anh Sơn là em ruột của Đại Tướng Dương Văn Minh, sau khi giành được chiếc ghế Tổng Thống từ tay Tổng Thống hợp hiến Trần Văn Hương, Tổng Thống Minh đă đầu hàng cộng sản!
    “Anh chuẩn bị tư trang mang ra cổng chờ lệnh chuyển trại”.
    “Đi ngay hả cán bộ?”
    “Chuẩn bị xong là đi ngay. Khẩn trương lên”.
    Khi Tổ chúng tôi xuất trại lên núi đốn cây về làm cầu, trông thấy bọn chúng đang khám xét đồ đạc, và xét cả người anh Sơn nữa. Anh em chúng tôi lên đến đỉnh núi, ngồi lại bàn tán nhau xoay quanh cái việc anh Sơn chuyển trại. Đại ư rằng:
    “Rất có thể ảnh được về.”
    “Về cái ǵ mà khám xét dữ vậy.”
    “Bọn nó lúc nào cũng hành động theo cái kiểu đánh lừa tụi ḿnh. Đừng có nghe nó nói, cũng đừng thấy nó làm để rồi căn cứ vào đó mà phán đoán không đúng đâu. Ảnh cũng đâu phải là t́nh báo hay phản gián ǵ mà chuyển trại đặc biệt vậy. Chỉ có về thôi. Dù sao th́ ảnh cũng là em của Tổng Thống đầu hàng cộng sản, không chừng cộng sản thưởng cho ông Minh bằng cách thả em của ổng đó.”
    “Có lư. Sau khi ḿnh sập tiệm, cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc cũng như nhiều vị Bộ Trưởng trong nội các của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đều vô tù, ông Minh chẳng những không vô tù mà chúng nó c̣n cho ông cầm lá phiếu đi bầu cái gọi là thống nhất đất nước. Đă hết đâu, lúc bỏ phiếu ổng c̣n nói lần đầu tiên ổng được bầu cử tự do nữa đó. Dám bọn nó thưởng cho ông Minh lắm à.”
    Anh khác thêm vào:
    “Mấy anh quên anh Dương Thanh Sơn c̣n có người anh hay em ǵ đó, theo bọn cộng sản ra Bắc từ mấy chục năm rồi. Ôi! Cái chiến tranh của ḿnh nó chằng chịt chuyện gia đ́nh đủ cách đủ kiểu, thiệt khó mà lường.”
    Cũng như những lần trước, bàn măi cũng không có ǵ để kết luật. Chúng tôi tản mác trên đường đỉnh, t́m cây để đốn khiêng về cho Tổ kia làm lại cây cầu từ đường đá vào Trại Cốc bị sập.
    Tháng sau, tôi được thư vợ tôi cho biết anh Dương Thanh Sơn đă về nhà. Vợ tôi và mấy chị bạn hay tin, cùng đến nhà anh Sơn để nghe anh ấy kể chuyện về những ông chồng của ḿnh.
    Con gái xă hội chủ nghĩa.
    Cây cầu này dài khoảng 6 thước, làm toàn cây rừng, xe bốn bánh loại nhỏ qua lại được, nhưng họa hoằn mới có chiếc xe đến đây. Mấy hôm trước, Tổ chúng tôi đẩy 2 xe cải tiến đến Liên Trại 1 lănh gạo. Chiếc xe có chút xíu mà chở 4 bao loại 50 kí lô. Hai chiếc qua cầu cùng một lúc, chiếc xe cải tiến nhóm tôi vừa đến “mang cá” cầu bên kia, chiếc c̣n lại mới đến giữa cầu, th́ cầu sập. Sáu anh em chúng tôi phóng xuống suối, cũng may lhông anh nào bị va đầu va mặt vào những tảng đá dưới suối. Hôm nay chúng tôi trách nhiệm lên rừng đốn cây đem về chỗ cầu sập, c̣n làm là một Tổ khác trách nhiệm. Tên quản giáo giao kích thước từngloại cây:
    “Gỗ làm trụ cầu và đà cầu phải có đường kính ít nhất là 2 tấc (0,2m), dài phải 5 thước trở lên. Gỗ lót sàn cầu có đường kính 1 tấc (0.1m) và dài 5 thước trở lên.”
    Nặng nhất là 5 cây có đường kính 2 tấc trở lên: Hai cây làm trụ, một cây gác lên đầu hai trụ cầu, và hai cây làm đà cầu. Cây tươi nó nặng lắm quí vị quí bạn à! Mà cho dẫu có nặng bao nhiêu cũng phải t́m cho ra, đốn cho xong, c̣n phải t́m cách khiêng nó về. Trời đất ơi! Từ trên đỉnh núi về đến chỗ cầu sập, ít ra cũng đến 2 cây số trên núi và 3 cây số trên đường chớ có gần gủi ǵ đâu. Với cây lót sàn cầu, từng cây th́ chẳng bao nhiêu nhưng 60 cây cũng nặng nhọc lắm! Hôm ấy không biết do đâu mà tên khẩn trương lịch sự với chúng tôi quá. Hắn bảo:
    “Gỗ lót sàn cầu tôi chỉ cho các anh vác.”
    Chúng tôi nghe rơ ràng là hắn nói “vác” chớ không phải đốn. Vậy là ở đâu ra. Mặc kệ, chờ hắn chỉ hẳn hay, thắc mắc làm chi cho mệt.
    T́m được, đốn xong, làm sao đây? Năm khúc cây này, chúng tôi cột giây ở đầu cây để hai anh kéo, phía sau dùng cái cây khác làm bẫy để xeo từng nhích một. Phía trước hai anh kéo, phía sau một anh xeo. Vừa kéo vừa xeo, khi mặt trời xế chiều th́ 5 khúc gỗ rừng nặng ơi là nặng, cũng đến được “giàn phóng”. Không biết có từ lúc nào, nhưng hằng chục đỉnh núi mà chúng tôi lên xuống, đều có “giàn phóng” để phóng cây xuống chân núi. Thế rồi người và cây yên ổn xuống đến chân núi. Tôi với anh Hồ Văn Thành một cây. Bao giờ cũng để anh Thành lên vai trước, mới đến lượt tôi, mà lên vai sau thất thế hơn, dĩ nhiên là nặng hơn. Cứ đi khoảng 50 thước là dừng lại nghỉ chân, nhưng khúc gỗ vẫn trên vai chớ không dám để xuống, v́ để xuống rồi lên vai lại khổ hơn là đứng dựa vào thân cây để nghỉ chân. Cứ như vậy, rồi cũng về đến nơi.
    C̣n cây lót sàn cầu, tên vơ trang dắt chúng tôi đến những đống cây bồ đề để sát bên lề đường, có lẽ chờ xe đến chở. Hắn nói như quát v́ ăn cắp mà:
    “Các anh khẩn trương. Mỗi anh một cây hoặc hai anh khiêng hai cây rồi chạy. Sau đó, quay trở lại lấy tiếp cho đến khi đủ số.”
    Hắn đứng gác cho chúng tôi ăn cắp. Và rồi việc ăn cắp cũng êm xuôi v́ chẳng thấy bóng dáng nhân viên Lâm Trường đâu cả, nhưng tất cả 18 anh em chúng tôi đều mệt lả! Áo quần đẫm mồ hôi! Bụng th́ đói!
    Sau khi cung cấp cây xong, chúng tôi tiếp tay với Tổ kia, và hai ngày sau th́ xem như hoàn tất phần căn bản, cầu sử dụng được nhưng cần một ngày nữa để hoàn chỉnh. Xế chiều, hai nữ nhân viên Lâm Trường từ đâu lù lù tới. Một giọng nữ rất đàn ông mà là giọng đàn ông vừa nhậu xong:

    “Cây này các anh lấy ở đâu ra?”

    “Tôi không rơ. Cô hỏi cán bộ trong nhà kia ḱa.”

    “Tôi hỏi anh.”

    “Th́ tôi vừa trả lời cô đó.”

    “Anh đùa với chúng tôi hả? Chúng tôi lập biên bản số cây bồ đề này.”

    “Mời cô tự nhiên.”

    “Anh tên ǵ?”

    “Tôi tên ǵ cũng chẳng liên quan đến Cô. Cô nên vô trại mà hỏi.”

    Con nhỏ trời ơi này cũng đanh đá lắm, cô ta lên giọng:

    “Anh đùa với tôi đấy hả?”

    “Không. Tôi rất nghiêm chỉnh.”

    “Được. Tôi sẽ biết tên anh.”

    “Rất hân hạnh. Ở tù mà phụ nữ muốn biết tên cũng hay hay.”

    “Anh ăn nói cái kiểu ǵ thế?”

    “Cô nghe rồi mà c̣n hỏi.”

  5. #15
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 6B / Trại tập trung Yên Bái
    P3




    Nh́n kỷ một chút, bốn bàn tay của hai cô nhân viên này không khác da cây mù u bao nhiêu. U nần nổi đầy phần trên bàn tay. Nghĩ cho cùng, tội nghiệp cho thân phận đàn bà con gái 20 năm xă hội chủ nghĩa trên đất Bắc! Chẳng thấy đường nét ǵ của đàn bà con gái hết trơn. Người suông đuột như thân cây bồ đề đến tuổi chờ người ta đốn đem về nhà máy làm giấy, da dẻ sần sùi, dáng đi thô kệch, ăn nói chẳng thanh tao chút nào. Nhưng mà đàn bà con gái của cả cái xă hội xă hội chủ nghĩa này như nhau, chẳng ai hơn ai cũng chẳng ai kém ai, hà tất phải thắc mắc làm chi về cái việc con gái xă hội chủ nghĩa ế chồng hay không ế chồng.
    Thế rồi hai cô ấy vào trại thiệt. Hôm sau nghe lại mới biết tên quản giáo với tên vơ trang có biệt danh khẩn trương phải xuống nước năn nỉ, có lẽ nhờ vậy mà đâu cũng vào đấy. Thế là êm chuyện. Tôi có ư đùa với cô ta v́ tôi có dính dáng ǵ đến cái chuyện ăn cắp mà sợ.
    Tai nạn.
    Trở lại chuyện phóng gỗ đă gây tổn thương nặng cho anh Bùi Dzinh (Đại Tá, có thời là Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh). Trong thời gian bộ chỉ huy trại đẩy tù chính trị thi đua với Lâm Trường về đốn cây bồ đề đến tuổi cung cấp cho nhà máy làm giấy. Anh Bùi Dzinh trong bên Lâm Trường. Nhưng không biết có phải v́ cái sự kiện đó mà các anh trong Tổ đó làm hăng hơn hay không, có điều chắc chắn là vẫn giữ vững mức cao hơn nhân viên Lâm Trường.
    Hôm ấy là ngày 10/12/1976 (Năm 2006, con trai anh Bùi Dzinh từ Paris cho tôi biết ngày chính xác như vậy), cứ như theo qui định trong “Huấn Lệnh Điều Hành Căn Bản” không thành văn, mỗi khi sẳn sàng tại bệ phóng th́ dùng tay làm loa và la lớn để các bạn dưới chân núi biết mà tránh:
    “Chuẩn bị phóng gỗ. Chuẩn bị phóng gỗ”
    Lúc đó anh Nguyễn Văn Hai (Đại Tá Bộ Binh) và anh Bùi Dzinh đang tại điểm cuối của dàn phóng, khi nâng cây bồ đề lên vai cũng là lúc nghe tiếng la hoảng hốt từ trên núi:
    “Gỗ xuống. Gỗ xuống!”
    Cùng với tiếng hét trên đỉnh núi là tiếng ầm ầm của cây vun vút xuống. Anh Hai vứt đầu cây bồ đề xuống và chạy thoát, trong khi anh Bùi Dzinh đang loay hoay với đầu cây trên vai, th́ bị cây bồ đề lao xuống đánh vào màn tang rồi bay ngang đầu anh. Anh Bùi Dzinh té xuống, bất tỉnh! Thằng vơ trang hướng dẫn các anh trong Tổ đưa anh Bùi Dzinh đến trạm xá Liên Trại gần đó. Đến chiều tối khi chúng tôi quay về trại, anh Bùi Dzinh vẫn trong t́nh trạnh hôn mê!
    Từ lúc anh Bùi Dzinh bị nạn cho đến khi tiếng kẻng ngủ, anh em trong cả 3 Tổ trong một dăy căn trại hầu như im lặng hoàn toàn. Bởi không một ai nghĩ là anh Bùi Dzinh có thể sống được, nhất là khi đưa anh đến trạm xá th́ máu trào ra ngoài vành tai, một triệu chứng báo nguy khi đầu bị chạm mạnh.
    Đang đêm, anh Dương Hiếu Nghĩa thức giấc v́ nghe tiếng chim cú kêu xa xa! Anh khều tôi dậy, cả hai ngồi nghe tiếng con chim cú kêu sao mà năo nuột quá! Anh Nghĩa nói nho nhỏ:
    “Chắc Bùi Dzinh đi quá anh! Mấy đêm trước có nghe tiếng chim cú đâu, khi Bùi Dzinh bị nạn th́ nó đến đây kêu liên hồi. Đây là điềm không lành!”
    “Anh em ḿnh chỉ có cầu nguyện chớ có làm ǵ được đâu.”
    Ba ngày sau, trên đường lên núi đốn cây, hai anh đi trước nhanh chân lén vào trạm xá thăm anh Bùi Dzinh, thấy anh tỉnh lại anh em vui mừng lắm, chuyền nhau thông báo đến các Tổ tin vui này. Sở dĩ chạy vào trạm xá được là v́ thằng vơ trang đi sau cùng, nên các anh phía trước vào trạm xá mà nó không biết, chớ nó có tốt lành ǵ mà cho vào thăm anh Bùi Dzinh đâu. Biệt danh khẩn trương là tên vơ trang hắc ám mà. Ngay ở trong trại, chúng nó ngăn cấm liên lạc nhau giữa dăy nhà này với dăy nhà, giữa Tổ này với Tổ khác dù ơ chung dăy nhà, và giữa người này với người khác. Tụi nó bắt gặp là đủ thứ rắc rối, huống chi là vào trạm xá thăm anh Bùi Dzinh.
    Một chút suy tư.
    Hơn hai năm trong 4 trại tập trung, với những kinh nghiệm ghi nhận, tôi gom góp vào quan niệm sống trong tù, như sau:
    Thứ nhất. Phải giữ sức khỏe, bằng cách tập thể dục nhẹ nhàng ngay trong chỗ ở. Bên ngoài trại chỗ nào trồng được rau trái làm thực phẩm là trồng để ăn.
    Thứ nh́. Phải sẳn sàng đối diện với bọn chúng, càng nói ít càng tránh được những sơ hở.
    Và thứ ba. Phải nghe bọn chúng nói và nh́n hành động của chúng bằng con mắt của người tham mưu quân sự, để phân tách và đánh giá chiều sâu vào những chính sách của chúng.
    Cũng trong thời gian nói trên, nhiều anh em chúng tôi cùng đồng ư là chỉ có một sĩ quan cộng sản mà chúng tôi không gọi bằng thằng khi nói đến hắn ở ngôi thứ ba, mà gọi là cán bộ. Đó là Thượng Úy Toản. Anh chàng này gốc tập kết từ trong Nam ra Bắc sau Hiệp Định Đ́nh Chiến tháng 7 năm 1954. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh ta trở về Nam làm việc, nhưng không rơ v́ sao mà anh ta trở ra Hải Pḥng, nơi đây cũng là quê vợ anh ta. Lại bị trù ếm hay sao đó mà anh bị đẩy đến Trại Cốc này. Anh ta phụ trách đắp đập nuôi cá, đập này gần Trại Cốc và do 5 Tổ chúng tôi cùng làm. Trong lúc giải lao, Thượng Úy Toản bảo chúng tôi quây quần lại gần nhau để nghe anh ta nói như một lời khuyên:
    “Có một điều tôi khuyên các anh, người ta (ư nói cộng sản) không bao giờ quên quá khứ của các anh đâu. Những ǵ mà các anh khai thành thật theo lời dụ dỗ của họ, th́ họ sẽ sử dụng để kết tội các anh. Vậy các anh liệu mà khai báo sao cho có đường về với vợ con.”
    Chúng tôi lần lượt hỏi:
    “Theo cán bộ biết, ngoài những bản khai báo của chúng tôi, các cơ quan nhà nước có tài liệu nào khác về chúng tôi không?”
    “Không. Tôi đoan chắc với các anh là họ không có tài liệu nào về các anh cả. Tôi hỏi các anh: Có khi nào người ta nói với các anh là người ta biết hết mọi việc làm của các anh ngày trước không?”
    “Có cán bộ.”
    “Tôi lặp lại với các anh là họ không biết ǵ về các anh đâu, ngoại trừ một vài anh nào đó có vấn đề với địa phương th́ địa phương mới báo cáo về trung ương thôi, nhưng điều này hiếm hoi lắm.”
    Trong hai ngày thi đua đầu tiên, mỗi ngày có thêm 100 gram gạo cho mỗi khẩu phần mà họ gọi là bồi dưỡng, anh ta nói:
    “Hôm nay không c̣n thi đua nữa, tức là các anh không có bồi dưỡng. Các anh cứ lao động b́nh thường thôi. Đường c̣n dài lắm, đời các anh cũng c̣n dài lắm, liệu để c̣n đi tới nơi tới chốn.”
    Chuyển trại.
    Những ngày cuối tháng 10 năm 1977, tên quản giáo Tổ cơ động chúng tôi -Trung Úy Bật- cái mặt lúc nào cũng nhăn nhó, lững thững vào chỗ nằm của chúng tôi. Hai tay chắp sau mông, đi tới đi lui mấy lần, rồi hắn nh́n lên sườn nhà. V́ trại này không có kho nên tất cả bao bị gói ghém đồ đạc riêng tư đều để trên đó. Hắn chỉ từng cái bao:
    “Cái này của ai? Cái kia của ai?”
    Tôi trả lời từng câu hỏi. Đến cái bao của anh Nguyễn Quốc Dy (Đại Tá, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị), hắn nói:
    “Sao để cái bao của anh Dy cao vậy? Anh nên lấy để sát bên trái. Anh ấy lớn tuổi rồi, để cao vậy mỗi khi cần sẽ khó khăn cho anh ấy.”
    Tôi làm theo lệnh của hắn. Dĩ nhiên không phải hắn trở thành người tử tế trong xă hội xă hội chủ nghĩa rồi, nhưng sao hôm nay thằng trời đánh này ra cái điều lo cho sức khỏe anh Dy đến thế. Liệu đằng sau “cái lo lắng” của hắn là điều ǵ đây. Tôi chuyển tin này sang các Tổ khác, và nhận lại những tin mấy tên quản giáo bên kia cũng y chang như hành động khó hiểu của tên Bật. Vậy là có vấn đề rồi, nhưng vấn đề ǵ? Sau khi xong bữa ăn chiều với cơm độn bắp, tôi với anh Nghĩa ngồi cạnh nhau thử đoán xem điều ǵ có vẻ làm biến đổi cái tên quản giáo chưa bao giờ thấy hắn cười này. Tôi chợt nhớ mấy hôm trước, bỗng dưng có một ngày được nghỉ. Nhưng đâu phải nghỉ là ngồi không đâu, họ bắt phải đem tất cả những bao những túi đựng quần áo riêng (thường phục) từ trên gác xuống, viết họ tên và số “ḥm thư” vào. Chúng nó c̣n bảo viết rơ ràng cho dễ đọc nữa. Tôi kề tai anh Nghĩa:
    “Anh có dự đoán được điều ǵ sắp xảy ra không? Chẳng lẽ bọn họ làm mấy chuyện tào lao đó sao.”
    “Liệu ḿnh có đủ dữ kiện cho một cuộc chuyển trại chưa?”
    “Có thể như vậy lắm. Nhưng trong sinh hoạt hằng ngày th́ chưa có dấu hiệu nào liên quan, ngoại trừ hai sự kiện vừa nói.”
    “Ǵ th́ chưa rơ, nhưng gần như chắc chắn không b́nh thường.”
    “Mong là không có điều ǵ ghê gớm xảy ra.”
    Chúng tôi chui vào mùng. Tôi phải dùng chữ “chui” mới h́nh dung được cái cơi không gian bé tí của mỗi người chúng tôi chỉ có 6 tấc (0.6m) bề ngang, hai bên đều có mùng bạn, chỉ có cách vén một mảng mùng ở dưới chân chỗ nằm mà chui vào thôi.
