Page 3 of 4 FirstFirst 1234 LastLast
Results 21 to 30 of 35

Thread: KƯ SỰ TRONG TÙ - ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7B / Trại tập trung Nam Hà 2



    . Thậm chí, ngay cả con trùn cũng ăn nữa! “Con trùn hổ” lớn bằng ngón tay út, dưới nắng trưa làm ánh lên những màu sắc trên lớp da nhơn nhớt của nó, rạch một đường theo chiều dài con trùn, cạo bỏ tất cả bên trong chỉ c̣n lại lớp da bầy nhầy đem rửa sạch phơi khô, cho vào bếp nướng. Các bạn ấy gọi là “long đất nướng” và xem chừng ăn ngon lắm! Trong “bản ghi nhớ” của tôi có ghi tên các bạn ấy, nhưng tôi nghĩ không nên ghi vào đây v́ hoàn cảnh thiếu ăn!
    Theo qui định mà tên Công An “quản giáo” Đội nhà bếp cho biết, “tiêu chuẩn mỗi người tù là 15 kí lô gạo một tháng”, nhưng khi họ cho tù ăn những thứ không phải gạo th́ họ vẫn tính theo trọng lượng của gạo mà thật ra cũng chính họ cho biết, cứ 2.5 kí lô khoai ḿ hay khoai tây mới bằng 1 kí lô gạo. Chúng tôi đâu có kêu với ai được, bởi v́ họ chia chác với nhau và cùng che chắn cho nhau mà!
    Họ cấm tuyệt đối về nấu nướng. Nếu bị bắt, có thể bị họ đưa vào khu biệt giam trong trại Nam Hà B mà chung quanh toàn núi rừng bao bọc. Nếu bị biệt giam th́ khẩu phần hằng ngày giảm xuống c̣n một nửa, khi hết hạn biệt giam sẽ bị cấm thăm nuôi và có thể họ cấm luôn nhận quà thông thường là từ 3 đến 6 tháng. Cứ mỗi 3 tháng vợ tôi gởi cho 1 gói quà mà những món chánh là bơ thực vật, đường cát, sữa bột, và lạp xưởng.
    Tôi kể quí vị quí bạn nghe về cách tôi nướng lạp xưởng và sử dụng lon sữa bột. Mỗi lần nướng một cái lạp xưởng, tôi dùng chiếc đủa lùa vào trong để dễ cầm và dùng 3 tờ giấy báo kích thước của tạp chí, cuộn lại theo chiều dài, mượn cái quẹt máy (bật lửa) cho vào túi. Ra cửa buồng giam, nh́n qua nh́n lại không thấy tên Công An nào là tôi ba chân bốn cẳng chạy ra đằng sau buồng giam và chui vào cầu tiêu. Bật lửa, châm vào giấy. Tay cầm tờ giấy đang cháy để phía dưới chiếc đủa lạp xưởng. “Năng lượng” của 3 tờ giấy đủ chín cái lạp xưởng, thế là tôi có bữa ăn ngon miệng và cơ thế tiếp nhận được một lượng ca-lô-ri nhỏ nhoi mà cơ thể rất cần.
    Có lần vợ tôi gởi cho một xâu lạp xưởng 12 cặp, phải cho vào hai cái lon guigoze để dành ăn, nhưng nó dài quá phải cắt một đoạn mới đậy nắp được. Tôi với anh Cao Văn Phước (Đại Tá Cục Quân Vận) muốn ăn nhưng không biết là nó chín hay sống, v́ thư vợ tôi c̣n bị Công An trực trại giữ để kiểm soát. Lúc ấy chúng tôi bị nhốt vào buồng giam rồi đâu làm sao nướng được. Hai đứa tôi cứ ngắm nghía suy già đoán non, lúc th́ đă hấp rồi lúc th́ chưa. Cuối cùng chúng tôi xem như nó đă chín rồi và cứ thế mà ăn hết 24 đoạn cắt ngắn đó. Ngày hôm sau nhóm trực trại trả thư. Xem thư mới biết là lạp xưởng sống, thế nhưng cái bụng cũng hiền lành không gây khó khăn hay hoạnh hẹ ǵ tôi, mặc dù nó “bị bắt buộc” phải tiếp nhận và thanh toán hơn mười khúc lạp xưởng sống! Kể cũng lạ.
    Đến hộp sữa bột. Đó là sữa bột sản xuất từ Liên Xô, chung quanh bằng giấy cứng, màu vàng, cái nắp của nó là miếng kim khí mỏng cũng màu vàng, chỉ bằng một phần ba đường kính cái hộp, v́ mặt trên có miếng kim khí mỏng khác phủ kín hai phần ba miệng hộp. Tôi nh́n cái hộp và nghĩ rằng có thể sử dụng được nó dù chưa biết sử dụng vào việc ǵ. Thế là tôi “nghiên cứu” cái hộp mà “cái lợi” trên miệng sẽ che kín cái ǵ đó có thể giấu bên trong. Măi một lúc là tôi biết cách sử dụng nó. Đó là viết thư, quấn một ṿng tṛn cho nhỏ lại rồi lùa vào trong hộp, ém dần cho những trang thư sát vào vách hộp. Nghĩ được là thực hiện được. Sau khi nhận thấy những trang thư nằm “kín đáo” bên trong, tôi cho sữa bột vào hộp, đậy nắp cẩn thận, trông không khác những cái hộp sữa mang từ nhà thăm nuôi vào trại. Tôi phải trả 2 đồng Việt Nam cộng sản cho chú tù h́nh sự phụ trách dọn dẹp nhà thăm nuôi, đem ra gởi cho mấy chị bạn của vợ tôi đến thăm chồng nhờ mang về Sài G̣n trao lại vợ tôi. Có khi gởi cho anh bạn ra nhà thăm nuôi gặp vợ và gởi chị ấy mang về giùm. Có lần bị hạch hỏi trước khi họ hướng dẫn ra nhà thăm nuôi, anh bạn trả lời là đem sữa ra đó uống. Thế là thoát.
    “Họ tuyệt đối cấm nấu” nhưng chúng tôi “không tuyệt đối tuân hành”, nghĩa là chúng tôi vẫn nấu, và đây là cách nấu. Nói cho đúng là nấu nước pha trà, pha cà phê, chớ chưa cả gan đến mức nấu cơm nấu cháo trong buồng giam. Sữa bột guigoze sản xuất từ Ḥa Lan đựng trong cái lon bằng nhôm, mỏng nhưng rất cứng, đem cắt làm hai: Phần dưới làm nồi nấu, phần trên làm ḷ nấu. Phần trên phải đục một hàng lỗ để có không khí vào và năng lượng là cây đèn cầy (đèn sáp). Thường là xin người nhà cho đèn cầy loại lớn, cắt ra từng đoạn vừa với độ cao của “cái ḷ” mini, loại này cung cấp năng lượng nhiều hơn.
    Trường hợp không c̣n đèn cầy th́ dùng củi thay thế. Củi là những cây dại chết khô cở như chiếc đủa ăn. Trước khi từ chỗ lao động trở về, lượm những cây dại chết khô đó, bẻ từng đoạn dài chừng gang tay, dùng giây cột quanh hai bắp chân, ghim những que củi vào đó và mang về trại. Nếu bị Công An trực trại xét thấy, họ giật ném bên ngoài kèm theo những lời chửi mắng. “Lời chửi của chúng nó như nước đổ lá môn” thôi mà.
    Cái b́nh trà rất nhỏ và uống trà thật đặc, chỉ cần một vài hớp cũng đủ thấm giọng cả đêm, nhất là đêm đông. Nếu không quen uống trà đậm kiểu này mà uống vào buổi tối, có khi cả đêm không ngủ được. Nhưng nếu không uống trà đặc như thế này th́ đâu có đủ nước pha trà loảng cho nhiều người uống. Không biết có phải đây là “cái khó ló cái khôn” hay không, nhưng có điều là thích hợp với hoàn cảnh.
    Đến cái cảnh đổi áo quần lấy thức ăn mà tôi là trường hợp điển h́nh. Công An “cai tù” thừa biết tù chính trị chúng tôi có nhiều áo quần dân sự bằng hàng vải ngoại quốc rất tốt, trong khi chúng tôi rất cần chất bột, chất béo, chất ngọt. Thế là đám “cai tù đực lẫn cái” bắt đầu cho “nhập cổng bất hợp pháp” các món hàng sữa đặc có đường, sữa bột, đường cát, để gạ chúng tôi đổi lấy áo quần, rồi “xuất cổng” cũng bất hợp pháp mang lên Hà Nội bán. Cái nghề “khốn nạn” này đă giúp họ phát lên khá nhanh, bởi v́ như cái quần tây của tôi bằng vài nhập cảng từ Australia chỉ đổi được có 1 hộp sữa đặc và 1 kí lô sữa bột. Lần khác một cái quần tây chỉ đổi được 1 hộp sữa đặc và thêm 1 đồng bạc. Chính cái t́nh trạng thiếu ăn này, không chừng tù chính trị chúng tôi dần dần đến chỗ không c̣n cái áo cái quần dân sự nào cả!
    Một hôm, khi đổi được hộp sữa đặc trong tay và khi âm thanh ống khóa cửa buồng giam crắc một tiếng, tôi khui hộp sữa đặc, mời anh Bùi Quang Hiền với anh Cao Văn Phước nằm cạnh tôi, cả 3 chúng tôi luân phiên “tu” một lúc là hết sạch. Thoạt nghe có vẻ ly kỳ rồi, nhưng chưa thấm thía ǵ so với anh bạn trẻ Nguyễn Kim Tiếng (Thiếu Úy Cảnh Sát đặc biệt). Sau giờ lam lũ dưới cánh đồng ngập nước, về đến cổng chờ kiểm soát mới được vào trại. Cả Đội ngồi chồm hổm, đám Công An trực trại lục soát từng người từ trước ra sau. Anh Tiếng có mua hộp sữa đặc đang giấu trong người, khi thấy khó thoát khỏi v́ chúng nó xét kỷ quá, anh ta bèn moi cục đá ngay chỗ ngồi rồi ngoáy măi cũng được hai lỗ trên miệng hộp, thế là anh “tu” hết sữa và liệng cái hộp vào sát vách trại, lúc ấy tên Công An xét đến anh:
    “Cái hộp này của ai?” Hắn quát với vẻ tức tối.
    Ai dại ǵ mà lên tiếng. Hắn lại quát gay gắt hơn:
    “Tôi hỏi cái hộp này của ai ném ra đây?”
    C̣n 3 Đội “xếp hàng như bầy vịt” đều nh́n vào cổng trại, cứ như không nghe không thấy không biết việc ǵ kể cả lời quát của hắn. Hắn càu nhàu một lúc mới cho vào.
    Những Đội làm ruộng dưới đầm lầy mà họ gọi là “vụ chiêm”, thường có những toán trẻ con lẫn người lớn, lén lút giấu gói đường với vài hộp sữa trong người rồi giả dạng như đi bắt cá để đến gần chúng tôi bán vài món lặt vặt ấy. Do vậy mà anh Tiếng mới có hộp sữa trong người, và thật tài t́nh khi “tu” trọn hộp sữa trong nháy mắt.
    Cầu cơ.
    Nhóm anh em chúng tôi gồm các anh Cao Văn Phước, Ngô Văn Huế, Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, Phạm Duy Khang, anh Đàm Quang Yêu, và tôi, bắt đầu chơi “cơ” sau khi vào buồng giam, thường gọi là “cầu cơ”. Thỉnh thoảng có thêm anh Nguyễn Kỳ Nguyện và anh Đặng Văn Hậu. “Cầu cơ” cần có cái bàn và con cơ. “Cơ” phải là mảnh ván ḥm (quan tài) lấy từ cái huyệt mà thân nhân họ đă hốt cốt mới “linh thiêng”. Một hôm anh Khang trong nhóm đào ao nuôi cá dưới đồng, lượm được một mảnh ván mà anh nghĩ là “ván ḥm”, đem về cắt gọt theo h́nh dáng cái cơ. “Bàn cơ” là mảnh giấy có viết đủ các mẫu tự Việt Nam, một hàng số từ 0 đến 9. Ngoài ra c̣n viết nguyên chữ đúng/sai, có/không, tốt/xấu để đỡ phải ráp các mẫu tự. Chúng tôi dùng hai cái mền treo lên để tạo thành cái pḥng kín, tránh sự ŕnh rập của đám Công An tuần tiểu từ cửa sổ nh́n vào. Chúng nó bắt gặp cũng phiền phức lắm.
    Hôm đầu tiên, anh Khang “ngồi cơ”, anh Yêu khấn vái gọi hồn. Đại khái th́ anh giới thiệu với hồn ma hồn quỷ rằng:
    “Chúng tôi là tù chính trị miền Nam, bị giam tại trại tập trung Nam Hà này, xin thỉnh hồn các vị khuất mặt khuất mày nào đi ngang đây, vui ḷng nhập cơ để chúng tôi nhờ giúp đỡ độ tŕ”.
    Anh Phước khều tôi: “Ê! Cơ chạy rồi ḱa”.
    Nhưng cơ lại ngừng. Một lúc sau th́ cơ chạy lại, tức là có hồn nào đó nhập vô rồi. Anh Yêu lại lâm râm khấn vái:
    “Vị khuất mặt khuất mày nào đă nhập vô cơ xin nhập luôn chớ đừng ngập ngừng, để anh em chúng tôi hỏi đôi điều”.
    Tôi phụ trách ráp các mẫu tự mà cơ chỉ vào, và có câu sau đây:
    “Tôi tên Thọ, Tiểu Thần phụ trách khu này. Trước kia tôi là công nhân nhà máy dệt Nam Định, chết v́ không có thuốc trị dạ dày (bao tử). Hiện tôi c̣n một vợ và bốn con ở tại Nam Định” (có cho số nhà và tên đường).
    “Chúng tôi có thể nhờ ông Thọ cho biết tin tức gia đ́nh ở Sài G̣n được không?”
    “Được. Nhưng chờ tôi xin phép Thổ Thần trước”.
    Cơ ngưng chạy. Trong tích tắc th́ chạy lại, nhưng là hồn khác:
    “Tôi tên Ban, tù h́nh sự, đă chết v́ đói tại Trại Mễ ở Phủ Lư. Hiện tôi là “ma đói”. Các ông có ǵ cho tôi ăn không”.
    Tôi lấy cái bánh ngọt và tách nước trà để lên bàn cơ, anh Đàm Quang Yêu mời:
    “Chúng tôi mời ma đói ăn bánh uống nước”.
    Cơ chạy tới đụng nhẹ vào cái bánh rồi đến chạm vào tách nước, cơ lui lại vị trí chờ. Trong lúc anh Yêu hỏi thêm th́ cơ chạy vội vào các mẫu tự, tôi ráp lại:
    “Xin phép các ông tôi đi, v́ ông Tiểu Thần vừa đến ngoài cửa. Ông ấy bắt gặp là tôi bị phạt”.
    Trong chớp mắt cơ chạy lại, đó là ông Tiểu Thần:
    “Tôi được phép rồi, các ông cần ǵ th́ nói”.
    Tôi hỏi trước: “Tôi tên là Hoa …”
    Cơ cắt ngang bằng cách chạy vào các mẫu tự:
    “Tôi biết tên ông rồi v́ tôi nghe các ông bên cạnh gọi tên ông. Ông nói tiếp”.
    “… Tôi có bốn đứa con đi ngoại quốc bằng tàu đă hai tháng nay mà tôi chưa có tin tức. Ông Thọ có thể vào Sài G̣n, đến nhà X12 cư xá Bắc Hải, Phường 25 Quận 10, xem giùm t́nh trạng ở nhà tôi và cho tôi biết tin tức được không?”
    “Được. Ông Hoa chờ một chút”.
    Khoảng 30 giây sau, cơ chạy lại:
    “Không phải như ông nói đâu. Hiện ở nhà ông có bốn đứa con, c̣n một đứa nữa th́ ông Thổ Thần tại đó nói nó đi rồi nhưng chưa đến nơi”.
    “Cám ơn Ông Thọ”.
    Anh Yêu hỏi: “Làm sao mà ông đi mau vậy?”
    “Tôi chỉ là luồng khói nhỏ, thoắt đây thoắt kia, nhưng phải có phép của Thổ Thần mới đi được như vậy. Bây giờ tôi bận, tôi phải đi ngay. Chào các ông”.
    Thật ḷng mà nói, tôi không tin vào cơ, nhưng những lời của hồn từ bên kia thế giới xưng là Tiểu Thần đă nói trên bàn cơ vừa rồi làm tôi suy nghĩ măi: “Tin hay không tin?” Thôi th́ chờ tin từ vợ tôi mới đánh giá lời cơ đêm nay.
    Tuần lễ sau, chiều thứ bảy, anh Lễ từ nhà thăm nuôi trở vào, đưa cho tôi gói quà của vợ tôi gởi. Vội vàng mở ra, việc đầu tiên là xem thư mà tôi tin là thể nào cũng có trong hộp sữa bột mà chúng tôi dùng để thư bên trong. Và y như rằng, có bốn trang thư bằng giấy “pelure” mỏng. Xem xong, tôi ngẩn ngơ! V́ trong thư có hai chuyện rất buồn: Chuyện thứ nhất. Khi vợ tôi xin giấy phép ở Phường để ra Bắc thăm tôi hồi tháng 05/1979 th́ họ không cấp, vợ tôi nhờ người bạn mua cái giấy phép ở Phường khác. Khi vợ và con tôi từ Nam Định trở về Sài G̣n th́ nhà chúng tôi bị niêm phong, với ḍng chữ “nhà vắng chủ”. Vợ tôi gục đầu vào cửa nhà v́ quá uất ức! Đêm đó, vợ con tôi ngủ bên ngoài cửa nhà. Hôm sau, vợ tôi đến nhờ chị bạn (Chị D.V.D.) có người thân làm trong ṭa án cộng sản can thiệp. Cuối cùng, đám Công An Quận 10 phải gở niêm phong. Dĩ nhiên sự “giúp đỡ” đó theo phương thức “có qua có lại mới toại ḷng nhau”. Đến chuyện thứ hai. Bốn con chúng tôi tưởng đă đi được rồi, nhưng chỉ mấy ngày sau khi tàu rời Vĩnh Long (14/05/1979) là quay về bến. Lư do mà Sở Công An thông báo v́ thời tiết xấu nên tàu quay về, nhưng họ không nói bao giờ th́ đi, cũng không nói ǵ đến số vàng mà họ đă nhận của những người có giấy tờ “người Việt gốc Hoa ghi danh hồi hương”. Từ đó đến nay đă hơn hai tháng, họ vẫn hoàn toàn im lặng, có ai đến hỏi th́ họ trả lời vắn tắt: “Chưa có lệnh cấp trên”. Mọi người biết ḿnh bị Công An cộng sản trấn lột nhưng đâu thể làm ǵ họ được.
    Sau khi quay về, đứa con trai lớn chúng tôi vẫn phải “tị nạn” ở quê Ngoại v́ trước đó đă trốn trại lao động.
    Vậy th́ lời cơ hoàn toàn đúng nhưng tự thâm tâm tôi vẫn chưa thể tin được, v́ từ trước đến giờ tôi không tin vào tướng số tử vi, huống hồ ǵ lời của “hồn ma bóng quế” từ thế giới vô h́nh nói về những sự kiện trong thế giới hữu h́nh.
    Về Công An tổ chức vượt biển, xin mở ngoặc. Năm 2004, trên trang báo Dân Vận của đảng bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Germany, có bài viết về tội ác của cộng sản Việt Nam, trong đó có đoạn nói đến vấn đề vượt biển do Công An tổ chức. Xin trích một đoạn:
    “Theo tin tức tiết lộ từ Bộ Công An, chánh phủ cho phép các Sở Công An tổ chức những chuyến vượt biển cho thành phần người Việt gốc Hoa từ tháng 11 năm 1978 với mục đích, vừa đẩy thành phần đó ra khỏi Việt Nam, vừa thu được 7 lượng vàng của mỗi người để bổ sung ngân sách nhà nước. Hành động như vậy, Việt Nam không mang tiếng trục xuất một thành phần tai mắt của Trung Hoa cộng sản, v́ lúc ấy bang giao giữa hai nước cộng sản này đang căng thẳng. Về số vàng thu được từ năm 1978 đến 1982 lên đến 700.000 lượng, nhưng có thật sự vào ngân sách nhà nước hay vào túi riêng của những người quyền thế, chỉ có họ với Trời mới biết thôi. Vàng th́ họ thu khi ghi danh, c̣n bao nhiêu người thoát khỏi Việt Nam th́ không ai biết. Nguồn tin cũng cho biết, trung ương của họ ra lệnh thu mỗi người 3 lượng vàng chớ không phải 7”. Đóng ngoặc.