    Nửa đêm hôm đó, tôi cảm thấy có người lay chân. Tôi ngồi dậy, vén mùng trông thấy tên quản giáo. Hắn hỏi:
    “Anh Dy nằm đâu?”
    “Dăy sạp bên kia.”
    “Anh gọi anh Dy dậy. Cẩn thận. Đừng làm ồn các anh khác.”
    Tôi vừa lay chân vừa gọi nho nhỏ:
    “Anh Dy. Anh Dy. Tôi Hoa đây. Cán bộ Bật gọi anh đó.”
    “Vậy hả?”
    Anh Dy vừa ra khỏi mùng, tên quản giáo ra lệnh:
    “Anh chuẩn bị tư trang chuyển trại ngay bây giờ.”
    Hắn xoay qua tôi:
    “Anh leo lên lấy cái túi tư trang anh Dy xuống, và phụ thu dọn với anh ấy cho nhanh.”
    Anh Dương Hiếu Nghĩa cũng bị gọi dậy chuẩn bị chuyển trại. Ngoài ra c̣n mấy anh nữa cũng đi trong đợt này. Tên Bật ra lệnh tiếp:
    “Các anh không được gọi dậy phải nằm yên tại chỗ, không ai được ra khỏi màn (tức mùng). Muốn đi đâu phải báo cáo”.
    Tôi đem cái túi áo quần của anh Dy xuống và hỏi hắn:
    “Báo cáo cán bộ. Tôi có đi không để tôi chuẩn bị?”
    “Không.”
    Anh Dy bối rối quá nên cứ xoay qua xoay lại măi mà không mở được cái mùng.
    “Anh để tôi thu dọn tiếp anh.”
    Khi tôi nắm lấy hai góc mùng để xếp lại, tôi chạm bàn tay anh Dy:
    “Sao tay anh lạnh quá vậy? Nhiều mồ hôi mà run nữa. Anh bệnh phải không?”
    “Không sao anh.”
    Giọng nói của anh hơi run. Có lẽ đang đêm bất th́nh ĺnh bị gọi dậy, lại kèm theo cái lệnh chuyển trại nên anh sợ hăi v́ anh chưa thật sự tỉnh giấc chăng?
    “Cái mền tôi lót nằm đâu rồi anh Hoa?”
    “Tôi để vào cái túi lớn rồi.”
    Anh moi ra và đưa tôi: “Anh giữ cái này xài đi, tôi có dư.”
    Trong lúc hai tên quản giáo ra ngoài sân, tôi đến cạnh anh Nghĩa:
    “Chúc anh mạnh khỏe, giữ vững nghị lực. Thể nào chúng ḿnh cũng gặp lại nhau trong hoàn cảnh tốt hơn.”
    “Vậy là anh thấy thành phần đi rồi hén: T́nh báo. An ninh quân đội. Tỉnh trưởng. Đảng phái. Chiến tranh chính trị. Có thể coi là nặng đó.”
    “Không đoán được với bọn này đâu anh. Anh nhớ như hồi ở Tam Hiệp không, bọn nó trịnh trọng đọc tên từng người làm như lọc ra để xử bắn không bằng, để rồi cuối cùng tụi ḿnh cũng ráp lại với nhau thôi. Biết đâu là lần này cũng vậy.”
    “Mong là không điều ǵ tệ hại xảy ra cho chúng ḿnh.”
    Thế là các anh rời trại trong đêm tối mịt mù dưới cơn mưa nhẹ. Trong số các anh chuyển trại, có anh Nguyễn Văn Hản (Đại Tá, An Ninh Quân Đội), đang bị đau đến nỗi không thể tự ḿnh đi được, các bạn phải d́u anh ra xe!
    Sáng hôm sau, các anh trong Tổ Thợ Mộc thuật lại rằng: Khi tên quản giáo vào gọi từng người dậy thu xếp đồ đạc, đến anh Phan Trọng Thiện bị lay dậy và tên quản giáo ra lệnh:
    “Anh chuẩn bị chuyển trại ngay bây giờ.”
    Anh Thiện hỏi lại: “Tôi đi nữa hả cán bộ?”
    “Anh đi. Nhanh lên, ở đó mà hỏi.”
    “Ôi! Đau khổ quá!”
    Tính ra có đến khoảng 50 anh chuyển trại trong đêm qua. Bọn quản giáo không hề hé một chút ǵ về nơi mà các anh ấy đến cả, và măi sau này đến lúc gặp lại mới biết. Bọn cộng sản nó giữ bí mật kỹ lắm, chừng như biện pháp dành cho những tên nào tiết lộ bí mật mà bị phác giác là nặng lắm th́ phải?
    Ngưu ốc.
    Một tuần trước Tết Nguyên Đán đầu năm 1978, Tổ cơ động chúng tôi được lệnh đi đắp đập -lại đắp đập- cho xă Việt Cường, cách Trại Cốc khoảng 6 cây số. Chúng tôi phải mang theo một ít đồ dùng v́ ở lại đó một tuần lễ. Họ dự trù chúng tôi trở về trại vào ngày Ba Mươi Tết! Đang giữa mùa Đông, rất lạnh. Phải mang theo “áo bông”, mũ trùm đầu và vớ len. Những cái áo bông này đến tuổi về hưu đă lâu, nhưng thay vi đem bỏ họ đem phát cho chúng tôi đỡ lạnh! Nói đến vớ, tôi nhớ lại mẫu chuyện ngắn. Khi chúng tôi từ trong Nam ra Bắc đến trại nhà ngói, bọn họ bắt chúng tôi bày ra tất cả đồ đạc để chúng nó xét. Họ bắt từng người chúng tôi phải ghi từng món vào danh sách để họ xét. Tên Trung Úy Khảm, cầm danh sách của tôi, hắn đọc món nào tôi đưa món ấy cho hắn đúng với số lượng đă ghi. Đến đôi vớ, hắn hỏi:
    “Vớ là ǵ?”
    “Báo cáo cán bộ. Vớ là vớ chớ tôi biết vớ là ǵ đâu.”
    “Anh đưa tôi xem.”
    Khi trông thấy đôi vớ, hắn nói với giọng ngạo mạn của người miền Bắc tự cho là ḿnh dùng chữ đúng:
    “Bít tất th́ kêu bít tất, tại sao các anh gọi là vớ?”
    “Cán bộ chạm tự ái người miền Nam chúng tôi rồi. Nếu như tôi đặt câu hỏi ngược lại, tại sao vớ gọi là bít tất, cán bộ có giận không? Mỗi miền đều có nét đặc thù trong văn hoá, cũng như giọng nói của 3 miềncó giống nhau đâu.”
    Hắn dịu giọng: “Trong Nam các anh gọi là vớ à?”
    “Đúng. Cũng như cán bộ gọi là bít tất vậy.”
    “Thôi. Không tranh luận nữa .Tiếp tục đi.”
    Tổ chúng tôi và một Tổ nữa cùng toán nhà bếp, rời Trại Cốc trưa 23 Tết dưới cơn mưa phùn từng chập, trông như những đám bụi bay theo cơn gió nhẹ. Đến nơi th́ áo quần chăn chiếu thấm ướt hết trơn. Tên quản giáo đứng canh chúng tôi, trong khi tên vơ trang đi t́m người phụ trách của Xă. Thế rồi một người đại diện Xă với bốn cô gái đến. Hắn nói với tên vơ trang:
    “Đồng chí cho các anh ấy ở đây. Chật một chút, nhưng Xă không có địa điểm nào khác. Trên nóc c̣n trống, tôi bảo đem tranh đến lợp ngay bây giờ.”
    Trời đất! Lúc ấy nét mặt của gần 50 anh em chúng tôi trông như dài ngoằn xuống v́ đây là cái chuồng trâu, nóc th́ trống, nền đất loang lỗ, làm sao mà nằm! Nh́n thấy được cái cảnh ấy của chúng tôi, một trong bốn cô gái lên tiếng:
    “Đây là chuồng trâu nhưng không sử dụng lâu rồi. Chúng em sẽ mang rạ đến lót cho các anh.”
    Anh Nguyễn Thế Lưỡng nói:
    “Tôi đo rồi, may lắm th́ mỗi anh chỉ được 4 tấc (0.4m). Đó là tôi tính nằm sát các cọc tre hai đầu.”
    “Ở cái kiểu này làm sao mà kéo đất nỗi!” Một anh khác than thở!
    Khoảng nửa giờ sau, một toán sáu cô gái mang tranh với rơm đến. Cũng chính các cô leo lên lợp lại nóc, và lót rơm trên nền. Có kêu ca ǵ th́ cuối cùng cũng phải thu xếp với nhau chỗ nằm để mấy anh nhà bếp c̣n lo bữa ăn chiều. Sau khi gọi là thu xếp xong mới đứng quan sát. Chuồng trâu cạnh con đường làng và cách ŕa làng khá xa, chung quanh là những đám rẫy chen lẫn với rừng. Từ xa, con nít khoảng trên dưới 10 tuổi, từng nhóm đến xem. Chúng nó nói với nhau:
    “Ngụy đó mầy.”
    Đứa khác căi lại:
    “Không phải. Bố tao nói tù miền Nam. Mấy ông này làm đập cho ḿnh đó.”
    “Họ dữ không?”
    “Họ có quát ḿnh đâu mà biết.”
    Đại để qua lời của các cô gái cùng với vài câu chuyện của trẻ con, nhận định sơ khởi là người dân vùng này chừng như có chút thiện cảm với chúng tôi th́ phải?
    Cơm xong, tên vơ trang dẫn đến bốn thanh niên. Hắn nói:
    “Ban đêm, các anh không được ra khỏi khu vực này. Các đồng chí Dân Quân đây có trách nhiệm canh giữ các anh, sẽ làm nhiệm vụ nếu các anh không chấp hành lệnh nghiêm cấm.”
    Vừa ra lệnh vừa đe dọa đấy!
    Tuy không có muỗi nhưng vẫn phải giăng mùng cho đỡ lạnh, v́ chuồng trâu không có vách mà chỉ có mấy cây tre nhỏ ngang dọc chung quanh để rào trâu ḅ thôi. Quí vị có thể h́nh dung khi chúng tôi giăng mùng xong th́ không ai nhận ra được cái mùng của ḿnh ở chỗ nào nếu như không chui vô mùng sau khi giăng. V́ vậy mà mỗi người phải cột cái ǵ đó để làm dấu như mảnh giấy trắng chẳng hạn, để khi nửa đêm dậy đi tiểu xong c̣n nh́n ra được cái mùng của ḿnh mà chui vô. Mỗi khi nằm xuống phải xuôi hai tay dọc theo cơ thể hoặc khoanh hai tay trước ngực, từ từ ngă lưng xuống. C̣n ngồi dậy, vẫn tư thế đó, từ từ ngóc đầu lên với thân ḿnh. Giống như tập thể dục ở cái động tác giữ cho bụng thon ngực nở, cũng là giữ cho cái xương sống mềm mại dẻo dai vậy. Có điều là nửa đêm mà ngồi dậy th́ vai hai người bạn bên phải bên trái, tự động “giành dân lấn đất” cái cơi không gian bé tí của ḿnh. Không sao. Khi xong cái việc xả nước cho nhẹ bụng trở vào, phải t́m được cái mùng, chui vô. Bắt đầu lách dần hai bạn để có được một chỗ ngồi, xuôi tay hoặc khoanh tay lại, hơi nghiêng về một bên, dùng vai lách hai bạn và từ từ hạ người xuống để “đ̣i lại” cái cơi không gian bé tí mà nằm. Khi xuống được một bên lúc ấy mới từ từ nằm ngửa trên cái “giường rơm” trong cái chuồng trâu hoang phế!
    Chỉ một bên tựa vào triền núi, ba bên c̣n lại là đất trống, gió lạnh tự do thổi vào cái chuồng trâu tồi tàn chật hẹp, làm cho mấy chục anh em chúng tôi lạnh cả ngoài lẫn trong! Anh Kim vui tính, tạo cái không khí vui vui để phá bớt nỗi buồn giữa cái lạnh của mùa Đông núi rừng Tây Bắc:
    “Đúng là chúng ḿnh đang ở trong “ngưu ốc” các anh à! (chuồng trâu, theo Hán Việt là ngưu ốc) Dă man thiệt! Mẹ kiếp! Ḿnh ở trong chuồng trâu chật hẹp hôi thúi thế này, nếu c̣n gặp lại mấy thằng bạn ở Tây ở Mỹ, nói cho chúng nó nghe. Tôi nghĩ, đếch có thằng nào tin ḿnh đâu. Không chừng chúng nó c̣n cho là ḿnh bị cộng sản nhốt tù rồi tức mà nói xấu cộng sản nữa đó.”
    Tiếng một anh nào đó trong bóng đêm mù mịt lạnh lẽo:
    “Th́ ḿnh cứ tưởng như đang ở “Niu Dót” (nhại theo âm của chữ New York, Hoa Kỳ) để có giấc ngủ yên lành c̣n hơn là nói đến mấy anh bên Tây bên Mỹ, hổng chừng họ c̣n nói chúng ḿnh ngu mới bị tù là khác .”
    “Thôi các bạn ơi! Cho có là Niu-Dót hay ngưu ốc đi nữa, chúng ḿnh c̣n tệ hơn mấy con cá ṃi trong hộp. Bạn bè nó có tin hay không tin mặc kệ. Thân ḿnh chưa biết ra sao, ở đó mà nói đến bạn bè bên Tây bên Mỹ”.
    “Ông chán đời thế! Sao hồi 30 tháng 4 ông không đi cho rồi, bây giờ nói chuyện vui một chút mà ông cũng trách.”
    “Họ có cho đi đâu mà đi. Họ giành chỗ cho gia đ́nh họ chớ đâu đến lượt ḿnh. Thôi, đừng có nhắc nữa, tức lắm.”
    “Th́ ông nhắc chớ chúng tôi có nhắc đâu.”
    “Thôi các anh à! Bạn tù với nhau, cùng nằm trong cái chuồng trâu với nhau, chia sẻ cho nhau không hết, lại c̣n gắt gỏng nhau cho thêm đau ḷng!. Ngủ đi, để mai làm trâu kéo đất đắp đập cho người ta.”
    Thưa quí vị quí bạn, thật ra những lời bàn qua tán lại giữa chúng tôi với nhau, không phải là vô nghĩa, mà trong một ư nghĩa nào đó, tùy theo người nghe sẽ nhận ra tâm trạng cùng những ước vọng của mỗi người chúng tôi. Chẳng hạn như chữ Niu-Dót, dù thể hiện cái tâm trạng buồn khi ngủ trong chuồng trâu nhưng vẫn kèm theo tính khôi hài sẳn có. Chữ Niu-Dót chỉ là mượn âm của New York, để nói lên cái ước vọng ra khỏi trại tập trung của cộng sản, chớ không nhất thiết là ước vọng sống tại New York. Nghĩ cho cùng, những câu chuyện đó cũng giúp anh em chúng tôi có những giây phút nhẹ nhàng trong đầu, v́ bận nghe chuyện trên trời dưới biển mà quên đi nỗi buồn da diết!
    Khẩu phần hằng ngày của chúng tôi được tăng thêm 200 gram gạo do Xă cung cấp, do vậy mà phần ăn sáng cũng nhiều một chút. Nói đến tiêu chuẩn gạo, chẳng những tù chính trị chúng tôi quan tâm đến lượng khẩu phần gạo hằng ngày, mà người dân xă hội chủ nghĩa, thậm chí đến các cấp lănh đạo của cộng sản từ trong đảng đến bộ máy cầm quyền, cũng đều quan tâm đến. Xin trưng dẫn: “Số lượng gạo mà họ gọi là tiêu chuẩn bán cho mỗi thành phần xă hội, cấp càng cao càng được số lượng nhiều hơn với lư do viện dẫn là cấp lănh đạo cần được “bồi dưỡng” có sức khỏe để lănh đạo. Và bao trùm hơn hết là cái chính sách cai trị của cộng sản nắm chắc cái bao tử thông qua tờ hộ khẩu. Bất cứ ai trong gia đ́nh nào đó mà không thi hành lệnh của địa phương th́ họ cắt hộ khẩu, tức là không bán gạo theo tiêu chuẩn. Bởi trong xă hội xă hội chủ nghĩa, tất cả cơ sở mua bán kinh doanh sản xuất đều do đảng với nhà nước làm chủ, cho nên khi nhà nước không bán lương thực thực phẩm th́ không c̣n chỗ nào để mua hết. Vậy là đói rồi, mà đói th́ phải ḅ. Ḅ đến ông lănh đạo địa phương làm kiểm điểm và cam kết sửa sai, tức là luôn luôn thi hành mệnh lệnh. Lúc ấy, lănh đạo cứu xét cấp tiêu chuẩn trở lại.” Hăi hùng chưa quí vị quí bạn?
    Cũng xă hội chủ nghĩa có cái chính sách rất ư kỳ lạ. Họ cưỡng bách phụ nữ phải đi làm, bằng cách chỉ cho các con của người mẹ có đi làm mới được hưởng quyền lợi dù hết sức nhỏ nhoi. Nếu trong gia đ́nh chỉ có người chồng đi làm c̣n vợ ở nhà, th́ các con của gia đ́nh này không có chút quyền lợi ǵ trong cuộc sống cả. Nói rơ hơn là những đứa con đó không có tiêu chuẩn gạo hằng tháng. Trong một xă hội mà người dân chỉ biết có gạo với gạo, c̣n ǵ mà nói nữa! Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, từ trước cho đến năm 1977 là như vậy đó! Đến năm 1986, càng tệ hơn nữa. Lúc ấy người dân xă hội chủ nghĩa sắp ngă quỵ, đảng cộng sản sắp sụp đổ, họ mới buộc ḷng phải thay đổi nhưng là chỉ thay đổi kinh tế để làm giàu riêng tư chớ không thay đổi chính trị v́ họ sợ mất độc quyền lănh đạo.
    Cũng nói thêm rằng, những năm 50 khi nắm quyền cai trị nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, ông Hồ khoe cái chính sách mà ông gọi là “giải phóng phụ nữ”, nhưng thực tế người phụ nữ bị cưỡng bách đi làm như nói ở trên. Chưa hết, khi lao động mà cần đến đến sự vận chuyển, th́ ngày trước phụ nữ dùng cái đ̣n gánh trên vai để gánh hai cái thúng hay thùng ở hai đầu đ̣n gánh. Ông Hồ giải phóng phụ nữ bằng cách dùng ba người phụ nữ đẩy cái xe cải tiến với trọng lượng 150 kí lô. Nghĩa là ông Hồ không cho gánh nữa mà là đẩy xe để chuyên chở trọng ượng nhiều hơn gánh. Nói rơ hơn, người phụ nữ phải làm việc nặng nhọc hơn! Chính sách giải phóng phụ nữ của ông Hồ là như vậy đó!
    Nói đến giải phóng phụ nữ, không thể quên sự đóng góp quan trọng của những nhà văn trong “Nhóm Tự Lực Văn Đoàn” thời những năm 30-50, đă hướng dẫn xă hội thời ấy trong cuộc vận động đưa thành phần nữ giới bị xă hội phong kiến cột chặt trong khung cảnh gia đ́nh từ ngày xưa, bước chân vào xă hội với những công việc như nam giới. Và đă thành công ngoạn mục. Nếu phải dùng chữ “giải phóng” th́ đó mới thật sự là giải phóng.
    Hồ Chí Minh là một người lănh đạo, say mê trong việc dùng những nhóm chữ rất kêu, rất văn chương thường gọi là “mỹ từ” nhưng thật sự là trống rỗng. Nghĩ cho cùng, cái cách đó lại giúp ông nắm cổ được những cấp dưới ông v́ thời đó có mấy người có học đâu. Lác đác cũng có đảng viên có học, nhưng họ nghe lời bác của họ như những kẻ ngông cuồng điên dại. Chẳng những thế, họ cứ theo lời họ Hồ “dạy” rồi truyền khắp dân gian phải nghe theo. Lần hồi họ thần thánh hóa và truyền tụng cho những thế hệ kế tiếp cộng với nền giáo dục một chiều, kết quả là những thế hệ khi ra khỏi hệ thống giáo dục xă hội chủ nghĩa, chỉ biết nghe những lời của ông truyền lại cứ như nghe “lời phán của thánh”. Măi đến nay, chẳng mấy người trong số họ, dám đụng đến ông thánh của họ, mà thật ra “ông thánh” của họ chỉ là một con người ăn cắp văn, một con người ăn cắp t́nh, một con người gian trá quỷ quyệt trong lănh đạo. Nói chung, họ Hồ là một người cộng sản mà khi đă là cộng sản th́ không c̣n nhân cách con người b́nh thường trong xă hội, và khi con người không c̣n nhân cách th́ con người đó c̣n ǵ để nói.

  6. #16
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 6B / Trại tập trung Yên Bái
    P4



    Trở lại cái việc đắp đập. Anh em chúng tôi trong hai Tổ này đă hai ba lần đắp đập nên tổ chức công việc nhanh lắm. Sau đó, cứ phá triền núi, kéo đất đổ xuống đường thông thủy ngăn dần ḍng nước thượng lưu. Đào một đường bên cạnh đập gọi là đập tràn, để khi mực nước cao quá th́ nước theo đường đó đổ xuống hạ lưu. Khi muốn bắt cá cứ cuốc giữa mặt đập mà xả nước. Bắt cá xong, muốn nuôi cá nữa th́ đắp phần giữa mặt đập lại là có cái hồ như trước. Họ không làm cống để tháo nước, mà khoa học kỹ thuật của họ trong đắp đập nuôi cá là như vậy.
    Nguồn nước dùng cho mọi nhu cầu của “cư dân trong ngưu ốc” bất đắc dĩ này là ḍng suối nhỏ, cách chuồng trâu chúng tôi ở khoảng 100 thước. Nước th́ có nhưng đục lắm, v́ phía trên có chỗ cho trâu ḅ qua lại hai bên bờ. Đục th́ đục, có nước dùng là may rồi. Mỗi chiều sau khi tắm giặt xong, nói nghe ngon lành lắm nhưng thật sự chỉ là qua loa thôi v́ trời lạnh mà nước suối càng lạnh hơn. Nhóm “ca nhạc sĩ bất đắc dĩ” chúng tôi tập hát để “tŕnh diễn” trong đêm Giao Thừa: Anh Nguyễn Thành Trí (Đại Tá, Thủy Quân Lục Chiến), anh Nguyễn Quang Chiểu (Đại Tá Bộ Binh), anh Nguyễn Phán (Đại Tá, Quân Đoàn 2), anh Nguyễn Thiều (Đại Tá Bộ Binh), và tôi. Anh Trí sáng tác bài “Đâu Cũng Là Quê Hương”. Tôi nói “bất đắc dĩ”, v́ bộ chỉ huy trại bảo tù chính trị chúng tôi tổ chức ca hát mừng Xuân.
    Trời lạnh nhưng vẫn phải tập, v́ khi về đến trại là đêm Giao Thừa rồi, bây giờ không tập th́ không có th́ giờ nào khác. C̣n nếu không tổ chức ca hát mừng Xuân, không khéo lại bị bọn họ chụp cho cái mũ “chống đối cải tạo” hay “lấy nạng chống trời” là lắm thứ rắc rối. Không ngờ khi tập hát, dân trong làng nhất là đám con nít với những cô gái tuổi choai choai, kéo nhau đến xem đông lắm. Trông cũng hay hay với những “khán giả măng non” này.
    Một tuần trôi qua, dưới cái lạnh đậm đà của ngày cuối năm âm lịch, chúng tôi giă từ “ngưu ốc”, nơi mà có muốn hay không muốn, cũng để lại trong chúng tôi những buổi chiều khó quên trong cuộc sống của người tù chính trị trong tay cộng sản. Về đến trại, tắm giặt, cơm xong là chuẩn bị vào chương tŕnh “văn nghệ Giao Thừa”.
    Tù tŕnh diễn tù xem. Nhưng cũng có một số quản giáo với vơ trang ngồi xem từ đầu đến cuối. Sau phần văn nghệ đầu là màn Táo Quân. Các vai:
    Ngọc Hoàng Thượng Đế: Anh Phạm Duy Khang (Đại Tá Bộ Binh).
    Nam Tào Bắc Đẩu: Anh Huỳnh Minh Quang (Đại Tá Không Quân) với một anh nữa mà tôi quên tên.
    Táo Trại 2: Anh Nguyễn Ngọc Sáu (Đại Tá Pháo Binh).
    Trại Cốc là tên gọi lúc tất cả chúng tôi mới chuyến đến, về sau khi tách một nửa sang Trại 3 th́ trại chúng tôi gọi là Trại 2.
    Màn này bắt đầu với hoạt cảnh Táo Trại 2 đội một bó củi vào thiên đ́nh, áo quần xốc xếch. Táo quỳ xuống xin lỗi Ngọc Hoàng đến trễ, v́ phải lên núi lấy củi cho nhà bếp. Ngọc Hoàng cảm động quá nên tha lỗi. Táo Trại 2 móc cái sớ bèo nhèo trong túi ra, rồi bắt đầu đọc. Trong sớ có đoạn than phiền vấn đề lao động vất vả nhưng ăn không đủ no, đau ốm không thuốc uống, ..v..v.. Hai ông Nam Tào Bắc Đẩu mũi ḷng, bèn lên tiếng ủng hộ Táo Trại 2 bằng cách cường điệu thêm khi tâu với Ngọc Hoàng. Thế là Ngọc Hoàng Thượng Đế Phạm Duy Khang nổi trận lôi đ́nh, ra lệnh cho Trại 2 phải sửa sai. Tù chính trị chúng tôi vỗ tay thật dài và cười thật to, trong khi cả đám quản giáo với vơ trang ngồi êm re. Anh em chúng tôi th́ thầm với nhau:
    “Chết cha rồi! Trông thằng nào thằng nấy cái mặt cũng hầm hầm kia ḱa.”
    “Sớ Táo Quân là tṛ giải trí truyền thống chớ có ǵ đâu mà sợ.”
    “Đó là cách nh́n của ḿnh, c̣n bọn nó là cộng sản. Chữ của nó có cùng nghĩa với ḿnh đâu, bọn nó dám quần các anh Ngọc Hoàng Thượng Đế với Nam Tào Bắc Đẩu của ḿnh lắm à!”
    Và y như rằng, cả bốn anh “Ngọc Hoàng Thượng Đế, Táo Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu” bị chúng gọi sang bộ chỉ huy quát mắng dữ dội. Cuối cùng, các anh phải làm kiểm điểm. Kiểm điểm cũng là một h́nh thức trừng phạt.
    Như thường lệ, sau một ngày lên núi đốn cây, anh em kéo nhau xuống ḍng suối bé tí tắm giặt, gặp anh Khang, tôi nửa đùa nửa thiệt:
    “Ngọc Hoàng ơi! Vụ đó xong chưa?”
    “Thôi đi bố! Tụi tôi bị chúng nó chửi như chó! Ngọc Hoàng cái mẹ ǵ nữa”.
    Sáng Mồng Ba Tết, bọn chúng đẩy tất cả chúng tôi lên những đồi trọc chung quanh trại trồng khoai ḿ. Cách trồng khoai ḿ là chúng tôi giăng hàng ngang, mỗi người một cây cuốc, cuốc vỡ đất từ dưới chân đồi dần lên đỉnh. Cứ hai người cuốc đất có một người bưng cái rổ đựng hom khoai ḿ, quẳng nhẹ cọng hom xuống rồi dùng chân đùa đất lấp lại, và đạp xuống là xong.
    Bị thẩm vấn.
    Trong khi Tổ trồng khoai ḿ, tôi bị gọi ra ngoài trại thẩm vấn nữa. Họ đưa tôi ra cái nhà nhỏ gần trạm xá Liên Trại, cách trại khoảng 2 cây số. Nói là trạm xá nghe có vẻ đồ sộ lắm nhưng thật ra cũng là gian nhà tranh bé xíu, chỉ năm cái giường là chật lối đi rồi. Đến sân nhà, tên vơ trang bảo tôi đứng chờ, hắn vào trong. Vài phút sau, từ sau cánh cửa, hắn gọi tôi vào. Bên trong có ba tên ngồi quanh cái bàn, trên có b́nh trà với mấy cái tách. Họ mặc đồng phục quân đội, nhưng không có bất cứ cái ǵ trên bộ quân phục của họ để có thể biết tên nào lớn hơn tên nào. Tên ngồi giữa, gằn giọng như dằn mặt tôi:
    “Anh có phải Phạm Bá Hoa không?”
    “Đúng. Tôi là Phạm Bá Hoa. Xin lỗi, tôi phải xưng hô thế nào?”.
    “Có ǵ đâu. Cứ như trước thế thôi.”
    Tôi nghĩ: Vậy là tên này có thẩm vấn tôi lúc c̣n trong Nam, nhưng tôi không nhớ.
    “Anh ngồi”. Vừa nói hắn vừa đưa tay chỉ cái ghế c̣n lại.
    “Cám ơn”.
    Hắn dịu giọng khi vô đề: “Anh có nhận thư gia đ́nh không?”
    “Vâng. Tôi có nhận”.
    “Chị với các cháu không có vấn đề ǵ chứ?”
    “Nhân anh hỏi, tôi xin phép tŕnh bày về gia đ́nh tôi một chút. Gia đ́nh tôi vẫn mạnh. Trong thư vừa rồi vợ tôi cho biết, nhà ba má chúng tôi ở Vĩnh Long đă bị tịch thu, và con lớn chúng tôi tại Sài G̣n không được vào đại học, với lư do cả hai trường hợp v́ tôi là Đại Tá. Nếu được, xin anh có thể cho tôi biết, đó có phải là chính sách của nhà nước không?”
    “Theo lệnh của Hội Đồng Bộ Trưởng, nhà chỉ do nhà nước quản lư, làm ǵ có chuyện tịch thu. Lệnh đó không một địa phương nào dám làm trái đâu. C̣n con anh chắc không đủ điều kiện chớ nhà nước đâu có cấm”.
    “Cám ơn anh cho tôi biết luật pháp. Thế nhưng chuyện nhà ba má chúng tôi đang ở bị tịch thu là sự thật, v́ ba má tôi đang ở th́ địa phương ra lệnh đuổi ra khỏi nhà, đó không phải là tịch thu th́ gọi là ǵ? Đứa con lớn chúng tôi thi vào đại học với số điểm vượt trên điểm tối thiểu rất cao, nhưng về thành phần trong xă hội th́ con tôi vào thành phần thứ 12/13. Đó là lư do con tôi không được học đại học. Xin anh có thể cho tôi biết về thành phần như thế nào không?”
    “Thôi. Chuyện riêng tư để sang một bên, chúng ta vào mục đích. Anh cho chúng tôi biết, khi chúng tôi tiếp quản th́ những tư liệu cơ bản (tài liệu căn bản) của Cục Măi Dịch có c̣n nguyên vẹn tại cơ quan không?”
    Đứng là cái bọn này khi “bí” là chuyển đề tài để chạy trốn. Tôi nghĩ như vậy. Và trả lời hắn:
    “Tôi hoàn toàn không biết, v́ tôi đă rời khỏi cơ quan này 6 tháng trước đó”.
    “Tại cơ quan Măi Dịch có người báo cáo anh có vào cơ quan này trước khi chúng tôi tiếp quản. Đúng không”.
    “Không đúng. Lúc đó mạnh ai nấy chạy bằng chứng là trên mọi ngă đường rất hỗn loạn. Tôi phải lái xe quanh co t́m đường về nhà, đâu có th́ giờ để ghé vào đó làm ǵ”. (Thật sự tôi có ghé thăm, cũng là để chia tay các cộng sự viên cũ của tôi)
    Cả ba tên luân phiên đặt câu hỏi:
    “Anh cho biết về tổ chức và hoạt động của ngành Măi Dịch trong quân ngụy như thế nào? Ảnh hưởng quân sự, ảnh hưởng kinh tế ra sao?”
    “Về tổ chức. Tại trung ương, chúng tôi có Cục măi Dịch. Tại các địa phương là Đà Nẳng, Qui Nhơn, Nha Trang, và Cần Thơ, mỗi nơi chúng tôi có một Sở măi Dịch. Về hoạt động. Trong thời gian tôi giữ chức Cục Trưởng, hằng năm chúng tôi mua hàng của các nhà sản xuất trên dưới 30 tỷ bạc Việt Nam để cung cấp cho quân đội. Ngoài ra, cơ quan Măi Dịch Lục Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, cũng đấu thầu mua những mặt hàng do kỹ nghệ Việt Nam sản xuất để viện trợ cho quân lực Việt Nam Cộng Ḥa chúng tôi. Trị giá mua hàng hằng năm bằng hoặc cao hơn trị giá do cơ quan Măi Dịch chúng tôi mua. Các cơ quan truyền thông thường dùng nhóm chữ “xuất cảng nội biên” để chỉ cho sự kiện này. “Xuất cảng nội biên”, v́ các công ty bán hàng ngay trong nước nhưng nhận tiền bằng mỹ kim. Sự kiện mua hàng trong nước, cho dù Măi Dịch Việt Nam hay Măi Dịch Hoa Kỳ, đă góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam chúng tôi phát triển.”
    “Anh có xác nhận điều anh nói là đúng không?”
    “Những ǵ tôi vừa nói, chính là những việc mà trước đây là nhiệm vụ của cơ quan măi dịch mà tôi là người trách nhiệm. C̣n tin hay không tin, tùy các anh”.
    Im lặng một lúc, một tên nói:
    “Anh vào trại viết lại cho tôi những ǵ anh nói hôm nay. Trưa mai có người gọi anh ra gặp chúng tôi”.
    “Vâng. Chào các anh”.
    Chiều và tối hôm ấy tôi viết lại. Cũng như những lần bị thẩm vấn trước, tôi đều lưu lại bản nháp để thỉnh thoảng xem qua cho nhớ đề pḥng sau này nếu bị hỏi c̣n nhớ mà trả lời. Kinh nghiệm cho thấy, nếu lần sau trả lời không giống lần trước th́ chúng nó vặn vẹo đủ điều, v́ nghi ngờ ḿnh giấu điều ǵ đó. Khi chúng nó nghi ngờ, không chỉ vặn vẹo điều nghi ngờ đó mà chúng c̣n vặn vẹo những điều khác nữa.
    Hôm sau, lại theo tên vơ trang hướng dẫn. Đứng bên ngoài một lúc, chẳng thấy ai. Tên vơ trang bảo tôi đứng chờ, hắn vào trong. Khá lâu, hắn trở ra gọi tôi. Vào nhà cũng chẳng thấy ai. Khoảng 5 phút sau, ba tên hôm qua lần lượt bước ra. Một tên chỉ cái ghế để riêng ở đầu bàn nhưng khoảng cách bàn chừng 1 thước:
    “Anh ngồi xuống”.
    Chừng như hắn sợ tôi điều ǵ, nên không cho tôi ngồi sát bàn như hôm qua. Hắn vừa ngồi xuống, cầm trên tay những trang giấy tôi đưa và hắn đốp chát:
    “Những hầm bí mật ở Long B́nh và ở Bộ Tổng (Tham Mưu) của anh ở chỗ nào?”
    “Nếu tôi nhớ không sai th́ trước đây tôi đă trả lời câu này ba lần rồi. Tôi xin lặp lại để trả lời câu hỏi của anh. Trong quân đội chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật, chúng tôi chỉ có hầm nửa nổi nửa ch́m ở căn cứ Long B́nh để tồn trữ điện tŕ dùng cho máy truyền tin thôi. Tôi nghĩ thời gian đă gần 3 năm rồi, nếu như chúng tôi có hầm bí mật th́ các anh t́m ra đâu có ǵ khó, v́ tất cả đều trong sự kiểm soát của các anh mà”.
    Cả ba tên châu mắt nh́n tôi, tuy không đằng đằng sát khí nhưng không kém hằn học. Cả ba cùng vào trong không để lại lời nào cho tôi. Áng chừng 5 phút sau, một tên bước ra với vẻ mặt hầm hầm:
    “Trước đây, anh đă ngoan cố chống cách mạng. Đảng với nhà nước khoan hồng cho anh mà anh không biết hối cải, vẫn tiếp tục ngoan cố, không hợp tác với cách mạng. Anh có biết anh là ǵ không?”
    “Vâng. Tôi biết. Tôi là tù của các anh, trong tay các anh. Anh nói tôi ngoan cố, xin anh cho tôi tŕnh bày c̣n anh có tin hay không là tùy anh. Anh nói trước đây tôi chống cách mạng, trong khi tôi là một công dân Việt Nam Cộng Ḥa, thi hành lệnh gọi của chánh phủ tôi, khi vào quân đội thi hành lệnh của cấp chỉ huy tôi. Bây giờ anh nói tôi ngoan cố không hợp tác, trong khi tôi cố gắng trả lời câu hỏi của các anh về những ǵ mà tôi biết. Các anh vẫn nói tôi ngoan cố, nói tôi chống cách mạng trong khi tôi chống lại các anh là tôi thi hành đúng bổn phận một công dân Việt Nam Cộng Ḥa trên phần lănh thổ miền Nam. Bây giờ tôi biết nói thế nào với các anh”.
    Hai tên kia bước ra với thái độ nhẹ nhàng so với lúc nảy, một trong hai tên mặc quân phục khá tươm tất, có vẻ là trưởng của toán này:
    “Sang vấn đề khác. Anh cho chúng tôi biết: Tư duy của anh tại sao các anh thua chúng tôi nhanh như vậy?”
    “Xin hỏi cho rơ để tôi trả lời đúng câu hỏi: Có phải anh hỏi tôi suy nghĩ ǵ về sự kiện chúng tôi thua các anh nhanh quá phải không?”
    “Đúng”.
    “Tôi xin trả lời. Trong lần đầu tiên tôi bị thẩm vấn tại Sài G̣n, tôi đă trả lời câu hỏi tương tự như vậy. Lúc ấy tôi trả lời rằng, câu hỏi của anh cũng chính là câu tự hỏi của tôi, cũng như của các bạn tôi cùng làm việc ở Bộ Tổng Tham Mưu nữa. Và bây giờ tôi cũng chỉ trả lời anh được như vậy thôi. Tôi không biết cho đến bao giờ, tôi mới t́m được câu trả lời thích đáng cho chính bản thân tôi”.
    “Anh có điều ǵ giấu cách mạng phải không?”
    “Không. Tôi không có điều ǵ giấu cả. Với lại chúng tôi đă thua các anh gần 3 năm rồi, có giấu cũng chẳng lợi ích ǵ, trái lại chỉ có hại thôi”.
    Lại im lặng. Một lúc sau:
    “Anh viết vào xấp giấy này những ǵ mà anh đă nói với chúng tôi. Bây giờ anh vào trại được rồi. Chúng tôi sẽ gọi anh sau”.
    “Những câu hỏi này tôi đă trả lời lúc ở trại Tam Hiệp trong Nam rồi mà. Bây giờ tôi cũng viết lại nữa sao?”
    “Tôi bảo anh viết là anh viết, đừng có hỏi dài ḍng.”
    “Vâng. Chào các anh”.
    Dù sao th́ tôi cũng phải thận trọng trong cách trả lời với bọn chúng. Lúc bị thẩm vấn ở Sài G̣n và tại trại tập trung Tam Hiệp (Biên Ḥa), sự hiểu biết của tôi về cộng sản nhất là về sự gian manh dối trá của chúng, làm cho tôi giống như “người điếc không sợ súng” nên tôi trả lời gần như một cuộc đấu lư với bọn chúng. Nhưng khi ngồi trên phi cơ C130 bị c̣ng tay trên đường chuyển từ trại tập trung trong Nam ra Bắc, tôi mới khẳng định ḿnh là tù chính trị của bọn chúng. V́ vậy mà sự thận trọng để giữ thái độ chừng mực, nhưng vẫn giữ được nội dung trong những câu trả lời để không đến mức bị chúng hành hạ.
    Hai ngày sau, tên vơ trang dắt tôi đến gian nhà nhỏ trước khi đến cây cầu bị sập mà có lần Tổ chúng tôi lên núi đốn cây làm lại. Trên đường từ trại ra đến đường trải đá, gian nhà này bên trái, cạnh ḍng suối nhỏ. Hôm nay bốn tên nhưng không có tên nào trong những nhóm thẩm vấn trước đây. Bọn chúng mặc quân phục nhưng vẫn không thể biết cấp bậc họ tên ǵ cả. Vào đầu có vẻ lịch sự so với những toán trước:
    “Chào anh. Mời anh ngồi. Anh dùng chè được chứ?”
    “Chào các anh. Vâng, tôi uống trà được.”
    Hắn rót mời tôi một chun: “Trông anh khỏe nhỉ!”
    “Cám ơn. Tôi vẫn khỏe.”
    “Gia đ́nh anh có khỏe không?”
    “Theo thư tháng trước th́ gia đ́nh tôi khỏe, c̣n tháng này th́ chưa có thư”.
    “Anh cho chúng tôi biết những hầm bí mật của các anh ở chỗ nào?”
    “Sao lần nào các anh cũng hỏi tôi câu này vậy?”
    Bắt đầu có chút gắt gỏng:
    “Tôi hỏi là anh trả lời. Anh không được phép hỏi lại.”
    “Vâng. Tôi trả lời. Trong quân đội chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật. Tất cả quân trang quân dụng của chúng tôi đều tồn trữ trong các nhà kho hoàn toàn xây dựng trên mặt đất, ngoại trừ điện tŕ dùng cho máy vô tuyến là tồn trữ trong những hầm nửa nổi nửa ch́m thôi.”
    “Đơn giản thế thôi à?”
    “Đúng. Chỉ có vậy thôi”.
    “Trong thời gian cách mạng giải phóng Phước Long với Darlac, các anh chở vũ khí khí tài đem giấu ở đâu?”
    “Trong thời gian Phước Long và Ban Mê Thuột bị các anh đánh chiếm, chúng tôi chuyển lương thực, đạn dược, với nhiên liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku cho công cuộc pḥng thủ trên Cao Nguyên. Ngoài ra chúng tôi không giấu bất cứ thứ ǵ, chúng tôi không nhận lệnh nào phải chôn giấu vũ khí từ cấp chỉ huy của chúng tôi.”
    “Anh ngoan cố. Trước đây anh trả lời với các đồng chí của tôi, anh có nói chở lên Cao Nguyên giấu. Vậy, các anh giấu ở đâu?”
    “Tôi không ngoan cố. Tôi chưa bao giờ trả lời bất cứ điều ǵ liên quan đến lượng hàng chúng tôi chuyên chở lên Plei Ku là đem giấu cả. Như tôi vừa tŕnh bày, chúng tôi đưa lên Plei Ku để dự trữ cho lực lượng trú pḥng ở đó dự trù khoảng 20.000 quân chống lại các cuộc tấn công của các anh. Mà thật ra cũng chưa anh nào hỏi tôi câu ấy cả”
    “Anh có chắc thế không?”
    “Chắc chắn.”
    Tên đó đứng dậy, vào trong. Tên thứ nh́ hỏi:
    “Mỗi tháng anh lănh được bao nhiêu đô la Mỹ?”
    ‘Tôi không lănh đồng đô la nào cả.”
    “Anh làm Đại Tá không lănh lương à?”
    “Tôi đâu có nói là tôi không lănh lương. Tôi xác nhận có lănh lương hằng tháng nhưng không phải bằng đô la mà bằng đồng bạc Việt Nam chúng tôi. Với lại tôi là sĩ quan Việt Nam, chiến đấu cho tổ quốc Việt Nam, sao tôi lại lănh đô la Mỹ.”
    “Thế tiền viện trợ của Mỹ đi đâu?”
    “Ồ! Anh muốn biết tiền viện trợ của Mỹ đi đâu hả?
    “Anh trả lời tôi ngay, đừng có dài ḍng”.
    “Tôi trả lời anh đây: “Câu này ít ra có một lần tôi đă trả lời với các anh khi c̣n ở trại tập trung trong Nam. Trên các phương tiện truyền thông trong nước cũng như ngoại quốc, chỉ nói đến số tiền Mỹ viện trợ quân sự cho quân đội chúng tôi, nhưng thật sự không một đồng đô la nào đến với quân đội chúng tôi cả, mà tất cả ngân khoản viện trợ đó biến thành súng đạn, xe tăng thiết giáp, phi cơ, chiến hạm, xăng dầu, máy móc theo nhu cầu quân đội chúng tôi. Nói chung là không một đồng đô la nào nằm trên sổ lương của bất cứ quân nhân nào kể cả Tướng Lănh, Thủ Tướng, hay Tổng Thống.”
    Lại im lặng một lúc:
    “Anh ngồi yên đó.” Nói xong cả ba tên cùng vào trong.
    Có vẻ như bọn chúng nó cho rằng quân lực Việt Nam Cộng Ḥa lănh lương bằng đô la Mỹ hay sao ấy? Tôi rất muốn hỏi lại hắn: “Bộ ngoài Bắc các anh lănh lương bằng đồng bạc của Nga hay của Trung Hoa sao, nhưng từ khi khẳng định tôi là tù chính trị nên giảm bớt cơn điếc rồi, và v́ bớt điếc nên biết sợ súng một cách chừng mực. V́ vậy mà không dám hỏi hắn. Chun trà hắn mời lúc nảy bây giờ tôi mới uống. Trà đắng quá”.
    Hai tên trở ra. Ngồi vào bàn là tấn công ngay;
    “Trong nội thành thành phố Hồ Chí Minh, các anh chôn giấu vũ khí khí tài ở những địa điểm nào?”
    “Chúng tôi không hề chôn giấu bất cứ quân trang quân dụng nào cả.”
    “Có người khai anh ra lệnh cất giấu nhiều nơi trong nội thành?”
    “Xin các anh bảo người khai đó đưa các anh đến tận chỗ xem. Phần tôi, tôi xác định là chúng tôi không hề chôn giấu ǵ cả.”
    Thưa quí vị quí bạn, thật ra chúng tôi có dự trữ gạo, lương khô, ḿ gói, nhiên liệu, đạn dược ở các khu Hạnh Thông Tây, Hóc Môn, Khánh Hội, Cầu Chữ Y, Phú Lâm, khu vực Cục Công Binh bao gồm Quân Tiếp Vụ, và Bộ Tổng Tham Mưu, dự trù cho lực lượng pḥng thủ Sài G̣n khoảng 20.000 quân đủ để đánh nhau trong 30 ngày. Cái lợi thế của ngành Tiếp Vận chúng tôi là những khu đó có sẳn kho tồn trữ chớ không phải thiết lập các kho mới, nên bọn chúng có trưng dẫn các kho đó ra cũng không đủ chứng minh là tôi ngoan cố. Nhưng tôi không khai, v́ nghĩ rằng khi tôi khai th́ bọn chúng sẽ tiếp tục vặn vẹo tôi nữa.
    Tên thứ ba trở ra, và hỏi ngay:
    “Cấp chức của anh là ǵ?”
    “Tôi là Đại Tá, Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận”.
    “Trong quân ngụy, Tham Mưu Trưởng có nghĩa là ǵ?”
    “Theo tổ chức trong quân đội chúng tôi, bên trên là bộ tư lệnh hay bộ chỉ huy tùy theo cấp bộ của cơ quan hay đơn vị, bên dưới là bộ tham mưu và sĩ quan trách nhiệm điều hành bộ tham mưu là Tham Mưu Trưởng”.
    “Với cấp chức của anh, tại sao anh không biết những địa điểm chôn giấu?”
    “Tại v́ quân đội chúng tôi không có khái niệm về hầm bí mật để chôn giấu ǵ cả, và v́ không chôn giấu nên tôi trả lời các anh là không có”.
    Lại hưu chiến lần nữa, cả ba tên bước ra sân th́ thầm ǵ đó. Khi ngồi vào bàn, bỗng dưng bọn chúng nhẹ giọng:
    “ Bây giờ cũng muộn rồi, bộ đội đưa anh vào trại, chúng tôi sẽ gọi anh sau”.
    “Vâng. Chào các anh”.
    Lần này th́ chúng không bảo tôi viết lại những ǵ khai báo như những lần trước. Tưởng là được nghỉ khỏe. Nhưng không, chiều tối hôm ấy tên quản giáo đưa tôi xấp giấy bảo vẽ lại tổ chức bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận.
    Sau đó, cứ một vài hôm là tôi bị gọi một lần. Có khi suốt cả tuần, cũng có tuần ba bốn ngày. Bọn họ dường như là hai toán khác nhau và rất có thể tất các toán thẩm vấn tôi từ trong Nam ra đến đất Bắc này cùng trong một tổ chức. Họ hỏi đi hỏi lại nhiều lần, có lẽ để xem những câu trả lời của tôi trước sau có khác nhau không. Bọn họ thẩm vấn tôi từ khi c̣n ở nhà cho đến khi vào trại tập trung trong Nam rồi chuyển ra ngoài Bắc này, đến lúc ấy cộng chung là 48 ngày, kể cả những ngày viết lại những ǵ đă khai.
    Điểm lại những câu hỏi về Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, về viện trợ, về chuyển vận, tồn trữ, sửa chữa quân dụng, về hoạt động của ngành Măi Dịch, cách thức đấu thầu mua hàng, nhưng hầu như toán nào cũng trở lại ba câu hỏi:
    - Tại sao các anh thua nhanh như vậy?
    - Những hầm bí mật chôn giấu vũ khí ở đâu?
    - Và Trung Tướng Khuyên c̣n ở lại Sài G̣n không?”
    Sau lần thẩm vấn cuối cùng, tôi theo Tổ đào hốc trồng bí rợ. Cũng như năm trước, ngay ngày đầu năm âm lịch là trồng khoai ḿ, tiếp đó là trồng bí rợ. Phân bón cho bí rợ là phân xanh và phân chuồng. Tôi với anh Nguyễn Thế Lưỡng (Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến) cùng một khiêng. Chúng tôi cùng bốn cặp khiêng nữa, lang thang theo sau bầy ḅ trên đường đá lên hướng Liên Trại, gặp một toán cộng sản có lẽ là sĩ quan. Một tên trong số đó ra dấu chận chúng tôi lại:
    “Trông các anh tiến bộ nhiều so với năm mới đến đây. Xă hội chủ nghĩa là không phung phí bất cứ thứ ǵ làm ra của cải cho xă hội, trước mắt là cho chính các anh. Tích cực thêm nữa nhé!”
    Nói xong là hắn cười một cách kiêu hănh, như vừa ra cái điều “giáo dục tù chính trị” chúng tôi ấy. Tôi nói với anh Lưỡng:
    “Ḿnh đi khiêng cứt ḅ là làm theo lệnh của chúng nó, chớ ở đó mà tiến bộ hay không tiến bộ. Chúng nó tưởng nói như vậy là ḿnh khiêng nhiều hơn à!