    Tôi gởi hộp sữa bột về lại Sài G̣n với những trang thư bên trong: “(1) An ủi vợ con tôi nên xem đó là bài học kinh nghiệm mà bài học nào cũng có cái giá phải trả. Có điều là giá đó thuộc loại trấn lột. (2) Giữ vững ư định tiếp tục đưa các con ra khỏi Việt Nam khi thấy có thể, v́ không thể để các con sống với cộng sản. (3) Nên chia ra từng một hoặc hai đứa mà đi, để tránh trường hợp tất cả bị tai nạn cùng lúc. Và (4) Có thể nhờ các em trợ giúp tài chánh cho con đi”.
    Rồi những đêm sau đó, nhóm chúng tôi tiếp tục chơi cơ. Anh nào cũng nhờ ông Tiểu Thần vào Sài G̣n xem giùm tin tức gia đ́nh. Một đêm, anh Yêu khấn thật lâu cơ mới chạy. Sau một lúc hỏi đáp, mới biết là ông Tiểu Thần bận nên “ma đói” vào cơ:
    “Hôm nay tôi ở đây được lâu, các ông có hỏi ǵ tôi không?”
    Theo lời anh Yêu, không phải ai ngồi cơ cũng có hồn nhập vào đâu mà phải như thế nào đó thường gọi là “cơ duyên”. Không biết đúng hay không nhưng rơ ràng là anh Vũ Tiến Phúc (Đại Tá Pháo Binh) ngồi cơ th́ nhiều hồn nhập vào cơ. Tôi có thử một lần nhưng phải nửa tiếng đồng hồ mới có hồn nhập vào cơ, lại là hồn ma thôi. Khi hồn nhập vào cơ th́ tôi không thể giữ lại. Tôi muốn thử cho biết bằng cách tôi cố ấn mạnh ngón tay giữa để giữ cơ lại, nhưng cứ như có người đẩy cơ đi. Hai lần tôi cố t́nh kềm cơ lại nhưng không thể được. V́ vậy mà tôi tin là có hồn nhập vào cơ, nhưng vẫn chưa tin hẳn vào lời cơ.
    Anh Khang nói:
    “Nào, bạn lên nhà ông Xuyên (trại trưởng) xem tụi nó làm ǵ trên đó mà đèn sáng choang vậy”.
    “Không được ông Khang ơi. Tụi nó gác dữ lắm, nó không cho tôi vào”.
    “Lính cộng sản gác, ăn thua ǵ bạn mà bạn sợ”.
    “Tôi nói lính của ông Tiểu Thần gác, chớ tôi đâu có nói lính của ông Xuyên”.
    “Vậy th́ anh xuống nhà bếp xem mai chúng nó cho chúng tôi ăn ǵ?”
    “Ngày mai các ông ăn bột ḿ luộc, v́ trong kho chỉ có bột ḿ thôi”.
    “Hừm. Sao không coi luôn thức ăn?”
    “Tôi thấy chỉ có bột ḿ với muối, ngoài ra không có ǵ khác nữa”.
    Trong khi chưa có câu hỏi ǵ thêm th́ cơ chạy ṿng ṿng, đột nhiên cơ hỏi:
    “Mấy ông có quen với phụ nữ ở đây sao?”
    “Phụ nữ ở đâu mà quen? Chúng tôi là tù chính trị trong Nam ra đây, đâu có quen với ai”.
    “Tôi thấy có hai cô đang ngồi phía trước ḱa”.
    “Bạn ra hỏi giùm hai cô ấy là ai vậy? Và muốn gặp ai?”
    “Không xong rồi. Ông Tiểu Thần đang đến, hai cô đó đứng dậy đi rồi. Thôi, tôi đi nghe”.
    Ngay sau đó ông Tiểu Thần nhập cơ, và anh Khang hỏi:
    “Ông Thọ có biết có người Mỹ nào chết trong trại này không?”
    “Có. Tôi biết có hai người”.
    “Ông Thọ có thể cho biết vài chi tiết về hai người Mỹ đó không?”
    “Không. Tôi chỉ biết hai người đó là sĩ quan”.
    “Ông Thọ có thể mời họ đến đây được không?”
    “Được. Ông chờ tôi”.
    Sau đó cơ chạy lại, nhưng lúc ấy tôi phải chui vào mùng v́ tôi bắt đầu bị cúm, rất khó chịu. Sáng sớm hôm sau, anh Khang thuật tóm tắt như sau:
    “Hai sĩ quan Mỹ, một là Thiếu Tá và một là Đại Úy. Cả hai chết tại buồng giam số 1 này. Mồ của hai anh ấy ở sườn núi phía Tây cách trại khoảng 500m đường chim bay. Anh Thiếu Tá ở tiểu bang California, có cho địa chỉ đầy đủ kể cả zipcode. Anh Đại Úy đang buồn v́ vợ anh đă có chồng khác, hai con gái của anh được ṭa giao cho mẹ anh nuôi, v́ vậy mà anh không muốn cho ai biết địa chỉ. Cả hai sĩ quan này đều biết hút thuốc lào, và chết v́ kiệt sức do không đủ dinh dưỡng. Sở dĩ hai anh biết tiếng Việt, v́ khi vào thế giới vô h́nh tại Việt Nam bắt buộc phải học, và hai anh trả lời những câu hỏi cả Việt ngữ lẫn Anh ngữ”
    Dần dần chỉ c̣n lại các anh Vũ Tiến Phúc, Cao Nguyên Khoa, với anh Phạm Duy Khang tiếp tục chơi cơ một thời gian khá lâu sau đó. Có anh hỏi những vấn đề chiến lược chiến thuật, về tương lai của Việt Nam, và “những vị” trả lời có “vị” xưng là Bà Chúa Liễu Hạnh, Đức Thánh Trần, có khi là vị thần này vị thánh kia, ..v..v…
    Riêng tôi th́ ngưng sau hai tuần tham gia, v́ cảm thấy gai gai trong người làm sao á! Tôi không giải thích được,nhưng rơ ràng có vài đêm trong giấc ngủ cứ như có ai đó đến nói chuyện với tôi, v́ phát âm không rơ nên tôi không hiểu họ nói ǵ. Với lại tôi nghĩ rằng: “Chuyện người ở thế giới vô h́nh nhập vào cơ của thế giới hữu h́nh là có thật, và trả lời những câu hỏi ngay trong cuộc sống là tin được, nhưng về những câu hỏi có tính cách quan trọng dài lâu trong tương lai, khó mà chấp nhận. Bởi lẽ, nếu cơ cung cấp chính xác về chiến lược chiến thuật ở cấp bậc quốc gia quốc tế, th́ ông Tổng Thống chỉ có việc rao truyền trên toàn quốc để t́m mời người “có cơ duyên cao nhất” vào Phủ Tổng Thống ngồi cơ, cầm chắc là Tổng Thống sẽ thành công xuất sắc trên mọi lănh vực sinh hoạt quốc gia, mà không cần đến năm bảy bộ tham mưu đồ sộ với máy móc tinh vi, lúc ấy ngân sách quốc gia lúc nào cũng thặng dư . Vậy là “dân giàu nước mạnh” rồi. Suy cho cùng, nếu sự thể diễn ra như vậy, hà tất phải tốn công tốn của chọn bầu vị Tổng Thống.
    Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có đức tin riêng, nhưng mỗi người có cách riêng của ḿnh khi nh́n về đức tin, trông chờ sự hiện hữu của đức tin.
    Vá đường.
    Tháng 05/1980, vừa ra khỏi cổng trại th́ tên vơ trang bảo dừng lại:
    “Anh Hoa. Anh cử người đến kho lănh dụng cụ đi sửa đường. Từ hôm nay, Đội phụ trách sửa đoạn đường từ nhà thăm nuôi ra đến nhà máy xi măng”.
    “Cán bộ có cho xuống đồng mang dụng cụ về trả kho không?”
    “Không cần. Cán bộ Vượng (quản giáo) bảo các anh cứ bỏ dưới đó, để nhân viên kho đi t́m mang về”.
    Tôi theo tên vơ trang đến kho, hắn bảo tôi:
    “Anh vào lănh dụng cụ đi”.
    Tôi vào kho, vừa nói mượn dụng cụ là tên giữ kho quát:
    “Các anh phải mang số dụng cụ dưới đồng về trả mới được lănh dụng cụ mới”.
    Tên vơ trang bước vào:
    “Đồng chí cho Đội mượn đi, đồng chí Vượng nói sẽ trả sau, v́ hôm nay phải sửa đường gấp, chậm trễ là có vấn đề đấy”.
    Cuối cùng, chúng tôi cũng mượn được dụng dụ cần thiết. Một bên đường là sườn núi với rất nhiều đá dăm, nên chúng tôi không phải khiêng đá từ xa đến, c̣n bên kia là triền đồi xuống cánh đồng chiêm. Qua khỏi nhà thăm nuôi, tên quản giáo bảo Đội dừng lại, hắn hỏi tôi:
    “Anh muốn Đội bắt đầu từ nhà máy xi măng vào, hay từ đây ra?”
    “Báo cáo cán bộ. Tôi nghĩ là nên bắt đầu từ đây ra, v́ đoạn này nhiều lỗ trũng ḿnh sửa là thấy kết quả ngay”.
    Tôi nêu ư kiến như vậy v́ trước mắt, anh em chúng tôi có cơ hội gặp những gia đ́nh bạn bè có thể hỏi thăm tin tức. Thể nào hắn cũng ngăn cấm, nhưng thể nào chúng tôi cũng có cách qua mặt hắn.
    “Được. Anh cho Đội bắt đầu từ đây, nhưng nếu anh nào lén phén chui vào nhà thăm nuôi là anh trách nhiệm. Tôi nói trước để mà tránh, tôi mà nổi điên lên khi bắt gặp anh nào vào nhà thăm nuôi th́ mấy anh cũng chẳng ra ǵ đâu. Nghe chưa?”.

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7B / Trại tập trung Nam Hà 2
    P2


    Hắn muốn nói là hắn sẽ chửi chúng tôi đó. Tên Vượng này nóng tánh và thô lổ nữa, nhưng nghe chừng “bịt miệng” hắn cũng không khó.
    “Vâng. Nhưng tôi xin cán bộ, khi giao trách nhiệm cho chúng tôi cán bộ đừng bảo phải làm thế này thế khác, hăy để chúng tôi làm theo cách của chúng tôi. Trước khi về tôi sẽ báo cáo và cán bộ kiểm soát công tác tại chỗ”.
    Hắn im lặng một lúc:“Cứ làm đi”.
    Nói xong, hắn lầm lủi vào dăy nhà dành cho tổ Công An điều hành và canh giữ nhà thăm nuôi.
    Chúng tôi chọn địa điểm nấu nước và ngồi nghỉ giải lao chỉ cách nhà thăm nuôi khoảng 50 thước về phía ra Ba Sao. Trong nhà thăm nuôi khá đông thân nhân của tù chính trị chúng tôi, trẻ con cũng khá nhiều. Có lẽ tôi cần giải thích một chút về nấu nước. Mỗi Đội trên dưới 20 người được cử một người phụ trách nấu nước cho Đội uống. Họ phát hai cái thùng loại 20 lít và một đ̣n gánh. Đội chúng tôi có anh Nguyễn Kỳ Nguyện phụ trách nấu nước. Nước th́ anh Nguyện tự t́m chỗ lấy và gánh về, c̣n củi th́ anh Nguyễn Xuân Hường phụ trách lên núi kiếm mang xuống cho anh Nguyện. Một số trong số anh em chúng tôi được gia đ́nh tiếp tế gạo, nên cho nhúm gạo và nước vào lon guigoze có cái quai móc, đem móc vào chung quanh miệng thùng nước, nhờ sức nóng của lửa do anh Nguyện cố t́nh cho lửa thoát nhiều ra chung quanh, giúp chúng tôi có lon guigoze cơm ngon miệng bụng no.
    Tôi với anh Nguyễn Kim Tây trong một toán. Khi tên vơ trang vào nhà thăm nuôi ngồi nh́n ra, tôi đứng sát anh Tây:
    “Tây ơi! Thư mới nhất của vợ “ta” cho biết trong tháng này Ba “ta” sẽ ra thăm. V́ vậy mà “ta” hy vọng gặp Ba ḿnh trong lúc tụi ḿnh sửa đường”.
    “Nhà ngươi” nh́n vô nhà thăm nuôi chưa?”
    “Có nh́n nhưng không thấy, kể cả người quen”.
    Tôi với anh Tây khi nói chuyện với nhau, thường dùng “ta” hay “nhà ngươi” để chỉ ngôi thứ nhất với ngôi thứ hai của chúng tôi. Trong lúc giải lao, tôi thuật lại lời của tên Vượng cấm vào nhà thăm nuôi, và có ư kiến:
    “Tôi nghĩ, nếu bạn nào muốn liên lạc với các chị trong nhà thăm nuôi, nên nhắn ra phía cầu vệ sinh. Nếu hắn có thấy th́ nói là ḿnh đi tiêu đi tiểu ǵ đó cho khớp với nhau. Dần dần tôi sẽ cố gắng thử xem có “bịt miệng” hắn được không rồi ḿnh liệu cách”.
    “Bịt miệng” có nghĩa là mua chuộc hắn bằng cà phê thuốc lá, thậm chí là chút ít tiền cuối tuần cho hắn đi xe về nhà.
    Mùa hè trên đất Bắc nóng và oi bức lắm, không như cái nóng hiền ḥa của miền Nam. Càng nóng chúng tôi càng mặc quần áo dài tay để giữ mồ hôi bên trong làm giảm sức nóng từ bên ngoài. Lại c̣n cái khăn lông nhỏ thấm nước phủ lên đầu trước khi đội nón, chốc chốc kéo xuống lau mặt cho mát.
    Cứ như thường lệ, mỗi khi đến chỗ làm chúng tôi được nghỉ 10 phút để thu xếp đồ đạc cá nhân cũng như dụng cụ đi làm. Ba ngày sau đó, trong lúc nghỉ ngơi chuẩn bị mang vác dụng cụ đào đất vá đường, tôi liếc nh́n vào nhà thăm nuôi xem có Ba tôi không. Bỗng, tôi rất đổi ngạc nhiên, dụi mắt, nh́n lại. Rơ ràng là vợ tôi ngồi dựa cột ở hàng hiên … nh́n tôi. Tay trái giở nón lên để thấy rơ và tay phải tôi chỉ vào tôi. Vợ tôi liền đứng dậy, cũng dùng tay chỉ vào vợ tôi. Vậy là chúng tôi nhận nhau rồi. Tôi khều anh Tây:
    “Tây ơi, Tây”.
    Vừa gọi, tôi vừa ngoắc anh Tây đang ngồi uống nước chỗ anh Nguyện, v́ c̣n mấy phút nữa mới bắt đầu lao động. Anh Tây đi nhanh lại:
    “Bác đến hả nhà ngươi?”
    “Đến rồi. Nhưng không phải Ba ta, mà là vợ ta”.
    “Chị đâu?”
    “Vợ ta mặc đồ tây kiểu đồ bộ, màu nâu, đứng dựa cột thứ ba từ bên phải qua trái đó. Nhà ngươi thấy chưa?”.
    “Ta thấy rồi. Có phải Chị hơi ốm một chút không?
    “Đúng. Hơi ốm so với giữa năm ngoái. Nhà người đứng đây với anh em giùm ta, ta kiếm thằng Vượng nhờ nó xin thằng Thụ -phụ trách nhà thăm nuôi- cho ta gặp mấy phút được không?”
    “Nhà ngươi đi đi. H́nh như nó đang ngồi trong cḥi của h́nh sự ḱa”.
    Đúng là hắn ngồi trong đó. Tôi bước vào:
    “Chào cán bộ. Vợ tôi từ Sài G̣n ra thăm, đang có mặt trong nhà thăm nuôi. Cán bộ có thể giúp cho tôi gặp vợ tôi trong chốc lát được không?”
    “Không được. Ông Thụ không cho đâu. Để mai gặp luôn”.
    “Báo cáo cán bộ, nếu vậy th́ có ǵ phải nói đâu. Sẳn Đội đang lao động ở đây, tôi nghĩ là cán bộ có thể giúp tôi được, chớ chờ mai th́ b́nh thường thôi. Cán bộ gắng giúp tôi trong 10 phút thôi mà”.
    “Anh lộn xộn quá. Để tôi vào gặp ông Thụ xem sao”.
    Một lúc sao, hắn ngoắc tôi vào và nói với con Kim:
    “Đồng chí Kim (cô này năm ngoái làm ở nhà trồng nấm), cho anh này gặp vợ trong 10 phút. Tôi xin ông Thụ rồi”.
    “Được”. Cô ta xoay qua tôi: “Anh vào trong”.
    Hai cái bàn dài đông nghẹt người. Cô ta đưa tôi cái ghế của cô ta:
    “Đưa ghế này vợ anh ngồi, c̣n anh ngồi tạm cạnh vợ anh. Anh chị nói chuyện nhanh lên, chỉ 10 phút thôi. Các ông trong trại ra trông thấy là phiền lắm”.
    “Cám ơn cán bộ”.
    Vợ tôi vào chuyện ngay:
    “Hai bên gia đ́nh đều mạnh. C̣n chuyện các con vượt biển dưới dạng người Việt gốc Hoa, khi tàu rời Vĩnh Long chưa được một ngày th́ tàu quay lại, họ nói là biển động không đi được. Rồi từ đó, mỗi khi có người đến hỏi th́ họ trả lời là chưa biết chừng nào mới khởi hành được. Khi hỏi đến số vàng đă đóng th́ họ nói đó là chuyện của cấp trên chớ họ không biết, mặc dù vàng th́ nộp cho họ. Vậy là chúng nó trấn lột, chỉ kể trong chuyến đó cũng đến cả ngàn lượng vàng chớ ít đâu Anh. Thôi th́ các con c̣n đủ là được rồi. Em đưa các con về Sài G̣n, riêng con Trung v́ trước đó đă trốn trại tù nên ở lại Vĩnh Long lánh mặt tụi Công An khu vực trong cư xá ḿnh. Bây giờ th́ con Trung với Tín đă đến Thái Lan rồi Anh”.
    “Em được điện tín hay thư của hai con chưa?”
    “Có thư của hai con rồi. Hai con vượt biển từ Cà Mau và trốn đi chớ không phải như lần đi năm ngoái. Lần thăm Anh năm ngoái trở về, nhà ḿnh bị tụi nó niêm phong, nó đ̣i tịch thu. Em liều mạng với tụi nói, cuối cùng nó mới chịu trả. Lúc nào tụi nó cũng chực lấy nhà ḿnh, cũng như nhà của các bạn trong cư xá Bắc Hải ḿnh. Chúng nó toàn cái bọn ăn cướp cả”.
    “Em giỏi lắm”.
    (Trong h́nh là Phạm Bá Trung & Phạm Bá Tín đang leo qua tàu biển)
    “À, có con gái với út Nghĩa theo Em thăm Anh nữa. Hai con với các bạn nó đi tắm rồi, chắc cũng sắp về. Con Hùng đang ở Vũng Tàu, lúc nào đi được là con sẽ đi với thằng Thành con anh Có (Đại Tá Nguyễn Hữu Có) và mấy bạn nữa. Khi nào có tin, Em nhắn cho Anh hay”.
    “Hùng gan quá hả Em, dám đi một ḿnh. Có thằng Thành cũng đỡ đần nhau được. À! Em có mang cho Anh hai chiếc nhẫn không?”
    “Có. Nhưng bây giờ không tiện lấy ra, v́ Em để người. Ngày mai Em đưa Anh. Bây giờ Anh có thể đem con gà luộc này vào trại được không? Em để trong bao ni-lông rồi”.
    Tôi quay sang cô Kim:
    “Báo cáo cán bộ, tôi có thể mang cái túi có đựng con gà luộc ra khỏi đây không cán bộ? Cán bộ có thể xem trước, chỉ có con gà luộc thôi”.
    “Anh đưa tôi xem….. Được, Anh mang ra khỏi đây, nhưng khi vào trại đừng để mấy ông trực trại trông thấy là phiền phức lắm”.
    “Cám ơn cán bộ. Giới thiệu với cán bộ, đây là vợ tôi, c̣n hai con tôi đi tắm rồi”.
    “Tôi biết rồi. Con gái của Anh Chị xinh lắm”.
    “Vợ chồng tôi chỉ có mỗi đứa con gái, c̣n lại đều là trai, nên cưng lắm”.
    “Thôi. Anh ra Đội đi. Quá 10 phút rồi. Mai thăm chánh thức, tôi để ngồi nói chuyện lâu hơn”.
    Ra đến hàng hiên, vợ tôi chỉ phía dưới dốc:
    “Tụi nhỏ đi tắm về ḱa Anh. Con gái đi tận cùng bên phải đó”.
    “Con gái ḿnh cao lớn quá hả Em”
    “Càng lớn, con gái càng xinh. Mấy chị bạn đều khen con ḿnh”.
    Thằng quản giáo Vượng gọi tôi sang bên kia đường, trong lúc hai con tôi đi ngang tôi nhưng là bên này đường. Tôi với hai con tôi chỉ cách nhau mấy thước tây mà chỉ được nh́n nhau qua ánh mắt, chớ không được hôn lên trán con gái, hay ít nhất cũng vuốt được mái tóc dài của con gái tôi mà tôi thường ao ước! Ngày trước, tôi thường khuyến khích con gái tôi để mái tóc dài như Mẹ nó lúc c̣n đi học. Tên Vượng hỏi:
    “Anh nói ǵ mà lâu thế?”