  7. #17
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7A / Trại tập trung Nam Hà 1


    Trại tập trung Nam Hà.
    *****

    Xin quí vị quí bạn vui ḷng ngược ḍng thời gian vào chiều ngày 08/04/1978, tại trại 2 Liên Trại 1 Đoàn 776, ở vùng rừng già bờ nam Sông Hồng, cách thị xă Yên Bái khoảng 6 cây số. Tất cả tù chính trị chúng tôi được lệnh ra khu vực lao động mang tất cả dụng cụ về trả kho, và chuẩn bị chuyển trại. Vậy mà buổi sáng, tên quản giáo c̣n ra lệnh cho Tổ chúng tôi:
    “Các anh sang Tổ bên kia đ̣i lại 10 hốc bí đỏ, tiêu chuẩn của hai anh bên đó chuyển sang Tổ bên này”.
    Trước khi chúng tôi đi, hắn c̣n nhấn mạnh:
    “Trong ngày mai, các anh phải hoàn tất chỉ tiêu đă giao”.
    Chúng nó đánh lừa chúng tôi để bảo mật đó. Với cái lệnh chuẩn bị chuyển trại, tội cho các anh Tổ nhà bếp là vất vả nhất, vừa nấu cơm buổi chiều lại vừa nấu cơm cho cả trại để ăn dọc đường vào ngày mai. Khẩu phần mỗi người là bốn củ khoai ḿ với gói thịt chà bông mà họ gọi là ruốc, mặn ơi là mặn cho bữa ăn sáng , và một chén cơm nếp với một miếng thịt heo ram mặn bằng ba ngón tay cho bữa ăn trưa trên đường chuyển trại.
    Đêm đó hầu như anh em chúng tôi ngủ rất ít, v́ cái số phận long đong cứ vật vờ trước mắt, nhưng lần này chẳng anh nào bàn luận như lúc ở trại tập trung Tam Hiệp trước khi chuyển ra Bắc hồi giữa tháng 6 năm 1976. Dường như chúng tôi có chút kinh nghiệm về bọn chúng nó mỗi khi chuyển trại!
    2 giờ sáng. Đám quản giáo với vơ trang vào các lán trại gọi chúng tôi dậy:
    “Các anh mang tư trang tập trung tại hội trường”.
    Một cái lệnh khô khan vang vọng cả trại 2. Bọn chúng tổ chức mỗi xe chở 30 tù chính trị. Có hơn chục anh từ trong trại 3 chuyển ra nhập vào trại 2 chúng tôi. Nghĩa là trại 2 và trại 3 cùng chuyển trại.
    H́ hà h́ hục dưới cơn mưa lất phất đủ làm cho mọi người ướt loi ngoi lóp ngóp khi đến nơi xe đậu. Chẳng biết ngẫu nhiên với thời tiết, hay thời tiết muốn thử sức chịu đựng của chúng tôi thêm hay không, mà cứ mỗi lần chuyển trại trong vài năm qua đều tay xách nách mang dưới cơn mưa nhè nhẹ! Trời mờ sáng, đoàn xe lăn bánh. Trại 2 đi trước với 5 chiếc Molotova già cỗi. Đến Sông Hồng ngang thị xă Yên Bái, chúng tôi xuống xe, đi bộ lên phà. Sang bên kia bờ. Trong khi đứng chờ xe từ phà lên, rất đông người dân Yên Bái đứng dọc đường nh́n chúng tôi với thái độ hoàn toàn trái ngược với gần hai năm trước. Rơ ràng là người dân nơi đây có thiện cảm với chúng tôi sau thời gian họ có cơ hội tiếp xúc với chúng tôi. Khi đoàn xe lăn bánh, hầu như tất cả già trẻ lớn bé, đều giơ tay cao vẫy vẫy như một cử chỉ thân thiện khi tạm biệt. Vậy là cộng sản đă thất bại, v́ họ đă tuyên truyền trong mục đích tạo dựng h́nh ảnh chúng tôi như những con người tàn bạo đến mức ăn thịt con nít để được thăng cấp, nhưng giờ đây qua thái độ cũng như hành động của những người tù chính trị chúng tôi, đă đánh bại nỗ lực của cộng sản trong ḷng người dân vùng rừng núi Tây Bắc Hà Nội.
    Tại Yên Bái, có thêm anh Nguyễn Văn Thọ (Đại Tá Nhẩy Dù, bị chúng nó bắt trong trận Hạ Lào đầu năm 1971) lên xe chúng tôi. Lúc ấy chúng tôi mới biết là đám quản giáo trong trại 2 lẫn trại 3 đă nói dối với chúng tôi, khi bọn chúng ra cái điều khoan hồng nhân đạo là mặc dù anh Thọ gây tội ác tầy trời, nhưng đảng với nhà nước của chúng đă thả về nhà rồi. Đúng ra bọn chúng phải trao trả anh Thọ theo điều khoản trao trả tù binh ghi trong Hiệp Định Paris ngày 27/01/1973, thế nhưng bọn chúng ngoan cố không trao trả, nay c̣n nói là khoan hồng nhân đạo. Bản chất của cộng sản là gian trá mà! Trước đây anh Thọ là tù binh, sau tháng 4 năm 1975 anh trở thành tù chính trị như chúng tôi mà bọn chúng vẫn gọi là học tập cải tạo!
    Trong năm 1955 và 1956, tôi với anh Thọ cùng là Trung Úy, cùng phục vụ tại Trung Đoàn 35 Sư Đoàn 12 Khinh Chiến. Cuối năm 1955, Trung Đoàn 35 đồn trú ở Cheo Reo (sau này là tỉnh Phú Bổn), đầu năm 1956 chuyển đến doanh trại cạnh đồn điền trà Catecka, cách Plei Ku trên dưới 10 cây số về phía Tây. Năm 1957, anh Thọ chuyển sang Nhẩy Dù, tôi vẫn phục vụ ở Trung Đoàn 35 Bộ Binh.
    Trên hành tŕnh, tôi ăn hết mấy củ khoai ḿ với cái túi thịt chà bông quá mặn. Giữa trưa, đoàn xe dừng lại đoạn đường trống trải cả hai bên. Mọi người xuống xe ăn trưa. “Cai tù” ăn theo cai tù, tù ăn theo tù. Anh Trần Văn Lễ đưa tặng tôi mấy củ khoai ḿ, v́ anh bị bệnh trỉ mới thuyên giảm nên không dám ăn những thức ăn có chất xơ. Cũng nhờ mớ khoai ḿ “tăng viện” này cộng với chén cơm nếp mới giải quyết ổn thỏa cái bao tử của tôi. Chẳng biết tại sao lúc nào tôi cũng cảm thấy đói c ả.
    Trong lúc ăn trưa, ngồi nh́n đoạn đê ngăn nước Sông Hồng làm tôi chợt nhớ đến cuối những năm 30 khi ấy tôi học lớp élémentaire (lớp nhất trường làng), trong quyển “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” xuất bản trên đất Bắc. Đa số các bài học đều mô tả sự kiện và con người miền Bắc, trong đó có nói về hệ thống đê điều và mục đích của nó đối với sinh hoạt nông thôn vùng đồng bằng Sông Hồng. Bây giờ tôi mới thấy tận mắt. Nếu dùng kích thước của những bờ đê trên đồng ruộng miền Nam để nói, th́ hệ thống đê điều miền Bắc quả là qui mô hơn tôi nghĩ. Cũng từ nét nh́n này, tôi mới h́nh dung được sức tàn phá bên trong đê khi đường đê bị đứt đoạn.
    Xế chiều, đoàn xe qua cầu Long Biên ngang Sông Hồng, vào thành phố Hà Nội. Nhưng đoàn xe chỉ chạy trên những con đường ven ngoại ô, nên chẳng thấy phố phường Hà Nội ra làm sao cả, nơi mà những năm 30-50 nổi danh với 36 phố phường và 5 cửa ô. Đoàn xe tiếp tục trên quốc lộ 1 hướng xuống Nam Định. Đến thị xă Phủ Lư, rẽ phải, và dừng lại ngay trước khi đến chiếc cầu phao ngang sông Đáy. Người dân từ những dăy phố lụp xụp túa ra nh́n từ phía sau xe v́ hai bên bị phủ kín bằng “tấm bạt”. Nhóm thanh niên nam nữ tuổi choai choai, đứng sau xe chúng tôi, họ chỉ chỏ:
    “Bọn Pôn Pốt đó”.
    “Chúng nó nói tiếng Việt mà Pôn Pốt ǵ”.
    “Bọn Pôn Pốt cũng nói tiếng ḿnh chứ”.
    “Không phải đâu. Người ta nói bọn Pôn Pốt đen và xấu lắm, c̣n bọn này giống Việt Nam ḿnh”.
    “Này. Ngụy đó. Đừng nói lớn, chúng nó nghe đấy”.
    Anh em chúng tôi không ai nói ǵ đến đám choai choai hỗn xược đó, v́ hai thằng vơ trang ngồi trên tấm bửng xe đang lườm mắt trong khi vẫn gh́m súng vào chúng tôi trong ḷng xe.
    Đoàn xe tiếp tục hành tŕnh sau khi qua chiếc cầu phao. Điều lạ là cuối đoàn xe có chiếc xe chở toán Công An mặc đồng phục vàng. Tôi kề tai nói nhỏ với anh Đặng Văn Hậu (Đại Tá Không Quân):
    “Hậu ơi! Liệu có phải tụi ḿnh vô tay đám Công An này không?”
    “Tụi ḿnh mà vô tay bọn Công An th́ khốn nạn với chúng nó đấy”.
    “Anh thử đoán xem có phải chúng ḿnh vào tay Công An không?”
    “Ai mà biết được cái bọn này. Tớ là người Bắc, ḍng họ của tớ ngoài Bắc vô Sài G̣n sau khi ḿnh sụp đổ, họ nói về cái bọn Công An mà dân của họ ngoài Bắc c̣n chịu không nỗi, tụi ḿnh mà vô tay chúng nó th́ khốn khổ là cái chắc!”
    Theo đường liên tỉnh 21 có đoạn song song với Sông Đáy về hướng tây bắc, cả đoạn đường này xấu quá nên đoàn xe chạy rất chậm. Đến một đoạn quanh khá rộng và trống trải, tôi khều anh Hậu:
    “Hậu. Sao đoàn xe bây giờ c̣n có mấy chiếc hà. Lúc qua Sông Hồng ở Yên Bái, ḿnh trông thấy mười mấy chiếc lận mà”.
    “Chắc nó c̣n đằng sau chớ đâu”.
    Đến đoạn đường quanh gần như chữ U, tôi lại khều anh Hậu:
    “Hậu. Vùng rừng núi này mà sao có khu nhà ngói bên kia thung lũng giống như trại lính ḱa Hậu”.
    “Ừ nhỉ!”
    Nam Hà: Giai đoạn 1978-1981
    Khoảng nửa giờ sau đó, đoàn xe dừng lại trước cổng khu nhà ngói mà lúc nảy tôi với anh Hậu trông thấy. Nh́n lên tấm bảng có ḍng chữ “Trại tập trung cải tạo Nam Hà”. Đoàn xe 5 chiếc Molotova vào hẳn bên trong. Dừng lại giữa cái sân khá rộng, nền đá nên có phần sạch sẽ.
    “Các anh mang tư trang xuống xe”.
    Cái lệnh đầu tiên của đám Công An rất khô. Ngay sau đó, bọn Công An dẫn các bạn trong 4 xe đầu vào buồng giam số 15 và 16. C̣n các bạn trên xe cuối cùng là 27 người -tôi trong số này- bọn họ dẫn vào buồng giam số 5. Lúc ấy cửa khóa, chúng tôi ngồi bên ngoài. Một tên Công An nhỏ nhắn đến cho biết:
    “Nhà bếp đang chuẩn bị cơm cho các anh. Có một điều tôi cần báo cho các anh biết, bữa ăn hôm nay là bữa ăn đột xuất, từ mai trở đi các anh sẽ không có những bữa ăn như thế. Ngày mai, các anh làm những thủ tục theo qui định. Tiếp đó sẽ học nội qui của trại, và sẽ đi lao động như các đội khác”.
    Nói xong, hắn chắp tay sau đít, ra cửa khuôn viên buồng giam.
    Vẫn ngồi ngoài cửa. Mấy anh tù h́nh sự đem cơm tới. Bữa ăn ngoại lệ này mà tên Công An vừa nói là “đột xuất”, gồm có cơm trắng + canh bắp cải + su hào xào thịt heo. Chia xong, mỗi khẩu phần được gần hai chén cơm, nửa chén canh mà trong đó có 6 miếng bắp cải, khoảng chục lát su hào cùng với 2 miếng thịt lớn bằng hai ngón tay kẹp lại. Nhưng khẩu phần ngoại lệ ít ỏi này lại là sự thèm thuồng của các bạn đằng sau hàng song sắt, v́ khi phân chia xong th́ hai bạn từ bên trong đưa cái chén nhỏ ra xin mấy lát su hào với một miếng thịt bé xíu c̣n dính bên hông cái chậu nhỏ! Vài bạn trong số chúng tôi moi ra từ trong những cái túi cái bịt được mấy củ khoai ḿ bắt đầu “đổ mồ hôi”, mà các bạn đằng sau hàng song sắt tranh nhau nhận lấy và ăn ngấu nghiến ngon lành! Điều này báo hiệu cho chúng tôi biết ăn uống ở trại tập trung này chắc chắn là tệ hơn trại tập trung Yên Bái nữa, và nó sẽ là h́nh ảnh của chúng tôi trong những ngày sắp tới!
    Một tên Công An cầm xâu ch́a khóa thật lớn vừa đến. Sau hai tiếng lách cách, cửa buồng giam mở ra. Hắn đứng ngay cửa:
    “Các anh từng hai người một, từ từ đi vào”.
    Đếm đủ. Ngay tức th́, tiếng cánh cửa ập vào, âm thanh réc-réc của thanh sắt đẩy ngang, tiếng ống khóa “crắc” khô khan. Thế là 27 anh em chúng tôi đang ở đằng sau hàng song sắt, nếu nh́n từ chỗ chúng tôi ăn cơm lúc nảy! Việc đầu tiên là phân chia chỗ nằm. Các bạn trẻ trong buồng giam chia cho chỗ nào th́ nằm chỗ đó, cho nên anh em chúng tôi nằm rải rác, người trên nền xi măng, người trên gác bằng ván. Cũng may là tôi + anh Huỳnh Thanh Sơn + và anh Đặng Văn Hậu, nằm cạnh nhau trên sàn gác. Vẫn là những cái cơi không gian bé tí. “Nhập buồng giam, tù mới tùy thuộc tù cũ” mà! Vài nét sơ khởi: Buồng giam -bọn Công An gọi như vậy- có 5 gian th́ 4 gian là chỗ nằm, gian c̣n lại là chỗ vệ sinh kể cả cầu tiêu có thùng chứa. Vừa trệt vừa trên gác, có 18 cửa sổ kể cả cửa sổ ở đầu hồi, với những song sắt tṛn và lớn. Lần đầu tiên tôi nhận ra cảm giác sợ hăi khi thấy ḿnh bị khóa chặt trong bốn bức tường đá tảng chật hẹp này! Nhưng sau một ngày dằn xốc và ướt át, chúng tôi cũng có giấc ngủ qua đêm.
    Tiếng kẻng đánh thức khi trời mờ sáng, tôi nói với anh Hậu:
    “Hậu ơi! Cứ mấy bạn ấy làm sao th́ ḿnh làm vậy cho chắc ăn nghe Hậu”.
    ‘Tù mới phải theo tù cũ mà. Cứ thế ta làm thôi”.
    Nhưng đâu phải cứ tù cũ làm ǵ th́ tù mới làm theo được, chẳng hạn như các bạn tù cũ có để dành nước sáng rửa mặt rửa mũi, trong khi tù mới chúng tôi không một ai có lon nước nào cả. Thế là đành phải chờ ra cửa hẳn hay.
    Trông thấy các bạn tù cũ ghi danh lia lịa, tôi hỏi:
    “Xin lỗi, các bạn ghi danh sách ǵ vậy? Chúng tôi có cần ghi vào đó không?”
    “Chúng tôi ghi bệnh, mấy chú có cần ghi không?”
    “Cám ơn. Ba anh em chúng tôi không sao”.
    Tiếng khóa lách cách ngoài trước. Tiếng réc réc của thanh sắt kéo qua. Cửa mở. Một bạn tù cũ nghe các bạn khác gọi là “buồng trưởng” bước ra trước, đứng đối diện với tên Công An mà các bạn tù cũ gọi là “cán bộ trực trại”:
    “Bác cáo cán bộ. Buồng 5 tổng số 47, kể cả số mới đến đêm qua. Chờ lệnh cán bộ”.
    “Được. Cho ra”.
    Thế là từng đôi hai người ra cửa. Đôi đầu tiên ra đến bờ tường th́ đứng lại, chờ hắn đếm xong và đủ mới cho tan hàng.
    Nhà bếp đẩy xe nước đến, hai phích nước (x 10 lít) c̣n nóng vừa để xuống là bà con tù trong buồng giam, nhanh tay lẹ chân đem lon guigoze đem ca ra nhận phần nước của ḿnh, do một bạn tù có trách nhiệm “trực buồng giam” phân chia, mỗi người nửa lon guigoze. Nước th́ nóng nhưng không ai biết có sôi hay chưa, với lại đục ngầu, dẫu sao th́ cũng có nước đánh răng rửa mặt c̣n hơn không. Sau khi nhận phần nước xong, bạn nào có ghi tên khám bệnh phải nhanh chân lẹ tay chạy ra “câu lạc bộ” để được bác sĩ khám sơ sơ rồi về nghỉ. Nếu bác sĩ thấy cần cho bệnh nhân ăn cháo th́ bác sĩ cung cấp danh sách cho nhà bếp. Bác sĩ nói ở đây cũng là tù chính trị chớ chẳng ai khác, nhưng v́ đông quá mà chỉ có thời gian 30 phút để khám hằng mấy chục bệnh nhân của cả trại, nếu không khám sơ sơ th́ lấy đâu ra thời gian. C̣n thuốc th́ dễ lắm, bất cứ bệnh ǵ cũng chỉ có thứ thuốc duy nhất là “xuyên tâm liên”, bác sĩ không cần phải suy nghĩ ǵ cả. Từ sự kiện cả xă hội chỉ có một thứ thuốc duy nhất cho mọi thứ bệnh, tôi nghĩ là đất Bắc Xă hội chủ nghĩa 20 này không có trường đại học dược khoa, v́ đâu cần bào chế thuốc men ǵ mà cất trường cho tốn kém.
    Tiếng kẻng xuất trại vang vang thúc giục mọi tù nhân chính trị lẫn h́nh sự, ra sân tập họp để bọn Công An trực trại điểm số xuất trại lao động. Khi trực trại cho Đội nào xuất trại th́ cán bộ quản giáo và vơ trang Đội đó đến nhận ra cổng. Tôi đứng trên gác đầu buồng giam số 5 nh́n ra sân xem quang cảnh xuất trại lao động mà trước sau ǵ cũng đến lượt chúng tôi. Sau khi hỏi qua anh bạn trẻ trong toán “trực buồng”, được biết vài nét sinh hoạt nơi đây:
    Trại này do Công An quản trị và là trại tù chuyên nghiệp chớ không như trước đây do quân đội quản trị. Tổ chức tù chính trị lẫn h́nh sự gọi là Đội, mỗi Đội cũng có quản giáo với vơ trang, nhưng hai tên này chỉ quản trị Đội khi xuất trại lao động, c̣n khi vào trong trại th́ toán Công An trực trại quản trị. Ngoài ra c̣n có tên Công An quản trị buồng giam trong hệ thống tổ chức của toán trực trại nữa. Nghĩa là mỗi Đội tù chịu sự quản trị của 3 hệ thống: Cán bộ buồng giam, cán bộ trực trại, và cán bộ lao động. Chưa hết, c̣n có cán bộ văn hóa và cán bộ giáo dục chung cho cả trại nữa. Tổ trưởng trực trại lúc ấy là tên Trung Úy Thịnh mà các bạn tù cũ gọi là “Thịnh khuỳnh”, v́ lúc đi hai cùi chỏ của hắn khuỳnh ra. Các bạn cho biết hắn là hắc ám nhất ở trại này để mà đề pḥng khi đối đầu với hắn. Nói chung, tất cả những tên Công An trong 3 nhóm quyền lực trên đây, đứa nào cũng có quyền chửi bới hành hạ tù cả.
    Mỗi buồng giam có một khuôn viên riêng, có khóa cửa hẳn ḥi. Như vậy, có 3 lần khóa: Khóa cổng trại. Khóa cổng khuôn viên buồng giam. Và khóa cửa buồng giam.
    Khi các Đội xuất trại xong, hai bạn trực buồng giam dùng đ̣n gánh khiêng thùng phân bắc xă hội chủ nghĩa ưu việt xuống triền đồi đổ vào cái hộc lớn chứa loại này. Các Đội trồng rau mà họ gọi là tăng gia từ dưới thung lũng lên đó khiêng xuống khu vực trồng rau, cho nước vào quậy tan ra và tưới lên rau trái. Nước tiểu th́ chảy theo cái cống nhỏ dẫn xuống hộc chứa cạnh hộc chứa phân bắc. Khi đi cầu, bỏ cả giấy vào cái thùng chứa phân bắc, và v́ không có nước để dội nên mùi nước tiểu lẫn mùi hôi phân bắc xă hội chủ nghĩa tràn vào các gian nằm của tù!
    Cơm ăn hằng ngày là độn 100%, hay nói cho đúng là ăn toàn bo-bo mà bọn chúng gọi là “ḿ hạt”. Bo-bo là loại thực phẩm thế giới dành nuôi gia súc, nhất là ngựa. Thức ăn hắng ngày thường là vài lát su hào với mấy cọng rau lênh đênh trong chén nước gọi là canh. Đội nhà bếp khiêng lên giao các toán trực buồng giam và toán này phụ trách phân chia.
    Gần cổng trại có cái giếng rất lớn nhưng rất cạn, cái giếng cạnh buồng giam số 17 & 18, và cái giếng cạnh lối đi vào trạm xá ở cuối một góc trại. Đó là 3 nguồn nước cho tất cả tù chính trị lẫn tù h́nh sự lúc ấy vào khoảng 800 người sử dụng. Nhà bếp có giếng riêng.
    Ban ngày lẫn ban đêm, khi nói chuyện với nhau phải cẩn thận nhất là ban đêm, v́ lính Công An tuần tiểu bên ngoài các buồng giam. Đang nói chuyện với anh bạn trẻ trực buồng giam th́ tên quản giáo bước vào:
    “Các anh đến chiều qua, khẩn trương ra câu lạc bộ làm thủ tục”.
    Gần 200 Đại Tá từ buồng giam số 5, 15, và 16, ra gian nhà xiêu vẹo mà họ gọi là câu lạc bộ, ngồi trên các thanh gỗ gác trên nền mặt xi măng loang lỗ, một lô Công An cả nam lẫn nữ ngồi trên các băng dài. Tên Công An Trại Trưởng nghe như là tên Xuyên, hắn có hàm răng hô hết tầm mức, đứng sau bục gỗ nói oang oang: Nào là Việt Nam ta anh hùng, dân tộc ta anh hùng, chủ nghĩa xă hội là khoa học, là ưu việt, ngọn cờ Mác Lê là bách chiến bách thắng, ..v..v… Thật ra trong vài năm qua, đây là thứ bài bản mà từ tên ngồi trên chót vót xuống đến tên quản giáo quèn, đều học thuộc ḷng để phun ra với những ai trước mặt như tù chính trị chúng tôi hôm nay chẳng hạn. Đến đoạn cuối, hắn ra lệnh:
    “Để sớm có tiến bộ, các anh phải chấp hành mệnh lệnh của cán bộ đây (vừa nói hắn vừa chỉ vào mấy tên Công An đứng cạnh). Các anh phải gọi các sĩ quan và chiến sĩ là cán bộ. Các đồng chí này trẻ tuổi, nhưng đầy đủ phẩm chất và đạo đức cách mạng, để giúp các anh học tập và lao động tiến bộ. Khi muốn báo cáo với cán bộ, các anh phải đứng xa 6 mét. Đó là lệnh, các anh phải chấp hành cho tốt”.
    Hắn nói xong, dù muốn hay không muốn, tù chính trị cũng phải vỗ tay v́ hắn vỗ tay trước, rồi đám Công An vỗ tay theo. Trong xă hội xă hội chủ nghĩa, các cấp lănh đạo lớn nhỏ của họ, mỗi khi phun xong một đoạn trong bài bản thuộc ḷng nào đó th́ ngưng lại và tự họ vỗ tay trước, cử tọa buộc ḷng vỗ tay theo. Lại phun tiếp.
    Đến thủ tục bàn giao tù, hồ sơ, và những ǵ mà chúng tôi buộc phải gởi họ lúc ở trại tập trung Yên Bái. Riêng thuốc tây họ hoàn lại cho từng người tự cất giữ. Ba con bé Công An tuổi khoảng 19-20, mỗi đứa một chồng hồ sơ, gọi từng người mà tôi là trường hợp điển h́nh để ghi lại đây:
    “Phạm Bá Hoa”.
    “Có”. Nói xong, tôi đứng dậy đến trước mặt con bé trông khá sạch sẽ.
    “Tên ǵ?”
    “Phạm Bá Hoa”.
    “Năm và nơi sinh?”
    “1930, tại Sóc Trăng?”
    “Sóc Trăng ở đâu?”
    “Sóc Trăng ở Sóc Trăng”.
    “Không được đùa trước mặt tôi. Sóc Trăng ở đâu?”
    “Tôi không đùa. Cán bộ hỏi không rơ nghĩa làm sao tôi trả lời chính xác”.
    Con bé nh́n tôi với nét mặt hầm hầm:
    “Sóc Trăng ở Nam Bộ hay Trung Bộ?”
    “Sóc Trăng ở miền Nam”.
    “Cấp chức?”
    “Đại Tá. Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu”.
    “Ngày bị bắt?”
    “Tôi tŕnh diện”.
    “Tŕnh diện hay bị bắt cũng vậy thôi. Ngày nào?”
    “Ngày 14 tháng 6 năm 1975”.
    “Địa chỉ trước khi bị bắt?”
    “X 12, cư xá Bắc Hải, Phường 25, Quận 10, Sài G̣n”.
    “Về chỗ”.
    Trở lại chỗ ngồi, chờ con bé Công an tóc dài nghe như tên Nguyệt, phụ trách kiểm nhận những ǵ chúng tôi gởi:
    “Phạm Bá Hoa”.
    “Có”.
    “Đồ vật đăng kư gồm những ǵ?”
    “Một đồng hồ đeo tay hiệu Longines, một chiếc nhẫn vàng 24, nặng một chỉ”.
    “Kiểm lại có đúng không?” Cô ta đưa cái túi nhỏ cho tôi. Cái trục đồng hồ tôi đă làm găy khi ở trại tập trung Tam Hiệp đă bị mốc màu xanh:
    “Đúng là của tôi”.
    “C̣n trong đăng kư (gởi) bao nhiêu tiền?”
    “Số tiền tôi gởi c̣n 35 đồng hoặc sai biệt chút ít”.
    “ 34 đồng rưỡi”. Con bé đưa tôi Phiếu Gởi Đồ Vật và Phiếu Lưu Kư (gởi) tiền.
    Khi tất cả chúng tôi gọi là làm thủ tục xong, về buồng giam th́ anh bạn trực buồng đă chia cho nửa ca bo-bo, mấy lát su hào, với một muỗng nước muối. Ở đây không cho ăn muối hột mà là ăn muối nước. Bữa ăn bo-bo đầu tiên cảm thấy không đến nỗi ghê sợ v́ nó ng̣n ngọt, tuy là nhai có phần mỏi quai hàm. Anh bạn trẻ bèn ch́a kinh nghiệm ra liền:
    “Mấy chú mới ăn bữa đầu như vậy đó, chỉ vài hôm th́ mấy chú sẽ biết thế nào là bo-bo nguyên vơ”.
    “Nó làm sao anh bạn?”
    “Khi đi cầu th́ chú biết liền”.
    Thật ra chẳng phải vài ngày ǵ cả mà ngay sáng hôm sau, khi ngồi bên trên cái thùng đựng phân người. Trời đất ơi, cái hậu môn đau kinh khủng, v́ lớp vơ lụa c̣n nguyên nên nó làm rách hậu môn và rỉ máu, đến mức miếng giấy đỏ ḷm khi lau nó. Mấy anh bạn trẻ đă “thưởng thức” thứ ḿ hạt này khá lâu nên từng trải thế nào là nhẩy nhổm khi sản xuất thứ phân bón xă hội chủ nghĩa ưu việt ra ngoài. Các bạn tù trẻ ăn từng hột bo-bo bằng cách dùng cây tăm xỉa răng ghim từng hột cho vào miệng. Ăn như vậy vừa nhai kỷ vừa kéo dài bữa ăn để được sống trong ảo giác là ḿnh ăn nhiều. Nhưng với các anh “chưa mọc răng đầy đủ” (đă nhổ nhiều răng) là khốn khổ như anh Trương Đ́nh Liệu hay anh Nguyễn Ḥa Phùng chẳng hạn, phải nghiền nát mới nuốt được.
    Ngay chiều ngày thứ hai tại trại tập trung Nam Hà, chúng tôi phải bày ra tất cả những ǵ mang theo mà họ gọi là tư trang để tên quản giáo buồng giam tên Phụ kiểm soát. Nói cho đúng là tên Phụ đứng nh́n hai tên tù h́nh sự lục soát chẳng sót món nào. Anh nào có 3 cái lon guigoze trở lên là nó chỉ để lại 2 cái thôi. Tôi có 6 sợi giây dù khá dài, tên quản giáo lấy luôn. “Cai tù” ở đây nghèo lắm, thấy thứ ǵ của anh em chúng tôi coi được được là nó lấy với lư do:
    “Những thứ này các anh không được giữ v́ nội qui cấm”.
    “Cán bộ cho tôi lại 2 sợi để đi rừng lấy củi”.
    “Không được”.
    Vậy là ngay chiều hôm nay, hắn đă trấn lột chúng tôi một số đồ tuy không đáng giá bao nhiêu, nhưng những người tù chúng tôi rất cần, như: cái cắt món tay, lưỡi lam cạo râu, cây đèn bấm nhỏ, ..v..v.. Nhớ lại bọn cán bộ với bộ đội trại Tam Hiệp đă trấn lột khá nhiều đồ dùng của chúng tôi, trại tập trung Yên Bái lại trấn lột lần hai, bây giờ bọn Công An trấn lột nữa. Một bạn trẻ -tù cũ- nghe tôi nói trỏng với cái giọng căm tức, anh ta nói theo:
    “Mấy chú sẽ c̣n bị trấn lột nhiều lần nữa chớ không phải chỉ có 3 lần đâu. Ở đây thỉnh thoảng bọn họ bảo ḿnh mang ra cho nó xét. Món ǵ nó vừa ư là không sớm cũng muộn bị chúng nó lấy thôi”.
    “Các bạn bị chúng nó xét mấy lần rồi?”
    “Cháu ra đây năm 1976, chưa được hai năm mà bị chúng nó lục xét tịch thu 6 lần rồi. Mỗi lần chúng nó tịch thu một ít. Cả bọn họ cùng một phe trấn lột nên chú đừng ḥng báo cáo mà mất công, có khi ḿnh c̣n bị chụp mũ là nói xấu cán bộ th́ đủ thứ phiền hà chú ơi”.
    Bo-bo tối xong. Vào mùng. Tôi nói khẻ với anh Huỳnh Thanh Sơn:
    “Anh Sơn. Hồi sáng tôi trả lời con nhỏ Công An là tôi tŕnh diện chớ không phải bị bắt, nó nói bị bắt hay tŕnh diện cũng vậy thôi. Điều này làm tôi kiểm lại từ ngày đầu: Từ lúc ḿnh được giữ tiền giữ áo quần cũng như đeo đồng hồ đeo nhẫn, đến chỗ phải móc ra trao cho chúng nó giữ. Từ cách xưng hô gọi chúng nó bằng anh đến gọi chúng nó là cán bộ với bộ đội, bây giờ nó bắt ḿnh phải gọi tất cả chúng nó từ sĩ quan xuống đến lính đều là cán bộ. Từ khoảng cách mỗi khi tiếp xúc như thế nào cũng được, bây giờ phải đứng xa 6 thước. Từ chỗ không đóng cửa đến nay th́ 3 lần khóa, khóa cổng trại, khóa cửa khuôn viên, khóa cửa buồng giam. Từ 30 ngày đến 3 năm, và bây giờ chẳng biết là mấy lần 3 năm nữa. Rơ ràng là chúng nó càng lúc càng đẩy chúng ḿnh vào ngơ hẹp đường cùn, anh Sơn hả?”
    “Tụi này dă man lắm! Không có điều ǵ tin được tụi nó cả. Ngẫm nghĩ mà ông Thiệu nói một câu để đời: Đừng nghe những ǵ cộng sản nói mà hăy nh́n kỷ những ǵ cộng sản làm”.
    “Trong thế giới cộng sản, tôi nghĩ, không có cộng sản nào lưu manh hơn cộng sản Việt Nam đâu anh”.
    Có tiếng bọn Công An đi tuần bên ngoài, tôi vội chuyển sang chuyện khác:
    “Hậu ơi, Hậu. Ḿnh nghe nói trại Nam Hà này có đến 3 hay 4 trại chớ không phải chỉ có trại này không đâu. Bạn có nghe vậy không”.
    “Hồi chiều tớ nghe nói phía trong trại này có trại B, ngược ra phía ngoài có hai ba trại nữa, nhưng tớ chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. C̣n trại nhốt tụi ḿnh đây là trại Nam Hà A”.
    Ngày kế tiếp, trong khi đang học nội qui có một tên Công An bước vào, tên quản giáo buồng giam giới thiệu là cán bộ giáo dục của trại. Hắn bảo chúng tôi ghi địa chỉ của trại để viết thư về gia đ́nh: “25A-TD63/NH-Hà Nam Ninh”. Mỗi tháng viết thư một lần, mỗi ba tháng được nhận một gói bưu phẩm tối đa 5 kí lô. Trên bưu phẩm phải dán phiếu do trại phát mới được nhận. Đến chiều, chúng tôi mới biết hắn tên Niệm, dường như là Thiếu Úy. Vợ hắn cũng là Công An trại này, tên là Vường (không phải tôi viết sai đâu).
    Tuần sau đó, 27 anh em chúng tôi từ buồng giam số 5 chuyển xuống buồng giam số 15 chung với các bạn từ Yên Bái xuống đây. Tôi nhập vào Đội 30 do anh Trần Công Liễu (Đại Tá Biệt Động Quân) là Đội Trưởng. Sau hai ngày trong toán quét vôi tường buồng giam, tôi nhập vào nhóm “thợ hồ” xây tường rào bằng đá tảng để “rào ḿnh rào bạn”. Tôi có biết thợ hồ là ǵ đâu, nhưng khi đang quét vôi, tên Ổn -quản giáo buồng giam- ra lệnh cho anh buồng trưởng Nguyễn Đức Khoái: (Đại Tá Biệt Động Quân)
    “Anh chuyển cái anh đội nón trắng (vừa nói hắn vừa chỉ tôi) sang tổ thợ nề từ ngày mai”.
    Thế là tôi thành thợ hồ từ ngày đó. Trong Nam gọi là thợ hồ th́ ngoài Bắc gọi là thợ nề. C̣n hồ th́ họ gọi là vửa. Hồ để xây tường chỉ là “chạc” trộn với vôi thôi. “Chạc” là loại đá xanh c̣n non, cứ dùng cuốc chim cuốc vào đá non sẽ có chạc giống như loại sạn trong Nam. V́ hồ chỉ có thế, cho nên khi xây vách nhà xong phải để hai ba tháng mới đủ cứng để làm tiếp những công tác khác.
    Học chính trị.
    Chỉ mới xây xong nền nhà ăn th́ 4 Đội cấp Đại Tá chúng tôi được lệnh chuẩn bị học chính trị do tên Công An nào đó từ Bộ Công An ở Hà Nội xuống dạy.
    Tại trại A này rất đông viên chức cao cấp và một số sĩ quan cấp Tá trong ngành Cảnh Sát đă chuyển từ Sài G̣n ra đây năm 1976, tôi chỉ mới tiếp xúc được với cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc, các vị cựu Nghị Sĩ Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Ngọc Mân, Trần Ngọc Oành, Hoàng Xuân Tửu, cùng vài vị cựu Bộ Trưởng, cựu Đại Sứ, ..v..v.. Các vị này khi đến đây đă qua lớp học tập rồi.
    Nơi tập trung những buổi lên lớp là cái hội trường xiêu vẹo ven triền núi, gần nhà tên Trung Tá trại trưởng. Suốt một tháng gọi là học tập tại hội trường và thảo luận tại buồng giam, chẳng qua là toán Công An Hà Nội xuống cũng chỉ những lời lẽ kiêu ngạo, nào là nước nhỏ dám đánh và thắng nước lớn, Việt Nam là đất nước anh hùng, xă hội chủ nghĩa là ưu việt, là vĩnh viễn trên đất Việt Nam, xă hội chủ nghĩa là chủ nghĩa của thời đại, độc lập dân tộc với xă hội chủ nghĩa là hai ngọn cờ mà đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn giương cao, và giữ vững trong cuộc đấu tranh ai thắng ai, ..v..v.. Hết ưu việt, họ quay sang cái gọi là chính sách khoan hồng nhân đạo, chẳng hạn như được tập trung cải tạo là chứng tỏ đảng với nhà nước quan tâm bảo vệ sinh mạng trước sự căm thù của nhân dân. Đến khi phần quảng cáo cạn lời, họ chuyển sang phần dao to búa lớn cái gọi là phát triển đất nước, nào là cả nước sẽ tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xă hội, nào là đến năm 2000 th́ Việt Nam sẽ ngang hàng với nước Pháp và nhiều quốc gia khác, v́ Việt Nam đă có búa đập 1.000 tấn biểu tượng của nền công nghiệp nặng, nào là ..v..v
    Nói chung là những ngày lên lớp, tên Công An mà họ gọi là giảng viên luôn luôn bắt đầu bằng một loạt quảng cáo về xă hội chủ nghĩa, như là bức tranh tuyệt mỹ do chế độ độc tài sẽ dựng nên trong ṿng 25 năm cuối của thế kỷ 20, đại loại cũng giống như bức tranh mà ông Hồ đă vẽ cho những thế hệ công dân nước Việt Nam Dân Chủ cộng Ḥa từ năm 1930 khi thành lập đảng cộng sản vậy, mà rốt cuộc đến năm 1975 th́ xă hội dưới quyền cai trị của họ không hơn xă hội đồng bào thiểu số Cao Nguyên Miền Trung bao nhiêu! Bằng chứng là quân lính cũng như hàng trí thức của họ vào Sài G̣n, ngây ngô ngốc ngếch ngờ nghệch ngớ ngẩn chẳng khác những con người từ trong rừng sâu lần đầu tiên vào thành phố. Vậy là bức tranh xă hội ưu việt của ông Hồ vẽ ra để vuốt ve dụ dỗ những thế hệ “cháu ngoan” của ông, để rồi ông đẩy họ lăn xả vào chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Ḥa, với kết quả mà đại hội đảng cộng sản lần thứ 4 của họ hồi năm 1976, đă đưa ra con số thống kê với hằng chục triệu thanh niên đă bỏ xác dọc hành lang Trường Sơn, là bằng chứng mà những nhóm lănh đạo cộng sản Việt Nam không thể phủ nhận trước lịch sử.
    Sau 4 bài học, tên giáo viên đ̣i hỏi tù chính trị phát biểu cảm nghĩ về các bài học và cả ngoài bài học nữa. Hắn nói rằng:
    “… Chúng tôi sẳn sàng nghe các anh và trả lời các anh nếu thấy cần thiết. Muốn được như vậy, các anh phải đưa câu hỏi chúng tôi xem trước…”
    Trong câu nói của hắn có hai vế. Vế thứ nhất là hắn “sẳn sàng trả lời”, nhưng vế thứ hai th́ hắn nói “nếu thấy cần thiết”. Vừa mở là đóng lại ngay. Điều đó dẫn đến suy đoán, những câu mà tù chính trị đề cao cái chế độ cộng sản độc tài th́ hắn sẽ giải thích thêm, bằng ngược lại th́ hắn liệng vào sọt rác.
    Ngay lúc đó, cựu Đại Tá Phan Xuân Nhuận đưa tay xin phát biểu và tên giảng viên chấp nhận. Cũng cần nói qua một chút về ông Nhuận trước khi nghe ông nói. Ông thăng cấp Chuẩn Tướng ngày 14 tháng 7 năm 1964, và giữ chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân. Ngày 10 tháng 3 năm 1966, ông được cử giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh ngay trong ngày Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cách chức Tư Lệnh Quân Đoàn I. Nhưng sau cuộc khủng khoảng chính trị do cách chức Trung Tướng Thi, ngày 7 & 8 tháng 9 năm 1966, Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt đă giáng cấp ông từ Chuẩn Tướng xuống Đại Tá và giải ngũ bắt buộc v́ ông đứng hẳn trong thành phần chống đối trung ương, cùng lúc Hội Đồng nghe phát lại từ băng cassette do tổng đài điện thoại Cộng Ḥa thu cuộc nói chuyện giữa ông với Thượng Tọa Thích Trí Quang, trong đó ông Nhuận mạnh mẽ chống chánh phủ.
    Bây giờ mới quí vị quí bạn nghe ông Nhuận phát biểu. Đây là một đoạn lời lẽ của ông Chuẩn Tướng bị giáng cấp:
    “Thưa Ban Giám Thị, thưa các cán bộ, thưa các anh em. Trước khi phát biểu cảm nghĩ, tôi xin giới thiệu tôi là ai?”

  8. #18
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7A / Trại tập trung Nam Hà 1
    P2


    Đến đây ông phải ngưng lại v́ anh em tù chính trị chúng tôi cười ồ lên. Chờ im lặng ông phát biểu tiếp:
    “Tôi là Tướng Lănh của chế độ ngụy, tôi bất măn chế độ nên tôi chống đối chúng và chúng đă giáng cấp tôi, rồi buộc tôi về hưu…”
    Ông phải ngưng lại lần nữa, bởi tiếng cười tiếng nói của anh em chúng tôi trong hội trường át hẳn âm thanh của ông, đến mức đám Công An bao quanh phải hét lên bảo giữ trật tự. Suốt từ đầu đến cuối phần phát biểu của ông Nhuận, toàn là đề cao chế độ cộng sản mà ông Nhuận gọi là cách mạng. Cuối cùng ông nói:
    “Tôi rất an tâm học tập cải tạo để sớm có ngày đoàn tụ với gia đ́nh”.
    Không ai đưa tay xin phát biểu, hắn cũng không chỉ định ai nữa, nên hắn nói:
    “Chúng tôi nghĩ là các anh, anh nào cũng có phần tâm tư t́nh cảm riêng, lo nghĩ về vợ con. Điều đó cũng là thông thường. Chỉ những anh nào cho rằng ḿnh an tâm th́ tôi cho là không b́nh thường”.
    Anh Đại Tá Nguyễn Kim Tây (Đại Tá Biệt Động Quân) đưa tay xin phát biểu. Hắn chấp nhận:
    “Thưa cán bộ. Tôi hoàn toàn an tâm về mặt vợ con. Tôi không lo nghĩ ǵ cả. V́ vậy mà câu của cán bộ vừa nói không đúng với trường hợp của tôi”.
    Hắn hỏi lại: “Anh không không lo nghĩ ǵ về gia đ́nh à?”
    “Đúng”.
    “Tại sao?”
    “Tôi c̣n độc thân”.
    Đúng là anh Tây chưa lập gia đ́nh, nhưng bạn bè vẫn cười râm ran v́ thấy anh Tây chọc quê thằng Công An giảng viên.
    Hắn hỏi với giọng gay gắt: “Anh bao nhiêu tuổi?”
    “Tôi 45 tuổi”.
    “Ngần ấy tuổi mà chưa có vợ, chứng tỏ anh rất trung thành với chế độ ngụy, hi sinh cho chế độ ngụy đến mức vẫn độc thân”.
    Bị chọc quê, hắn bèn mắng anh Tây một trận. Thế nhưng “bị” mắng mà cả anh Tây lẫn các bạn cùng cười, nhưng lúc ấy cười chúm chím chớ đâu dám cười thành tiếng, hắn mà biết anh em chúng tôi cười vào mặt hắn th́ lắm thứ rắc rối xảy ra chớ không yên thân với bọn họ đâu.