    “Báo cáo cán bộ. Vợ chồng hằng năm trời gặp nhau chỉ 10 phút đồng hồ, vợ tôi mới kể cho tôi nghe về sức khỏe và cuộc sống của hai bên gia đ́nh chúng tôi là hết giờ rồi, c̣n nói ǵ nữa đâu cán bộ”.
    Tôi trở lại Đội, cùng anh Tây đứng nh́n vợ con tôi vẫn đứng ở hàng hiên nhà thăm nuôi. Tôi gởi cái túi ni-lông cho anh Nguyện, để chốc nữa cho vào cái thùng (nấu nước) mang vào trại. Anh Tây nói:
    “Con gái nhà ngươi phúc hậu lắm”.
    Sau giờ buồng giam bị khóa cửa, cũng có nghĩa là “giờ tự do” bắt đầu. Tôi thực hiện ư định cất giấu hai chiếc nhẫn khi vợ tôi đưa tôi ở nhà thăm nuôi để mang vào trại, v́ hai chiếc này trong ư định táo bạo của một số anh em chúng tôi sẽ chung góp để mua máy thu thanh đưa vào trại theo dơi tin tức trên làn sóng đài phát thanh BBC Luân Đôn. Dạo này tụi nó cho chúng tôi mặc quần tây áo sơ-mi mỗi khi được phép thăm nuôi, v́ mặc đồ trại trông thảm hại lắm. Thế là tôi moi cái túi quần bên trái ra, tháo một đoạn chỉ tận cùng phía dưới túi và sát cạnh trước, đủ cho chiếc nhẫn lọt xuống cái túi nhỏ xíu nối dài đến gần đầu gối. Tôi dự trù 2 chiếc nhẫn sẽ xuống nằm yên ở đó. V́ thông thường đám trực trại khi khám xét người, bọn chúng vuốt hai bên túi quần, nhất là túi quần bên phải xuống đến hết cái túi thôi, v́ vậy mà tôi hi vọng 2 chiếc nhẫn sẽ qua được những đôi mắt cú vọ với những bàn tay nhám nhúa của đám trực trại. Anh Hậu ngồi bên trông thấy là hiểu ngay:
    “Này, cậu nghiên cứu bao giờ mà có sáng kiến hay thế?”
    “Qua nhiều lần nhập trại, ḿnh quan sát cách khám xét của tụi nó, nhất là xét mấy bạn thăm nuôi vào trại. Trong đám trực trại th́ thằng Thịnh khuỳnh là hắc ám nhất. Nó mằn từ lưng quần xuống tận .. “dế” nữa nghe. Hai hôm trước, trong khi chờ xuất trại không biết Hậu có thấy không, thằng Thịnh nó mằn cái chỗ.. í .. của một anh nào đó ra gặp người nhà, ảnh nhột quá nên nhảy dựng lên làm anh em ngồi chờ xuất trại cười quá trời”.
    “Anh hổng hay nó mằn ra cái thư à?”
    “Không. Mà ai vậy?”
    “Anh nào đó ở buồng (giam) 15. Nó mằn ra cái thư giấu trong quần lót, nó đuổi vô luôn. Sau đó phải làm bản kiểm điểm nó mới cho ra gặp người nhà”.
    “Ḿnh chuẩn bị bửu bối này, nhưng ḿnh sẽ tùy cơ ứng biến lúc ḿnh ra cửa để vào trại, có thể trong tích tắc ḿnh chuyền sang các bạn mang vào trại giùm”.
    “Theo tôi th́ cách đó là ổn nhất, chứ bạn mà lọt vô tay thằng Thịnh khuỳnh nó hành bạn là cái chắc”.
    “Sáng mai, lúc nào Hậu cũng liếc mắt nh́n vào hàng hiên nhà thăm nuôi, sẳn sàng để khi ḿnh ra cửa là tùy cơ ứng biến à nghe”.
    “Lúc Đội làm ở nhà nấm, con Kim thường hay rù ŕ với bạn, hi vọng nó không hại bạn đâu”.
    “Cái con khỉ. Nó là “cộng sản cái” chớ có phải nó là con gái b́nh thường đâu. Đă là cộng sản th́ “đực cái” cũng vậy thôi. Chúng nó là chúng nó, chúng ḿnh là chúng ḿnh, đừng nói lôi thôi, Hậu phải cứu bồ đó”.
    Sáng hôm nay nhà thăm nuôi đông người lắm. Vợ chồng tôi ngồi đối diện nhau, hai con chúng tôi ngồi cạnh tôi, con gái bên phải và con trai bên trái tôi. Con Kim ngồi đầu bàn, nó nói khẻ:
    “Anh cho con gái anh sang ngồi với chị, chứ các ông trong trại ra trông thấy là căng lắm”.
    Ngay khi vào chuyện, vợ tôi vờ kḥm xuống gầm bàn lượm cái khăn mà vợ tôi cố t́nh làm rơi xuống, rồi nhanh chóng chuyền vào tay tôi hai chiếc nhẫn bọc trong miếng giấy mỏng. Tôi đứng dậy sửa lại thế ngồi của đứa con trai, nhưng thật ra là tôi cho hai chiếc nhẫn vào túi quần bên trái, và nó xuống thẳng cái đáy túi nhỏ như tôi muốn. Xong, ngồi lại một cách tự nhiên:
    “Em à! Anh muốn Em đưa các con c̣n lại cùng vượt biển với Em. Em nghĩ sao?”
    “C̣n Anh?”
    “Không sao đâu Em. Anh đă sống được 5 năm qua mà lại là 5 năm đầu rất gian khổ, nên Anh có đủ nghị lực chịu đựng rồi. Nghị lực vững vàng, với lại sức khỏe của Anh tốt. Mỗi sáng Anh đều tập thể dục đều đặn nữa Em”.
    “Họ cho mấy anh ra ngoài tập hả?”
    “Nó nhốt tụi anh kỹ lắm, làm ǵ có chuyện đó. Anh tập chạy và những động tác tay chân th́ bên ngoài mùng, nhưng tập những động tác khác th́ trong thế ngồi thiền ngay trong mùng”.
    “Em với các con đi hết, đâu có ai lo cho Anh. Không được đâu”. Nói đến đó là vợ tôi rơm rớm nước mắt, rồi tiếp:
    “Lúc đó Em c̣n khổ hơn ở đây nữa. Không được đâu Anh”.
    “Em hăy tập trung lo cho các con có cơ hội xây dựng tương lai, chớ để các con sống mà không có tương lai th́ ḿnh làm sao sống được Em”.
    “Để Em tính lại rồi cho Anh biết”.
    “Em nhớ là chúng ḿnh đồng ư với nhau, tương lai các con là hạnh phúc của chúng ḿnh mà Em”.
    “Em sẽ viết thư ra Anh sau”.
    Chưa nói được bao nhiêu th́ hết giờ. Tiếng con Kim:
    “Các anh nhanh lên, hết giờ rồi, để đợt hai c̣n ra cho kịp”.
    Tôi vói kéo tay con gái tôi sang đứng cạnh tôi. Tôi vuốt mái tóc mượt mà của con gái tôi đến mấy lần:
    “Con gái cao bằng Ba rồi. Cuối tháng 5 này con gái của Ba tṛn 19 tuổi hén. Chúc mừng con gái nghe”.
    Tôi nắm chặt tay vợ tôi và con gái tôi, từng bước ra cửa. Tôi ṿng tay ôm chặt vợ con tôi trong giây lát, rồi bước nhanh ra chỗ các bạn tôi đang ngồi giải lao, cho tay vào túi quần bên trái giật nhẹ cái túi nhỏ có hai chiếc nhẫn bên trong, buông thỏng cái túi theo ống quần rớt xuống đất cạnh anh Nguyện. Anh Nguyện lượm chuyền liên tiếp sang hai bạn khác, trong khi tôi bước đi ngay v́ có vẻ như con Kim trông thấy. Phải chuyền như vậy đề pḥng nếu con Kim đến xét chẳng thấy ǵ hết.
    Tôi và các bạn đẩy xe cải tiến theo con Kim vào trại. Đến đầu dốc xuống, nó đi sát tôi:
    “Anh đứng chỗ Đội anh làm ǵ vậy?”
    “Có ǵ đâu cán bộ. Các bạn tôi trêu tôi nên tôi đáp lễ thôi”.
    “Anh có mang tiền hay vàng vào trại phải cẩn thận. Tôi biết là hôm nay ông Thịnh kiểm tra anh. Tôi nghe ông Thịnh nói nếu bắt được anh là anh bị phạt cấm thăm nuôi đó”.
    “Không. Tôi chẳng mang ǵ mà nội qui cấm đâu. Cám ơn cán bộ”.
    Đúng là Thịnh “khuỳnh” đang nhắm vào tôi. Trong khi “Thịnh khuỳnh” lục soát toàn bộ quà cáp của tôi, thằng “Thắng chuột” phụ trách an ninh (trước đây phụ trách nhà thăm nuôi) hỏi tôi với cái giọng khá gay gắt kèm theo nụ cười đểu của hắn:
    “Hôm qua anh gặp vợ anh rồi, phải không?”
    “Không cán bộ. Chúng tôi chỉ đứng nh́n nhau thôi”.
    “Tôi nói là anh có gặp”.
    “Đó là cán bộ nói thôi”.
    “Anh có muốn gặp vợ anh thêm không?”
    “Báo cáo cán bộ, đâu có người tù nào trả lời “không” với câu hỏi của cán bộ”.
    “Được. Anh sẽ không gặp thêm”.
    Tôi xuống giọng một chút nhưng cũng có phần thách thức:
    “Vâng. Tùy cán bộ”.
    Hắn chắp tay sau mông theo tôi vào tận buồng giam, xem tôi sắp xếp thức ăn với đồ dùng, mặc dù chính hắn với Thịnh khuỳnh lục soát trước nhà trực trại rồi. Món nào nó cũng cầm lên ngắm nghía rồi mằn tới mằn lui, miệng hỏi đủ thứ:
    “Gói này là gói ǵ?”
    “Lạp xưởng đó cán bộ”.
    “Bao nhiêu tiền vậy?”
    “Tôi không biết”.
    “Vợ anh không nói với anh à?”
    “Nói để làm ǵ cán bộ”.
    “Tiền đâu vợ anh mua?”
    “Tiền của chúng tôi”.
    “Anh ăn bao lâu th́ hết?”
    “Có thể ngày mai, ngày mốt, tùy theo tôi mời các bạn tôi cùng ăn”.
    “Anh tốt vậy à?”
    “Tôi chẳng tốt lành ǵ đâu. Anh em chúng tôi thường mời lẫn nhau mỗi khi có quà từ gia đ́nh. Bạn tôi mời tôi, bây giờ tôi mời bạn tôi cùng ăn”.
    Cứ thế mà nó hỏi đến phát tức, nhưng nhất định tôi không tức. V́ cái kiểu nó chọc cho ḿnh tức để rồi sơ ư trong lời nói là chúng nó hoạnh hẹ, thậm chí mắng chửi nữa.
    Sáng hôm sau, đă quá giờ lao động mà cả trại im ỉm, tất cả các buồng giam vẫn khóa chặt. Theo kinh nghiệm những lần tương tự như vậy trước đây, nếu không có người trốn trại, th́ tất cả tù chúng tôi cũng bị lục soát mọi thứ để chúng nó kiếm tiền hay những thứ mà chúng nó cho là vi phạm nội qui để tịch thu, hoặc luân chuyển tù hay luân chuyển buồng giam, v́ chúng sợ lâu ngày chúng tôi móc nối nhau rồi chống đối chúng nó.
    Trong lúc chúng tôi nhốn nháo v́ không biết nguyên nhân, thằng “Chi mụn”, quản giáo buồng giam chúng tôi, mở cửa gọi tôi ra “cái chuồng cu” mà thường ngày đám trực trại đứng trong đó kiểm soát xuất trại lao động. Hắn đứng trong, tôi đứng ngoài:
    “Chị đến phải không?”
    “Vâng. Vợ con tôi đến thăm tôi hôm qua, cán bộ”.
    “Anh có muốn thăm nữa không?”
    “Có chớ cán bộ”.
    “Anh làm bản kiểm điểm rồi Ban Giám Thị xét sau”.
    “Tôi không vi phạm nội qui, tại sao tôi phải làm kiểm điểm?”
    “Anh đừng vờ vịt nữa”.
    “Tôi hoàn toàn không hiểu ǵ cả”.
    “Anh biết anh D. bị mấy anh đánh không?”
    “Có. Tôi có biết, v́ anh ấy bị đánh ngay trong khuôn viên buồng giam chúng tôi, nhưng sao lại dính dáng đến tôi?”
    Hắn đứng im, nh́n ra cổng. Một lúc, hắn quay lại và gắt giọng:
    “Anh vào buồng”.
    Tôi ráng hỏi thêm:
    “Liệu tôi có được ra gặp vợ con tôi lần nữa không, cán bộ?”
    Hắn nạt tôi: “Anh vào buồng ngay”.
    Chỉ mấy phút sau, Thắng chuột vào buồng giam hỏi tôi:
    “Anh đă làm kiểm điểm chưa?”
    “Báo cáo cán bộ, tôi không sai phạm ǵ, tại sao tôi phải làm kiểm điểm?”
    “Cán bộ Chi có nói ǵ với anh chưa?”
    “Có. Nhưng tôi hỏi tại sao th́ cán bộ Chi không nói mà lại bỏ đi nên tôi không hiểu ǵ hết”.
    Chẳng biết sao bỗng dưng hắn xuống giọng:
    “Ít ra anh cũng phải làm đơn Ban Giám Thị mới xét chứ”.
    “Vâng, tôi làm ngay. Thật ra th́ thủ tục này tôi chưa từng biết”.
    Đến quá trưa hôm ấy, con Kim theo thằng Lực trực trại vào buồng giam, dắt tôi ra nhà thăm nuôi:
    “Anh được gặp vợ con anh trong một tiếng đồng hồ. Anh biết tại sao anh bị mấy ông ấy phạt không?”
    “Không. Cán bộ có biết tại sao không?”
    “Có phải anh chủ mưu đánh anh D. không?”
    “Không. Hoàn toàn không. Lúc anh D. bị đánh th́ tôi đang trong buồng giam, nghe ồn ào tôi chạy ra mới biết có người đánh anh D. Thế thôi”.
    “Anh bị qui trách chủ mưu đánh anh D. v́ có lần anh trông thấy anh D. báo cáo hành động của anh với cán bộ an ninh. Thôi, bỏ qua chuyện đó”.
    “Cán bộ có biết tại sao hôm nay không mở cửa xuất trại lao động không”.
    “Có hai anh trốn trại đó”.
    Ra đến nhà thăm nuôi, cô ta nói:
    “ Anh vô gặp vợ con anh. Nhanh lên”.
    Vợ tôi nói ngay:
    “Chiều tối hôm qua, có hai thằng Công An nó bảo Em dặn ḍ Anh phải bỏ cái thói ngang tàng bướng bỉnh mà lo học tập tốt để có ngày về. Em ức quá, Em nói mấy anh không cho chồng tôi ra làm sao tôi nói cho chồng tôi biết. Tôi biết tính chồng tôi không phải là người ngang tàng với bất cứ ai. Em nói càng lúc càng lớn tiếng, chẳng ngờ hai đứa nó bỏ đi hà Anh”.
    “Tụi nó gh́m Anh, cho là Anh tổ chức đánh anh D. v́ con nhỏ Công An này (tôi len lén chỉ con Kim) nói với Anh, tụi an ninh với tụi trực buồng giam quả quyết là Anh, v́ có lần Anh thấy anh D. viết báo cáo tố cáo Anh dính líu đến những vụ lộn xộn trong trại. Sáng nay hai thằng Công An luân phiên hạch hỏi Anh đủ điều. Có thể là hai thằng nói chuyện với Em chiều qua cũng là hai thằng nạt nộ Anh sáng nay chăng”.
    “Anh nói anh D. bị đánh là ǵ vậy?”
    “Chuyện dài ḍng lắm, bỏ qua đi Em. Ḿnh chỉ c̣n hơn nửa tiếng đồng hồ để nói chuyện của ḿnh”.
    Vợ tôi tiếp tục kể chuyện về Ba Má chúng tôi bị chúng nó cướp nhà, cướp vườn, nhiều bạn bè trong cư xá cũng trong t́nh trạng như vậy. Vợ tôi hứa sẽ cố gắng đưa hai con c̣n lại vượt biển, riêng vợ tôi có đi hay không c̣n phải suy nghĩ lại. Thoáng một cái, vừa hơn một tiếng đồng hồ:
    “Anh Hoa, thu xếp vào trại”.
    Thật ra con bé Công An này nó không chanh chua đanh đá như mấy con bé trước đây phụ trách hướng dẫn tù thăm gặp gia đ́nh, nhưng nó rất sợ đám Công An trực trại với đám an ninh nên nó canh chừng giờ giấc kỷ lắm. Tôi nắm tay vợ tôi thật chặt, hôn mái tóc con gái tôi và hôn thằng trai út lia lịa. Tâm hồn tôi rất thanh thản, vợ tôi quản trị gia đ́nh vững vàng, nhất là có kinh nghiệm đối phó với đám Công An Phường, Công An Quận, trong khi hai con trai lớn đă đến trại tạm trú Thái Lan, con trai thứ ba đang sẳn sàng vượt biển, và hai con c̣n lại sẽ đi tiếp.
    Trước khi vào đến nhà trực trại là một sân trống trước khu nhà dành cho Công An “cai tù” ở, khi đi ngang tôi thấy hai anh trốn trại bị bắt lại đang nằm co quắp v́ tay chân bị trói, trong khi con chó đi ṿng ṿng gầm gừ như sẳn sàng cắn xé hai anh! Nh́n kỷ, áo quần hai anh tả tơi, nhưng không rơ là hai anh đă bị chó cắn hay tả tơi lúc trốn trại? Bọn Công An cai tù chuyên nghiệp này dă man lắm, chúng nó cột hai anh rồi cho chó canh giữ trong khi một nhóm chúng nó ngồi trong nhà uống nước nh́n ra cười toe toét! Đến tối tôi mới biết hai anh ấy bỏ trốn vào chiều qua khi từ dưới đồng leo dốc về trại. Không biết v́ sao mà cả đêm hai anh chưa băng qua được cánh đồng chiêm nên ẩn trú trong núi đá ngay bên ngoài trại, để rồi chúng nó dùng chó lùng bắt.
    Ngay tối hôm đó, anh Lê Minh Chúc, tù chính trị duy nhất phụ trách phiên dịch các sách Anh ngữ do tụi cộng sản ở Bộ Quốc Pḥng đưa, nên anh được thăm gặp vợ anh lâu hơn mọi người khác. Sau khi từ nhà thăm nuôi trở về buồng giam, anh nói với tôi:
    “Khi cán bộ Chi dẫn tôi ra nhà thăm nuôi, nó nói với tôi là Ban Giám Thị quả quyết anh tổ chức đánh anh D nhưng v́ chưa có bằng cớ nên trại chưa kỷ luật anh. Giữa anh em, tôi nói để anh đề pḥng”.
    “Cám ơn anh. Hồi sáng này, thằng Thắng chuột với thằng Chi mụn quay tôi quá trời, cũng cái vụ ấy”.
    Chuyển tiền vào trại.
    Nói đến chuyển tiền vào trại, mời quí vị quí bạn quay trở lại thời gian Đội chúng tôi làm công tác vệ sinh khu vực cơ quan của trại. Hết làm cỏ lại sửa lối đi, xoay qua san bằng sân bóng chuyền. Làm cỏ xong đến cuối khu vực th́ đầu khu vực cỏ đă lên cao, và cứ như thế. Trong thời gian công tác linh tinh ở đây mới biết thêm cách chuyển tiền từ nhà thăm nuôi vào trại tù. Chuyện như thế này: Công An “cái” tên Thanh mà một số anh em chúng tôi gọi là “Thanh hai hàng”, v́ dáng đi của cô ta “không phải một hàng”. Cô ta phụ trách hướng dẫn anh em chúng tôi thăm nuôi, là một trong những “cai tù” chuyển tiền vào cho chúng tôi nhiều nhất. Khi mang vào trại, cô ta trao trực tiếp cho người nhận hoặc ngang qua trung gian, nhưng nhất thiết người trung gian phải là tù chính trị chớ tuyệt nhiên không dính dáng đến tên “cai tù” nào khác.
    Một hôm, anh bạn trẻ tên Quế đến nhờ tôi:
    “Anh ơi! Hôm nay con Thanh nó mang vô cho em 500 đồng. Nó lấy 10%, c̣n lại 450 đồng em có dặn nó trao cho anh đem về giùm em”.
    Tôi hỏi: “Ai thăm chú vậy Quế?”
    “Dạ vợ và con em”.
    “Yên chí. Tôi mang về cho chú”.
    Hôm ấy Đội chúng tôi làm cỏ quanh khu vực nhà ở của “cai tù”. Cô ta đưa tù h́nh sự thăm nuôi về sớm, tất nhiên phải về sớm v́ nếu về đúng giờ th́ Đội chúng tôi vào trại. Tôi đứng ở lối đi mà cô ta phải đi ngang. Tôi hỏi:
    “Có tiền của Quế đó không cán bộ?”
    “Có. Anh chờ một chút”.
    Cô ta vào nhà một lúc, tôi nghe như có tiếng cục đá rơi bên cạnh, quay nh́n, trông thấy cô ta đứng ở cửa sau. Rơ ràng là cô ta ngoắc tôi. Tôi lắc đầu, và chỉ tay về hướng cửa sổ nhà trẻ v́ ở đó có tên Công An đang đứng. Cô ta lại ngoắc tôi lần nữa, tôi cũng lắc đầu. Thật ra nếu không có thằng Công An đứng đó tôi cũng không dám vào nhà, v́ hành động đó rất nguy hiểm nếu bị bắt gặp tù trong nhà “Công An cái”. Con bé này được xem là đẹp trong số Công An “tóc dài” nên đám Công An tóc ngắn thường tới tán tỉnh. Với lại cái vụ anh Nguyễn Kim Tây làm cho chúng tôi ngại lắm. Khi em gái anh Tây nhờ cô ta mang tiền vào, cô ta gọi anh Tây vào nhà và vào hẳn sau tấm màn cô ta mới trao tiền, anh Tây “lạnh cẳng” lắm nên nắm được tiền trong tay là nhanh chân ra cửa sau. Không chuyện ǵ xảy ra, nhưng không phải mọi lần đều may mắn như vậy.
    Một lúc sau, tay cầm bàn chải tay ôm ôm chiếc chiếu ra giếng khỏi chỗ tôi đứng khoảng 20 thước, cô ta đi sát vào tôi:
    “Anh xuống giếng với tôi”.
    “Cán bộ xuống trước, tôi xuống sau”.
    Tôi nhờ anh Tây gác giùm đám Công An, nếu thấy th́ báo động bằng tiếng gọi lớn hơn b́nh thường. Tôi xuống giếng, cô ta ngồi khuất tấm vách nhà tắm, nhanh tay đưa tôi một xấp giấy bạc mà tờ trên cùng là giấy 50 đồng:
    “Đủ rồi đó”. Trao xong, cô ta đứng dậy, bước đi.
    “Không được. Cán bộ ngồi lại chờ tôi đếm. Cán bộ đưa tôi mấy tờ?”
    Cô ta trả lời chỉ một tiếng. “Chín”.
    “Đủ rồi. Cán bộ đi đi”.
    Tôi bảo cô ta ngồi lại v́ cô ta đă đánh lừa ba người bạn chúng tôi, số tờ giấy bạc th́ đúng nếu căn cứ tờ giấy bạc bên trên, nhưng mấy tấm dưới là loại giấy bạc nhỏ.
    Thêm một hành động “lừa đảo” của cô ta ngay tại nhà thăm nuôi. Có dạo Ban Giám Thị trại tự phát hành loại giấy bạc 1 đồng và 2 đồng dùng để mua hàng “căn tin” trong trại mà thôi. Chẳng hạn như vợ anh A đến thăm, gởi cho anh A 200 đồng, cô ta đưa cho anh A 200 đồng bằng loại giấy 1 đồng và 2 đồng của trại. Cách lừa đảo của cô ta là chờ đến hết giờ thăm nuôi, khi đứng lên vào trại cô ta mới đưa. Đúng vào cái lúc anh A chia tay với vợ, cũng là lúc tay xách nách mang bỏ vào xe cải tiến làm sao mà đếm được. Về buồng giam đếm lại, may lắm chỉ đến 170 hay 180 đồng là cùng. Đâu có tố cáo hay thưa kiện ǵ được. Cũng có trường hợp cô ta vào giao trực tiếp cho người nhận ngay trong trại, bằng cách cô ta xin gác cổng cho vào gọi thăm nuôi hay vào bệnh xá xin thuốc chẳng hạn, rồi trao tiền thường là ở hành lang nhỏ vào buồng giam 13 - 14. Trường hợp này cô ta “ăn” đến 15%.
    Last edited by alamit; 22-02-2013 at 11:30 PM.

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7B / Trại tập trung Nam Hà 2
    P3




    Cũng xin nói thêm về quyền hạn của mỗi loại Công An mà chúng tôi buộc phải gọi là cán bộ. Bước vào trong trại th́ thuộc quyền toán trực trại. Đám Công An quản giáo, Công An vơ trang, hay hướng dẫn thăm nuôi mỗi khi muốn vào cổng trại phải xin phép tên gác cổng. Trước khi xuất trại đi lao động hay thăm nuôi phải do “cai tù” quản giáo” hay “cai tù hướng dẫn”, nhận của “cai tù trực trại”. Ngược lại, trước khi tù vào cổng phải do cai tù liên hệ trả lại cai tù trực trại. Nhóm nào cũng có quyền với tù chính trị và tù h́nh sự cả. Nh́n bên ngoài là vậy, thật sự th́ giữa cai tù này với cai tù kia và giữa bộ phận cai tù này với bộ phận cai tù kia, họ vừa ŕnh rập nhau lại vừa lo sợ lẫn nhau. Cái chính sách của cộng sản là không tin vào ai cả, thậm chí ngay trong gia đ́nh họ cũng vậy. Bởi v́ cái chế độ này độc tài quá, tàn bạo quá, chỉ phục vụ đảng mà không phục dân, cho nên lúc nào họ cũng sợ sự chống đối từ tất cả mọi người mà họ cai trị, thậm chí họ cũng sợ cả những người mà họ gọi là “đồng chí” của họ nữa.
    Thế nhưng những cai tù liên quan trực tiếp với tù chính trị, có những liên hệ về quyền lợi khá ṣng phẳng với tù chính trị. Bên cai tù có “cái thế” của cai tù là muốn bắt nạt tù thế nào cũng được, nhưng bên tù cũng có “cái lực” của tù là tiền bạc và vật chất do gia đ́nh gởi đến. Nhóm chữ khá ṣng phẳng, nói cho dễ hiểu là chúng tôi dùng “cái lực” của ḿnh để đổi lấy sự dễ dăi chừng mực, tùy theo “cái thế” của mỗi bộ phận cai tù. Nh́n chung, hầu hết cai tù bất cứ thuộc bộ phận nào kể cả bộ phận giáo dục của trại, đều thèm thuồng “cái lực” của tù chính trị, nhất là “cái lực” thuốc tây với cà phê. Tạm thời trừ nhóm lănh đạo trong cái cơ quan quyền lực có toàn quyền hoạch định và điều khiễn thực hiện chế độ, c̣n tất cả công dân xă hội chủ nghĩa trên đất Bắc từ nhỏ đến lớn, chỉ uống mỗi một thứ thuốc có tên là “xuyên tâm liên” cho tất cả các bệnh, nên bây giờ được uống thuốc tây (âu dược) rất công hiệu và tác dụng rất nhanh.
    “Biết địch biết ta” để có quan niệm thích ứng cho cuộc sống của người tù chính trị trong xă hội xă hội chủ nghĩa trên đất Bắc này, và chúng tôi đă thành công chừng mực.
    Tên Đoàn, đến làm quản giáo Đội chúng tôi thay Thắng “mặt đỏ” sang Đội khác. Tên này kiếm ăn dữ lắm. Dắt Đội đến chỗ làm là hắn thọc hai tay vào túi long nhong sang các Đội kế cận kiếm ăn. Và chính cái hành động “kiếm thức ăn thuốc hút” của đám quản giáo lẫn vơ trang, đă thúc đẩy anh em chúng tôi sử dụng một số trong số quà do gia đ́nh gởi cho, để đổi lấy sự dễ dăi chừng mực nói trên. Cách kiếm ăn của tên quản giáo làm cho tên vơ trang ganh tức, cho đến một hôm th́ ḷng ganh tức nổ ra. Khi đến địa điểm lao động, trong khi anh em chúng tôi sắp xếp vật dụng th́ anh Nguyễn Xuân Hường báo cáo đi lấy củi như thường ngày. Tên vơ trang:
    “Hôm nay anh Hường không được đi”.
    “Cán bộ quản giáo cho tôi đi rồi cán bộ”.
    “Quyền của tôi. Tôi bảo anh không được đi là không được đi”.
    “Cán bộ không cho tôi đi lấy củi th́ anh em chúng tôi đâu có nước chín uống”.
    “Tôi ra lệnh quay lại. Anh bước thêm bước nữa là tôi bắn anh đó”.
    Vừa quát hắn vừa lên đạn. Tôi nói:
    “Anh Hường. Anh trở lại Đội, mọi việc ḿnh tính sau”.
    Mấy thằng quản giáo với vơ trang của các Đội lân cận tụ tập trong gian nhà cô công nhân ḷ gạch, nghe ồn ào nên bước ra ngoài cùng nh́n chúng tôi. Tên Đoàn bước đến mấy bước rồi nói với anh Hường:
    “Cán bộ vơ trang không đồng ư th́ anh vào Đội đi”.
    Nói xong, hắn lại chui vào gian nhà bé xíu của cô gái. Tôi quay sang tên vơ trang:
    “Báo cáo cán bộ. Anh em chúng tôi không có nước chín để uống, xin cán bộ cho Đội tôi không lao động hôm nay”.
    “Chuyện các anh có lao động hay không, không liên hệ đến tôi. Các anh muốn làm th́ làm, muốn nghỉ th́ nghỉ. Tôi chỉ cần các anh có mặt đủ là được”.
    Quyền hạn của mỗi bộ phận quản trị tù chính trị chúng tôi như vậy đó.
    Khi thấy anh em chúng tôi vác cuốc quay lại điểm tập trung của Đội, tên quản giáo từ trong nhà nói vọng ra:
    “Anh Hoa, cho Đội đi làm đi”.
    “Báo cáo cán bộ, không cuốc nỗi đâu v́ chúng tôi không có nước uống. Chúng tôi lớn tuổi rồi, cuốc một lúc là xỉu hết th́ nguy lắm. Cán bộ xin với cán bộ vơ trang cho anh Hường đi lấy củi th́ Đội lao động ngay”.
    Vẫn từ bên trong, hắn nói vói ra:
    “Đồng chí cho anh Hường đi lấy củi để đội lao động”.
    Tên vơ trang gắt giọng:
    “Tôi nói không, là không”.
    Mọi việc ngưng ở đó. Chúng tôi quây quần bên nhau, không ai nói với ai nhưng mỗi người chúng tôi có nụ cười khoái chí v́ chúng nó “oánh” lẫn nhau. Một lúc sau, tên vơ trang ra lệnh:
    “Anh Hoa, cho Đội về trại”.
    Tôi nói to: “Các bạn ơi! Cán bộ vơ trang bảo chúng ta về trại”.
    Mấy tên quản giáo từ trong nhà cô gái trông thấy, nói to:
    “Đoàn ơi! Đội của mầy về trại ḱa”.
    Hắn quưnh quá, chạy theo, và nói lớn:
    “Anh Hoa, cho Đội quay lại ngay”.
    Tôi cũng nói lớn:
    “Trong lúc này chúng tôi phải nghe theo cán bộ vơ trang, nếu không th́ chúng tôi bị bắn sao cán bộ”.
    Hắn chạy lại tên vơ trang xuống nước năn nỉ ỉ ôi sao đó mà tên vơ trang bảo chúng tôi trở lại lao động, dĩ nhiên là anh Hường lên núi lấy củi nấu nước. Sở dĩ tên quản giáo phải năn nỉ tên vơ trang, v́ nếu Đội về trại trong giờ lao động th́ tên quản giáo bị kỷ luật. Theo tổ chức của trại tù chuyên nghiệp, quản giáo trực thuộc bộ phận kế hoạch, c̣n vơ trang th́ thuộc đội vơ trang. V́ vậy mà Đội nào gặp phải tên quản giáo với tên vơ trang xung khắc nhau th́ giữa hai đứa nó rắc rối hoài, chúng tôi thường khai thác và đào sâu mối xung khắc đó, đem lại lợi ích cho chúng tôi dù chỉ là những lợi ích nhỏ nhoi trong cấp thời.
    Sau đó, không biết có phải v́ sự kiếm ăn quá mức hay không mà tên Đoàn cuốn gói lên trại tập trung nào đó ở mạn rừng núi phía Bắc Hà Nội. Lúc ấy tên Vượng thay. Khi làm dưới đồng, trước khi về trại th́ dụng cụ gom lại một chỗ nào đó giấu, khỏi phải sáng lănh vác đi chiều lại vác về trả kho, mặc dù tên Công An giữ kho bắt buộc lănh và trả hằng ngày. Thật ra tên quản giáo nào cũng mong Đội về đến cổng trại là về nhà ngay, chớ đâu để mất th́ giờ chờ Đội trả dụng cụ. Nhờ vậy mà chúng tôi cũng đỡ phải mang vác lên dốc xuống đồi hằng ngày. Thỉnh thoảng tên “Thịnh khuỳnh” cũng giở chứng, nếu Đội nào không có quản giáo “trả” cho trực trại th́ hắn bắt Đội đó ngồi tại cổng, cho đến khi tên quản giáo đến trả mới cho vào trại. “Thịnh khuỳnh” là một trong những tên hung thần của trại tập trung Nam Hà A.
    Theo dơi đài BBC.
    Cái việc mà người này nói người kia là “báo cáo” là “ăng-ten” cũng có, nhưng cũng có những trường hợp do bọn Công An đưa tin để rồi anh em tù ngờ vực nhau, cảnh cáo nhau, thậm chí đánh dằn mặt nữa, dĩ nhiên là đám Công An có lợi v́ chúng nó sợ tù chính trị kết thành một khối, rồi có những hành động chống đối chúng nó. Trong trại tập trung Nam Hà A này, nghĩ cho cùng có hai loại người báo cáo cho tụi Công An: Thứ nhất là báo cáo vặt như nấu nướng, mang thư mang tiền vào trại, nói năng chống đối, …. loại báo cáo này không nguy hiểm lắm. Thứ hai là loại báo cáo thật sự nguy hiểm, nhưng loại này không do anh em tù chính trị chúng tôi, mà là “giả danh tù chính trị”. Chuyện tổng quát thế này:
    “Anh Nguyễn Mây (Ty Cảnh Sát Quảng Tín) nhận sửa cái máy thu thanh của tên Công An quản giáo. Sửa xong, anh nghe được làn sóng đài phát thanh BBC Luân Đôn. Thế là tin tức đài BBC được ngấm ngầm chuyền thật nhanh trong anh em chúng tôi, dần dần mới nhận ra nhu cầu theo dơi đài này. Anh Mây hỏi hắn cho anh mướn để nghe, dĩ nhiên là không cho nó biết ḿnh nghe đài BBC. Ngoài anh Mây, c̣n có anh Trần Hàng (Trưởng Ty Cảnh Sát Quảng Tín), và anh Lê Viết Hằng. Ban đêm nghe xong, ban ngày các anh kín đáo chuyền tin cho nhau rộng răi hơn. Bỗng tôi nhớ đến một giai đoạn trong đệ nhị thế chiến, tù binh Pháp bị quân Đức giam giữ trên đất Pháp, nhờ cái máy thu thanh mà phá ngục kịp thời khi theo dơi được quân Đồng Minh đổ bộ trên đất Pháp, và trên đà chiến thắng quân Đức. Nhận ra tác dụng của cái máy thu thanh rất quan trọng đối với tù chính trị chúng tôi, cũng là lúc tên quản giáo không cho anh Mây mướn nữa. Anh Mây đứng ra trách nhiệm liên lạc với tên quản giáo nhờ hắn mua cái máy thu thanh, một số anh em chúng tôi bí mật chung góp để anh Mây gởi mua.
    “Phần tôi chung góp một nửa chiếc nhẫn trong số hai chiếc nhẫn vợ tôi vừa cho. Thường ngày tôi cho một chiếc vào lai quần một chiếc vào cái túi nhỏ xíu trong nách áo. Đúng là “tù đâu của đó”, nếu không cẩn thận dễ bị chúng nó tịch thu lắm v́ bất cứ lúc nào chúng nó cũng có thể lục soát cả. Tôi theo anh Mây cứ như đi lang thang ngoài sân trại, nhưng thật ra chúng tôi dần dần cặp theo sát tường rào, rồi nhanh chân men theo hành lang từ sân trại vào buồng giam 15 và 16. Rảo mắt chung quanh:
    “Anh có thấy thằng nào không Mây?”
    “Yên chí. Tụi nó ra ngoài trại, c̣n đám h́nh sự cũng vào buồng giam rồi anh”.
    Tôi kéo ống quần lên và nhanh chóng lận ra chiếc nhẫn, trao ngay cho anh Mây. Chiều hôm đó, anh Mây đưa lại tôi 35 đồng v́ chiếc nhẫn đánh giá 70 đồng. Tên quản giáo buộc phải đưa cho nó một chiếc nhẫn chớ nó không nhận tiền. Nó nói giá chiếc nhẫn là 70 đồng, nhưng nó bán cao hơn là cái chắc v́ nghe mấy người dân làm dưới đồng nói chiếc nhẫn một chỉ với giá 85 đồng lận. Nghĩa là bán nhẫn đă có lời, khi mua cái máy nói giá cao, lại thêm cái khoản thưởng cho hắn nữa. Mua cái máy thu thanh, hắn kiếm được ba khoản tiền, nhưng cũng nguy hiểm cho hắn lắm. Thôi th́ chẳng hơn thiệt làm chi v́ cái máy thu thanh là chính.
    Không biết vô t́nh hay cố ư mà hắn mua cái máy thu thanh lớn quá, ban đêm không đưa lọt qua khe cửa sổ, anh em chúng tôi phải chung góp thêm 50 đồng nữa để nó đem đi đổi cái nhỏ một chút. Ngoài ra lại phải thêm cái khoản mua điện tŕ nữa, nó tính giá bằng hai, mà thật ra không biết giá bằng hai hay bằng mấy lần giá thật chúng tôi đâu có biết. Nhưng chỉ vài tháng là cái máy thu thanh bị hư, có lẽ hắn đưa chúng tôi cái máy “dỏm” th́ phải.
    Anh Lâm Minh Đức (Thiếu Tá An Ninh Quân Đội) nhờ tên quản giáo của Đội ảnh mua cái máy thu thanh trong khi trong túi chưa có đồng nào cả. Tên quản giáo nói hắn ứng tiền mua và giao cho anh Đức tại chỗ lao động. Anh Đức rất b́nh tỉnh, cho cái máy vào thùng (nấu nước) và dường như chính anh gánh vào trại. Cũng may là đám trực trại không xét cái thùng. Cái máy vào trại an toàn, anh Đức mới liên lạc rỉ tai mấy anh em đă cộng tác trong vụ máy thu thanh. Anh Phạm Kim Qui, anh Dương Công Liêm, tôi, anh Bằng (Quận Trưởng Quận 5 Sài G̣n), và hai hay ba anh nữa cùng chung góp. Lúc ấy anh Bằng moi trong cái bao lấy ra cái gói, mở cái gói ra rồi mở thêm một lần bao bọc nữa, và nói:
    “Đây là một trăm đồng sanh tử của tôi, tôi chung góp với mấy anh một nửa”.
    Anh Đức điều hành công việc cất giấu, cũng như luân phiên các bạn trẻ ban đêm thức nghe và ghi chép tin tức. Cái máy luân chuyển giữa các buồng giam 3 (anh Trần Hàng), buồng giam 4 (anh Đức), buồng giam 13 (anh Lê Viết Hằng), buồng giam 15 (anh Mây). Các anh không chuyển sang buồng giam cấp Đại Tá, v́ các anh lo ngại nếu cấp Đại Tá bị tụi nó bắt trong vụ này th́ khó sống lắm. Các anh ấy sẳn ḷng nhận sự nguy hiểm thay chúng tôi. Tôi với anh Qui, anh Liêm, và anh Bằng, rất cám ơn các anh ấy.
    Mỗi trưa sau khi nhập trại (lúc lao động ngày hai buổi) là tất cả các anh Đội Trưởng, nay cái góc này mai cái góc kia trong trại, chúng tôi ngồi lại để nghe các bạn tường thuật tin tức nghe được đêm qua. Nghe xong lập tức giải tán về buồng giam ăn cơm, chuẩn bị lao động buổi chiều. Đầu giờ lao động buổi chiều, chúng tôi được nghỉ 10 phút ngay khi đến chỗ lao động, trong khi tên quản giáo với tên vơ trang cũng kiếm chỗ mát ngồi nghỉ. Tôi sử dụng trường hợp Đội chúng tôi như trường hợp điển h́nh về phổ biến tin tức. Tôi ngồi giữa, các bạn trong Đội gần như ngồi chung quanh. Chúng tôi không ai nh́n ai, cứ như lơ đăng nh́n đâu đâu nhưng thật ra là đang chú ư theo dơi tin tức tôi chuyển lại. Lúc tôi xoay bên trái lúc xoay bên phải để các bạn nghe rơ. Xong, chúng tôi vác dụng cụ đi làm chớ không chờ tên quản giáo thúc giục. Đây cũng là cách chúng tôi giữ ḷng tin của hắn. “Ḿnh gian phải ngoan” để đạt mục đích.