    Khai báo.
    Đến đấy là xong phần học tập chính trị. Nhưng với bọn Công An trại giam chuyên nghiệp này, sau đợt học tập là viết “bản tự khai” để chứng tỏ thông suốt cái gọi là chính sách “khoan hồng nhân đạo” và tin tưởng vào điều mà bọn họ gọi là chủ nghĩa xă hội. Do đó, phần tiếp theo là chúng tôi -tất cả cấp Đại Tá từ trại tập trung Yên Bái chuyển đến- phải khai báo qua những trang giấy. Trước khi họ hướng dẫn khai báo, một tên Công An tầm thước trung b́nh, mặt rỗ hoa mè, dường như tên là Thịnh (không phải Thịnh khuỳnh của trại Nam Hà) lên bục gỗ:
    “… Sau chuyến công tác từ trong Nam về. Tôi thấy rằng, gia đ́nh các anh rất mong đợi ngày về của các anh. Điều đó cũng đúng thôi. Vậy th́ các anh nên khai báo cho đầy đủ, cho thật tốt, Tôi hẹn rằng, một ngày gần đây tôi sẽ gặp các anh tại thành phố HCM. Chúc các anh mạnh khỏe và khai báo cho tốt”.
    Đánh đúng tâm lư của tù chính trị dù hắn nói rất ngắn, nên chúng tôi đă chào hắn bằng tràng pháo tay khá dài. Khi ra đến cửa, hắn c̣n quay lại vẫy tay và lặp lại lời hẹn lúc nảy nữa chớ. Trong một chừng mực nào đó, một số anh em chúng tôi có phần tin hắn, một số khác th́ dè dặt và cẩn trọng hơn, nghĩa là không tin cũng không bác bỏ hoàn toàn, và một số khác nữa th́ bác bỏ ngay lời của hắn. Tôi kề tai anh Lễ:
    “Anh thấy sao Lễ?”
    “Thằng này khi nó cười trông cái mặt nó đểu hết biết”.
    Anh Đặng Văn Hậu chen vào:
    “Hắn nói cứ như thật ấy, nhưng cái mặt nó trông khó ưa làm sao á”.
    Tôi tiếp lời:
    “Tôi th́ đơn giản thôi. Đă là cộng sản th́ không thằng nào tin được cả. Hai bạn cứ nhớ lại xem, chúng nó tuyên truyền ḿnh học tập 30 ngày, rồi tăng lên 3 năm. Thằng nào cũng nói cách mạng biết hết những việc chúng ḿnh làm, nhưng chúng nó nói muốn thấy ḿnh khai báo thành thật để chúng nó khoan hồng, mà thật ra là để chúng nó buộc tội như trường hợp hai anh Thiếu Tá bị chúng nó bắn ở trại Tam Hiệp (Biên Ḥa) đó…. “
    Nói đến đây th́ tên Công An hướng dẫn khai báo bước vào nên cả hội trường không c̣n tiếng ồn ào. Theo hướng dẫn, mọi người phải ghi chép cái mẫu khai báo gồm 34 điểm trong ba phần khác nhau:
    Phần một là lư lịch bản thân.
    Phần hai là ḍng họ ông bà nội, ḍng họ của hai bên cha mẹ, anh chị em ruột, và vợ con. Những người thân trong ḍng họ từ ông bà nội trở xuống dù có chết cũng phải khai trước khi chết, như: Nghề nghiệp, chỗ ở, tại sao chết? Mục đích để chúng nó xem những người chết có phải trong quân đội Pháp hay quân đội Việt Nam Cộng Ḥa không, để từ đó chúng nó trừng phạt những con cháu. Lúc ở trại tập trung trên Yên Bái, anh cộng sản từ trong Nam tập kết ra Bắc năm 1954 là Thượng Úy Toản, đă nói đến điều này và dặn đừng bao giờ khai báo sự thật, v́ chúng nó sẽ căn cứ vào đó để kết tội người khai báo.
    Và phần ba là khai báo bản thân từ lúc sinh ra cho đến lúc ngồi viết khai báo. Phải khai từng năm một bao gồm: Ở đâu? Làm ǵ? Kết quả của việc làm? Khai cả những cô bạn học, bạn gái bạn trai, và khai về mỗi người cũng đúng theo cái khung khai về bản thân ḿnh.
    Tôi lại kề tai anh Lễ -chúng tôi thân nhau từ lâu- và ngay trong lúc này lại ngồi cạnh nhau:
    “Anh thấy chúng nó truy lục toàn bộ gia phả của ḿnh không. Lại c̣n truy lục mọi góc cạnh t́nh cảm của ḿnh nữa. Giống y như một đoạn mà tôi đă đọc trong “Bóng Cờ Hồng Trên Đất Trung Hoa” hồi năm 1970 khi học ở Trường Chỉ Huy & Tham Mưu Cao Cấp ở Đà Lạt vậy. Ruột gan ḿnh nó hổng moi được ngay bây giờ, nếu moi được là chúng nó cũng hổng chừa đâu. Thứ ǵ chúng nó cũng nắm hết. Độc quá sức!”
    Chỗ ngồi viết là buồng giam số 15, số 16, và trong gian nhà xiêu vẹo mà chúng nó gọi là “câu lạc bộ”. Tôi trong Đội 30 viết khai báo tại câu lạc bộ. Mỗi người nhận 20 tờ giấy đôi có gạch ô vuông, viết chấm mực và mực. Hết giấy hết mực th́ lănh tiếp.
    Tôi nghe các bạn trẻ kể lại là các viên chức cao cấp trong Chánh Phủ, trong Quốc Hội, và các sĩ quan Cảnh Sát cấp Đại Tá đến trại tập trung Nam Hà này trước chúng tôi, đă viết khai báo rồi. Có người viết đến 500 trang như Thiếu Tướng (Nghị Sĩ) Huỳnh Văn Cao chẳng hạn. Có người c̣n viết nhiều hơn nữa. Vài anh em chúng tôi thắc mắc: “Không biết các ông ấy khai báo ǵ mà đến mấy trăm trang giấy”.
    Phần đầu th́ viết dễ thôi, v́ là lư lịch của bản thân mà chúng nó gọi là “lư lịch trích ngang”. Với lại trong 3 năm qua, mỗi người chúng tôi phải khai đến vài chục lần chớ không ít, v́ bất cứ tên nào cũng bắt tù chính trị chúng tôi khai lư lịch cả. Chúng tôi đâu có biết tên nào có quyền tên nào không có quyền mà nghe lời hay phản đối, thôi th́ cứ viết cho yên thân.
    Phần gia phả là phải ṿ đầu bóp trán cả ngày để lục lọi trong trí nhớ xem từng ông bà cô bác tên ǵ, bao nhiêu tuổi, v́ trong gia đ́nh cứ gọi Ông Ba Bà Tư ..v...v.. chớ có bao giờ biết tên. C̣n tuổi th́ áng chừng từ người nhỏ nhất trở lên, từ đó làm chuẩn để “ấn định” tuổi của những ông bà lớn hơn. Cứ mỗi người lớn hơn th́ cộng thêm hai hay ba tuổi, và cứ thế mà khai. Chưa hết, nếu như ông bà cô bác đă chết phải khai v́ lư do ǵ mà chết nữa chớ. Chỉ có cách gắn đại cho cái bệnh ǵ đó như rắn cắn, té sông, sụp hầm, leo cây bị găy nhánh, bất đắc kỳ tử, ..v..v.., miễn là đừng chết v́ tham gia chánh quyền hay quân đội th́ tránh được phiền toái. Có đêm nằm nghĩ lại những ǵ ḿnh khai mà phát cười. Thuở đời nay con cháu mà dám cả gan đặt tên rồi ấn định tuổi cho ông bà cô bác, lại c̣n gắn cho cái bệnh phải gió ǵ đó để chết theo ư muốn nữa. Nếu không khai báo theo cách đó th́ tên cán bộ tuổi mới 20 nó mắng nghe đến nổ lỗ tai chớ vừa đâu. Chẳng hạn như:
    “Anh là cháu mà không biết tên tuổi của ông bà à? Từ nhỏ đến lớn anh cũng không hỏi xem ông bà cô chú của anh chết v́ bệnh ǵ à? Cái thứ con cháu như các anh là cái thứ mất gốc, chỉ biết đế quốc thôi”.
    Tức quá, tôi trả lời:
    “Ở trong Nam chúng tôi các cơ quan hành chánh hay quân đội chẳng bao giờ đ̣i hỏi lư lịch như vậy, nên chúng tôi chẳng ai hỏi ông bà cô bác đến những chi tiết ấy cả”.
    “Tại anh không dám khai thật đấy”.
    “Báo cáo cán bộ, tôi thấy chẳng có ǵ phải giấu cả. Dường như cán bộ xem đó là điều quan trọng th́ phải?”
    “Lư lịch mà không quan trọng à!”
    “Trong chế độ của chúng tôi th́ khác cán bộ à! Các cơ quan chỉ cần biết bản thân chúng tôi là đủ. V́ nền hành chánh của chúng tôi tổ chức dựa trên “quan niêm tin tưởng” nên căn cứ vàolời khai của mỗi người là đủ. Trường hợp công dân nào lợi dụng ḷng tin đó mà vi phạm luật pháp th́ luật pháp trừng phạt”.
    Hắn im lặng một lúc rồi gằn giọng: “Đừng có lư luận nữa. Tiếp tục đi”.
    Đến phần thứ ba mới là phần chánh. Trong phần này phải khai báo từ lúc sinh ra, lớn lên, đi học, làm những việc ǵ, kết quả của những việc làm đó, ..v..v.. Chỉ trong cái đoạn từ năm 1930 đến năm 1939, mà hắn sỉ vả bảo viết lại đến lần thứ 3 hắn mới chấp nhận. Quí vị quí bạn nghĩ xem, từ lúc chào đời đến khi 9 tuổi th́ nhớ được cái ǵ để viết. Hắn lên giọng:
    “Tại anh không đặt ḿnh vào thời điểm ấy mà viết, chẳng lẽ anh không làm ǵ được cho ba má anh à?”
    “Báo cáo cán bộ, tôi đâu phải thần đồng mà khi chào đời đến lúc 9 tuổi, xin lỗi cán bộ nghe, cái tuổi ấy tắm không mặc quần th́ làm sao biết mọi việc trên đời cũng như làm được bao nhiêu việc giúp Ba Má tôi để mà viết”.
    Cái mặt hắn đỏ lên, hắn quát: “Anh lư luận cái kiểu ấy với tôi à?”
    “Không. Tôi chẳng lư luận ǵ cả, tôi chỉ nói với cán bộ những sự thật trong cuộc sống của tôi thôi”.
    Hắn trừng mắt nh́n tôi. Im lặng. Hắn ra ngoài.
    Anh Lễ khều tôi:
    “Coi chừng nó nhốt anh à. Thôi, đừng có đấu với nó không có lợi đâu”.
    “Tôi biết chớ. Lúc nảy tôi muốn hỏi hắn chớ từ lúc sinh ra đến khi 9 tuổi hắn đă làm được ǵ cho ba má hắn. Nhưng tôi nén lại được, để chuyển qua câu tôi không phải thần đồng đó”.
    Khoảng nửa giờ sau hắn quay lại: “Sao anh không viết?”
    Bỗng dưng hắn dịu giọng một cách lạ thường, cứ như không có chuyện ǵ xảy ra trước đó cả!
    “Báo cáo cán bộ, tôi cố nhớ lại những ǵ xảy ra trong đời tôi thuở ấy, nhưng vẫn chưa nhớ được điều ǵ nên chưa thể tiếp tục”.
    “Tôi cho anh suy nghĩ 30 phút nữa rồi viết tiếp”.
    Cuối mỗi ngày, viết được bao nhiêu đưa hắn bấy nhiêu, nếu đoạn nào hắn cho là “không đạt yêu cầu”, sáng mai hắn bảo viết lại sau một hồi sỉ vả. Mỗi lần như vậy, tôi phải vẽ vời để viết theo điều mà hắn gọi là “đạt yêu cầu”, ấy vậy mà hắn chấp nhận. Nghĩa là viết thật th́ hắn cho là “không đạt yêu cầu”, c̣n tưởng tượng ra để viết th́ hắn cho là “đạt yêu cầu”. Điển h́nh khi tôi viết về cô bạn học thời sơ học với cái bằng “Việt Nam Sơ Đẳng Tiểu Học Văn Bằng”, cô tên là Yến, măi 8 năm sau mới gặp lại trong một dịp t́nh cờ ở Sài G̣n. Hắn hỏi với chút châm biếm:
    “Anh không t́nh tự ǵ à?”
    “Trời đất ơi! Tám chín tuổi mà t́nh tự ǵ cán bộ”.
    “Không. Tôi không hỏi anh lúc tám chín tuổi, mà tôi hỏi anh khi gặp lại cô bạn học của anh. Sĩ quan ngụy của anh chỉ biết t́nh tự ăn chơi chớ biết làm ǵ”.
    “Lúc ấy tôi vừa đi làm vừa đi học chớ chưa vào quân đội. Mà có vào quân đội đâu phải chỉ có t́nh tự ăn chơi như cán bộ nói. Chẳng lẽ chúng tôi chỉ ăn chơi mà hơn 20 năm cán bộ mới vào được Sài G̣n sao”.
    Hắn quát:
    “Tôi không chấp nhận cái lối lư luận của anh. Viết tiếp đi, đừng có dài ḍng mà có chuyện”.
    Hắn dọa tôi đó. Và đây là một đoạn vẽ vời của tôi mà hắn chấp nhận:
    “… Quê tôi, tên gọi là Đại Ngăi (tỉnh Sóc Trăng), gối đầu lên bờ Nam Sông Hậu, duỗi ḿnh trên cánh đồng trỉu hạt vụ mùa. Cạnh đó là ḍng sông hai mùa mặn ngọt. Người người rất hiền ḥa bên nhau trong nghề hạ bạc (đánh bắt cá) và đồng áng. Tôi được chào đời trên vùng đất xa thành thị nhưng gần gủi t́nh người ấy….”
    Đến đoạn tiếp theo, tôi lại viết theo cách khai báo chớ không viết theo lối viết văn. Hắn lại mắng:
    “Anh đùa với tôi hả? Anh viết kiểu ǵ lạ vậy?”
    “Tôi viết theo khai báo như tôi đă khai báo ở các trại trong Nam cũng như các trại trên Hoàng Liên Sơn chớ đâu có kiểu ǵ lạ cán bộ”.
    “Ở đây khác. Anh phải trộn lại và viết theo thời gian. Anh là người sử dụng nhiều giấy nhất mà chẳng viết được ǵ cả”.
    “Cán bộ nói như vậy, có nghĩa là tôi viết như viết văn phải không?”
    Hắn im lặng một lúc:
    “Không văn vẽ ǵ hết, anh cứ viết theo lời tôi bảo”.
    Thế là tôi dựa theo một số sự kiện có thật rồi tiểu thuyết hóa nó trong khai báo. Chuẩn bị cho bài viết bằng cách mỗi đêm ôn lại những sự kiện, rồi lọc ra một số sự kiện mà tôi cho là có tác dụng chung chung nói lên tinh thần dân tộc để hôm sau viết. Điển h́nh như sự kiện Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không chấp nhận sự có mặt các căn cứ quân bộ chiến Hoa Kỳ trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa, để giữ uy tín Việt Nam trên chính trường thế giới. Sự kiện Quốc Trưởng Nguyễn Khánh kêu gọi quân viện chỉ để bảo vệ Việt Nam Cộng Ḥa, chớ không có kế hoạch đánh ra Bắc. Sự kiện khi quân bộ chiến các quốc gia đồng minh hiện diện trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa, cũng chỉ góp sức bảo vệ lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa trong chiến lược “can gián mực thước” hay “chiến tranh không cần thắng” mà thôi. Cách tŕnh bày của tôi để họ thấy quân đội của họ có mặt trên chiến trường Việt Nam Cộng Ḥa trước khi quân đội đồng minh có căn cứ trên lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa.
    Sự kiện những chiếc tàu của họ chở vũ khí đạn dược từ Hải Pḥng, men theo hải phận quốc tế rồi xâm nhập vào hải phận Việt Nam Cộng Ḥa, đă bị đánh ch́m tại cửa sông Bồ Đề (An Xuyên), cửa Ba Động (Vĩnh B́nh), Vũng rô (Khánh Ḥa-Phú Yên) ..v..v.. Tôi cố t́nh khen cuốn phim “Lửa Hận Rừng Dừa” của họ (Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa) sản xuất mà tôi đă xem tại Bộ Tổng Tham Mưu. Ư của tôi là để chứng minh những chiếc tàu của họ thật sự bị đánh ch́m, và nhiều tài liệu phim ảnh bị tịch thu đưa về Trung Tâm Hỗn Hợp Việt Mỹ Khai Thác Tài Liệu. Tôi cũng tóm tắt tin tức về mấy ngàn bộ xương của đồng bào Huế/Thừa Thiên đă phát hiện từ nhiều mồ chôn tập thể, sau trận tấn công của họ trong Tết Mậu Thân đầu năm 1968. Nhiều phóng viên cơ quan truyền thông quốc nội quốc tế, đă có nhiều bài viết cùng với những thước phim tài liệu phổ biến đến khán thính giả khắp nơi trên thế giới.
    Gặp phái đoàn Pháp.
    Tháng 07/1978, một buổi sáng, chúng tôi rất ngạc nhiên là buồng giam 15 và 16 (nhốt tù chính trị cấp Đại Tá) vẫn bị khóa kín mà thường ngày vào khoảng thời gian này đă được mở để viết khai báo. Nh́n theo ánh mặt trời, tôi áng chừng đă quá 8 giờ (v́ đồng hồ của chúng tôi đều do trại giữ), lúc ấy cửa mở nhưng chỉ gọi 16 người ra khỏi buồng, trong số này có tôi. Đang trên lối đi nhỏ hẹp ra sân trại, tên Công An an ninh của trại -Thiếu úy Thung- bảo tôi đứng lại, lúc ấy nét mặt hắn có phần hung tợn trong khi tay hắn chỉ thẳng vào mặt tôi, gằn giọng:
    “Tôi nói cho anh biết, chốc nữa có một đoàn khách nước ngoài đến tham quan trại, họ muốn gặp một Đại Tá ngụy từng làm việc ở Bộ Tổng (Tham Mưu). Xem danh sách, họ chọn anh. Ban Giám Thị ra lệnh cho anh, họ hỏi điều ǵ th́ tùy họ, nhưng tuyệt đối anh phải trả lời có lợi cho trại, cho nhà nước. Anh phải biết gia đ́nh anh nằm trong tay chúng tôi. Tôi nhắc lại, gia đ́nh anh trong tay chúng tôi, anh nghe chưa?”
    “Báo cáo cán bộ, tôi rất bở ngỡ v́ không quen tiếp xúc báo chí ngoại quốc, xin cán bộ cho tôi miễn công tác này”.
    “Anh đùa với tôi hả? Đoàn khách đă chọn anh. Anh không chịu gặp họ, tức là anh chống đối trại và gây nghi ngờ về phía họ đối với trại. Tôi nhắc lại lần nữa, gia đ́nh anh trong tay chúng tôi. Nghe chưa!”
    Tôi ức quá. Lúc ấy hai hàm răng tôi cắn lại, quai hàm bạnh ra, và chắc là mặt tôi cũng xanh nữa.
    “Anh theo tôi lên lớp học lịch sử, ngồi ở đó như là một học viên, khi nào nghe gọi tên anh th́ anh bước ra. Anh coi chừng tôi đó. Tuyệt đối không được nói tiếng nước ngoài dù là lời chào. Anh nghe rơ chưa?”
    “Rơ”.
    Nơi tôi đang ngồi là chỗ mà chúng tôi thường ngày viết khai báo, nhưng hôm nay cả trại đă xuất trại từ hồi nào nên vắng hoe, trong khi các đội cấp Đại Tá chúng tôi đều bị nhốt trong buồng giam 15 và 16, ngoại trừ một số bạn ngồi đây mà họ gọi là lớp học lịch sử. Trong hội trường được dàn dựng một pḥng đọc sách, và khoảng 6 anh -cũng cấp Đại Tá- được chọn ngồi vào đó như là nhàn nhă đọc sách vậy. Tất cả tù chính trị lẫn h́nh sự đang nằm ở trạm xá cũng đem giấu trong núi sau trại B, và thay vào đó là số người khỏe mạnh để xem như trạm xá điều trị tốt. Màn gian trá chưa hết, tại “mỗi đầu giường bệnh” có một hộp sửa đặc, một nải chuối, với vài cánh hoa dại nữa. Mỗi buồng giam đang từ 50 hay 60 tù, sắp xếp lại để mỗi buồng giam khi nh́n vào mớ áo quần cuộn lại thay gối nằm chỉ c̣n 25 tù thôi. Riêng buồng giam 15 và 16 chúng tôi nằm sâu trong góc cuối của trại, bị che khuất bởi bức tường đá tảng mà thoạt nh́n cứ tưởng đó là bức tường cuối cùng của trại giam này, nên họ không cần che giấu số người trong buồng giam. Nhà bếp có treo một con heo làm sẳn, để trả lời với phái đoàn -nếu có hỏi- là ăn trong ngày, nhưng thật ra là chia cho 3 trại khoảng 1.000 tù chính trị lẫn h́nh sự. Tôi mô tả như vậy là v́ hồi tháng 4 (1978) có một phái đoàn nào đó đến thăm, lúc ấy tất cả tù cấp Đại Tá chúng tôi đều bị đưa vào kẹt núi sau trại B cất giấu trọn ngày, măi đến khi phái đoàn rời khỏi trại chúng tôi mới được về. Lần đó phái đoàn có tiếp xúc phỏng vấn một ông cựu Bộ Trưởng của Việt Nam Cộng Ḥa.
    Rơ ràng là Ban Giám Thị trại giam này đang che mắt phái đoàn, che mắt thế giới, cứ như tù chính trị trong tay họ chỉ có học về lịch sử chớ không học chính trị, cũng như không làm lụng vất vả ǵ hết. Đây là màn đầu tiên trong bản chất gian trá của cộng sản quản trị trại giam, và anh em chúng tôi ngồi đây là những thành viên bị bắt buộc diễn cái màn gian trá đó do một nhóm Công An từ Hà Nội xuống đạo diễn màn này.
    Tôi nghĩ, sự có mặt của phái đoàn ngoại quốc, nếu không phải là cộng sản cũng là có khuynh hướng cộng sản. Ngay bây giờ, tôi không có cách nào tránh né được v́ tên Thụng đánh đúng vào điểm yếu nhất của tôi là gia đ́nh, mà lúc nảy hắn đă luôn miệng đe dọa sự an toàn của gia đ́nh tôi. Vậy là tôi phải tiếp xúc.
    Trong một thoáng thật nhanh, tôi có ngay câu giải đáp “phải làm ǵ” khi tiếp xúc với phái đoàn cho dù phái đoàn đó là cộng sản hay thân cộng sản. Tôi phải tùy cơ ứng biến, trong một tích tắc nào thuận lợi để nói cho phái đoàn đó biết rằng “đây là trại tù chứa 750 tù, và chúng tôi là tù chính trị không hề ra ṭa án”. Điều mà tôi rất đắn đo “có nên liều mạng để nói lên sự gian trá của cộng sản cho họ biết không?” Nếu liều mạng như vậy có lợi ǵ, hại ǵ? Nh́n lại thân phận người tù chính trị nơi đây nhỏ nhoi quá, trong khi thế giới th́ quá ư rộng lớn với biết bao vấn đề phức tạp mà ḿnh th́ hoàn toàn không có lănh đạo. Thôi, đành phải giữ chừng mực khi phát biểu đến mức đủ để chúng nó nạt nộ mắng chửi chớ không biệt giam cùm chân bỏ đói! Đang miên man suy nghĩ, tôi nghe mấy tên Công An đứng bên ngoài nói với nhau:
    “Không thằng nào trông chúng nó để chúng nó ngồi đầy trên bệ cửa sổ nh́n sang trạm xá, lại c̣n la ó nữa. Phái đoàn đă trông thấy và họ chụp một số h́nh rồi. Không khéo là mang họa đấy”.
    “Thằng Lực coi chớ ai”.
    “Không. Thằng Lực chuyển ra trực trại rồi, thằng Ổn quản giáo buồng đó”.
    “Thằng nhóc đó mà cho nó quản giáo mấy thằng già cứng đầu sao được”.
    Vừa lúc phái đoàn từ trạm xá lên, đứng bên hông lớp học. Họ nói tiếng Pháp và trong lớp nghe rất rơ:
    “Chúng tôi muốn gặp Đại Tá Hoa”.
    Trong một thoáng, tôi nghĩ có thể thực hiện được mục đích mà tôi đă nghĩ lúc nảy.
    Tiếng của tên Công An thông dịch:
    “Phái đoàn muốn tiếp xúc với Đại Tá Hoa”.
    Tên Thung bước vào gọi tôi. Khi tôi bước đến cửa, hắn đứng sát vào tôi:
    “Anh nhớ là gia đ́nh anh trong tay chúng tôi đấy!”
    Âm thanh của hắn như dưới sức ép của hai hàm răng nghiến chặt, tôi nghe mà phát tức! Vừa ra khỏi cửa, một tên Công An có lẽ là từ Hà Nội xuống, hắn đi sau lưng tôi và nói thật khẽ:
    “Tôi cấm anh không được nói tiếng nước ngoài, dù một lời chào”.
    Tôi đứng lại nh́n hắn, như thể cho phái đoàn biết là hắn vừa nói vào tai tôi. Dĩ nhiên là phái đoàn chẳng biết hắn nói ǵ, nhưng ít ra họ cũng nhận thấy điều ǵ đó không minh bạch. Hắn giục:
    “Tại sao anh đứng lại. Hăy đi b́nh thường”.
    Tôi bước thêm mấy bước nữa là đứng cạnh phái đoàn. Nhận xét thật nhanh, các thành viên trong phái đoàn khá trẻ, áng chừng tuổi trên dưới 30. Vui vẻ. Tôi nói tiếng Việt, phái đoàn nói tếng Pháp, qua lời thông dịch của Công An.
    Tôi cười nhẹ: “Tôi chào các vị”.
    “Chào ông. Có phải tên ông là Phạm Bá Hoa không?”
    “Vâng. Tôi tên Phạm Bá Hoa”.
    “Ông bao nhiêu tuổi?”
    “Vài tháng nữa tôi tṛn 48 tuổi”.
    “Chúng tôi chúc mừng ông sinh nhật vui vẻ”.
    “Cám ơn các vị”.
    “Trước đây ông là Đại Tá?”
    “Vâng. Tôi là Đại Tá”.
    “Tháng 4 năm 1975, ông giữ chức vụ ǵ ở Bộ Tổng Tham Mưu?”
    “Tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/Bộ Tổng Tham Mưu”.
    Tên Công An thông dịch moi măi mới ra chữ “Chef de Bureau” để dịch chữ Tham Mưu Trưởng. Tôi quay sang hắn:
    “Xin cán bộ làm ơn dịch chữ “Chef d’ État Major” để chỉ chức vụ của tôi”.
    Một cô trẻ trong phái đoàn bước đến sát mặt tôi:
    “Ông biết tiếng Pháp?”
    Đúng cái lúc mà tôi nghĩ là thuận tiện để nói thật nhanh điều tôi đă nghĩ, th́ tên Thung, an ninh của trại đứng sát lưng tôi. Không biết hắn dùng vật cứng ǵ mà đầu nhọn ấn nhè nhẹ vào lưng tôi, mỗi lần ấn vào là tôi đau nhói nên tôi nghiêng qua nghiêng lại. Hành động của hắn như uy hiếp tôi không được trực tiếp nói chuyện với phái đoàn. Tôi không trả lời câu hỏi của cô ấy, mà tôi chỉ cười nhẹ nhưng mặt th́ nhăn nhó v́ lưng bị đâm đau quá!
    Tên Công An Hà Nội: “Anh có thái độ ǵ lạ vậy?”
    Tôi nghĩ là hắn thấy tên Thung đứng sát lưng tôi, nhưng không rơ hắn có thấy tên Thung dùng vật nhọn ấn vào lưng tôi hay không, tôi trở lại thế đứng b́nh thường v́ hắn không ấn vào lưng tôi nữa:
    “Không. Tôi không biết tiếng Pháp”.
    Cô gái trẻ ấy nh́n tôi một lúc, gật đầu tỏ ư cô ta nhận biết tôi hiểu câu hỏi của cô ta. Rồi cô ta nheo mắt kèm theo nụ cười nhẹ, như thể cô ta nhận thấy sự kiện không b́nh thường vừa rồi.
    Một anh trẻ khác hỏi: “Ông ở trong quân đội bao lâu?”
    “Vừa tṛn 21 năm”.
    “Ông vào trại cải tạo mấy năm rồi?”
    “Vừa hơn 3 năm”.
    “Ông có biết tại sao ông vào trại cải tạo không?”
    “Tôi là sĩ quan cao cấp của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Sau ngày 30/04/1975, tôi ở nhà chờ lệnh. Sau đó Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n ra thông cáo gọi tất cả sĩ quan viên chức chế độ cũ tŕnh diện học tập cải tạo...”
    Tên Công An thông dịch chưa kịp dịch cho phái đoàn nghe th́ tên Thung quát tôi trước mặt phái đoàn:
    “Anh trả lời thẳng là anh có tội với nhân dân, không có quanh co ǵ hết”.
    Tôi cứ như không nghe “lời mớm” của hắn, và thản nhiên tiếp tục:
    “Trong đợt học chính trị tại trại Long Giao ở miền Nam, bài học nói chúng tôi là những người có tội với dân, lúc ấy tôi mới biết là tôi có tội. Trước đó nếu tôi biết như vậy th́ tôi trốn rồi, chớ đâu có ai biết ḿnh phạm tội mà đi tŕnh diện vào trại tập trung đâu”.
    Có tiếng x́ xầm của mấy tên Công An sau lưng tôi, nhưng tôi không để ḿnh bị chi phối v́ c̣n phải t́m cơ hội nói với phái đoàn về điều tôi muốn nói.
    Lúc bấy giờ tên Công An dịch câu trả lời của tôi cho phái đoàn với nội dung “tôi là Đại Tá ngụy, có tội với dân nên nhà nước cho vào học tập”. Một cô trong phái đoàn hỏi tiếp:
    “Ông có tin là ông sẽ được về không?”
    “Có chớ. Nếu không tin như vậy th́ làm sao tôi có nghị lực để sống!”
    “Điều ǵ làm ông tin?”
    “Dù chưa nh́n thấy điều ǵ rơ rệt, nhưng tôi vững tin vào thời gian với những biến đổi trên thế giới cũng như tại Việt Nam”.
    “Chúng tôi cám ơn ông. Chúc ông giữ vững nghị lực v́ chúng tôi tin quảng đường trước mặt của ông c̣n dài lắm”.
    “Cám ơn các vị và chúc các vị sức khỏe”.
    Câu cuối cùng của thành viên trẻ trong phái đoàn làm tôi hiểu theo hai nghĩa: Rất có thể là họ biết chúng tôi c̣n trong trại tập trung dài lâu lắm. Hoặc họ khuyên chúng tôi là trách nhiệm với quốc gia dân tộc c̣n dài lâu trước mặt, hăy cố gắng vững nghị lực cho cuộc chiến đó. Cho dẫu hiểu như thế nào đi nữa, tôi tin phái đoàn này không phải là phái đoàn thân cộng sản.
    Sau khi phái đoàn rời khỏi trại, cán bộ Lực, Công An trực trại vào gọi tôi lên văn pḥng an ninh. Vừa bước vào cửa, tên Thung vỗ bàn hét lớn:
    “Anh có biết rằng anh nói như vậy, tức là anh không có tội mà đảng với nhà nước bắt anh không?”
    Tôi chậm răi và nhẹ nhàng trả lời như để xoa dịu hắn, v́ dù sao th́ lúc sáng tôi đă “tấn công” hắn bằng “một vài nắm đấm chính trị” rồi:
    “Báo cáo cán bộ, tôi đâu có nói như vậy. Tôi đâu có nói là đảng với nhà nước bắt mà là tôi tŕnh diện theo lệnh của Ủy Ban Quân Quản. Đó là sự thật mà cán bộ”.
    Tôi cố t́nh nhấn mạnh chữ “sự thật mà cán bộ” để ám chỉ hắn giả dối, trại giả dối, nhà nước giả dối, mà tất cả đều do bản chất giả dối từ trong đảng của hắn tạo nên cả.
    Hắn lại quát: “Anh là tên ngoan cố”.
    “Cán bộ nói vậy chớ bản thân tôi chưa biết như thế nào gọi là ngoan cố”.
    “Anh chống lại cải tạo là anh không có ngày về đâu. Rục xương đấy!”
    “Báo cáo cán bộ. Tôi không làm ǵ trái nội qui mà cán bộ nói tôi chống cải tạo. Tôi nghĩ là cán bộ biết rơ những ǵ tôi trả lời phái đoàn đều là sự thật mà”.
    Có lẽ hắn tức lắm nhưng dường như đuối lư nên hắn quát:
    “Vào trại ngay”.
    Chỉ chờ có thế là tôi chào hắn và quày quả ra khỏi pḥng. Trên đường vào trại, cán bộ Lực hỏi tôi:
    “Anh làm ǵ mà ông Thung quát dữ vậy?”
    “Tôi có làm ǵ đâu cán bộ”.
    Vừa đi vừa thuật chuyện giữa tôi với cán bộ an ninh vừa rồi. Cán bộ Lực có ư khuyên tôi nhưng không rơ là hắn có thật ḷng hay không:
    “Anh không nên đối đầu với ông Thung. Không có lợi cho anh đâu”.
    “Vâng. Cám ơn cán bộ. Thật ra tôi không có ư đối đầu ǵ cả mà chỉ nói sự thật thôi”.
    RX là ǵ?