    Công việc theo dơi tin tức đài BBC Luân Đôn diễn tiến tốt đẹp, hằng ngày chúng tôi nghe tường thuật tin tức đều đặn. Cứ hết điện tŕ th́ anh em chung góp gấp đôi đưa “chui” cho tên quản giáo là hôm sau có ngay. Cho đến một hôm, đó là ngày chủ nhật, thông thường khoảng 8 hay 9 giờ sáng th́ đám trực trại mở cửa buồng giam cho tù ra rửa mặt và chuẩn bị cơm nước. Nhưng hôm nay theo bóng mặt trời ít ra cũng 10 giờ rồi mà không một buồng giam nào mở cửa. Ngay cả mở cửa gọi tù thăm nuôi cũng không. Vậy, ắt phải có vấn đề quan trọng ǵ đó mới có sự kiện khác thường này, hoặc giả là cả đám trực trại ngủ quên hết không chừng. Một bạn đùa:
    “Theo đài BBC th́ xă hội xă hội chủ nghĩa Việt Nam trên đường kiệt quệ, hổng chừng tụi nó cuốn gói bỏ chạy hết rồi, anh em ḿnh t́m cách mở cửa ra để c̣n rượt theo chúng nó chớ”.
    “Thôi đi bạn ơi!”
    Tôi lên tiếng trong lúc tôi đang đứng ở đầu hồi buồng giam nh́n ra sân trại, và tiếp:
    “Tụi nó đi tới đi lui đầy ngoài sân trại ḱa, có vẻ như không có tên nào vào hướng các buồng giam khu ḿnh cả. Tôi ngờ là có chuyện không may cho anh em ḿnh nhưng chưa đoán được là chuyện ǵ”.
    Anh Bùi Quang Hiền:
    “Anh Hoa, giống như tiếng anh Đức bên buồng 4 gọi anh ḱa”.
    Tôi trở về chỗ nằm, bên trên cửa sổ có lỗ thông hơi nhưng hơi cao, tôi rướn người lên nh́n qua buồng 4, khoảng cách áng chừng 20 thước, dù không thấy ǵ nhưng vẫn lên tiếng:
    “Hoa đây Đức ơi! Có ǵ lạ không?”
    “Dưới buồng (giam) 6 vừa chuyền lên là tụi nó đang lục soát ở buồng (giam) 13, sau khi lục soát buồng 15”.
    “Bên anh, anh cẩn thận nghe Đức. Nó nằm ở đâu?” Nó, tức là cái máy thu thanh.
    “Anh yên tâm, chuẩn bị rồi. Nó ở dưới 13 hay 15 ǵ đó”.
    Chừng một tiếng đồng hồ sau đó, một đám Công An lên lục soát buồng 3 buồng 4, rồi sang buồng 1 chúng tôi cùng lúc với buồng giam số 2. Tại các buồng 1, 2, 3, và 4, chúng nó lục soát nhanh hơn buồng 13 và 15, v́ chúng nó chỉ chú trọng li ti đến đồ đạc của anh Trần Hàng (buồng 3), anh Lâm Minh Đức (buồng 4), tôi (buồng 1), và anh Phạm Kim Qui với anh Phạm Kim Tấn (buồng 2).
    Áng chừng 12 giờ trưa, đám trực trại mở cửa buồng giam. Chúng tôi chạy đi chạy lại t́m các bạn ở các buồng nói trên hỏi thăm tin tức. Tuy không bạn nào biết rơ chuyện ǵ xảy ra, nhưng nhóm chúng tôi ở buồng giam 1 và 2 nghi ngờ vụ này liên quan đến cái máy thu thanh, v́ được các bạn trong buồng giam 13 và 15 tường thuật th́ chúng nó lục soát tỉ mỉ, không bỏ sót bất cứ thùng ǵ gói ǵ để trong buồng giam, mà cái máy thu thanh hai đêm qua nó nằm ở hai buồng này. Và anh Mây thuật lại hành động của tụi Công An lục soát buồng giam 15 như sau:
    “Trong số Công An lục soát, có hai đứa từ Bộ Công An ở Hà Nội xuống. Cửa mở, chúng nó bắt mọi người đi tay không ra sân trong khuôn viên buồng giam, ngồi xuống. Tuyệt đối không được đi lại nếu chưa có phép. Tuần tự từ đầu buồng giam đến cuối buồng giam, mấy thằng lục soát sàn dưới, mấy thằng lục soát sàn trên, không bỏ sót bất cứ món ǵ. Trong khi mấy tên lục soát chỗ nằm, th́ mấy tên khác lục soát đồ dùng mà ban đêm để ngay giữa lối đi trong buồng giam. Đến đồ dùng của anh nào th́ chúng nó gọi anh đó vào. Tuần tự từng món một, bất cứ là lon, hộp, bao, gói, giỏ xách, nói chung là chúng nó đều mở ra xét. Từng món khi xét xong, để ra sau lưng rồi tiếp tục những món trước mặt. Xét xong anh nào th́ chúng nó đuổi anh ấy ra ngoài sân ngồi.
    Tại buồng giam 15, theo lời một bạn trẻ thuật lại xem như một chuyện lạ. Tên Công An liên tục khám xét đến cái hộp h́nh chữ nhật đựng cái máy thu thanh bên trong, nhưng th́nh ĺnh mấy tên Công An trên sàn gác gọi mấy tên này lên v́ thấy tiền, anh bạn đang bị xét, lập tức để cái hộp đó vào đống đồ đă xét xong.
    Cứ như thế mà chúng nó tiếp tục xét cho đến hết toàn bộ vật dụng và đồ dùng của tất cả các buồng giam mà chúng nhắm vào, nhưng chúng nó không t́m được cái máy thu thanh. Tuy không t́m được bằng chứng, nhưng chúng cũng bắt anh Lê Viết Hằng, anh Nguyễn Mây, với một anh phụ trách nghe radio, đưa đi đâu đó. Anh Trần Hàng th́ an ninh trại bắt nhốt vào chỗ biệt giam trong trại Nam Hà B. Vài ngày sau đó, chúng nó loan tin anh Trần Hàng thắt cổ tự tử. Tin này làm cho tù chính trị chúng tôi, nhất là “anh em chúng tôi trong nhóm radio” nghi ngờ anh Hàng bị chúng nó giết. Một tuần sau nữa, tôi với anh Nguyễn Kim Tây trong một buổi lao động gần trại Nam Hà B, có anh tù h́nh sự cho biết thi thể anh Trần Hàng do anh ta với người bạn chôn cất. Tôi hẹn ngày mai làm ơn chỉ cái mộ anh Hàng, tôi sẽ tặng anh ta 100 gram bột ngọt mà người dân xă hội chủ nghĩa miền Bắc này gọi là “ḿ chính”.
    Hôm sau khi đến chỗ lao động, như lời hứa, sau khi nhận quà của tôi, anh ta đưa tôi với anh Tây xuống khu rừng ngay dưới chân đồi, chỉ cái mộ c̣n rất mới ngay giữa đám cây rậm rạp, nếu anh ta không chỉ chưa chắc chúng tôi t́m được. Có tảng đá xanh khá lớn mà anh ta nói là làm dấu để chỉ cho tù chính trị chúng tôi. Đúng hay không th́ không rơ, nhưng rơ ràng là có tảng đá bên cạnh. Sau đó, anh Lâm Minh Đức cũng bị bắt đưa lên xe, nhưng không rơ chúng nó đưa anh Đức đi đâu.
    Xuất xứ của sự kiện chết người này là bản báo cáo viết tay của tên tù h́nh sự loại trộm cướp, nhưng tụi Công An cho nó núp dưới danh nghĩa “tù chính trị có án”. Hắn tên Chúc, nói là đưa từ trại khác đến trại Nam Hà A này giam chung với tù chính trị chúng tôi. Cứ vài tuần là tên Thắng “chuột” phụ trách An Ninh của trại, chuyển hắn sang buồng giam khác cũng là buồng giam tù chính trị, với lư do “tên Chúc quậy phá quá”. Nhưng đêm thứ bảy th́ tên Chúc này bị chuyển đi trại khác hay đi đâu đó, rồi sáng chủ nhật là chúng nó lục soát khám xét chúng tôi như tường thuật ở đoạn trên. Vậy là tên Chúc do Công An đưa vào các buồng giam chúng tôi để t́m dấu vết cái máy thu thanh, báo cáo cho tụi nó và tụi nó lục soát chúng tôi. Do vậy mà chúng bắt đúng những anh liên quan trực tiếp trong vụ này. Thật ra chúng tôi không hiểu tên Chúc có phải là tù h́nh sự hay tù chính trị có án, hay là một tên Công An trá h́nh dưới tên tù chính trị có án. Nhưng cho dù tên Chúc có là loại ǵ đi nữa, th́ hắn là loại báo cáo thật sự nguy hiểm đối với chúng tôi.
    Anh Lâm Minh Đức, măi mấy năm sau mới được chuyển trở lại trại Nam Hà A. Lúc ấy chúng tôi mới biết anh Đức bị chúng nó đưa lên giam ở trại Thanh Lăng (ngoại ô Hà Nội). Anh Đức cho tôi biết, cứ mỗi lần anh bị thẩm vấn, chúng nó đều hỏi tôi với anh Phạm Kim Qui có liên quan ǵ đến vụ này. Anh Đức một mực trả lời “không liên quan ǵ”. Anh Đức kết luận:
    “Nếu mà em chỉ gật đầu sau câu hỏi của chúng nó, anh với anh Qui bị nó biệt giam tức khắc, và chưa biết chuyện ǵ xảy ra sau đó nữa”.
    Trở lại chuyện nhờ đâu mà cái máy thu thanh thoát khỏi bàn tay vấy máu của mấy tên Công An trong đường tơ kẽ tóc? Dưới đây là tóm tắt những lời của nhiều anh em chúng tôi bàn luận rất sôi nổi, v́ đă có một bạn bị giết chết và ba bạn bị bắt đưa đi thẩm vấn ở trại khác:
    “Các anh theo đạo Thiên Chúa th́ cho rằng, nếu không có ơn Trên ban phước lành, c̣n các anh theo Đạo Phật nói nếu không có Đức Phật độ tŕ, làm sao chúng ta tránh được cái nạn tai hết sức nguy hiểm vừa rồi?
    “Thằng Thịnh khuỳnh có đôi mắt cú vọ với cái đầu gian ác, chắc rằng khi xuống sàn dưới hắn không quên cái hộp nhỏ mà trước khi leo lên sàn gác hắn đă trông thấy. Bây giờ không thấy cái hộp, ắt hẳn hắn phải hiểu có cái ǵ bên trong cái hộp nhưng hắn lờ đi. Chẳng phải hắn thương chúng tôi đâu, mà hắn thương bản thân của hắn đó. Bởi v́ nếu như cái máy thu thanh đó bị Công An Hà Nội tịch thu, hắn phải hiểu là trách nhiệm thuộc về hắn v́ hắn là Trưởng Toán trực trại. Biện pháp kỷ luật một ḿnh hắn lănh đủ, thậm chí có thể ra ṭa nữa”.
    C̣n cái máy thu thanh “sống sót” sau cuộc đại ruồng bố, các bạn trẻ của chúng tôi đă “phân thây” và đem “an táng” biệt tông biệt tích.
    Vài tháng sau đó, anh em chúng tôi được biết, tên quản giáo mua giùm cái may thu thanh đă bị lột áo Công An, tức bị sa thải. Một hôm, hắn thất tha thất thểu vào trại trong giờ trưa, các bạn trẻ gom góp một ít tiền và một bộ đồ (quần tây áo sơ mi) tặng hắn, xem như an ủi hắn hắn về quê sinh sống.
    Phần tôi, sau khi anh Đức bị bắt, tôi ước tính có thể sẽ bị chúng nó bắt, nên viết sẳn hai cái thư và nhờ anh Nguyễn Tài Lâm:
    “Nhờ anh giữ giùm để gởi về vợ tôi. Thư thứ nhất gởi sau khi tôi bị bắt khoảng hai tuần, c̣n thư thứ hai gởi sau thư thứ nhất một tháng. Nhớ gởi “chui” chớ đừng gởi theo kỳ thư sẽ bị lộ th́ nguy. Sau đó tôi sẽ liệu”.
    “Anh linh cảm ǵ mà chuẩn bị vậy?”
    “Trong số các bạn bị bắt, chỉ cần một lời khai có tôi tham gia là chúng nó chộp cổ tôi ngay. Anh thấy đó, anh Đức bị bắt là do lời khai mà”.
    “Anh cẩn thận nghe. Tụi nó mà chộp anh là nguy lắm chớ hổng vừa đâu”.
    “Tôi tin là tụi trực trại với đám an ninh đang theo dơi tôi với anh Qui chớ chưa yên đâu”.
    “Thư anh đề ngày chưa”.
    “Chưa. Khi gởi th́ anh đề ngày giùm tôi. Anh ráng g̣ cho nét con số giống nét chữ viết của tôi nghe. Tuyệt đối không để bạn nào biết nghe anh, kể cả anh Phước”.
    “Anh không lo việc đó, bí mật là nghề của tôi mà”.
    Sau cùng, anh Lâm trả thư lại tôi.
    Trở lại công việc vá đường.
    Sau ngày vợ con tôi rời nơi đây trở về Sài G̣n, Đội chúng tôi vẫn c̣n quanh quẩn gần nhà thăm nuôi do chúng tôi cố ư chậm chạp để c̣n ở quanh đây ngày nào tốt ngày ấy, v́ các bạn tôi có thể gặp được vợ con như tôi vừa gặp. Vẫn là cái nắng đổ lửa, tôi với anh Tây vừa ngưng tay cuốc đá để lau mồ hôi trán, tôi nghe tiếng quen quen:
    “Duy à Duy. Bác Hoa ḱa con”.
    Ngạc nhiên quá. Tôi quay nh́n, nhưng nắng chói chang măi một lúc mới nhận ra chị Trần Kinh Điển. Anh Điển là một trong bốn Thiếu Úy mới tốt nghiệp khóa 5 Thủ Đức, chúng tôi cùng thuyên chuyển đến Tiểu Đoàn 510 Khinh Quân đồn trú ngoại ô tỉnh lỵ Vĩnh Long hồi tháng 2 năm 1955. Tôi nói với anh Tây:
    “Nhà ngươi trông chừng thằng quản giáo giùm ta nghe, chị ngồi trên thềm nhà thăm nuôi là bạn rất thân với vợ chồng ta khi phục vụ Tiểu Đoàn rồi Trung Đoàn đồn trú ở Kon Tum”.
    Tôi cuốc dần sang lề đường bên phía nhà thăm nuôi:
    “Chị Điển. Chị đến hồi nào vậy?”
    “Tôi với thằng Duy đến đây hồi trưa”.
    “Ảnh Điển ở trại nào vậy chị?”
    “Trại B. Anh biết trại B ở đâu không?”
    “Khỏi trại A khoảng vài cây số hà chị. Năm ngoái tôi có gặp anh Chươu (Nguyễn Ngọc Chươu) ở đây, nhưng ảnh chuyển trại khác rồi. Thôi, tôi lại đằng kia v́ tên Công An đang nh́n tôi ḱa. Chào chị”.
    Tôi lại chỗ bếp của anh Nguyện giả vờ uống nước để hi vọng gặp anh Điển, người bạn rất thân. Khi trông thấy anh ấy theo tên Công An hướng dẫn thăm nuôi nhưng không cách nào đến gần được, chỉ vẫy tay vừa chào gặp gỡ vừa chào chia tay, v́ đôi mắt tên vơ trang đang nh́n chúng tôi.
    Những ngày sau đó, Đội chúng tôi chuyển dần ra hướng Ba Sao. Cái hôm cách nhà thăm nuôi khoảng năm trăm thước, hai bên là rừng chồi, bên phải có cái đường mương cạn, sâu khoảng ngang lưng quần, đám cỏ sát đường cao khuất đầu người lại oằn xuống gần như phủ đường mương cạn, rất thuận lợi cho chúng tôi gởi “thư chui”.
    Hôm đó trong số các chị đang thăm thân nhân tù chính trị trong nhà thăm nuôi, không có chị nào mà chúng tôi quen biết, nên chúng tôi sẽ gởi cho bất cứ chị nào ra về. Chúng tôi “dàn trận” như sau: Anh Phụng cuốc sát lề đường bên phía có đường mương cạn. Anh Tây, anh Huế, anh Phước, đứng cuốc hàng ngang che tầm nh́n của tên quản giáo từ nhà của đám Công An phụ trách nhà thăm nuôi. Anh Hậu và ba anh nữa đứng cuốc che tầm nh́n của tên vơ trang từ cái cḥi của h́nh sự phụ trách dọn dẹp nhà thăm nuôi.Các bạn trong Đội c̣n lại, đứng cuốc tản mác trên mặt đường, nhưng cùng quan sát xem có tên Công An nào trên đường đi th́ báo động bằng cách gọi tên tôi là tôi biết.
    Khoảng 10 giờ, có hai chị trên tay xách giỏ rời nhà thăm nuôi đi bộ ra hướng chợ Ba Sao, lúc ấy tôi đang ngồi dưới đường mương cạn:
    “Anh Phụng ơi! Anh đến gần chị mặc áo xanh, nói với Chỉ làm ơn chuyển cái giỏ sang tay phải và đi sát lề đường, tôi sẽ từ dưới đường mương chồm lên để xấp thư đă cột lại cẩn thận, nhờ Chỉ mang về Sài G̣n bỏ thùng thư giùm nghe anh Phụng”.
    “Được rồi, Anh để tôi”.
    Khi Chị ấy ngang vừa tầm tay, tôi vừa để xấp thư vừa nói:
    “Chị làm ơn giúp giùm chúng tôi. Rất cám ơn Chị. Chúc Chị b́nh an”.
    Khỏi chúng tôi một quảng, Chị ấy vừa đi vừa lấy xấp thư nhét sâu bên trong giỏ, và cuối cùng hai Chị khuất dưới dốc đường. Chúng tôi cùng cười v́ vừa thực hiện xong “một đoạn phim cảm giác mạnh”. Anh Cao Văn Phước:
    ”Thằng cha Hoa chơi tṛ ú tim nguy hiểm quá!”
    Anh Đặng Văn Hậu:
    “Ra tù, cử thằng cha Hoa làm đạo diễn phim được à!”
    Thật ra chúng tôi chỉ là những người trong cùng hoàn cảnh, muốn gởi thư về gia đ́nh đế nói những việc ở trại tập trung cũng như bàn đến những việc nhà mà thư gởi chánh thức ngang qua kiểm soát của đám Công An không thể viết được. Đó là một trong những cách mà chúng tôi tùy lúc tùy nơi thực hiện. Mỗi lần như vậy, thường là gởi được vài chục cái thư chớ đâu ít. Chúng tôi vừa làm được việc cho ḿnh, cho bạn, v́ chuyển đạt tin tức về nhà cũng như nhận lại tin tức từ gia đ́nh là nhu cầu hết sức cần thiết đối với chúng tôi.
    Rồi Đội chúng tôi sửa đường ra đến gần ḷ vôi của trại, trên đường ra chợ Ba Sao. Điểm nấu nước của Đội, anh Nguyện chọn cạnh chân núi trên đầu dốc, c̣n nhà h́nh sự làm ḷ vôi ở dưới đầu dốc.
    Ngay ngày thứ nh́, xe của trại từ Phủ Lư trở về và v́ lên dốc nên xe chạy chậm lại, nhờ đó mà anh Nguyễn Bá Hưng (Đại Tá, Bộ Tổng Tham Mưu) trông thấy vợ và con anh ngồi trên xe. Ngược lại, có lẽ chị Hưng thấy có Đội tù đang sửa đường nên nh́n xuống và trông thấy anh Hưng. Thế là tối đến, nhiều bạn viết thư để chiều mai khi chị Hưng đi bộ ra Ba Sao, chúng tôi sẽ t́m cách trao xấp “thư chui” nhờ chị ấy mang về Sài G̣n gởi giùm. Tôi nói với anh Hưng:
    “Sáng mai khi gặp chị, anh dặn chị sau khi thấy Đội đi lao động buổi chiều ngang nhà thăm nuôi một lúc th́ chị với cháu hăy ra về. C̣n anh sau khi thăm buổi sáng th́ buổi chiều nên theo Đội đi làm để t́m cách anh chị gặp nhau tại chỗ làm”.
    “Anh liệu có được không?” Anh Hưng hỏi tôi.
    “Tôi chưa biết bằng cách nào, nhưng tôi cố gắng thuyết phục thằng vơ trang thử xem. Anh cũng nên có tí quà cho nó, như gói thuốc đầu lọc hay thứ ǵ đó gọn gọn một chút để nó cho vào túi, hi vọng là anh chị được gặp nhau. Tôi nghĩ vậy là v́ thằng Hải vơ trang mới đến Đội, nhưng trước đây hắn là một trong hai thằng gởi thư chui của chúng ḿnh đó”.