  9. #19
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7A / Trại tập trung Nam Hà 1
    P3




    Chiều ngày 1 tháng 9 năm 1978, trong lúc Đội 29 với 30 chúng tôi ngồi viết khai báo trong câu lạc bộ gần loa phóng thanh. Thường ngày loa này không được mở, nhưng chiều nay bỗng dưng chúng tôi “bị nghe” chương tŕnh truyền thanh chuẩn bị cho ngày mai -2 tháng 9- lễ độc lập của chúng. Trong bài diễn văn dài lê thê của ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, có một đoạn ngắn cuốn hút anh em chúng tôi đến mức đều ngưng viết. Đó là vấn đề tù chính trị chúng tôi, ông ta thẳng thừng rằng:
    “… Bọn ngụy quân ngụy quyền và đảng phái phản động là bọn đă gây tội ác tầy trời, ta không thể tha thứ cho chúng …”
    Lúc ấy không có tên cán bộ nào có mặt, có lẽ chúng chuẩn bị về nhà sớm. V́ vậy mà điều đầu tiên là chúng tôi xúi hai anh Đội Trưởng xin về sớm với lư do viện dẫn ngày mai nghỉ lễ. Rồi cùng nhau tụm năm tụm ba bàn luận suy đoán với bao nhiêu là h́nh ảnh được vẽ ra và chồng lên nhau bắt nguồn từ lời tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng, tên cộng sản mà năm 1958 đă chan1h thức công nhận các đảo và quần đảo vùng Biển Đông thuộc về Trung Hoa cộng sản. Chúng tôi trông chờ vào bài diễn văn của ông Thủ Tướng cộng sản hôm nay, v́ nghe chừng sẽ có quyết định liên quan đến tù chính trị. Thế nhưng qua lời của ông Đồng vừa rồi, đúng là ông ta có nói đến chúng tôi, nhưng điều mà ông ta nói chắng khác thùng nước lạnh tạt vào anh em chúng tôi choáng váng đến tối tăm mặt mũi!
    Sau bữa ăn bo-bo chiều, cửa buồng giam đóng rầm một cái, tiếng click khô khan của cái ống khóa vừa bấm lại, từng nhóm anh em chúng tôi tiếp tục bàn luận chung quanh lời tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng lúc trưa. Một bạn trong nhóm chúng tôi ở cuối góc pḥng mở đầu với câu ngắn mà không ai hiểu:
    “Vậy là RX rồi”.
    “RX là ǵ vậy cha nội?”
    “RX là rục xương chớ là ǵ nữa! Rơ vớ vẫn”.
    “Đấy. Các anh tin vào cái gọi là khoan hồng nhân đạo của chúng nó nữa đi. Nó lừa được bọn ḿnh vô tù rồi nó nói huỵch toẹt ra đấy”.
    “Thôi. Nóng làm chi bạn ơi! Thế bạn có tin cái chính sách 10 điểm của họ hay không mà bạn ngồi đây?”
    “Tôi th́ khác”.
    “Cứ cho là bạn khác với bọn tôi, nhưng nh́n lại th́ chúng ḿnh cũng thế thôi bạn à! Là tù thua trận cả mà. Nặng nhẹ xách mé làm chi cho đau ḷng nhau!”
    “Tôi xin các anh cứ mặc cha nó! Cái quan trọng là ḿnh phải vững tin rằng, chúng ḿnh sẽ được ra khỏi trại tập trung dù chưa biết là sẽ ra như thế nào. Thế giới, nhất là Hoa Kỳ, vẫn xem Việt Nam là một vấn đề th́ ta vẫn c̣n hy vọng mà. Bây giờ, vấn đề của chúng ta là giữ vững nghị lực để đừng bỏ xác trong nhà tù cộng sản. Thế thôi”.
    “Các anh ơi! Khi bước vào hoạt động chính trị, người ta buộc phải sử dụng ngôn từ của chính trị, cái thứ ngôn ngữ không nhất thiết 1 với 1 là 2 đâu. Nhất là chính trị trong cái quốc gia nghèo giữa một thế giới cạnh tranh nhau v́ quyền lợi th́ sự ổn định khó mà có được, nếu không nói là ảo tưởng. Trong một quốc gia không có khả năng độc lập kinh tế như Việt Nam th́ đừng ḥng có độc lập chính trị. Với lại, những nhóm lănh đạo cộng sản Việt Nam, được chọn từ thành phần 3 đời bần cố nông để đại diện công nhân nông dân th́ họ có học hành ǵ đâu. Khi lănh đạo mà không có kiến thức th́ đất nước Việt Nam xă hội chủ nghĩa càng ngày càng xuống vực thẳm là điều hiển nhiên. Rơ ràng nhất là cái nhóm lănh đạo loại ấy lúc nào cũng vỗ ngực lớn tiếng bảo vệ đất nước cả”.
    “Thằng cộng sản nó đếch cần đến kiến thức mà chỉ cần lưu manh để nắm quyền cả đời đấy. Cho nên chẳng phải riêng chúng ḿnh, mà là cả dân tộc cứ như bị nhốt trong cái nhà tù bằng cả một quốc gia ấy”.
    “Như Trung cộng thôi. Chúng nó định nhốt các Tướng Lănh của Đài Loan đến rục xương trong tù, thế nhưng mới bước đầu chấp nhận ảnh hưởng của Hoa Kỳ là chúng nó thả các ông ấy về Đài Loan sau 26 năm trong tù đấy”.
    “Thôi các bạn ơi! Làm ơn ngưng lại để ngủ cho có sức để mai c̣n khai báo tiếp. Không xong là chúng nó mắng đến phát tức bạn à!”
    Nằm cạnh tôi, bên phải là anh Ngô Văn Huế (Công Binh). Anh nói nho nhỏ:
    “Hồi đi tŕnh diện, tôi ước tính ít nhất cũng phải 5 năm chớ tôi không tin là 30 ngày, v́ cộng sản từng chà đạp Hiệp Định Genève 1954 và Hiệp Định Paris 1973 th́ c̣n chỗ nào để mà tin nó”.
    Tôi tiếp lời cũng nho nhỏ như vậy:
    “Thật ra đâu có ai trong chúng ta dám nghĩ là đến một lúc nào, chúng ta sẽ là nguồn lợi cho cộng sản, như sự kiện Cu Ba đă từng thả tù chính trị sang Mỹ để đổi lấy máy cày nông nghiệp đó. Trong chính trị việc ǵ cũng có thể xảy ra cả. Nói rơ hơn, điều mà tôi hy vọng là chúng ḿnh sẽ ra khỏi nhà tù bắt nguồn từ phía Hoa Kỳ, và biết đâu Hoa Kỳ sẽ đổi chúng ta bằng cách cấp cho chúng nó (cộng sản Việt Nam) những thứ ǵ đó cũng nên.”
    Anh Nguyễn Xuân Hường (Thiết Giáp) nằm bên trái tôi:
    “Bây giờ tôi không c̣n tin bất cứ điều ǵ chúng nó nói cả. Tôi đồng ư là ḿnh phải giữ vững nghị lực để sống, c̣n việc ǵ sẽ tới phải tới”.
    Lại khai báo.
    Toàn bộ những bản khai báo của từng người phải đóng lại thành tập. Chúng bảo bên ngoài phải ghi “Cuộc Đời Tôi”. Tập khai báo dày hay mỏng là tùy theo từng người viết, nhưng dưới 200 trang là bị chúng nó mắng nhiếc, hay ít ra cũng lời nặng tiếng nhẹ v́ cho rằng chưa thành thật khai báo.
    Khai báo bản thân xong tưởng là yên thân, nhưng đâu dễ dàng vậy. V́ đám Công An từ Hà Nội lại xuống hướng dẫn khai báo tập thể. Nói cho đúng là “tập thể khai báo về những Tướng Lănh của ḿnh”. Nói theo ngôn ngữ giang hồ là chúng nó bắt chúng tôi “bề hội đồng” Tướng Lănh của ḿnh đó. Tất cả tù chính trị cấp Đại Tá từ Yên Bái xuống đây, chúng nó bảo chia thành 3 nhóm: Nhóm Quân Khu 1 + 2. Nhóm Quân Khu 3 + Biệt Khu Thủ Đô + Trung Ương. Và nhóm Quân Khu 4. Chúng nó hướng dẫn chọn như thế này: Không căn cứ vào thời gian sau cùng phục vụ ở đâu, mà căn cứ vào những vị Tướng Lănh từng là cấp chỉ huy của ḿnh để chọn nhóm. Thật ra anh em chúng tôi ráp lại theo nhóm là do ư thích, v́ đă là Đại Tá th́ không dưới quyền vị này cũng dưới quyền vị khác. Do đó việc tham gia vào nhóm là do chúng tôi thỏa thuận với nhau chớ chúng nó có biết ǵ đâu.
    Tôi chọn vào nhóm Quân Khu 4, dù rằng thời gian tôi phục vụ ở Bộ Tổng Tham Mưu lâu hơn các nơi khác. Mỗi người chọn những vị Tướng mà ḿnh đă phục vụ hoặc ḿnh biết, cuối cùng là trong nhóm Quân Khu 4 chúng tôi lọc ra danh sách 18 vị Tướng. Anh Bùi Văn Sảnh được anh em trong nhóm bầu làm Trưởng Nhóm. Đến phần Thư Kư th́ tôi t́nh nguyện và được tất cả các anh đồng ư. Khi tên cán bộ ra khỏi pḥng, tôi tŕnh bày ư kiến:
    “Thưa các anh, tôi có quan niệm như thế này . Thư Kư là ghi chép phần nhận xét và thảo luận của các anh, nhưng tôi xin phép tóm tắt theo hướng đưa đến kết luận những vị Tướng Lănh chúng ta có kiến thức tổng quát, có khả năng lănh đạo chỉ huy, và có ḷng nhân đạo. Cho dẫu mỗi vị đều có những khuyết điểm, mà thật ra đă là con người th́ ai cũng có điểm tốt lẫn điểm không tốt, nay có nh́n như thế nào đi nữa th́ cuộc chiến cũng tàn rồi, nhưng không phải v́ vậy mà chúng ta nhận ch́m các vị mà một thời chúng ta phục vụ dưới quyền, hay ít nhất những vị ấy cũng là Tướng Lănh của quân đội mà chúng ta từng phục vụ. Nói cho cùng, nếu các vị Tướng lănh của chúng ta dở th́ chúng ta đă không thể chiến thắng trong cuộc phản công Tết Mậu Thân đầu năm 1968 và trận chiến Mùa Hè 1972. Tôi phải tŕnh bày ư kiến với các anh trước và mong được các anh cho biết ư kiến trước khi chúng ta bắt đầu”.
    Chẳng những ư kiến của tôi được tất cả anh em đồng ư, mà nhiều anh c̣n bắt tay tôi như lời khuyến khích ư kiến đó nữa. Tôi mời anh Nguyễn Tài Lâm phụ tôi phần ghi chép ư kiến và thảo luận của các anh.
    Anh em đồng ư 9 khung để thể hiện nhận xét của từng vị Tướng Lănh, như: (1) Kiến thức tổng quát. (2) Kiến thức tham mưu. (3) Kiến thức chỉ huy. (4) Kiến thức huấn luyện. (5) Tính khí. (6) Nhân cách. (7) Phong cách. (8) Uy tín lănh đạo. (9) Sở thích.
    Cứ xong trang giấy nào th́ anh Lâm đưa tôi trang ấy để tôi viết sạch lại. Tôi vừa diễn đạt thành văn vừa nghe để bổ túc thêm phần ghi chép của anh Lâm.
    Sau hai ngày khai báo tập thể, anh Sảnh nhờ hai anh giả vờ sang hai nhóm kia thăm bạn để xem quan niệm khai báo của các anh ấy thế nào, để c̣n học hỏi nếu cần. Nhóm chúng tôi ghi nhận như sau: Nhóm Quân Khu 1 + 2 có quan niệm như chúng tôi, c̣n Nhóm Quân Khu 3 + Biệt Khu Thủ Đô + Trung Ương khá nặng lời. Anh Trần Ngọc Thống trong nhóm này nói với tôi rằng:
    “… Nhiều anh làm cho tôi có cảm tưởng các anh ấy buộc tội các ông Tướng vậy …”
    Chuyển trại.
    Nhưng không phải chúng tôi tại đây chuyển trại mà là các anh từ các trại ở Sơn La, Bắc Thái, và các trại c̣n lại ở Hoàng Liên Sơn, ào ào chuyển về trại tập trung Nam Hà này quá nhiều. Trại Nam Hà này có 18 buồng giam với gần 1.000 tù chính trị lẫn tù h́nh sự, nay tăng lên đến hơn 1.500 người. Tất cả các buồng giam từ 60 người, nay dồn ép lại để tăng lên hơn 100 người, như buồng giam chúng tôi đang từ 65 người tăng lên thành 101 người. Sàn gác bên trên được nới thêm đến mức 60 người trên sàn gác chỉ c̣n hai khoảng trống đủ cho hai người lên hay xuống cùng một lúc. Mỗi sáng cũng như mỗi tối, chúng tôi phải mất khoảng 10 đến 15 phút mới lên hay xuống xong. Thế là “cái cơi không gian bé tí” của mỗi người chúng tôi, một lần nữa lại thu hẹp từ 70 phân tây (0.7m) xuống c̣n 50 phân tây (0.5m). Chỗ nằm hiện nay c̣n chật hơn chỗ nằm ở “ngưu ốc” (chuồng trâu) trên Yên Bái nữa! Nếu như sàn gác này bị hỏa hoạn hay một sự kiện ǵ đó gây hoảng loạn chẳng hạn, anh em tù chính trị chúng tôi sẽ bị lửa thiêu không phải là ít! Ngay cả lượng dưỡng khí cũng là một vấn đề đối với chúng tôi, v́ chỉ c̣n trông cậy vào lượng dưỡng khí qua các cửa sổ thôi. Nghĩ đến đây là ghê rợn rùng ḿnh! Nhưng mọi người im lặng, và chấp nhận, bởi không có cách nào khác!
    Hầu hết chúng tôi không ai giăng mùng. Tuy thời tiết vào thu nhưng “cái nóng nung người nóng nóng ghê” c̣n đó, bầy muỗi vo ve c̣n đó, bầy rệp mà con nào con nấy bằng đầu đủa ăn vẫn c̣n đó. Để chống lại cái nóng khi ngủ, tôi mặc bộ bà ba do trại phát. Chỉ một lúc là bộ đồ đẫm mồ hôi, và từ lúc ấy tôi cảm thấy mát mẽ dẫn vào giấc ngủ nhanh hơn. Muỗi với rệp, vừa là bạn vừa là thù của chúng tôi. Tôi nói “bạn” v́ lúc nào chúng nó cũng quanh quẩn với chúng tôi, tôi nói “thù” v́ lúc nào chúng nó cũng hút máu chúng tôi. Mỗi sáng phải ra giếng giặt bộ bà ba vừa đẫm mồ hôi vừa đầy máu muỗi máu rệp, nhưng là “giặt chay” tức là giặt áo quần không xà bông.
    Dần dần chúng tôi mới hiểu được nguyên nhân chuyển trại ào ạt từ các trại gần biên giới, là do t́nh h́nh căng thẳng giữa cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Hoa, sau khi lănh đạo cộng sản Việt Nam kư hiệp ước hỗ tương với Liên Bang Sô Viết, và cộng sản Việt Nam xua quân đánh chiếm nước Cam Bốt cộng sản, đàn em của Trung Hoa cộng sản.
    T́nh trạng ngột ngạt đó kéo dài gần hai tháng, họ mới chuyển bớt một số tù chính trị chúng tôi đến các trại khác cũng thuộc trại tập trung Nam Hà. Cũng lúc ấy, anh em chúng tôi trong buồng giam 15 và 16, được chuyển lên buồng giam số 1 và số 2 để chuẩn bị lao động. Hai buồng này thoáng hơn, nói chung là dễ chịu hơn ở buồng 15 với 16 quá ẩm thấp. Đội 29 chúng tôi đổi thành Đội 2
    Trồng nấm mèo.
    Sau gần 6 tháng “khai báo”, tất cả chúng tôi bắt đầu đi lao động. Đội 2 chúng tôi phụ trách trồng nấm mèo. Nhà trồng nấm ngay bên ngoài cổng trại do Trung Úy Công An tên Xoa phụ trách. Dưới quyền hắn có hai nữ Công An tên Nga và tên Kim phụ tá. Lúc ấy quản giáo Đội chúng tôi là “Thắng mặt đỏ”, v́ mặt của hắn lúc nào cũng đỏ như say rượu. Sau khi tên Thắng giao chúng tôi cho tên Xoa th́ tên Xoa mở lớp cấp tốc dạy chúng tôi khoảng một tiếng đồng hồ, đại để như thế này:
    “Cây trồng nấm do các Đội khác cung cấp. Các anh cưa từng khúc dài 1.2 thước, đục lỗ tṛn theo kích thước của cái đục, sâu từ một phân tây đến một phân rưởi, cho “meo” vào và dùng nhựa thông bít lỗ tṛn lại. Đem vào nhà nấm, gác những đầu cây chụm vào nhau tạo thành h́nh nón. Mỗi ngày tưới hai lần. Khi nấm đến tuổi th́ thu hoạch, đem phơi khô, cho vào bao, vậy là xong một chu kỳ trồng cấy nấm”.
    Ngày đầu tiên, sau khi “dự lớp học cấp tốc”, hắn bảo chúng tôi đi làm: Tôi hỏi:
    “Báo cáo cán bộ. Căn cứ theo hướng dẫn của cán bộ, tôi đă tổ chức Đội thành các nhóm công tác xong”.
    “Xong th́ anh lănh dụng cụ mà làm, chứ đứng đó báo cáo không à?” Hắn bắt đầu gay gắt với chúng tôi. Tên Xoa này lúc nào cũng cau có.
    Tôi hơi tức, v́ trông cái mặt của hắn, cộng với cái kiểu cách nói chuyện, quả là khó ưa:
    “Dụng cụ ở đâu cán bộ?”
    Hắn gay gắt thật: “Dụng cụ trong túi tôi đây”.
    Tôi quay lưng ra ngoài mà không nói ǵ với hắn.
    Hắn tức: “Anh đi đâu đó?”
    “Tôi không biết dụng cụ ở đâu mới hỏi cán bộ, mà cán bộ trả lời như vậy tôi đứng đó làm ǵ”.
    “Anh không lănh dụng cụ à?”
    “Cán bộ không hướng dẫn, tôi biết đâu mà lănh”.
    “Anh có muốn tôi trả các anh vào trại không?”
    “Báo cáo cán bộ. Với chúng tôi, không có vấn đề muốn hay không muốn”.
    Hắn lừ lừ nh́n tôi một lúc, rồi gay gắt thêm:
    “Cô Nga, cô dắt anh ta lên kho lănh dụng cụ”.
    Con bé công An trả lời nhỏ nhẹ:
    “Dạ dụng cụ em c̣n giữ trong kho nhà nấm anh ạ!”
    “Cô cho chúng nó mượn đi”.
    Con bé này độ 20 tuổi, vừa đi vừa nói với tôi:
    “Anh căi với ông Xoa chi vậy?”
    “Mới vô câu đầu là tôi không có cảm t́nh rồi cán bộ. Cách nói chuyện của ổng, cán bộ có chấp nhận không?”
    “Ông Xoa nóng tính lắm. Anh chống lại ông ấy không có lợi cho anh đâu”.
    “Cám ơn cán bộ. Tôi biết tính ông Xoa trong thời gian ổng làm trực trại, nhưng tôi cũng biết sử dụng cái đầu của tôi đến mức cần thiết chớ. Chúng tôi là tù chính trị chớ đâu phải tù h́nh sự. Thôi, cán bộ đừng nói chuyện đó nữa”.
    Lănh dụng cụ và phân phối cho các Tổ xong, tôi vào phụ với anh Ngô Văn Huế (Đại Tá Công Binh). Anh Huế nói:
    “Thằng cha này khó ưa lắm, nhưng anh cũng nên cẩn thận v́ thằng nào cũng có quyền phạt giam ḿnh hết”.
    “Cám ơn Anh. Tôi thận trọng trong mọi trường hợp chớ không riêng ǵ với hắn. Sự thận trọng của tôi có nghĩa là tôi biết chống lại tụi nó đến mức nào phải dừng lại để tránh bị phạt giam”.
    “Hồi nảy con Nga nó rù ŕ với anh cái ǵ vậy?”
    “Nó có ư khuyên tôi không nên căi với thằng cha Xoa. Căi với hắn là không có lợi cho tôi. Ở vị trí của con bé đó nó thấy như thế, nhưng tôi th́ khác. Tôi cho là có lợi cho ḿnh, v́ ít ra ḿnh cũng cho nó thấy anh em ḿnh không phải dễ nạt nộ như tù h́nh sự đâu anh”.
    Ngoại trừ các tổ trong nhà nấm, c̣n có tổ gồm 6 anh đẩy xe cải tiến lấy phân dê ở chuồng dê trên đường ra chợ Ba Sao, hằng ngày đều đi ngang nhà thăm nuôi do Đội anh em Cảnh Sát phụ trách xây cất. “Cứt dê” đem về đổ xuống hầm nhưng không biết họ sử dụng làm ǵ. Họ giao chúng tôi buổi sáng hai chuyến và buổi chiều một chuyến. Trong tổ này có anh Nguyễn Kim Tây và anh Trần Bá Thành (cả hai là Đại Tá) hay tếu lắm, nhất là anh Tây. Cứ mỗi chuyến đẩy xe cải tiến “cứt dê” về, thể nào cũng có chuyện vui ǵ đó kể lại cho anh em nghe, đôi khi cười ḅ lăn trong nhà nấm. Anh gọi chuồng dê là “chuồng thầy”, và cứt dê là “cứt thầy”.
    Tôi không rơ công việc sản xuất nấm này từ lúc nào, nhưng kết quả là “nấm không quyết tâm mọc nhiều, mà những cái nấm mọc ra lại không quyết tâm phát triển”, nên những cái nấm vừa ít lại vừa nhỏ. Có thể v́ vậy mà nhà nấm này bị dẹp bỏ sau mấy tháng “sản xuất”.
    Chuyển lúa.
    Sau khi cơ sở sản xuất nấm mèo đóng cửa, Đội chúng tôi phụ trách chuyển lúa từ dưới cánh đồng chiêm lên sân phơi gần khu vực cơ sở chánh của trại. Lúc ấy Công An quản giáo Đội chúng tôi tên Kiện, bảo chúng tôi chia làm hai toán: Một toán chuyển lúa vừa cắt xong từ cánh đồng ngập nước lên lưng chừng triền đồi, và một toán chuyển tiếp từ đó lên đến sân phơi. Đây là núi đá, nên triền dốc toàn là đá tảng rất ư là lổm chổm khó đi. Tôi trong toán thứ nh́. Trong lúc ngồi tại chỗ chờ toán thứ nhất chuyển lên để chúng tôi chuyển tiếp, tên Trung Úy Công An mà anh em chúng tôi gắn cho hắn cái biệt danh “Trung Úy gà” từ trên sân phơi xuống. V́ hắn ăn cắp gà ở khu gia đ́nh của đám Công An cai tù, nên anh em chúng tôi gắn cho hắn cái biệt danh ấy. Hắn đứng trước mặt tôi với giọng kênh kiệu:
    “Tại sao anh ngồi đây?”
    “Báo cáo cán bộ, chúng tôi chờ toán dưới đồng mang lúa lên”.
    “Tại sao anh không xuống dưới mà mang lên?”
    “Chúng tôi đă phân công rồi cán bộ”.
    “Ai phân công cho anh?”
    “Cán bộ quản giáo Đội tôi”.
    Hắn càng gắt giọng: “Cán bộ nào?”
    “Cán bộ Kiện”. Tôi cứ từ từ trả lời.
    “Cán bộ Kiện ở đâu?
    “Cán bộ Kiện ở dưới đồng”.
    “Anh xuống đồng với tôi”.
    “Không được cán bộ, tôi phải ở đây v́ tôi phụ trách toán chuyển tiếp từ đây lên trên sân phơi”.
    Hắn càng thêm tức khi mấy bạn tù trẻ ngồi gần đó cũng chờ chuyển tiếp bên Đội của các bạn ấy, nói bâng quơ:
    “Đẹp. Đẹp lắm”.
    Hắn ra lệnh như quát: “Đứng lên. Đi với tôi”.
    Tôi đứng lên, nhưng không phải đi theo hắn, mà là nhận bó lúa do toán dưới đồng vừa lên đến, và quay lưng đi. Hắn lại quát:
    “Anh đi với tôi xuống gặp cán bộ Kiện”.
    Thấy hắn giận dữ, tôi ra vẻ dịu xuống:
    “Báo cáo cán bộ, cán bộ Kiện phân công cho tôi, chừng nào cán bộ Kiện bảo tôi đi th́ tôi đi”. Nói xong, tôi vác bó lúa cùng các bạn leo dốc.
    Buổi chiều, quay về trại và trong khi ngồi chờ “điểm số” vào buồng giam, tôi nghe tiếng một bạn ngồi gần cuối hàng:
    “Hôm nay thằng cha Hoa cho thằng “Trung Úy gà” đo ván quá nặng. Kể ra “chả” liều mạng thiệt, nó nhốt chả như chơi”.
    Sau “trận” đó, Đội 2 chúng tôi “bị” chuyển đến đầu đằng kia vẫn là chuyển lúa, nhưng triền dốc đá ở đây khó đi hơn nhiều v́ dốc vừa cao vừa lổm chổm. Cùng là một cánh đồng nhưng có hai lối đi vận chuyển những bó lúa. “Cánh đồng chiêm” khi lúa chín lại là lúc ch́m sâu dưới mặt nước mà lần đầu tiên tôi trông thấy. Các bạn cắt lúa phải ngâm ḿnh dưới nước, có nơi phải lặn xuống mới cắt được.
    Nh́n chung, Đội “trầm ḿnh” cắt lúa ướt mem, mà Đội vận chuyển lúa cũng ướt mem nếu vác. Vác th́ tương đối dễ đi, c̣n khiêng th́ không bị ướt nhưng rất khó đi v́ dốc cao. Tôi với anh Nguyễn Kim Tây cùng một khiêng hai bó. Tôi thấp nên đằng trước cái khiêng. Trưa nắng và oi bức, thấm mệt, trong một bước không vững, tôi ngă người tới trước và chân phải vấp vào cạnh tảng đá, ngón chân cái bị tróc móng đến hơn phân nửa khỏi phần thịt. Máu ra nhiều và đau “thấy trời xanh”! V́ đau quá nhưng không khóc cũng không than, chỉ có cách nh́n lên trời mà cắn răng nhăn mặt! Anh Tây d́u tôi lên đầu dốc, lại trở xuống đồng báo cáo với cán bộ Kiện cho tôi về bệnh xá trại.
    Trong bệnh xá, ngoại trừ một bác sĩ Công An, c̣n lại là bác sĩ quân y cùng là tù chính trị. Bác sĩ Diễn, bác sĩ Nhâm, bác sĩ Cảnh, bác sĩ Phong, và bác sĩ Trương Văn Quưnh là trưởng nhóm. Bác sĩ Trương Văn Quưnh có những năm làm Giám Đốc Bệnh Viện Sài G̣n, chuyên về cấp cứu. Bác sĩ Quưnh cho biết phải vài ngày mới rút móng được, v́ rút bây giờ tôi sẽ không chịu nỗi. Mỗi ngày tôi phải khai bệnh xin nghỉ. Đêm ngủ phải treo chân lên cao ngang đầu gối mới ngủ được. Hôm rút móng chân, bác sĩ Cảnh (Trung Tá, Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ) vừa cười vừa nói như giúp tôi quên bớt cơn đau nhức:
    “Hôm nay có dịp “làm thịt” ông anh đây. Ông anh nằm yên. V́ không có thuốc tê, anh Phong (bác sĩ Mă Thạch Truy Phong) sẽ châm cứu gây tê cho ông anh, rút móng xong vài hôm là xuống đồng vác lúa nữa”.
    Bác sĩ Phong châm cứu cả hai chân đến 14 cây kim, tôi nghe như có ḍng điện li ti từ đầu cây kim này nối đến đầu cây kim kia, khi bác sĩ Phong và bác sĩ Diễn rung nhè nhẹ những cây kim để kích thích gây tê. Cùng lúc, bác sĩ Cảnh cầm kềm rút móng chân tôi. Sau cái đau thấy mấy chục ông Trời đang lơ lửng trên trần nhà, tôi ngồi dậy nh́n ngón chân. Trời đất ơi! Cái móng c̣n nguyên.
    Bác sĩ Cảnh không đùa như lúc nảy nữa mà nói yếu x́u:
    “Cứng quá, rút chưa được. Anh chịu khó nằm xuống đi”.
    “Khoan anh Cảnh. Tôi đau lắm. Tôi cần điều ḥa nhịp thở một lúc rồi anh tiếp tục. Châm cứu không ăn thua anh ơi!”
    Tôi nằm xuống. Anh Trần Xuân Đức đè hai tay tôi xuống giường v́ sợ tôi ngồi dậy.
    “Anh đừng đè tôi, đau th́ đau nhưng tôi chịu được”.
    Không thể tưởng tượng nỗi với mức độ đau nhức khi anh Cảnh rút móng chân tôi! Chừng như toàn bộ khả năng chống đỡ của tôi đều tập trung vào sức chịu đựng khi móng chân đi theo cái kềm trong tay bác sĩ Cảnh bức ra khỏi ngón chân. Người tôi yếu hẳn trong những phút sau đó, măi đến khi điều ḥa được hơi thở, tôi mới để bác sĩ Cảnh rửa ngón chân, nơi mà cái móng phủ bên trên không c̣n nữa. Mỗi khi miếng bông g̣n lướt trên lớp thịt bầy nhầy với máu đỏ bùn đen, đau và xót kinh khủng! Sau đó, với dáng đi “chấm phết”, tôi từng bước về buồng giam.
    Đi lao động mới có nước sôi ăn ḿ gói, chớ nằm buồng giam chỉ bẻ từng mẫu ḿ gói ăn sống, rồi uống nước vào cho nó nở ra thôi. C̣n khẩu phần bo-bo chỉ dậm thêm chút ít, chớ ăn hết chén càng khổ khi đi cầu. Hai ngày sau, tôi đến bệnh xá thay băng, và từ đó không được nghỉ nữa mặc dầu vẫn c̣n đau, và vẫn đi “chấm phết”. Khi nghỉ bệnh, chúng nó căn cứ theo thời gian chớ không căn cứ vào bệnh trạng của tù chính trị. Nhân đạo của cộng sản như vậy đó!
    Cuốc đất thay trâu cày.
    Sau Tết, Đội chúng tôi và 9 Đội nữa được lệnh xuống cánh đồng chiêm cuốc đất làm ruộng. Khi gặt lúa vụ chiêm, anh em chúng tôi trầm ḿnh dưới nước, mấy tháng sau th́ mặt đất của cánh đồng ngập nước này trở thành nứt nẻ v́ nắng hạn. Những con cá con ếch con nhái “thân tàn ma dại” trong những đường nứt. Hầu hết khi cuốc đất lên, chúng nó chỉ c̣n là những bộ xương bao bọc lớp da bên ngoài, hoàn toàn không giúp ích ǵ cho những cái bao tử của chúng tôi. Nếu nh́n cánh đồng như một bức tường đá tảng, th́ những đường nứt tựa như những mạch hồ nối những tảng đá liền với nhau mà có thời gian tôi “làm thợ hồ” xây bức tường buồng giam vậy. Trông cũng hay hay. Đó là cách nh́n ít nhiều lăng mạn. Nhưng nếu nh́n theo góc độ dân tộc th́ rất tội nghiệp cho người dân xă hội chủ nghĩa của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa nơi đây, mấy chục năm qua rất ư là khốn khổ!
    Gần 200 tù chính trị chúng tôi toàn sĩ quan viên chức với đảng phái chính trị, khom lưng cuốc ruộng thay trâu cày. Cán bộ Kiện, quản giáo Đội, gọi tôi:
    “Anh cử một anh nấu nước, một anh lấy củi, và một anh sửa cuốc cho Đội. Anh cử một anh đến nấu nước cho cán bộ. Mỗi anh c̣n lại giao chỉ tiêu 100m2 mỗi ngày lao động”.
    “Báo cáo cán bộ, chỉ tiêu 100m2 là cao lắm, tôi lo là chúng tôi không thể cuốc nỗi. Tôi đề nghị để chúng tôi cuốc thử vài ngày rồi cán bộ ấn định chỉ tiêu. Về người nấu nước, tôi nghĩ là chúng tôi nấu nước chung rồi pha trà đem đến cán bộ, đỡ tốn một lao động”.
    “Anh có biết đề nghị của anh mang tính chống đối không. Đây là chỉ tiêu chung chứ không phải riêng Đội anh. Tôi nói cho anh biết, nếu đề nghị của anh đến tai ông Huy (Đại Úy Trại Trưởng) là có vấn đề đấy. C̣n nấu nước phải nấu tại đây (tại lều của hắn)”.
    Tôi trở lại Đội tường thuật cho các bạn. Anh Cao Văn Phước “t́nh nguyện” sửa cuốc. Về chỉ tiêu cuốc đất và người nấu nước:
    “Ư kiến của tôi là tùy theo sức mà cuốc rồi tôi liệu cách đối phó với hắn. Về người nấu nước tại lều của hắn, chúng ta lớn tuổi rồi, tôi không muốn bất cứ anh nào trong số chúng ta đến đó nấu cho hắn uống, nhưng hắn có vẻ gay gắt khi đ̣i hỏi phải có một người làm công việc đó”.
    Anh Phước nói: “Anh Hoa, tụi nó ngoắc anh ḱa”.
    Tôi chưa đi th́ tên vơ trang dùng hai bàn tay chụm lại làm loa nói lớn:
    “Được rồi, các anh cứ nấu nước pha trà mang đến đây”.
    Tôi nói với các bạn:
    “Vậy là chúng nó đồng ư đề nghị của tôi rồi. Thà là ḿnh tốn một ít trà để khỏi phải nấu riêng cho chúng nó hơn là để nó sử dụng ḿnh như tù h́nh sự. Mỗi buổi ḿnh cho chúng nó một “lon guigoze” trà pha đặc một chút. Trà th́ tôi cung cấp được, c̣n cái lon bạn nào có thể cho mượn được?”
    Anh Cao Văn Phước đồng ư cho mượn. Đến ngày thứ ba, tên quản giáo Kiện và tên Thắng, lại bắt Đội cử người luân phiên đến lều của nó nấu nước. Cuối cùng, chúng tôi đành phải đồng ư mỗi ngày luân phiên một anh. Đến đây cũng chưa ổn, v́ hai ngày sau đó là phiên anh Đặng Văn Hậu, chúng nó bắt buộc anh Hậu hằng ngày đến lều của nó mà nấu chớ không luân phiên nữa. Buổi chiều, anh Hậu thuật lại cả Đội nghe:
    “Thằng Thắng với thắng Kiện không chấp nhận luân phiên nữa, chúng nó bảo tớ phải nấu nước cho bọn nó. Nó nói thằng cha Hoa miệng rất ngọt, ăn nói nhẹ nhàng, ra lệnh ǵ cũng nghe nhưng bụng chứa đầy dao găm. Tớ mà nghe thằng cha Hoa là rục xương trong tù. Thằng Thắng nó gh́m thằng cha Hoa dữ lắm”.
    “Thế Hậu trả lời hắn ra sao?” Tôi hỏi.
    “Tớ bảo việc này do Đội quyết định. Thằng Thắng nói nếu nó bắt tớ làm th́ tớ có làm không? Tớ trả lời: Cán bộ bắt buộc th́ tôi phải làm, nhưng tôi buồn lắm!”
    Cuối cùng chúng tôi quyết định vẫn cứ luân phiên, nhưng vẫn cung cấp trà với thuốc điếu quấn cho chúng nó mỗi ngày 20 điếu. Nghĩa là thêm một chút “hối lộ”, cũng có thể nhờ đó mà tên quản giáo giảm “chỉ tiêu” cuốc đất mỗi người/ngày 70m2, tức giảm được 30m2. Chúng tôi là tù chính trị chớ không phải tù h́nh sự mà chúng nó sai khiến quá mức. Chúng tôi luôn tùy cơ ứng biến. Tôi nghĩ, chúng nó không dám mạnh tay v́ đây là việc riêng cho chúng nó. Mà nói cho cùng, nếu Ban Giám Thị có gọi tôi sỉ vả mắng chửi, tôi sẽ giải thích được, trừ khi chúng nó cột tôi vào cái tội ǵ khác để trừng phạt tôi. Nhưng rồi không việc ǵ xảy ra khi chúng tôi áp dụng luân phiên.
    Thời tên Phụ làm quản giáo, hắn hỏi tôi:
    “Tôi và cán bộ vơ trang sẽ lănh phần ăn trưa c̣n sống đem xuống đồng, anh cử người nấu cho chúng tôi được không?”
    Tôi trả lời:
    “Cán bộ ra lệnh cho chúng tôi khiêng phân người hay khiêng nước tiểu, chúng tôi thi hành ngay. Nhưng nấu ăn cho cán bộ th́ chúng tôi không thể làm được. Chúng tôi là những người tù chính trị, lại lớn tuổi, thậm chí là già yếu, tôi nghĩ là cán bộ cũng thông cảm với tôi về câu trả lời này”.
    Hắn làm thinh. Thật ra trước khi trả lời hắn, tôi nghĩ ngay đến “cái lực” trong tay chúng tôi, nếu như hắn mạnh tay th́ chúng tôi “ngưng viện trợ” thuốc hút và thuốc uống, đó là hai thứ mà hắn rất cần chúng tôi.
    Hạn hán ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu nước của chúng tôi. Quí vị quí bạn thử h́nh dung, từ ngoài cổng vào bên trong trại, ngay bên phải có một cái giếng rất lớn nhưng rất cạn. Đường kính khoảng 10 thước, nhưng sâu chỉ hơn 2 thước thôi, v́ vậy mà gọi nó là giếng cũng không đúng hẳn. Hằng ngày sau khi lao động về dù mùa hạ oi nồng hay mùa đông lạnh buốt, chúng tôi đều trần trụi đứng tắm nơi đây. Nhưng bây giờ đang là mùa đông, cái gọi là giếng đó hoàn toàn khô cằn, trơ lại cái đáy giếng đất và đá. Một chút may mắn là có bốn cái lỗ mội rỉ ra từng rỉ nước. Chúng tôi khoét bốn lỗ mội đó sâu chừng một gang tay và rộng cũng chừng ấy, để trữ nước. Mỗi sáng dậy, khi cửa buồng giam vừa mở là hầu như mọi người xách cái lon guigoze và cái muỗng ăn cơm chạy ra giếng, tuột xuống ngồi xếp hàng chờ múc nhẹ từng muỗng nước cho vào lon đem về buồng giam rửa mặt. Phải nhẹ nhàng để tránh nước bùn từ bên dưới trồi lên làm đục “ao nước” nhỏ nhất thế giới, nhưng hết sức cần thiết cho anh em chúng tôi trong mấy buồng giam lân cận. Hằng ngày khi lao động bất cứ ở vùng nào, chúng tôi t́m những vũng nước, lạch nước, cho dẫu nước phèn mà vàng cách mấy cũng ráng tắm giặt. Mỗi người chỉ vài lon là xong. Tôi chỉ nói “tắm giặt xong” chớ không dám nói “tắm sạch giặt sạch” nghe quí vị quí bạn. Nếu không tắm giặt ở đây th́ không thể nào giải quyết được nhu cầu này ở đâu cả. Điều đặc biệt là không có sự xích mích va chạm nào giữa anh em chúng tôi về vấn đề nước cả.
    Vợ tôi đến thăm.
    Từ đầu năm 1979, Bộ Công An cho gia đ́nh tù chính trị đến thăm nuôi, kèm theo điều kiện là phải được các cơ quan địa phương cho đi, và tù chính trị không bị những h́nh thức kỷ luật tại trại. Vậy là cái lệnh này đă dẫn đến việc xây cất nhà thăm nuôi cách cổng trại hơn cây số.
    Trung tuần tháng 05/1979, vợ tôi và con trai út chúng tôi 8 tuổi từ Sài G̣n ra thăm tôi. Hôm đó là chiều thứ bảy, anh Phạm Văn Thường (Đại Tá Tiếp Vận) tạt vào buồng giam báo tin cho tôi:
    “Hoa ơi! Bà Xă của anh đang ở ngoài nhà thăm nuôi đấy. Ngày mai anh sẽ gặp”.
    “Sao anh biết?” Tôi hỏi lại một cách vội vàng.
    “Chiều nay tôi ra gặp vợ tôi và vừa vào tới. Bà Xă anh gởi cho anh 10 cái trứng luộc”.