    Anh Hưng vẫn e ngại: “Ḿnh cần xin thằng Vượng hông anh?”
    “Tôi thấy xin hắn khó lắm. Anh có để ư là khi giao việc cho chúng ḿnh xong, hắn xuống nhà h́nh sự ở ḷ vôi uống trà, mà ở đó không nh́n thấy Đội. Tôi nghĩ, xin thằng vơ trang có thể dễ hơn”.
    Như ước tính, sau khi thằng vơ trang nhận gói thuốc lá đầu lọc do con gái anh Hưng đưa, hắn đồng ư cho anh chị Hưng gặp nhau ở chân núi để tránh những cặp mắt của những tên Công An đi trên đường. Con gái anh Hưng khoảng 10 tuổi, tôi bảo nó:
    “Con đến bới đống tro bên cạnh bếp, lấy xấp thư mang về Sài G̣n gởi giùm các bác các chú nghe con”.
    “Dạ”.
    Con bé nhanh tay cầm xấp thư và đang phủi tro bụi bên ngoài túi ni-lông, tôi nói:
    “Nhanh lên con. Có Công An đang lên dốc ḱa”.
    Trong một động tác thật nhanh, một tay giở cái nón rộng vành lên, tay kia nhét xấp thư lên đầu, vội vàng chụp cái nón xuống. Con bé nhanh chân mà lại nhanh tay nữa. Sau khi anh chị Hưng gặp nhau trong đám cây sát chân núi, chị Hưng và con gái của chị thản nhiên tiếp tục đi bộ ra Ba Sao, đón xe ra Phủ Lư, theo xe lửa lên Hà Nội, sau đó trở về Sài G̣n.
    Sang ngày thứ ba, Đội dời xuống ḷ vôi. Đoạn đường này nhiều lỗ trũng quá. Chúng tôi phải mượn quang gánh để gánh đá dăm từ trong núi ra lấp. Trong giờ giải lao buổi sáng, thằng Vượng quản giáo ngồi trên miệng ḷ vôi:
    “Anh Hoa, lên đây tôi hỏi”.
    Anh Đặng Văn Hậu nói khẽ:
    “Có chuyện đấy. Trông cái mặt nó hầm hầm kia ḱa”.
    Tôi leo lên ḷ vôi. Ḷ đang nun đá thành vôi, sức nóng thoát ra các lỗ thông thoáng rất mạnh, tôi phải tránh né măi mới đến chỗ hắn ngồi:
    “Chào cán bộ”.
    “Hôm nọ anh chống đối lệnh ông Huy (Trại Trưởng Nam Hà A) phải không?”
    “Ông trại trưởng bảo tôi đóng vai trại viên ngồi đọc sách ở pḥng văn hóa, nếu phái đoàn ngoại quốc có hỏi th́ trả lời. Tôi trả lời ông Trại Trưởng là tôi không làm được việc đó, v́ tôi không quen nói dối, mà tôi nói thật th́ trại kỷ luật tôi. Cả hai điều, nói dối theo trại th́ tôi không muốn mà nói theo sự thật th́ trại không muốn, tôi đều không làm được. Lúc ấy ông Huy đập mạnh trên mặt bàn làm b́nh mực văng xuống nền gạch bể ra nhiều miềng, mực văng tung tóe, rồi ổng hét to: “Đi ngay cho khuất mắt tôi”. Ổng liền gọi cán bộ Lực dắt tôi ra Đội đi lao động ngay. Báo cáo cán bộ, chuyện chỉ có thế”.
    “Anh có biết ông Huy làm căng với tôi thế nào không?”
    “Chuyện của tôi sao lại liên quan đến cán bộ?”
    “Ông ấy bảo tôi tại sao cho anh làm Đội Trưởng. Ông Phượng (cán bộ kế hoạch) nói các anh trong Đội tín nhiệm anh. Tôi với ông Phượng nói măi, ông ấy mới im đấy”.
    “Vậy th́ cán bộ cho tôi làm đội viên đi. Ở vị trí Đội Trưởng, tôi thường xuyên đương đầu với những việc phức tạp. Tôi vừa giữ t́nh anh em chúng tôi, vừa giữ cách xử sự giữa chúng tôi với cán bộ, lẫn cán bộ trực trại. Có lúc đau đầu lắm cán bộ”.
    “Anh có thấy một số anh được về sớm là do không bao giờ chống lại lệnh của trại không. Tuy có nhục giữa mấy anh với nhau, nhưng được về sớm. Anh không muốn à?”
    “Tôi không nghĩ như vậy cán bộ. Chúng tôi đă vào tù tập thể, th́ ra tù cũng có tính cách tập thể là tốt nhất. Về riêng lẽ, không phải là điều mà tôi mong đợi”.
    “Anh không thương vợ con anh à?”

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7B / Trại tập trung Nam Hà 2
    P4





    “Thương hay không thương, tôi nghĩ là cán bộ đă nhận biết điều đó khi tôi năn nỉ cán bộ cho tôi gặp vợ con tôi chỉ trong chốc lát. Chính v́ rất nặng t́nh gia đ́nh nên tôi mới vào đây, và tôi nhất quyết, khi ra tù tôi vẫn là tôi chớ không phải là ai khác”.
    “Thôi, bỏ chuyện đó đi. Nói chuyện với anh một lúc tôi muốn nổi nóng lên rồi, huống chi ông Huy là Trại Trưởng. Sang chuyện khác”.
    Bỗng dưng hắn xuống giọng:
    “Chuyện riêng tư thôi. Anh có đồ đăng kư không? Tôi có thể giúp anh rút ra được”.
    “Đang nói chuyện căng thẳng thần kinh, bỗng dưng cán bộ chuyển sang chuyện này làm tôi hơi đột ngột. Vâng, tôi có cái đồng hồ hiệu Longines (Thụy Sĩ), và chiếc nhẫn 1 chỉ. Nếu cán bộ rút được, cán bộ giữ lại cái đồng hồ, tôi chỉ cần chiếc nhẫn thôi”.
    “Để tôi gặp cán bộ đăng kư xem sao”.
    Một tuần sau, hắn đưa tôi chiếc nhẫn. Thật ra th́ cái đồng hồ bị găy cái chốt vặn nên nó lên meo xanh lè mà tôi đă thấy lúc bàn giao khi từ Yên Bái chuyển đến trại này. Nhận lại chiếc nhẫn, tôi rạch một đường nhỏ bên trong cái túi da dùng đựng kem đánh răng, bàn chải, và cạo râu, dùng giấy keo dán chiếc nhẫn dính chặt vào đó, rồi dán lằn rạch đó lại. Tôi chọn ngay cái lằn xếp để đám Công An khó phát giác. C̣n tiền mang lén vào trại, tôi cuộn lại cho vào ṿng tṛn cái hộp sữa bột do Nga sản xuất, có “cái lợi” trên miệng rồi cho sữa bột vào nên có phần yên tâm với “mớ tài sản ch́m” đó.
    Xin nói thêm rằng, việc rút hai món đồ của tôi mà tôi không kư giấy tờ ǵ cả, vậy liệu họ có muốn lấy món ǵ của ai th́ họ có tự ư lấy theo cách như vậy hay không?
    Trong hai tuần lễ sau đó vẫn tiếp tục sửa đoạn đường này, có thêm chị Đặng Văn Hậu và chị Ngô Văn Huế đến thăm hai anh. Vẫn gặp nhau lén lút trên đường trở ra Ba Sao, ngoài buổi thăm chánh thức tại nhà thăm nuôi.
    Chuyện thật t́nh cờ. Buổi chiều, Đội trên đường về trại. Khi gần đến nhà thăm nuôi, một chị lảng vảng bên đường liền sáp vô Đội và thật nhanh khi nhét vào tay anh Nguyễn Quang Chiễu chiếc nhẫn nhờ trao lại một vị linh mục, nhưng anh Chiểu hoảng quá nên buông tay làm chiếc nhẫn rơi xuống đường, v́ anh sợ thằng vơ trang thấy. Tôi nh́n thằng vơ trang đi bên kia lề đường có vẻ như hắn không hay biết ǵ hết, tôi móc khăn tay trong túi áo rồi buông xuống đường như vô t́nh làm rớt. Tôi dừng lại, khom xuống lấy cái khăn và chụp lên chiếc nhẫn mang vào trại đưa cho anh Chiễu. Nhanh tay lẹ mắt thường khi được việc. Có lẽ tôi chưa bị bắt tại trận lần nào nên “chưa sợ lắm” th́ phải.
    Ba tôi đến thăm.
    Từ đầu năm 1981, Đội chúng tôi lại xuống “cánh đồng chiêm”, nhưng thay v́ cuốc đất trồng lúa th́ đánh luống trồng rau muống. Cũng từ thời gian này, mỗi sáng các Đội không phải ra sân ngồi chồm hổm chờ lệnh xuất trại lao động như trước, mà quản giáo vào nhận Đội ngay trong khuôn viên buồng giam ra đến cổng mới báo cáo xuất trại. Nguyên nhân v́ gần đây có những vụ lộn xộn trong lúc ngồi chờ xuất trại, do một số bạn trẻ Đội 20 công khai chống đối trại, đồng thời cũng chống lại những Đội không nghe theo các bạn ấy nữa. Trẻ là vậy mà, chống mà không cần tính toán lúc nào nên lúc nào không nên, và chống đến mức nào dừng lại để tránh biệt giam. Sau đó tất cả các bạn trẻ Đội 20 bị chúng nó chuyển vô trại Nam Hà B, lại đưa ra Trại Mễ ngoài Phủ Lư biệt giam ở đó. (Trong số đó có chú Thành, Thiếu Úy Biệt Động Quân, năm 2006 định cư tại San Antonio, Texas. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau nhắc lại chuyện trong tù, và nói chuyện hôm nay).
    Một sáng, trong khi chờ quản giáo vào nhận xuất trại, con bé Công An tên Hoa đă thay con bé Kim, vào gọi tôi thăm nuôi. Tôi áng chừng Ba tôi ra thăm v́ thư gần đây vợ tôi cho biết là Ba tôi sẽ ra. Con bé này vừa hơn 20 tuổi, mới nhận công tác này vài tuần là có biệt danh “Hoa đanh”. Theo lời thuật của một bạn chứng kiến tại nhà thăm nuôi, chuyện như thế này: “Cô ta hối thúc tù h́nh sự thu xếp nhanh vào trại, bà mẹ của anh ta nài nỉ:
    “Cô cho cháu nán lại ăn xong chén cơm là cháu vào ngay. Lâu lắm cũng độ 10 phút thôi”.
    “Tôi bảo đi vào là đi vào. Hết giờ rồi”.
    “Th́ tôi có nói c̣n giờ hết giờ ǵ đâu, chỉ xin cô cho cháu ăn chén cơm thôi mà”.
    “Tôi bảo vào là vào, không có cơm với nước ǵ cả”.
    Bà già nổi sùng lên, đứng dạng hai chân ra, hai tay chống nạnh, và nghênh chiến:
    “Này. Bà nói cho mà biết. Đanh đá vừa vừa để c̣n kiếm chồng chứ quá quắc cho lắm chẳng có thằng nào nó mó vào đâu, nghe chưa”.
    Thấy bà già “phản công” dữ dội, con bé làm thinh luôn. Nhưng trên đường vào trại, anh tù h́nh sự bị con bé “pháo kích tơi bời” giống như “thua me gở bài cào” vậy. Từ đó, con bé hướng dẫn thăm nuôi được tù chính trị chúng tôi lẫn tù h́nh sự tặng thưởng biệt danh “Hoa đanh (đá)”. Trên đường ra nhà thăm nuôi, tôi hỏi con bé Hoa đanh:
    “Ai thăm tôi vậy cán bộ?”
    “Công An cái” trả lời cộc lốc: “Đến nơi th́ biết”.
    Đúng là con gái xă hội chủ nghĩa miền Bắc ăn nói cụt ngủn, thật khó ưa. Mà nghĩ cho cùng, nếu nó dễ ưa th́ nó đâu phải cộng sản phải không quí vị quí bạn?
    Lên quá đầu dốc, nh́n thấy Ba tôi đứng ở hàng hiên nhà thăm nuôi. Vừa đến cửa là tôi chạy đến ôm Ba tôi:
    “Má khỏe hả Ba?”
    Tiếng con Hoa đanh:
    “Anh làm cái ǵ thế? Tôi chưa cho phép mà. Tất cả vào trong nhà ngay”.
    Đúng là cái đám cộng sản “đực cái như nhau”, dường như chúng nó từ dưới đất chun lên chớ không do cha mẹ chúng nó sanh ra, nên không hiểu thế nào là t́nh cha con mẹ con ǵ hết. Tức lắm, nhưng vẫn phải nghe theo nó. Tôi nắm tay Ba tôi cùng vào. Lại tiếng con Hoa đanh:
    “Các anh được gặp gia đ́nh trong hai tiếng đồng hồ. Nghe rơ chưa?”
    Có vài tiếng trả lời “rơ”. Ba tôi kề tai tôi:
    “Má con khỏe. Má con đ̣i đi theo nhưng Ba hổng cho v́ Má con không khỏe bằng Ba”.
    “Ba đến hồi nào vậy?”
    “Ba theo xe của vợ chồng con bé Năm (bà con cô cậu với tôi) chở gạo từ Sài G̣n ra Hà Nội. Nó đưa Ba đến đây hồi sáng, nhưng v́ nó để tóc dài nên họ không cho gặp con. Nó lên Hà Nội rồi, Ba hẹn địa điểm gặp nó ở Hà Nội chiều ngày mốt. Con coi h́nh thằng Trung với thằng Tín đi, tụi nó tới Houston (Hoa Kỳ) hồi tháng trước (12/1980). Đứa nào đứa nấy cao hơn hai chú nó rồi con”.
    Trung là con thứ nhất (1959) và Tín là con thứ ba (1963) của chúng tôi, nay th́ hai anh em nó cao bằng nhau.
    “Chút nữa Ba quên. Thằng Hùng (1966) vượt biển đến Phi Luật Tân rồi con. Tháng tới (02/1981) có thể nó đến Houston gặp hai anh nó. Kỳ này vợ con không ra thăm con v́ đang lo cho con Vân với thằng Nghĩa vượt biển. Thằng Nghĩa mới 10 tuổi mà nó đ̣i đi theo con Vân (20 tuổi) để qua đó đi học, nên vợ con mới bấm bụng cho nó đi”.
    Tuyết Vân (1961) là con thứ nh́, Hùng là con thứ tư (1966), và Nghĩa (1971) là con út. Vợ chồng tôi có bốn con trai và một con gái. Hai đứa vượt biển đợt 1, một đứa vượt biển đợt 2, và sắp đến đây là hai đứa chót.
    “Lần trước, Con có bảo vợ con thu xếp đi với con Vân và thằng Nghĩa để chăm sóc mấy đứa nó. Thỉnh thoảng gởi quà trực tiếp về con được rồi. Các con của con sang được Hoa Kỳ là con sung sướng lắm Ba. Con rất lo về học hành và tương lai của mấy đứa nó, chớ bản thân con không sao đâu. Tuy con chưa có tin tức ǵ, nhưng con rất tin vào sự can thiệp của Hoa Kỳ, có điều là con chưa suy đoán được sẽ xảy ra vào thời gian nào”.
    “Ba nghe vợ con có tính đi theo con Vân, nhưng lại sợ không ai thăm nuôi con. Ba không chắc lắm, nhưng theo Ba th́ vợ con không đi đâu, v́ sợ con bệnh hoạn không ai lo. C̣n cái việc Mỹ có lănh tụi con hay không th́ ở Sài G̣n, người này nói người kia nói. Ba nghe vậy hay vậy chớ không biết ǵ thêm”.
    “Mấy em con có gởi thư về hông Ba?” Các em tôi là vợ chồng Phạm Thu Nguyệt di tản tháng 4 năm 1975, và vợ chồng Phạm Phi Long với Phạm Bá Sáng vượt biển năm 1976.
    “Có con. Nhưng tụi nó bận bịu với công ăn việc làm, thỉnh thoảng có rảnh nó mới viết thư được”. Ngưng một lúc, Ba tôi nói tiếp:
    “Hồi sáng, xe đậu ngay chỗ lính gác để xuống quà, Ba để cái áo ấm dài tới đầu gối ngay chỗ chú Công An ngồi, vậy mà khi xuống quà xong th́ cái áo biến mất. Ba hỏi chú Công An th́ chú đó nói không thấy. Ba tưởng chỉ có mấy chú tù h́nh sự mới ăn cắp, ai dè Công An c̣n ăn cắp công khai nữa con. Tệ quá. Đúng là quân cộng sản”.
    Tôi nói để Ba tôi vừa đủ nghe:
    “Thức ăn của anh em tù chính trị tụi con để bên ngoài buồng giam, ban đêm cái đám Công An canh gác trại vào ăn cắp dữ lắm Ba. Bởi v́ những thứ đó họ không cho mang vào bên trong buồng giam”.
    Sau đó, Ba tôi kể nhiều gia đ́nh cho con vượt biển, mỗi gia đ́nh có mỗi hoàn cảnh bi đát khác nhau, chung qui chỉ v́ sự cai trị tàn bạo của cộng sản Việt Nam. Trong cùng cư xá Bắc Hải chúng tôi, có một gia đ́nh 5 con cho vượt biển một lần và hoàn toàn biệt tông biệt tích. Năm di ảnh xếp hàng ngang trên bàn thờ! Chuyện kể đang diễn tiến th́ giọng khó ưa của con Hoa đanh:
    “Các anh chuẩn bị vào trại”.
    “Báo cáo cán bộ, tôi muốn xin ra thăm Ba tôi lần nữa được không cán bộ? Mai chủ nhật mà?”
    “Thăm ông cụ chắc được, nhưng tôi phải tŕnh lănh đạo đă. Các anh đi vào”.
    Tại nhà trực trại, phải nộp h́nh nộp thư trước. Xem xong xấp h́nh, Thịnh khuỳnh ch́a ra nụ cười rất đểu:
    “Ăn bơ sữa nhiều nên béo quá hả?”.
    “Ở Mỹ bơ sữa dư dùng mà cán bộ”.
    “Bỏ tổ quốc để bám đuôi Mỹ phải không?”
    “Không phải bỏ tổ quốc đâu cán bộ, con tôi chỉ bỏ nơi cấm học hành thôi cán bộ”.
    “Anh xuyên tạc chế độ đấy hả?”
    “Không phải đâu cán bộ. Tôi chỉ nói sự thật thôi. Bộ Giáo Dục đâu có cho các con chúng tôi vào đại học”.
    “Con các anh thi không đổ chứ nhà nước nào cấm”.
    “Các con chúng tôi bị cấm thi bằng cách xếp loại về thành phần chính trị. Con chúng tôi vào loại 12/13 để ngăn chận vào đại học, dù tất cả các điểm khác rất cao”.
    “Anh định nói xấu Bộ Giáo Dục phải không?”
    “Không phải đâu cán bộ. Dựng chuyện để nói hoặc nói không đúng sự thật mới là nói xấu, c̣n nảy giờ tôi nói thật th́ đâu phải nói xấu cán bộ”.
    Hai chữ cán bộ tôi nói chậm và kéo dài một chút
    “Anh lư sự lắm. Anh nhớ là tôi phụ trách trại này đấy nhé!”
    “Báo cáo cán bộ. Đâu phải ḿnh tôi nhớ, mà tôi nghĩ là cả ngàn tù trong trại này đều biết cán bộ phụ trách trực trại mà cán bộ”.
    Hắn không nói ǵ với tôi nữa, nhưng hắn lục toàn bộ những ǵ mà Ba tôi vừa cho. Có thể nói hắn là tên Công An duy nhất trong đám trực trại là chúng tôi chưa “xỏ mũi” được. Xin hiểu “xỏ mũi” có nghĩa là trong một mức độ nào đó, họ không c̣n hoạnh hẹ chúng tôi như trước nữa.
    Hôm sau tôi được gặp Ba tôi 2 tiếng đồng hồ nữa. Trong ngần ấy thời gian, Ba tôi thuật lại cái chuyện chiều hôm qua Ba tôi xuống khu ḷ vôi tắm, bị một tên tù h́nh sự ở đó chận cửa nhà tắm trong khi hai đứa khác lục soát tất cả túi áo túi quần lấy hết tiền và cái đồng hồ đeo tay. Ngay sau đó, Ba tôi vào ḷ vôi báo cho tên Công An ngồi bên trong. Tên này bảo tên Công An khác đưa Ba tôi về nhà thăm nuôi và hứa sẽ truy t́m những ǵ mà Ba tôi báo là bị trấn lột. Đến sáng nay, Công An chỉ đưa lại Ba tôi cái đồng hồ và 100 đồng. Thôi th́ lấy lại được ngần ấy cũng là may rồi.
    Chiều hôm ấy, Ba tôi lên Hà Nội để về Sài G̣n.
    Bốn vị cựu Tướng đến trại Nam Hà.
    Thời tiết đang vào Đông. Bất ngờ có 4 vị cựu Tướng Lănh từ trại tập trung Hà Tây tỉnh Hà Sơn B́nh chuyển đến trại Nam Hà, nhốt chung với chúng tôi. Đó là Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu Tướng Lư Ṭng Bá, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang. Thiếu Tướng Đảo và Chuẩn Tướng Sang vào buồng giam số 1 (tôi ở đây) c̣n hai vị kia vào buồng giam số 2. Qua tin tức của hai vị Tướng, chúng tôi mới biết 29 vị Tướng Lănh từ Liên Trại 1 ở Yên Bái, đă chuyển xuống trại tập trung Hà Tây cùng ngày với chúng tôi chuyển đến trại Nam Hà này.
    Từ hôm 4 trong số 29 vị cựu Tướng Lănh chuyển đến trại này, lại phát sinh một số thắc mắc từ các bạn tù trẻ. Xin nói qua một chút về các bạn trẻ bị giam chung trong các buồng giam trại Nam Hà A. Đa số trong số các bạn này trong tổ chức “Phục Quốc” sau ngày 30/4/1975. Tổ chức này do bọn t́nh báo cộng sản tạo ra với cái tên có sức thu hút nhiều người không khuất phục kẻ thắng trận. Họ phong cấp bậc chức vụ cho những người ghi tên tham gia, cấp phát thẻ của tổ chức nữa. Sau khi nắm được đầy đủ họ tên và địa chỉ, thế là trong một đêm chúng nó bắt tất cả những ai là thành viên của “Phục Quốc”. Đa số trong số thành viên Phục Quốc bị bắt là các bạn trẻ, như: Nguyễn Minh Chí, Đinh Vượng, Đặng Hữu Nam, Nguyễn văn Tiếng, Nguyễn Văn Thuận, ..v..v... Chính mấy chú trẻ này thắc mắc “tại sao có gần 30 vị cựu Tướng Lănh ở trại Hà Tây mà chỉ có 4 vị lại chuyển về trại này?” Và “liệu mấy vị này có phải đến đây để làm c̣ mồi tiếp các phái đoàn đến thăm trại tù không?”
    Thấy cựu Chuẩn Tướng Sang có vẻ buồn dù vốn dĩ ông là người ít nói, trầm tỉnh, tôi gợi chuyện:
    “Thưa Anh, trong hoàn cảnh chúng ḿnh, nhận thức của vài anh em chưa được sắc bén về một số vấn đề trong cuộc sống, nên thường kết luận khi chưa nắm được những yếu tố liên quan. Anh có thấy như vậy không?”
    Ông chậm răi:
    “Tôi đồng ư với anh. Đánh giá con người mà chỉ nh́n bên ngoài, quả là phiến diện”.
    Lại có một số bạn cho là cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo “ủng hộ” cộng sản khi ông vừa đánh đàn vừa hát cho nhóm quay phim từ Bộ Công An ở Hà Nội đến đây thu h́nh. Tất nhiên chúng nó thu h́nh đoạn phim này để “quảng cáo” về cái gọi là “khoan hồng nhân đạo” của chúng, cho dù chẳng có giấy tờ ǵ nói như vậy nhưng với cộng sản nhất là Công An sử dụng tất cả mọi h́nh thức để phục vụ mục đích chính trị của chúng, Về trường hợp này, nhận xét của tôi có phần khác. Tôi quen biết với anh Đảo từ năm 1962 khi tôi giữ chức Chánh Văn Pḥng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, lúc ấy anh Đảo là Sĩ Quan Tùy Viên của Thiếu Tướng Lê Văn Kim. Anh là người rất say mê âm nhạc. Khi anh đứng trên sân khấu với cây guitare trong tay, trông anh chẳng khác người nghệ sĩ chuyên nghiệp bao nhiêu. Lần sau cùng tôi được thưởng thức tiếng đàn của anh là hôm Sư Đoàn 25 Bộ Binh kỷ niệm ngày thành lập Sư Đoàn tại căn cứ Củ Chi, anh đệm guitare cho ca sĩ Phương Hồng Quế hát. Bây giờ, cũng dáng điệu như vậy ngay trong khuôn viên buồng giam số 1 (trại Nam Hà) dưới ống kính của Bộ Công An, và một vài anh em chỉ trích phong cách của anh như là sự ủng hộ cộng sản, nhưng tôi cho rằng niềm say mê âm thanh nốt nhạc của anh vẫn như lúc nào thôi.
    Một buổi chiều, anh Đảo xách cây đàn ra góc sân lớn gần cổng ra vào trại dạo những khúc nhạc giật gân, khá đông anh em chúng tôi đứng bao quanh, tên trực trại -Trung Sĩ Lực- trông thấy. Hắn chạy vào hét lớn:
    “Các anh giải tán. Vào buồng ngay”.
    Một anh lên tiếng:
    “Anh em chúng tôi chơi một chút mà cán bộ”.
    “Không được. Tôi nói giải tán là giải tán. Anh Đảo về buồng ngay”.
    “Giải tán th́ giải tán chớ có ǵ mà cán bộ la dữ vậy”.
    Hắn trở ra pḥng trực trại, vội vàng đánh kẻng hiệu lệnh bảo tù vào buồng giam khóa lại. Mỗi lần vào buồng giam th́ chúng tôi ngồi hai hàng dọc, hàng đầu ngay thềm cửa và hàng cuối tận tường rào, trông như “bầy vịt” mỗi chiều chủ lùa vào chuồng, chỉ khác một chút là chúng tôi ngồi thẳng hàng ngang dọc. Chiều nay, buồng giam số 1 chúng tôi đóng cửa sau cùng, cho nên ngồi chờ khá lâu. Tên Lực bước vào khuôn viên buồng giam với cái mặt hầm hầm, hai tay chắp sau lưng với xâu ch́a khóa hằng mấy chục cái. Anh Buồng Trưởng chờ nó vào vị trí để báo cáo như thường lệ. Nhưng không, hắn đứng giữa sân một lúc rồi phát lời chửi mắng:
    “Đừng có ương ngạnh mà chống cải tạo, đừng làm cái việc lấy nạng chống trời. Thằng nào, thằng nào không chấp hành nội qui, thằng nào chống cải tạo, giỏi th́ đứng lên coi tao dám gông đầu cho rục xương không”.
    Hắn im lặng nhưng đôi mắt cú vọ của hắn lướt từ trước đến sau rồi từ sau đến trước, và gh́m vào anh Đảo (ngồi gần hàng đầu). Thời gian lúc ấy như đọng lại, và khoảng không gian lúc ấy thật yên ắng, nhưng là cái yên ắng trong nghẹt thở. Hắn gằn giọng:
    “Sao. Không thằng nào dám đứng dậy à? Đứng dậy đi, tao trị cho biết tay”.
    Anh em chúng tôi vẫn im lặng. Cái không khí lắng đọng đó kéo dài thêm một lúc, anh Buồng Trưởng nh́n sang hắn, nhỏ nhẹ:
    “Báo cáo cán bộ, có thể cho anh em vào được không?”
    “Được”.
    Cái cung cách của Công An trại tập trung này ăn nói cụt ngủn vậy đó. Anh Buồng Trưởng Nguyễn Đức Khoái:
    “Các anh đứng dậy đi.”
    Khi chúng tôi đứng dậy, cứ như bài bản mỗi chiều, anh Buồng Trưởng dỏng dạc:
    “Buồng 1… Nghiêm. Báo cáo cán bộ, Buồng 1 tổng số 51. Đủ. Chờ lệnh cán bộ”.
    “Được. Cho vào.”
    “Đằng trước … Bước”.
    Thế rồi sau lưng vẫn tiếng rít của thanh sắt khi kéo mạnh, vẫn tiếng crắc của ống khóa khi bấm vào. Đó là những âm thanh mà chúng tôi không bao giờ quên! Vào buồng giam, tôi nói trống không như để phá tan cái không khí yên ắng một cách ngột ngạt:
    “Các anh ơi! Từ giờ phút này đến sáng mai là chúng ta được tự do trong cái cơi không gian bé tí của ḿnh rồi”.
    Tôi nghĩ: Lúc bị tên Lực quát mắng xỉa xói, anh Đảo nên đứng dậy một cách mạnh mẽ nhận trách nhiệm cho phải lẽ với anh em. Đó cũng là cách chứng tỏ khí khái của vị Tướng quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Có quá lắm th́ tên Lực hằn học chửi mắng anh chớ đâu phải nói gông là gông được.
    Có phải bị mắng bị chửi riết rồi quen chăng? Không! Không bao giờ quên chớ đừng nói ǵ quen quí vị quí bạn à! Cái đau cái uất ức do bị nhục mạ, tuy không hằn lên cơ thể như cái đau khi bị hành hạ bằng tay chân gậy gộc, nhưng nó hằn sâu trong khối óc con tim, mà khi đă hằn vào nơi đó th́ không thể nào quên và cũng không bao giờ quên được!
    Trồng rau.
    Đội chúng tôi xuống “cánh đồng chiêm” phụ trách trồng rau. Cũng anh em chúng tôi đào ao nuôi cá, rồi dùng đất đào lên đấp thành một khu tương đối cao và bằng phẳng để trồng rau. Ngày đi làm hai buổi sáng chiều chớ không đi “thông tầm” từ sáng đến xế chiều mới về. Lúc ấy cũng giữa mùa rau muống nên chúng tôi trồng bằng cọng rau muống chớ không trồng bằng hột, v́ trồng bằng cọng th́ 4 tuần là ăn được trong khi trồng bằng hột phải 6 tuần. Phân bón gồm phân người, nước tiểu, và phân chuồng (trâu ḅ). Mỗi khi cắt rau, gánh về giao cho bếp của Công An và bếp trong trại. Rơ ràng là anh em tù chính trị chúng tôi, ăn những cọng rau lá rau do phân và nước tiểu của chúng tôi mà vươn lên! V́ vậy mà mỗi người chúng tôi tự trồng rau trên bất cứ khoảnh đất trống nào dù chỉ một hai thước rộng mà Công An gọi là đầu thừa đuôi thẹo, và chúng tôi ăn những cọng rau lá rau đó tuy ít nhưng sạch.
    Lúc đầu chúng tôi cũng trồng những thứ rau đang trồng trong luống, nhưng v́ đám Công An biết là những đám rau bé tí do chúng tôi trồng là vệ sinh nên chúng nó xin hoài. Anh Nguyễn Kim Tây xin hột “khổ qua” từ cô em gái của anh để trồng, v́ đám Công An không biết ăn “khổ qua”. Anh cho tôi một nhúm hột, chúng tôi cùng trồng. Đúng là đám Công An không ăn được chất đắng của “khổ qua”, đó là tḥi gian đầu nhưng sau khi ăn thử vài lần, trời đất ơi chúng nó xin hoài và khen “khổ qua” dồn thịt ngon lắm. Chúng tôi phải trồng đằng sau những lùm bụi dọc bờ mương để che giấu chúng nó.
    Hằng ngày Đội chúng tôi đi từ trại trên triền núi xuống cánh đồng chiêm như cái hồ rộng lớn ra đến Ba Sao. Dọc triền núi toàn đá tảng có nhiều hốc kín đáo, làm tôi chợt nhớ đến bài học về “hộp thư chết” trong trường hợp liên lạc bí mật. Thế là tôi bàn với anh Dương Công Liêm về một “hộp thư chết” nối vào tù h́nh sự chuyển ra nhà thăm nuôi nhờ các chị mang về Sài G̣n giùm. Vấn đề là phải móc nối với tù h́nh sự phụ trách vệ sinh nhà thăm nuôi. Vụ này th́ anh Liêm hay lắm. Anh móc nối không khó khăn, nhưng dù sao chúng tôi phải thử một vài lần mới khẳng định “nên hay không nên” thực hiện.
    Do hẹn trước, chú tù h́nh sự (tên Thành) xuống cánh đồng trồng rau, xin cán bộ quản giáo nắm rau ra nhà thăm nuôi ăn. Cũng không phải tốt lành ǵ mà đám quản giáo cho ngay, v́ thỉnh thoảng có được mấy chị thăm nuôi cho món ǵ th́ hắn cũng dâng một ít cho những tên quản giáo, nhất là tên Đại Đội Trưởng vơ trang, v́ tên này có quyền đề nghị với Ban Giám Thị cử h́nh sự dọn dẹp sạch sẽ nhà thăm nuôi, cũng là phục vụ cho toán Công An phụ trách nhà thăm nuôi. Nhờ đó mà tôi với anh ta thỏa thuận những điều kiện về hộp thư chết. Tôi chọn địa điểm rồi chỉ cho anh ta. Cứ mỗi thứ hai và thứ sáu, hắn đến hộp thư chết nhận thư và tiền công. Trường hợp có thư hay tiền mà thân nhân cần hắn trao tận tay, hắn sẽ xuống vườn rau chúng tôi, chỉ cần hắn nháy mắt là tôi với hắn giả bộ như cắt rau. Lúc ấy hắn khom xuống, để tiền hoặc thư lên luống rau. Khi hắn lên triền núi th́ tôi xách thùng nước đến tưới, rồi cho những thứ ấy vào thùng. Khi chuẩn bị về trại, tôi dùng giây quấn những thứ ấy vào ống chân. Cứ thế, tôi theo Đội vào trại.
    Sở dĩ chúng tôi phải nghĩ đến hộp thư chết, v́ chúng tôi thường gởi thư về gia đ́nh nói những chuyện mà không thể nói trong thư gởi chánh thức. Riêng tôi, từ năm 1979, bắt đầu viết vắn tắt những sự kiện xảy ra trong trại dự trù sau này sử dụng, và nhờ đó tôi mới có tài liệu viết lại những trang sách này. Khởi đầu tôi hỏi ư kiến Công An quản giáo Đội tôi tên Hèo, mang thư chúng tôi ra bỏ thùng thư bưu điện cứ mỗi thư chúng tôi trả hắn một đồng khi chiều thứ bảy hắn về thăm nhà. Hắn đồng ư. Hai lần đầu chúng tôi mở thư cho hắn xem, toàn chuyện nhà chớ không liên quan ǵ đến trại để lấy ḷng tin của hắn. Từ đó về sau viết những chuyện mà ḿnh thấy cần viết, riêng những thư của tôi toàn là những chuyện mà đám Công An “cai tù” nơi đây không thể chấp nhận. Mỗi lần trao thư cho tên Hèo, hắn cũng được từ 20 đến 30 đồng với 2 viên đường hóa học, xem như về nghỉ cuối tuần không tốn tiền. Riêng hai viên đường hóa học có lẽ hắn vui ngang bằng số tiền do mang thư đi gởi nữa. Lần đầu tiên nhận được đường hóa học, hắn nói:
    “Tôi đem về làm nước chanh cho bố tôi uống, chỉ bỏ một viên vô ly nước là đủ và bố tôi ngạc nhiên vô cùng. Ông ấy coi như đó là điều kỳ diệu trong xă hội miền Nam”.
    Theo lời hắn nói, lúc đầu bỏ tất cả thư vào một thùng thư không sao, nhưng mấy tuần sau đó, hắn phải bỏ vào 3 hay 4 thùng thư khác nhau v́ hắn nhận thấy có vẻ như nhân viên bưu điện theo dơi. Và rồi đến lúc hắn không dám nhận gởi thư nữa, v́ an ninh của trại nghi ngờ đám Công An của họ mang thư chúng tôi ra ngoài gởi.
    Không biết có phải v́ tên Hèo bị nghi ngờ (theo lời hắn nói) hay không mà tên Phụ đến thay tên Hèo. Tôi lại phải ướm thử với hắn về việc mang thư chúng tôi ra bưu điện gởi, với giá tiền công cho hắn là một đồng/một cái như đă trả cho tên Hèo. Hắn đồng ư. Bốn tuần qua, cứ tưởng là công việc lén lút gởi thư đâu vào đó, nào ngờ trong nhóm gởi thư chui của chúng tôi t́nh cờ trông thấy một xấp thư trong cái ụ chứa phân người mà họ gọi là “phân bắc” dưới triền đồi. Cái ụ này dành cho các Đội trồng rau khiêng xuống cánh đồng chăm bón rau xanh. Cố gắng bươi cái đống … ghê tởm hôi thúi mùi “phân bón xă hội chủ nghĩa ưu việt” ấy ra có thêm mấy cái xem được những ḍng chữ trên bao thư. Trời đất ơi! Toàn là thư của chúng tôi gởi tên Phụ tuần trước. Đúng là tên trấn lột! Từ đó, chúng tôi trừng phạt hắn bằng cách không cho hắn thuốc lá với trà uống mỗi sáng nữa, và nghĩ cách khác để gởi thư.
    Bỗng dưng tôi nhớ đến bài học t́nh báo dạy về cách sử dụng “hộp thư chết”. Thế là tôi ứng dụng nó mà khởi đầu là anh Liêm liên lạc “móc nối” với chú tù h́nh sự như nói trên. Nhưng sự việc cũng nhiêu khê lắm quí vị quí bạn à! Lúc này tất cả anh em chúng tôi chuyển từ các trại tập trung ở Yên Bái đến đây, đều đi lao động bên ngoài trại và làm “thông tầm”. Họ dùng chữ “thông tầm” để chỉ cho thời gian đi lao động từ sáng đến chiều mới về, mang phần ăn trưa theo ăn tại chỗ. Việc đầu tiên phải làm là tôi t́m cách liên lạc với tù h́nh sự phụ trách dọn dẹp nhà thăm nuôi, cách trại khoảng hơn 1 cây số. Nhà thăm nuôi cất đơn sơ bên cạnh triền núi, sát con đường trải đá từ trại tập trung này ra đến chợ Ba Sao. Từ Ba Sao, cũng theo con đường trải đá ra đến thị xă Phủ Lư. Anh bạn trẻ tù h́nh sự phụ trách dọn dẹp nhà thăm nuôi cũng ở trong trại với chúng tôi nhưng bên khu h́nh sự. Tiếp xúc và thỏa thuận giá 1 đồng cho mỗi cái thư và 2 đồng cho mỗi cái hộp.
    “Hộp thư chết” mà tôi chọn là một tảng đá lớn có nhiều tảng đá nhỏ chung quanh, trong đó có cái hộc đủ cho hai bàn tay chụm lại đưa vào. Chính cái hộc này là “hộp thư chết”, cạnh lối đi quanh co khúc khuỷu từ trên trại theo triền đồi xuống khu trồng rau dưới thung lũng. Cách trại chừng 200 thước, và cách lối đi khoảng vài thước rất tiện để tôi tách ra khỏi Đội và nhanh tay cho thư vào đó. Thông thường th́ anh Nguyễn Thế Lưỡng giúp canh chừng hai tên Công An đi đằng sau mỗi khi tôi vào “hộp thư chết” để nhận thư hay gởi thư.
    Một hôm tới ngày hẹn anh tù h́nh sự lấy thư v́ tại nhà thăm nuôi đang có vợ của anh Vĩnh Thái thăm anh ấy, lại là ngày nhiệt độ xuống đến 10 độ C nên trại cho nghỉ và sẽ đi làm bù vào ngày khác. Lúc ấy trong tay tôi có 18 cái thư. Quưnh quá. Tôi rũ anh Lưỡng (bạn cùng khóa 5 Thủ Đức với tôi):
    “Lưỡng ơi! Tôi với anh thay thế hai anh vệ sinh của buồng (giam) khiêng rác xuống đồi đổ, v́ trưa nay thằng h́nh sự đến hộp thư chết lấy thư đem ra cho chị Vĩnh Thái. Mấy anh trực vệ sinh đồng ư rồi”.
    “Ớn quá Anh! Nó bắt được tụi ḿnh bị kỹ luật là cái chắc”.
    “Nếu bị bắt, tôi nhận hết và xem như anh không biết ǵ cả. Hai đứa khiêng, anh đi trước tôi đi sau. Anh cứ tỉnh bơ, c̣n mọi việc tôi sẽ tùy cơ ứng biến. Ráng b́nh tỉnh nghe Lưỡng”.
    Thế rồi chúng tôi khiêng thùng rác lên vai, đứng lại một lúc để anh Lưỡng b́nh tỉnh trước khi chường mặt ra cổng. Đến cổng, dừng lại, trong khi anh Dương Công Liêm đứng nép sát bên trong cổng, ngay đầu hành lang vào buồng 1 buồng 2 quan sát t́nh h́nh. Theo đúng qui định, tôi báo cáo:
    “Báo cáo cán bộ, buồng 4 xin ra cổng đổ rác”.
    “Trực buồng đâu mà hai anh khiêng rác?”
    Hắn quen mặt hai anh trực buồng 4 phụ trách đổ rác, nhưng nghe giọng hắn không có vẻ nghi ngờ, tôi cười cười:
    “Báo cáo cán bộ, chiều qua tôi để quên cái muỗng kim khí dưới băi, xin cán bộ cho ra để t́m v́ tôi chỉ có cái muỗng duy nhất thôi cán bộ”.
    Làm thinh một lúc:
    “Được. Anh ra đi. T́m được là về ngay”.
    “Cám ơn cán bộ”.
    Chúng tôi đi thật nhanh. Anh Lưỡng nói:
    “Anh làm tôi hồi hộp quá trời!”
    Xong việc. Trở lên đến cổng, tôi móc từ trong lưng quần ra cái muỗng mang theo lúc chuẩn bị ra cổng:
    “Báo cáo cán bộ. Xong công tác, và tôi t́m được cái muỗng rồi. Cám ơn cán bộ”.
    Được. Vào đi”.
    Thế là xong một “phi vụ” cho hộp thư chết. Nhưng rồi một hôm, anh Liêm hoảng hốt khi hay tin tên h́nh sự phụ trách dọn dẹp ở nhà thăm nuôi sắp bị tên Thụ, Đại Đội Trưởng Đại Đội Vơ Trang thay thế. Chúng tôi bàn nhau và cuối cùng anh Liêm trách nhiệm ḍ t́m để biết tên h́nh sự nào được tên Thụ cử ra đó, rồi tùy cơ ứng biến. Hóa ra có đến hai tên h́nh sự mà tên Thụ đang chọn. Anh Liêm móc nối được anh h́nh sự mặt mày tương đối dễ cảm. Hắn yêu cầu cho hắn 200 đồng, để hắn vừa tổ chức bữa nhậu đăi Đại Úy Thụ, vừa “lót tay” anh ta 100 đồng, hi vọng sẽ được chọn. Anh Liêm vừa có ư kiến cũng vừa hỏi tôi:
    “Anh Hoa, tôi thấy ḿnh nên cho hắn. Nhưng anh có nghĩ là liệu thằng quỷ đó (thằng h́nh sự) có gạt ḿnh không?”
    “Có chớ anh. Nhưng hành động nào mang lại lợi ích cho ḿnh cũng có cái giá của nó mà anh. Có điều nếu chúng ta bị nó gạt, coi như cái giá đó đắt hơn ḿnh nghĩ. Thế thôi”.
    “Anh 100 tôi 100 nhé! Nhiều anh em gởi thư nhưng tạo đường giây chỉ có tôi với anh. Chẳng sao, miễn đường giây chuyển thư an toàn là được rồi, chớ so đo quá e ḿnh không tiếp tục được mục đích chuyển tin tức về gia đ́nh như những cơ hội trong hai năm qua”.
    Số tiền 100 đồng là khá nặng, nhưng tôi đồng ư với anh Liêm:
    “Được, mặc dù tôi phải vét hết số tiền đang có. Nghĩ cho cùng, tôi với anh là gởi nhiều thư hơn bất cứ bạn nào khác. Riêng tôi mỗi tuần ít nhất là một hộp đựng thư”.
    Ngày anh tù h́nh sự nhận việc ở nhà thăm nuôi, anh ta xuống vườn rau gặp tôi để xin rau cho toán Công An phụ trách thăm nuôi, tôi với anh ta thỏa thuận những vấn đề liên quan đến nhân thư, chuyển thư, chuyển tiền, và giá của mỗi “loại hàng dịch vụ” này. Tuy vậy, chúng tôi cũng đề pḥng bằng cách trong hai kỳ thư đầu tiên, mỗi kỳ chỉ 5 thư xoay quanh những chuyện gia đ́nh, để xem anh ta như thế nào rồi quyết định. Dù sao th́ chúng tôi vẫn phải đề pḥng v́ chung quanh anh ta toàn là Công An, trong khi chúng tôi chỉ biết anh ta một cách khái quát về mặt nổi chớ có biết ǵ về lư lịch anh ta đâu. Nói chung là không thể tin Công An và tù h́nh sự được, v́ họ đều là công dân xă hội chủ nghĩa mấy chục năm rồi.
    Nhưng rồi công việc chuyển thư ra nhà thăm nuôi cũng như chuyển thư và tiền vào trại cho nhóm chúng tôi, tốt đẹp.

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7C / Trại tập trung Nam Hà 3



    Nấu ăn.

    Cuối năm 1981, sau thời gian khá dài, những vật dụng của chúng tôi bị bắt buộc để bên ngoài buồng giam bị mất cắp càng lúc càng nhiều vào ban đêm, nhất là thức ăn do gia đ́nh mang đến khi thăm nuôi, tất cả Đội Trưởng chúng tôi cùng đề nghị Ban Giám Thị trại giải quyết t́nh trạng này, v́ ban đêm không một tù chính trị lẫn tù h́nh sự nào ở ngoài buồng giam cả. Chúng tôi không nói ra, nhưng điều đó có nghĩa là chúng tôi muốn nói “Công An canh gác và tuần tra trong khuôn viên trại” là kẻ cắp chớ không ai khác. Chỉ có buồng giam 15 và 16 v́ không có “nhà ăn” bên ngoài nên tất cả đồ đạc lỉnh kỉnh đều để trong buồng giam, c̣n các buồng giam có nhà ăn phải để đồ đạc bên ngoài.
    Trại tổ chức buổi họp với tất cả Đội Trưởng tù chính trị chúng tôi. Thảo luận một lúc, họ chấp nhận cho chúng tôi mỗi chiều đem vào buồng giam những ǵ mà chúng tôi thấy cần, và mỗi sáng phải đem ra ngoài ngay khi cửa buồng giam mở. Đồ đạc đem vào để ở lối đi giữa hai sạp nằm. Thấy được một bước, chúng tôi đề nghị cho tù chính trị chúng tôi được nấu ăn trong khuôn viên buồng giam để có thêm dinh dưỡng. Thế nhưng chúng tôi rất ngạc nhiên là họ chấp nhận đề nghị của chúng tôi ngay. Rất có thể họ đă có quyết định về việc này để họ khỏi mang tiếng với thế giới là họ bắt chúng tôi vào tù mà không nuôi ăn cũng nên? Họ nói thêm:
    “Khi lao động về, các anh được mang theo bó củi nhỏ vào ngày thứ ba và thứ sáu, nhưng cả Đội phải cột lại hai bó thôi. Bếp làm sát hàng rào phía sau khuôn viên buồng”.
    Thế là chúng tôi sắm nồi niêu tô chén bằng cách xin gia đ́nh mang theo khi đến thăm nuôi hoặc gởi các chị bạn mang giúp. Cái bếp là dễ nhất, chỉ cần mấy cục gạch là xong. Củi th́ lượm ở khu trồng rau mang về, hoặc mua lại của những bạn mang vào trại vừa sử dụng vừa bán. Lệnh của họ bắt phải cột lại thành hai bó, nhưng những tên Công An -ngoại trừ tên Thịnh khuỳnh- cũng nương tay, nên mỗi người chúng tôi cũng mang vào được một bó nhỏ. Từ lúc ấy, nhiều anh em chúng tôi trong các Đội trồng rau cũng như trong các Đội làm gần đó “ăn cắp rau” nhiều hơn. Ăn cắp th́ không khó v́ là bạn cả, nhưng đem được rau vào trại mới thật sự là khó. Ấy vậy mà rau vào trại ”bất hợp pháp” ngày càng nhiều thêm.
    Đây là cái hoạt cảnh “chuyên chở rau” vào trại mà tôi là điển h́nh vào những tuần lễ đầu tiên, lúc ấy rau chúng tôi trồng chưa ăn được, nên phải sang Đội bên cạnh xin hoặc “ăn cắp”. Rau muống hoặc cải xanh tùy mùa. Xin lỗi quí vị quí bạn dùng tay che mắt lại cho tôi cởi cái quần dài ra, tôi dùng sợi giây quấn ṿng quanh bắp chân lên đến bắp vế. Sau khi mối cuối cùng cột lại cho chặt, tay trái nong sợi giây ra rồi ghim những cọng rau vào. Cứ lần lượt như vậy cho đến khi những cọng rau nằm im hai bên ống chân từ trên xuống dưới, tôi mặc cái quần dài vào là xong. Bây giờ quí vị quí bạn buông tay ra được rồi. Thế là tôi thản nhiên vào trại. Nói vậy chớ thật ra có hôm bị đám trực trại xét cũng phập phồng lắm, tuy không phải lúc nào họ cũng khám xét trên người. Các bạn tù trẻ c̣n ghim những cọng rau vào phần ngực và bụng để có được nhiều thêm chút ít.
    Tôi nói “họ nương tay” cũng không phải đơn thuần như vậy đâu quí vị quí bạn à! Thật ra là ngay sau cái lệnh cho anh em chúng tôi nấu ăn thêm, từng bước, anh em chúng tôi tùy khả năng mỗi người, “mua chuộc” đám trực trại với quản giáo và vơ trang bằng những tách cà phê, thuốc lá đầu lọc, bột ngọt, ḿ gói, nhất là thuốc tây trị bệnh. Thuốc tây th́ anh Phạm Kim Qui (Đại Tá Phụ Tá Tư Pháp tại bộ tư lệnh Cảnh Sát) nhiều nhất v́ vợ anh gởi về từ Paris.
    Cạnh khu vực trồng rau có hai cái mương vừa lớn vừa dài do đất đào lên đấp thành khu trồng rau. Thường ngày có những cậu bé từ chợ Ba Sao vào, hoặc những tên quản giáo với vơ trang đến đây câu rê. Nhờ đó mà thỉnh thoảng tôi mua được cá lóc. Chúng tôi gọi là cá lóc nhưng người dân địa phương gọi là “cá trào” hay “cá trèo đồi”. Mỗi khi mua được cá, tôi làm sạch để nguyên con cho vào cái gà-mèn tṛn, cùng với rau muống, muối, bột ngọt đem theo, treo cạnh thùng nước đang nấu trên bếp của anh Nguyện. Khoảng 30 phút sau là tôi có gà-mèn canh. Thế là giờ giải lao giữa buổi, tôi với anh Nguyễn Kim Tây có bữa ăn thật ngon.
    Do được nấu ăn mà họ gọi là “bồi dưỡng” mà sức khỏe tù chính trị chúng tôi, nh́n chung, có phần khá hơn những năm trước đó. Nhớ lại những năm 1977-1980 mà hăi hùng! Rất nhiều bạn đă chết do thiếu dinh dưỡng. Trong những năm đó, chỉ riêng trong buồng giam số 1 chúng tôi có thể chia thành ba nhóm về phong cách ăn uống: Nhóm thứ nhất, có bao nhiêu cứ ăn hết bấy nhiêu cho cái bao tử dễ chịu một chút. Nhóm thứ hai, vừa ăn vừa dành dụm cho những ngày kế tiếp. Nhóm thứ ba, ăn theo kiểu “sương rơi mùa hạ” mà điển h́nh là ăn đường cát. Mỗi ba tháng lănh được 100 gram đường cát. Vài bạn trong nhóm này dùng cây tăm xỉa răng hoặc bẻ nhánh cây chuốt nhỏ lại như cây tăm, để vào lưỡi cho đầu cây tăm thấm ướt, cho vào đường cát dính ở đầu cây tăm trên dưới 10 hột đường, cho vào miệng nhâm nhi thưởng thức cái chất ngọt trôi chầm chậm vào cơ thể. Và cứ thưởng thức như vậy cho đến hết 100 gram đường, tương tự như lúc ăn bo-bo bằng cây tăm vậy.
    Niềm vui cao nhất.
    Tôi thấy cần giải thích ngay kẻo quí vị quí bạn tưởng là tôi được ra khỏi trại tập trung này. Niềm vui đó là cuối tháng 5 năm 1981, vợ tôi báo tin vắn tắt rằng hai con chúng tôi -Phạm Tuyết Vân 20 tuổi, và Phạm Bá Nghĩa 10 tuổi- sau hai ngày vượt biển đă được thương thuyền ngoại quốc vớt đưa đến Singapore b́nh an. Hai ngày sau nữa, vợ tôi nhận được điện tín xác nhận tin đó. Tôi nói với anh Nguyễn Kim Tây:
    “Tây ơi Tây. Nhà ngươi có nhớ hồi năm ngoái vợ ta ra thăm có dắt theo con gái với thằng trai út không?”
    “Có. Tuyết Vân với thằng nhóc đ̣i uống nước đá chớ ǵ”.
    “Đúng. Bây giờ hai con ta tới trại tị nạn Singapore rồi nhà ngươi”.
    “Nhà ngươi được thư của Chị rồi hả?”
    “Anh Lê Viết Mười vừa được Chị ấy đến thăm, có mang theo thư ngắn và quà của vợ ta”.
    “Vợ nhà ngươi can đảm thiệt. Cho tụi nhỏ đi từng đợt và tất cả đến nơi b́nh an. Đâu phải gia đ́nh nào cũng có cái may mắn tṛn vẹn ấy. C̣n thằng ở trại tị nạn Phi Luật Tân đến Mỹ chưa?”
    “Nó đến Houston hồi tháng 3 (1981) ở chung với hai anh nó. Ta quên nói với nhà ngươi”.
    “Vậy là nhà ngươi ăn mừng chớ?”
    “Tất nhiên. Ngay tối nay. Ḿnh ăn bánh uống trà với cà phê trong gói quà mà anh Mười vừa mang vào giùm chiều nay”.
    Tháng sau đó, tôi nhận được thư của vợ tôi do chị Nguyễn Tài Lâm mang ra và chui qua chú tù h́nh sự vào “hộp thư chết”. Trong đó có thư của con gái tôi thuật lại rằng:
    “Bác Trại Trưởng và một bác nữa nói là bạn cũ của Ba. Hai bác trợ giúp tụi con về thủ tục giấy tờ nhanh chóng lắm nên Con hi vọng sang Hoa Kỳ sớm”.
    Con tôi không nói tên hai bạn ấy, có lẽ nó sợ cộng sản kiểm soát thư v́ thư gởi về Sài G̣n, trước khi đến tôi. Cuối năm 2007, khi viết đến đoạn này, tôi có hỏi con gái tôi (năm nay 46 tuổi) về tên của hai anh bạn giúp nó hồi năm 1981, nhưng con tôi chỉ nhớ như tôi đang nhớ. V́ vậy, tôi nhờ những ḍng chữ này chuyên chở lời cám ơn chân thành của vợ chồng tôi đến hai bạn ấy, cùng tất cả những bạn nào đă giúp đỡ các con chúng tôi lúc chạy nạn cộng sản, trong khi tôi bị nhốt trong trại tập trung mà cộng sản gọi là trại cải tạo.
    Nhóm chữ “chạy nạn cộng sản” dường như chưa phơi bày hết tính chất độc tài tàn bạo của cộng sản nói chung, và cộng sản Việt Nam nói riêng, có lẽ phải dùng nhóm chữ “cộng sản là thảm họa của nhân loại” mới đúng. Nói ngắn gọn là “thảm họa cộng sản”. Trong tập nhật kư Rồng Rắn của ông Trần Độ, cựu Trung Tướng cộng sản viết trong năm 2000 và 2001. Ông nêu rất nhiều câu hỏi với chính ông liên quan đến chủ nghĩa xă hội mà lănh đạo của ông tự tôn vinh là ưu việt, nhưng sau 25 năm xây dựng chủ nghĩa xă hội mà người dân ngày càng kiệt quệ, xă hội ngày càng suy đồi? Và ông nêu câu hỏi với lănh đạo của ông:
    “Tại sao chỉ có từ các nước xă hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ Việt Nam, có đến hằng mấy triệu người bất kể hiểm nguy sống chết trốn chạy t́m đường sống ở các nước khác?
    V́ là thảm họa của nhân loại, nên quốc gia nào bị cộng sản cai trị th́ y như rằng, các thành phần trong xă hội đều t́m mọi phương cách chạy trốn. Dĩ nhiên không phải muốn chạy là chạy được v́ nhiều yếu tố liên quan, chẳng hạn như: Ḷng can đảm chấp nhận hiểm nguy bất trắc với mức độ rất cao của người quyết tâm ra đi cũng như của người thân c̣n lại, tiền bạc, âm thầm t́m tổ chức đưa người vượt thoát, phương cách vượt thoát từ nhà đến địa điểm hẹn mà tránh bị Công An ŕnh rập bắt bỏ tù, thậm chí bị chúng bắn chết tại chỗ, người c̣n lại phải có cách đối phó với đám Công An địa phương, ..v..v...
    Đầu tháng 09/1981, sau hơn 3 tháng ở trại tị nạn trên đảo quốc Singapore, hai con tôi đến Houston. Thế là các con chúng tôi: Tháng 4 năm 1980 hai con trai vượt biển đến Thái Lan, tháng 10 cùng năm một con trai vượt biển đến Phi Luật Tân, tháng 05/1981 một con gái và một con trai vượt biển đến Singapore, tất cả các con chúng tôi -bốn trai và 1 gái- cùng đến Houston, với sự giúp đỡ của các em tôi là vợ chồng Phạm Phi Long, vợ chồng Phạm Thu Nguyệt, và em út Phạm Bá Sáng, định cư tại đây từ những năm trước đó. Bốn đứa con lớn, vừa đi học vừa đi làm, đứa nhỏ nhất học tiểu học.
    Với nỗi vui mừng tột độ đó, tôi viết trang thư gởi “chui qua hộp thư chết” ra nhà thăm nuôi, nhờ mang về Sài G̣n để vợ tôi gởi sang Hoa Kỳ cho các con tôi. Nội dung gồm những lời khen tặng vợ tôi, cũng là vừa khen vừa khuyến khích các con tôi bắt đầu hành tŕnh “xây dựng tương lai”. Sau khi đọc đi đọc lại mấy lần, tôi nắn nót từ trang thư thành “trang thơ tự do”, với tựa “Dù Thế Nào Anh Vẫn Nhận Ra Em”:
    Vào một ngày nắng hạ
    một chín bảy lăm (1975)
    Anh phải đi “học tập”
    Em ở lại cùng con
    Một ṿng tay, hai nụ hôn từ giă
    Em đứng nh́n, đôi mắt đỏ long lanh
    Em nghẹn ngào:
    bởi v́ đâu, hai đứa phải chia tay Anh hởi?
    liệu cuộc đời, bước ngoặc có xa không?
    Anh nói khẽ:
    hoàn cảnh ḿnh, ai biết được ngày mai
    ta hẳn biết, sẽ sum vầy sau ba mươi ngày xa vắng! (1)

    ***
    Nhưng
    chẳng phải ba mươi ngày
    cũng chẳng phải ba năm (2)
    mà là một trăm bốn mươi bảy tuần trăng tṛn khuyết (3)
    Đó là thời gian
    cũng là cuộc sống
    Cuộc sống ấy, với biết bao gian khổ
    Bủa vây Em, mà Em phải xông pha
    Là vợ người chiến sĩ
    hai mươi năm dài binh nghiệp (4)
    tích lũy dần, đức tính đảm đương
    Bằng t́nh yêu Chồng, và t́nh Mẹ thương Con
    Em chấp nhận cuộc đời
    dẩm lên mà bước
    đạp xuống mà đi
    và Em đi thật vững
    Với Anh
    dù ngàn dặm xa xôi cách trở
    dù nắng hạ oi nồng
    dù rét buốt mùa đông
    Em vẫn đến thăm chồng
    bằng tất cả tâm hồn trong sáng ấy
    Với Con
    dù trên lằn ranh tù ngục
    dù trên lằn biên sống chết
    dù ray rứt tâm tư
    bởi t́nh thương người Mẹ
    Nhưng
    v́ tương lai con trẻ
    Em tập trung nghị lực
    vẫn lệ nḥa, khi tiễn các Con đi

    ***
    Các Con này
    đường tương lai trước mắt
    Phải trau dồi Kiến Thức
    Đạo Đức phải vun bồi
    Và giũa mài Nghị Lực
    phải vững vàng, bước tiếp nghe Con
    Đừng ngập ngừng, khi vấp ngă
    Hăy đứng lên, kịp bước với bạn hiền
    Thành công nào, cũng trả giá nghe Con
    Và chính đó, mới vẹn tṛn ư nghĩa
    Ráng nghe Con
    đừng phụ Mẹ Ba
    với Ông Bà Cô Chú Cậu D́
    ***
    Em
    Mười hai năm qua
    Em đă lớn biết bao
    lớn bởi cách nh́n
    lớn do cách nghĩ
    lớn về tầm cao nghị lực
    và lớn về chiều sâu tâm hồn
    Ôi!
    Nỗi cô đơn, những năm dài cách biệt
    T́nh yêu chồng
    Em đong bằng nước mắt!
    T́nh thương Con
    Em nhỏ lệ cánh thư dài!
    Giờ đây
    một ṿng tay, hai nụ hôn đoàn tụ
    nói ǵ đây, Anh biết nói ǵ đây
    Anh chỉ nói được rằng:
    Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em
    bởi Em, có một t́nh yêu đầy đặn với Chồng
    bởi Em, có một thương dào dạt với Con
    bởi Em, có một t́nh quyến thuộc họ hàng
    và bởi Em, có một t́nh người với bạn
    Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em
    bởi Em, là nửa phần hơi thở của hồn Anh
    bởi Em, là nửa phần con tim Anh đang nhịp
    và bởi Em, là nửa phần cuộc sống của riêng Anh
    Dù thế nào, Anh vẫn nhận ra Em
    bởi Em là Người Vợ
    Người Yêu
    Người Bạn Đời măi măi