  10. #20
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7A / Trại tập trung Nam Hà 1
    P4



    Trao xong là ảnh ra ngoài để mang quà về buồng giam v́ sắp đến giờ khóa cửa buồng giam.
    Tôi bưng cái thau nhựa có 10 cái trứng bên trong với thái độ có vẻ lúng túng, trong khi các bạn ngồi chờ điểm số vào buồng giam. Anh Trần Văn Lễ nói:
    “Thằng cha Hoa mất hồn rồi, giống như tôi hồi đầu năm vậy”.
    Đêm đó quả thật tôi không ngủ được, và tôi tin vợ và con tôi cũng không ngủ được. V́ quá bất ngờ nên các bạn thấy tôi lúng túng, chớ được tin báo trước th́ không đến nỗi “mất hồn” như anh Lễ nói đâu quí vị quí bạn à!
    Sáng hôm sau, Công An cai tù phụ trách hướng dẫn thăm nuôi tên Quan, vào trại gọi tôi ra thăm gặp gia đ́nh. Hắn đưa cái ch́a khóa cho tôi:
    “Anh mở khóa lấy cái xe cải tiến kéo theo chở quà”.
    Nếu quí vị quí bạn h́nh dung được sự hăng hái của người tù chính trị lần đầu tiên được gia đ́nh đến thăm như thế nào, th́ tâm trạng của tôi cũng y như vậy. Nhưng mà cái khung xe bằng kim khí nó nặng quá trời, nhất là khi kéo lên cái dốc khá cao và khá dài. Phải qua khỏi đầu dốc mới đến nhà thăm nuôi. Tôi mặc quần áo tù màu xanh do trại phát, kiểu như bộ bà-ba trong Nam nhưng lại có cái cổ cao. Khi đến đầu dốc:
    “Báo cáo cán bộ. Ngừng lại nghỉ chân một lúc cán bộ, v́ lần đầu gặp gia đ́nh mà mặt mày xanh lè xanh lét th́ thất sách lắm cán bộ”.
    “Dừng th́ dừng. Nhưng anh nói thất sách là thế nào?”
    “ Cán bộ nghĩ xem, sau bốn năm vợ chồng mới gặp lại nhau mà tôi cứ đứng thở h́ hà h́ hục th́ vợ tôi xúc động lắm, trong khi tôi không đau yếu bệnh hoạn mà chỉ kéo cái xe vừa nặng vừa lên dốc nữa”.
    “Được. Tôi thông cảm rồi. Anh cứ ngồi nghỉ, khỏe lại hăy đi”.
    Mùa hè trên đất Bắc, mới sáng sớm mà nóng chẳng khác cái nóng ban trưa ở Sài G̣n, chiếc xe và cái dốc làm cho cái áo tôi đẫm mồ hôi. Tôi vừa quạt vừa đi tới đi lui trong khi hắn ngồi trên mỏm đá nh́n tôi, không hiểu hắn sợ tôi trốn hay hắn thấy dáng điệu của tôi có cái ǵ khác thường chăng?
    Vừa để cái xe ngay bậc thềm, vợ tôi với đứa con trai út chúng tôi bước ra. Chúng tôi nắm tay nhau thật chặt, nhưng tôi không dám hôn, v́ tên “Thắng chuột” phụ trách nhà thăm nuôi chầm chập nh́n chúng tôi.
    Tôi không dám hôn v́ nhớ đến chuyện anh bạn tù trẻ vừa được vợ đến thăm tuần trước. Sau khi chú ấy gặp vợ một lúc th́ “Thắng chuột” bảo chia tay rồi vào trại. Vợ chú ấy tiễn chồng bằng cách cùng chồng đẩy xe cải tiến một đoạn đường. Đến đầu dốc xuống, dừng xe cải tiến lại, anh tù trẻ bước ṿng ra sau xe, ôm vợ hôn lia lịa. Tên “Thắng chuột” lúc ấy cùng vào trại, trông thấy, hắn la to:
    “Ơ! Ơ! Cái anh này làm ǵ kỳ thế? Buông ra nhanh”.
    “Tôi hôn vợ tôi chớ làm ǵ mà cán bộ la om ṣm”.
    “Nắm tay được rồi, ai lại hôn kỳ vậy”.
    Anh tù trẻ hơi tức: “Bộ cán bộ chưa từng hôn vợ hả?”
    Hắn quát: “Đi vào. Không có lư sự nữa”.
    V́ vậy mà tôi chỉ nắm tay và nh́n vào đôi mắt vợ tôi. Buông tay vợ tôi ra, ngồi xuống, ôm chặt con tôi vào ḷng. Một lúc, nó từ từ gở tay tôi ra, có vẻ như nó “mắc cở” th́ phải. V́ lúc tôi vào tù nó mới 4 tuổi nên không nhớ được nhiều về tôi chăng?
    Thắng chuột nói: “Anh chị vào đây”.
    Hắn ngồi vào cái bàn sát tường bên kia, vợ chồng tôi và đứa con ngồi trên cái băng sát tường bên này, đối diện nhau trong gian pḥng nhỏ xíu. Hắn bắt đầu “giảng bài” y như băng cát xét phát ra vậy :
    “Anh chị biết là đảng với nhà nước rất khoan hồng nhân đạo, cho gia đ́nh mấy anh gặp nhau. Vậy, thứ nhất, khi thăm gặp ở đây, anh chị phải chấp hành nội qui cho tốt, nếu vi phạm là bị cắt ngay, và có thể bị cấm thăm trong nhiều lần sau này. Thứ hai, khi về địa phương, chị phải nói cho nhiều người biết về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng với nhà nước đối với ngụy quân ngụy quyền. Thứ ba, anh phải luôn luôn chấp hành tốt nội qui của trại, và quyết tâm học tập cải tạo tiến bộ để sớm được khoan hồng về với gia đ́nh. Anh chị nghe rơ chưa?”
    “Báo cáo cán bộ. Nghe rơ”.
    “Anh chị ra ngoài xem bản nội qui dán ở cửa, sau đó vào đây trao đổi chuyện gia đ́nh trong ṿng 2 tiếng đồng hồ”.
    Tôi ôm con tôi và hôn bé lia lịa, nhưng con tôi “mắc cở” thật. Gian pḥng nhỏ xíu chúng tôi ngồi đang quét dọn nên bụi mịt mù, chúng tôi sang gian pḥng nhỏ bên cạnh, chỉ có bộ ván chớ không có bàn ghế ǵ cả. Chúng tôi ngồi sát vào nhau, và bên cạnh là một gia đ́nh người bạn. Ngay bên ngoài, hai tên Công An đi qua đi lại như để chứng tỏ lúc nào cũng có hắn theo dơi chúng tôi. Tôi nói khẽ:
    “Em vẫn đẹp như trước tuy vất vả trong mấy năm trời”.
    Lời khen của tôi c̣n bao hàm lời khen vợ tôi đă vượt biết bao khó khăn gian khổ lo cho các con, và lo cho gia đ́nh chúng tôi.
    Vợ tôi ngă đầu vào vai chồng:
    “Anh không ốm (gầy) như Em nghĩ nên Em mừng lắm. Em cứ tưởng là Anh ốm lắm. Ráng giữ sức khỏe nghe Anh…”
    Lần lượt vợ tôi thuật mọi diễn biến về bà con thân quyến trong thời gian qua, điểm chánh là các con chúng tôi:
    “Tuần rồi, bốn con đă đi trên một chuyến tàu dưới dạng người Việt gốc Hoa hồi hương, ra hải phận quốc tế chờ tàu biển chở đến nước thứ ba, nay th́ Em nhẹ cả người. C̣n Nghĩa, chờ con lớn một chút hăy tính nghe Anh. Con c̣n nhỏ quá Em hổng dám cho đi. Anh đừng lo chuyện nhà, dẫu sao những năm gian khổ đă qua mà Em cố gắng quán xuyến được, nay Em tin là Em vẫn vượt qua được thôi. Em nhắc lại là Anh phải giữ ǵn sức khỏe. Chừng nào Anh về th́ chưa biết, nhưng Anh phải hứa với Em là Anh phải giữ sức khỏe nghe Anh”.
    “Anh hứa với Em. Em c̣n tiền để chi dùng ở nhà không?”
    “Em c̣n chút ít Anh à! Lúc Anh bị giam ở Biên Ḥa, Em mất mấy lượng (vàng). Khi Anh ra Yên Bái, Em mất mấy lượng nữa v́ tin vào chị N. V. M. Chỉ nói có bà con làm tướng cộng sản sắp trở ra Bắc, nên Em với chị Chí (Nguyễn Thành Chí) gom góp gởi cho Chỉ, nhờ mang ra Bắc đưa lại Anh với anh Chí. Tụi Em có trả tiền công chớ có phải nhờ không đâu. Gởi đi rồi, trông hoài không thấy Anh với anh Chí nói ǵ trong thư. Cuối cùng, Em với chị Chí t́m hiểu mới biết chị M. chẳng có t́nh bè bạn ǵ cả, mà Chỉ gạt để lấy vàng của tụi Em thôi. Đâu có thưa ai được Anh, chỉ có cách là tụi Em không bao giờ nh́n mặt chị đó nữa”.
    Ngưng một lúc, vợ tôi thuật tiếp:
    “Miếng vườn th́ tụi nó tịch thu sau khi Anh vào tù. Căn nhà Ba Má đang ở (Vĩnh Long) bị chúng nó lấy sau đó với lư do là cha mẹ của Đại Tá ngụy. Ba Má phải về Nha Mân cất căn nhà nhỏ trên đất của Cô Bảy mà Em đâu dám nói trong thư. Sang cái chuyện đi xe ḅ đến thăm Anh. Anh biết không, chị Thường (Phạm Văn Thường) với chị Lục (Lê Đ́nh Lục) nhờ Cô của anh Thường dẫn từ Sài G̣n ra Nam Định ở nhờ nhà cô anh Thường. Sáng hôm qua, Cô anh Thường mướn xe ḅ chở người lẫn chở đồ từ Nam Định lên Phủ Lư, rồi vô đây. Trời đất ơi! Những đoạn đường dốc, tụi Em phải xuống đẩy phụ con ḅ. Nắng nóng quá, con vừa mệt vừa khát nước lại vừa đói mà đâu có cơm nước ǵ cho con. Mới đi lần đầu nên tụi Em có biết ǵ đâu mà chuẩn bị. Em cho con ăn ḿ gói sống. Con muốn uống nước đá mà cái xứ này trông giống nhà quê quá, có ai bán nước đá đâu Anh. Đi từ sáng sớm mà chiều tối mới tới đây. Đêm hôm đông người quá, muỗi th́ nhiều mà họ không đủ mùng cho mượn. Cũng may là có ông già người Bắc, thấy con bị muỗi cắn giật ḿnh hoài, ổng mới kêu con vào mùng ngủ chung với ổng. Từ lúc đó con mới ngủ được đến sáng! Em cực đành rồi, thấy con cực quá Em muốn khóc!”
    Rồi vợ tôi khóc thật! Tôi cũng ứa nước mắt từ lúc nào ..!
    “Em gan lắm, chớ Anh ở nhà chưa chắc Anh dám cho các Con cùng ra biển một lần đâu. Nay th́ mọi việc suông sẻ. Tương lai các con bao giờ cũng là hạnh phúc của ḿnh. Đó là quan niệm mà chúng ḿnh xây dựng từ lúc cưới nhau. Giờ th́ ḿnh trông tin ngày nào các con đến Mỹ, ngày đó xem như các con chúng ḿnh bắt đầu vào đường xây dựng tương lai rồi Em. Mong là các con b́nh an đến nơi đến chốn”.
    Tôi hôn phớt trên mái tóc vợ tôi, trong khi chúng tôi nắm chặt tay nhau. Tiếng của “Thắng chuột” đứng ở cửa nghe mà phát ghét:
    “Anh Hoa mang quà ra xe vào trại. Hết giờ rồi”.
    Tôi quẳng bao quà lên xe cải tiến, quay lại vợ tôi rồi cùng nắm chặt tay nhau và cùng nh́n thẳng vào ánh mắt của nhau, như chuyển gởi vào đó tất cả tâm t́nh giống như lúc chúng tôi cùng “giở mâm trầu” sau khi làm lễ cưới ngày 5 tháng 3 năm 1958 vậy. Xoay qua ôm con tôi vào ḷng, hôn lên má của bé trước khi ra cửa, vào trại.
    Đến đầu dốc xuống, tôi dừng lại, quay nh́n vợ con tôi vẫn đứng ở bậc thềm nh́n tôi. Có lẽ thông cảm tôi nên cán bộ Quan không nói năng ǵ khi tôi dừng lại. Lượt vào trại cứ thong thả gh́ xe xuống dốc, nên không mệt như lượt ra mặc dù bao quà cũng đến mấy chục kí lô. Ngay trước cổng là nhà trực trại. Nơi đây có cái bàn dài để Công An trực trại khám xét quà bánh mà tù nhân nhận của gia đ́nh từ nhà thăm nuôi, hoặc những gói bưu kiện nhận từ nhà bưu điện bé xíu ở Ba Sao mang vào. Từng món một, bao, túi, lon, hũ, lần lượt mở toang ra. Chúng nó cho chiếc đủa vào ống kem đánh răng rồi ngoáy ngoáy t́m cái ǵ đó hổng biết, hai cục xà bông đều bị cắt làm hai làm ba, đường cát th́ chúng nó trút từ túi này sang túi khác, từng gói ḿ bị cắt ra, từng túi cơm sấy khô bị họ lắc qua lắc lại đến khi trông thấy toàn bộ bên trong, mấy con cá khô cũng được chiếu cố đặc biệt bằng cách cho cái muỗng vào miệng cá khô và nong ra xem có cái ǵ bên trong không. Không t́m thấy bất cứ thứ ǵ để chúng nó qui vào tội vi phạm nội qui để tịch thu, lúc đó mới cho vào trại. Anh Ngô Văn Huế vác giùm bao quà trong khi tôi đẩy xe cải tiến đem trả.
    Vào buồng giam, việc đầu tiên là tôi bày tất cả mấy chục cái bánh dầy và chả lụa đă được vợ tôi xắc sẳn, mời tất cả các bạn trong Đội 2 chúng tôi cùng ăn, gọi là góp vui với tôi. Anh Trần bá Thành vừa cười vừa hỏi:
    “Ê! Tiệc này gọi là ǵ vậy mấy cha?”
    Một bạn đưa ư kiến: “Th́ gọi là “hiền thê tân đáo” được không?”
    Thế là một tràng pháo tay thể hiện sự đồng t́nh với câu gợi ư của anh bạn nào đó. Trong t́nh trạng thiếu ăn triền miên, bỗng dưng có bữa ăn được xem là thịnh soạn, tất cả chúng tôi rất tự nhiên và vui vẻ. Bữa cơm chiều hôm ấy, tôi + anh Lâm + anh Phước (chúng tôi ăn cơm chung từ lâu), có cơm trắng với con gà luộc, phải công nhận rằng, đây là bữa ăn ngon nhất với tất cả hương vị từ gia đ́nh, cộng với hương vị của thức ăn kể từ ngày vào trại tập trung đến nay. Cái giá trị về tinh thần lẫn vật chất của bữa ăn này đối với tôi, c̣n cao hơn cái giá trị của bữa ăn cơm vắt với hai con mắm sặc sống hồi tháng 07/1955 nữa quí vị quí bạn à!
    Ngày ấy, tôi là Thiếu Úy, Trung Đội Trưởng/Đại Đội 3/Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân. Tiểu Đoàn chúng tôi đang trong cuộc hành quân vùng giữa Lai Vung với Sa Đéc. Rời Sa Đéc lúc nửa đêm, và xuất phát hành quân khi làng quê c̣n ch́m sâu trong giấc ngủ. Lúc mặt trời lên cao, Đại Đội 3 chúng tôi bị tấn công từ trong bờ vườn. Đại Đội 2 từ cánh phải đánh bên hông của địch, phá tan cuộc phục kích. Nói th́ đơn giản như vậy, nhưng thật sự chúng tôi phải quần nhau với địch đến khoảng 5 giờ chiều chiến trường mới kết thúc. Sau khi tản thương xong (bốn quân nhân), cả Tiểu Đoàn đều đói chớ không riêng ǵ chúng tôi, v́ từ giữa đêm đến lúc ấy có ăn uống ǵ đâu. Với hai con mắm sặc sống và hai vắt cơm bắt đầu nhơn nhớt v́ bị bịt kín gần như cả ngày. Thế nhưng tôi ăn ngon như chưa bao giờ ngon đến như vậy. Xét cho cùng, bữa cơm chiều hôm nay ngon hơn nhiều, v́ ngoài phẩm chất của thức ăn c̣n ẩn chứa hương vị thân thương của gia đ́nh nữa.
    Trước giờ buồng giam đóng cửa, tôi với anh Trần Văn Lễ -bạn rất thân- ngồi sát góc tường khuôn viên buồng giam tâm sự:
    “Cho đến bây giờ là đoạn cuối, chớ đoạn đầu th́ vợ con ḿnh gian nan lắm. Vợ tôi kể cho nghe là sau khi tụi ḿnh vô “hộp” (ư nói vào tù), cái đám cộng sản nó thường xuyên hằn học với gia đ́nh sĩ quan tụi ḿnh, nhất là cái đám Công An trong cư xá chúng tôi. Nay đe dọa tịch thu nhà, mai đe dọa đuổi đi khu kinh tế mới, mốt đe dọa về quê sinh sống. Nói chung là bài bản của chúng nó khủng bố tinh thần gia đ́nh ḿnh, để đoạt mục đích là chiếm nhà ḿnh làm tài sản của chúng nó. Thấy đe dọa chưa làm vợ con ḿnh nao núng, thằng Công An khu vực tên Đó mà chúng nó thường gọi là “Tư Đó”, sỉ nhục gia đ́nh sĩ quan ḿnh bằng cách bắt vợ tôi cùng với mấy chị bạn trong cư xá, đến làm cỏ sân nhà của tướng cộng sản Trần Văn Danh ngay sau lưng nhà tôi. Căn nhà này là của cựu Trung Tướng Phạm Quốc Thuần đă di tản, hắn vào chiếm ngụ. Trong số các chị có chị Vân là bạo miệng hơn hết. Lần thứ hai đến đây làm cỏ dưới cơn mựa lất phất, đứng trên sân ngập nước, chị Vân lớn tiếng:
    “Thiếu Tướng ơi! Ra coi mấy bà vợ sĩ quan ngụy làm cỏ nè Thiếu Tướng”.
    “Măi một lúc sau, mới có người ra cho về. Từ đó, không c̣n cái cảnh bắt vợ tôi với mấy chị trong cư xá làm cỏ cho các nhà cán bộ của chúng nó nữa”.
    Anh Lễ thuật về gia đ́nh ảnh:
    “Ở khu tụi tôi không có cái cảnh bắt đi làm cỏ như trong cư xá Bắc Hải của anh, nhưng ngày này sang ngày khác, tụi Công An cứ bắt đến Phường để nghe chúng nó nhai đi nhai lại cái điều mà chúng nó gọi là khoan hồng nhân đạo, vợ tôi nghe nói riết có hôm “bả” muốn chửi nó luôn nhưng kịp bịt miệng lại, nếu không th́ chưa biết chuyện ǵ xảy ra nữa”.
    Anh Lễ ngưng, tôi thuật tiếp:
    “Đầu năm 1978, tụi nó kéo đến nhà tôi 11 đứa mà vợ tôi nói cái đám đó giống như trong rừng mới ra vậy. Trong số đó có hai phụ nữ. Tụi nó chiếm nhà tôi suốt một tuần, nhốt vợ với năm con tôi trong một gian pḥng, rồi chúng bới móc lục soát đập phá những chỗ nghi ngờ cất giấu vũ khí tài liệu, và có thể chúng nó t́m kiếm tài sản nữa. Trong t́nh cảnh đó, bà con lối xóm nấu thức mang đến tiếp tế cho vợ con tôi. Thật là cảm động! Tất cả hồ sơ giấy tờ, nhất là những tập viết tay mà tôi ghi chép những sự kiện xảy ra trong các cuộc đảo chánh c̣n lại, bị tụi nó xé tung rồi liệng đầy nhà. Cũng may là cái đám cộng sản đần độn này không biết giá trị của những tập đó, nên vợ tôi gom góp lại rồi cho vào bao cất giữ. C̣n toàn bộ hơn 1.500 cuốn sách về kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học, và tôn giáo mà tôi đóng b́a cứng hẳn ḥi, tụi nó ôm đi bán ngay trong cư xá chúng tôi chớ đâu xa. Rơ ràng là cái tụi trấn lột chớ chính trị chính em ǵ đâu.
    Chuyện kế tiếp là con trai lớn chúng tôi là Phạm Bá Trung. Năm 1975, Trung học lớp 11 (học sớm 1 năm). Với tuổi 16 so với các bạn, Trung rất giỏi về điện tử nhất là sửa máy thu thanh, v́ năm 1972 con tôi theo học lớp điện tử trong trường trung học La San tại Cần Thơ. Khi tôi vào trại tập trung, con tôi mua cái máy vô tuyến liên lạc tầm xa do những người lấy trong các đơn vị quân đội đem ra bán, với dự định tháo những cơ phận dùng sửa máy thu thanh, v́ bà con hàng xóm thường nhờ con tôi sửa máy. Chưa kịp tháo tung ra th́ một toán Công An đến trước nhà, thật ra vợ tôi không hiểu chúng nó đến v́ chuyện ǵ, nhưng vợ tôi t́m cách giữ chúng nó ở cửa trước để con tôi trên lầu tháo tung cái máy rồi cho vào bao. Khi vợ tôi cho chúng nó vào trong nhà th́ không c̣n ǵ để gọi là cái máy nữa. Nhưng đó lại là cái tội mà hai con trai chúng tôi Phạm Bá Trung với Phạm Bá Tín bị bắt. Vợ tôi “chạy” đầu trên xóm dưới chỉ đem được con trai nhỏ ra khỏi nhà giam Quận 10, c̣n con trai lớn chúng tôi (19 tuổi) bị chúng nó đưa lên trại tù ở Bà Rá mà chúng nó gọi là “trại lao động”. Bị giam gần một năm trong trại tù đó, vợ tôi chạy tiền và chính chúng nó tổ chức cho con tôi trốn trại, Vợ tôi đón nó ở đoạn đường giữa Bà Rá với Đồng Xoài đưa thẳng về Vĩnh Long “tị nạn” bên Ngoại. Đến khi mua được bốn cái giấy chứng nhận “người Việt gốc Hoa”, cả bốn anh em nó lên tàu rời Việt Nam ngày 14/05/1979) rồi Lễ. Vợ tôi ghi tên (cộng sản gọi là đăng kư) ở Sở Công An tỉnh Vĩnh Long cho tụi nó đi theo diện người Việt gốc Hoa hồi hương. Mỗi đứa phải tốn đến 7 lượng vàng lận. Trước đó, phải t́m mua cái giấy chứng minh người Việt gốc Hoa với giá 300 đồng (Việt Nam) cho mỗi đứa nữa”.
    Anh Lễ vừa cười vừa bắt tay tôi:
    “Mừng anh nghe. Mấy đứa nhỏ thoát được là tụi ḿnh khỏe rồi. Tương lai của tụi nhỏ chính là cuộc sống của tụi ḿnh bây giờ. Bà Xă anh hay thiệt. Tụi ḿnh tính sai nước cờ mà mấy “Bả” ở nhà gian khổ quá!
    “Tôi nói thiệt anh nghe nhe. Đặt hoàn cảnh ngược lại, nếu tụi ḿnh ở nhà chưa chắc dám cho các con ra biển, v́ sống với cộng sản mà tụi ḿnh cứ méo mó cái nghề tham mưu, làm ǵ cũng tính toán chi li mới bắt tay vào việc, c̣n mấy “Bả” cứ làm đại vậy mà nhiều cơ hội thành công hơn ḿnh Lễ à! Có thể nói rằng, cộng sản cai trị theo cái luật rừng, nhưng nếu ai xài luật rừng hơn nó th́ được việc”.
    Tiếng kẻng đóng cửa buồng giam vang lên, cắt ngang ḍng tâm sự dài ngoằng của chúng tôi, rồi hai đứa cùng vào chỗ xếp hàng với các bạn.
    Đêm hôm trước khó ngủ v́ mong đến sáng để gặp vợ con. Gặp xong rồi, đêm nay cũng không dễ ǵ yên giấc, cứ chập chờn khi h́nh dung vợ con tôi vất vả trên xe lửa bảy mươi hai (72) tiếng đồng hồ với khoảng cách 1.736 cây số, thêm mười (10) tiếng đồng hồ ngồi xe ḅ dưới cái nắng của mùa hè oi bức trên đất Bắc. Đêm ngủ không mùng mà muỗi th́ nhiều vô kể, để chỉ được gặp chồng gặp cha vỏn vẹn hai (2) tiếng đồng hồ, rồi lại chịu đựng lượt về cũng vất vả tương tự thời gian lượt đi! Điều ǵ đă giúp vợ tôi vượt lên trên những gian khổ ấy? Đó là t́nh yêu chồng và t́nh thương con!
    Trở lại chuyện trong trại. Một số Công An bày ra cái vụ bán phở cho tù để có thêm tí tiền bỏ túi. Anh nào có tiền gởi trại, ghi tên mua phở họ sẽ căn cứ vào đó mà trừ dần. Mỗi buồng giam mua bao nhiêu cũng được, cứ 10 tô họ đựng trong một chậu thau bưng vào buồng chia lại. Ngày chủ nhật tuần sau đó, tôi mời các bạn ăn phở v́ vợ tôi có gởi cho tôi 200 đồng. Hôm ấy tôi trả tất cả là 82 đồng. Không phải tôi mời đến 82 bạn đâu mà có bạn ăn đến 5 tô lận. Năm tô không có nghĩa là nhiều, v́ một tô chỉ bằng cái chén trung b́nh thôi quí vị quí bạn à! Chỉ riêng nhóm chúng tôi có 3 người mà “tiêu thụ” đến 20 tô một cách nhẹ nhàng. Một phần v́ sau bốn năm mới cảm nhận được “chút hương vị phở”, và phần khác là được “no bụng bởi phở”. Tôi nói “chút hương vị phở”, v́ nó được gọi là phở chớ thật sự nó có đúng nghĩa là phở đâu. Thôi th́ trong hoàn cảnh này, cứ gọi nó là phở để cái bao tử cảm thấy “dễ chịu” trong chút thời gian ngắn ngủi!
    Cộng sản nuôi tù.
    Trại tập trung này thường xuyên là ăn độn, nhưng độn theo lương thực th́ từng đợt vài ba tuần hay vài ba tháng. Chẳng hạn như bo-bo th́ thời gian dài hơn, khoai ḿ xắc từng cọng phơi khô th́ vài tuần, khoai tây tươi nguyên củ th́ theo mùa, bột ḿ luộc th́ tùy theo viện trợ từ ngoại quốc. Nói là độn nhưng thật sự ăn 100% chớ không phải một phần gạo một phần độn đâu. Bo-bo là thức ăn dành cho ngựa ngoại quốc, cọng khoai ḿ phơi khô là thức ăn dành cho heo trong nước, nếu nói cho văn chương một chút gọi là thức ăn dành cho gia súc. V́ là thức ăn dành cho những động vật không phải con người, nên người ta không cần giữ vệ sinh từ lúc sản xuất, tồn trữ, chuyển vận, đến cung cấp cho bếp trại. Nghĩa là trong t́nh trạng không sạch sẽ chút nào, v́ khi đổ ra sân người ta dùng bàn cào hay chổi để trải ra phơi hay gom lại cho vào bao. Hăy h́nh dung bữa ăn với cọng khoai ḿ khô đă nấu chín. Mỗi khẩu phần từ 10 đến 12 cọng, nhỏ th́ bằng ngón tay út c̣n lớn th́ bằng ngón tay cái, và dài nhất cũng khoảng 12 phân tây (0.12 thước). Bên cạnh những cọng khoai ḿ nhơn nhớt, là muỗng nước muối với khoảng mười cọng rau mùa hè (rau muống) hay rau mùa đông (bắp cải, su hào). Đấy là một phần ăn.
    Trong số những thứ lương thực thay gạo đó, bo-bo là tai hại nhất, v́ cái vơ lụa của nó không tiêu được, nên nó phải “cào” những ǵ vướng mắc trên đường đi từ cái bao tử ra đến cái thùng gỗ đựng nó, chờ khiêng xuống khu vực trồng rau để “chăm bón”. Cuối cùng, nó lại quay ṿng trở vào bao tử chúng tôi dưới dạng rauCó bạn dùng cây tăm xỉa răng, ghim từng hột bo bo cho vào miệng. Cách ăn này vừa nhai thật kỷ, vừa đánh lừa cái bao tử làm cho “nó” tưởng là được ăn nhiều!
    Năm 1978-1979, tôi với anh Nguyễn Tài Lâm ăn chung. Tuy bo-bo “nó hung hăng” như vậy, nhưng hai chúng tôi cứ trông đến ngày thứ bảy nhờ anh Sét -em rể anh Lâm- ở buồng giam khác, mua giùm một phần bo-bo với giá một đồng. Hai đứa chia nhau mỗi người một nửa, giúp cái bao tử đỡ phần lỏng lẽo! Theo lời anh Sét th́ anh bạn muốn có một phần bo-bo bán cho chúng tôi, mỗi chiều anh ấy để lại một muỗng. Ngày thứ hai để lại hai muỗng từ phần bo-bo mới lănh và gộp muỗng bo-bo của ngày thứ nhất vào phần ăn lúc ấy. Ngày thứ ba để lại ba muỗng và gộp hai muỗng của ngày thứ hai vào phần ăn lúc ấy. Và cứ như thế cho đến ngày thứ bảy là đủ một phần, anh ấy bán cho chúng tôi lấy tiền lén gởi mua thuốc lào hút.
    Bây giờ quí vị quí bạn hăy h́nh dung thời gian tại trại tập trung Nam Hà vào chiều Ba Mươi Tết Nguyên Đán đầu năm 1979. Nhà bếp phát cho mỗi người tù chúng tôi một cái bánh chưn, mỗi cạnh 15 phân tây kể cả lớp lá dông thật dày bên ngoài. Tôi với anh Lâm phác thảo “kế hoạch” ăn hai cái bánh chưn đó. Chiều Ba Mươi ăn cái bánh của tôi, và sáng Mồng Một ăn cái bánh chưn của anh Lâm. Chúng tôi nhẹ nhàng cắt dây, rồi từ từ gở từng miếng lá nhỏ cứ như sợ nó văng mất từng hột nếp hay miếng thịt nho nhỏ bên trong ấy, và … trời đất ơi, một nửa cái bánh c̣n nguyên hột nếp! Nếu có bạn nào trông thấy hai cái mặt chúng tôi lúc ấy, cũng không thể nào tưởng tượng cái bao tử của chúng tôi nó thất vọng đến như vậy! Và trong cái hoàn cảnh cần có thức ăn ǵ đó giúp cái bao tử bớt kêu ca, chúng tôi quyết định sống chín như nhau. Thế là sau khi cắt làm hai, mỗi đứa có một nửa sống với một nửa chín.
    Theo “kế hoạch” th́ sáng Mồng Một mới ăn cái bánh chưn của anh Lâm, nhưng chúng tôi không thể thực hiện được v́ thức đêm chờ Giờ Giao Thừa mà bụng th́ đói! Thôi th́ mang cái bánh ra, lại từ từ cắt làm hai vẫn là nửa chín nửa sống, nhưng cứ xem như cái bánh có đủ phẩm chất của nó th́ y như rằng nó vẫn cứ ngon miệng lúc đêm khuya! Sáng Mồng Một có ǵ ăn đâu. Bữa ăn trưa, tù chính trị được ăn cơm bằng gạo hẳn ḥi, nhưng đây là bữa ăn duy nhất để rồi sau đó vẫn là bo-bo. Chiều Mồng Một Tết, một bạn trẻ ngay trong buồng giam chúng tôi, mang cái bánh duy nhất của anh ta bán cho chúng tôi giá 1 đồng rưỡi. Tôi với anh Lâm, mỗi đứa có thêm nửa cái bánh chưn, trong khi anh bạn trẻ có thêm thuốc lào hút. Không biết có nên nói là “hai bên cùng có lợi” hay không, v́ xem ra sự thể chẳng hay ho ǵ!
    Thật ḷng mà thưa với quí vị quí bạn rằng, cái bánh chưn thứ 3 này cho tôi cảm nhận chút hạnh phúc! Nếu quí vị hỏi tôi: “Tại sao là một chút hạnh phúc?” Tôi xin trả lời:
    “Thứ nhất, v́ chiều hôm qua và hôm nay, chúng tôi mới được ăn cơm thật sự cộng với cái bánh chưn cho dẫu là cái bánh chưn vừa sống lại vừa chín. Đó là hạnh phúc của người tù chính trị, v́ đă lâu lắm rồi anh em chúng tôi mới trông thấy những hột gạo hột nếp như vậy từ cái bếp của trại tù này. Thứ hai, chỉ một chút thôi, v́ từ ngày mai -Mồng Hai Tết- cái hạnh phúc đó sẽ tan biến theo chén bo bo lưng lững mỗi lúc chia khẩu phần! Cái hạnh phúc của chúng tôi nó mong manh như vậy đó!
    Đến muối hột ở trại này cũng thuộc vào loại thực phẩm quí nữa! Bởi v́ họ chỉ cho ăn toàn nước muối, rất ư là khó nuốt. Trong Đội nhà bếp mà tù chính trị chúng tôi đă thay thế tù h́nh sự, có anh Mẫn. Trong năm 1962-1963, anh Mẫn cùng làm trong văn pḥng Tham Mưu Trưởng Liên Quân với tôi. Sáng Mồng Một Tết năm 1979, anh Mẫn đến buồng giam khều tôi:
    “Anh xuống đây với em một chút”.
    Tôi nghĩ có thể anh ấy có tin tức ǵ liên quan đến tù chính trị nên thận trọng như vậy. Tôi theo sau anh Mẫn vào hành lang nhỏ hẹp của buồng giam 15 và 16. Đến giữa hành lang anh dừng lại, cho tay vào bên trong áo moi ra một gói bằng nắm tay nhét vội vào tay tôi:
    “Anh cất gói muối này để dành ăn. Muối hột đó. Em đi nghe”.
    “Cám ơn anh rất nhiều nghe Mẫn”.
    Tặng xong là Anh nhanh chân về nhà bếp v́ sợ có người trông thấy, v́ khoảng thời gian ấy nếu bị “cai tù” bắt là họ phạt biệt giam.
    Âm thanh ba tiếng “muối hột đó” đủ nói lên “giá trị” của hột muối đối với chúng tôi như thế nào rồi . Bởi, ngoài cái chất mặn của nó ra, tôi nghĩ là quí vị quí bạn không cảm nhận điều ǵ khác, nhưng với chúng tôi th́ âm thanh đó gợi lên sự thèm khát cái chất mặn lạ kỳ của hột muối. Và tôi không thể tưởng tượng được khi cho một hột muối vào miệng tôi cảm nhận nó ngọt vô cùng! Tôi đang mơ màng thưởng thức “chất ngọt của hột muối”, có tiếng anh Lâm:
    “Này, ông làm ǵ mà vui thế?”
    Tôi giật ḿnh. Hơi ngượng, v́ “bị bắt gặp” thái độ sung sướng một cách kỳ lạ, nhưng tỉnh lại ngay:
    “Anh có tin là tôi đang sung sướng v́ được ăn một hột muối không”?
    “Tôi cũng tù như ông mà”.
    Câu trả lời mang theo âm hưởng một lời than ngắn ngủi của anh Lâm. Vậy là quí vị quí bạn cảm nhận được mức độ thèm khát “muối hột” của chúng tôi như thế nào rồi chớ!
    Ở những cái “xóm nhà lá” trong xă hội lớn, người ta thường bày tỏ tinh thần tương trợ lẫn nhau khi trái gió trở trời, qua câu nói “hột muối cắn làm hai” được hiểu theo nghĩa bóng hơn là nghĩa đen. Nhưng trong xă hội nhỏ của nhà tù, hột muối không chỉ cắn làm hai mà là làm ba làm bốn hoàn toàn theo nghĩa đen của nó. Sự chia xẻ nhỏ nhoi mà anh Mẫn dành cho tôi là một trong những cách biểu hiện rơ nét về ư nghĩa “hột muối cắn làm hai”, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng!
    Thưa quí vị quí bạn, bo-bo mà chang nước muối vào thật vô duyên, nhưng ăn với muối hột th́ dễ ăn hơn. Tôi nói “dễ ăn” là so sánh khi ăn nó với nước muối, chớ tôi không nói nó thân thiện với cái bao tử khi nó vào đó.
    Sau đợt ăn những cọng khoai ḿ phơi khô là khoai tây tươi. Cũng là ăn 100% chớ không phải độn với gạo. Từng xe vận tải Molotova chở khoai tây vào trại, thứ khoai tây hạng bét v́ củ nào lớn nhất cũng chỉ bằng cườm tay trẻ con vài tuổi là cùng. Mỗi khẩu phần diễn biến từ 12 đến 16 củ c̣n nguyên vơ. Anh nào có bơ thực vật hoặc đường hay sữa do gia đ́nh gởi qua đường bưu điện 3 tháng 1 gói 5 kí lô, sau khi lột vơ một cách cẩn thận để tránh chất bột bị mất tí ti v́ dính theo vơ, rồi cho chút bơ hay sữa hoặc đường vào củ khoai, vừa ăn vừa cảm nhận niềm thương nỗi nhớ mà người Vợ từ ngàn dặm xa xôi đă âm thầm “gói ghém tâm hồn của Nàng chung trong những gói đường, hộp bơ, hộp sữa …” gởi đến người Chồng trong trại tập trung!
    V́ thiếu ăn, một số bạn trong số chúng tôi những khi cuốc đất hay làm ǵ dưới cánh đồng, bất cứ con ǵ nhúc nhích cũng ăn được cả. Từ con cua, con cá, con nhái, con luơn, cào cào châu chấu, ..v..v.., cứ bắt bỏ vào bếp lửa, một lúc khều ra phủi tro phủi bụi là cho vào miệng.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 19-01-2013, 05:04 AM
  2. NGHỆ THUẬT CA NHẠC TRONG MÙA LỄ HỘI TẠI HẢI NGOẠI
    By Tigon in forum Văn Hóa - Nghệ Thuật
    Replies: 31
    Last Post: 28-12-2012, 10:26 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2011, 04:35 PM
  4. Replies: 2
    Last Post: 28-12-2010, 11:08 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •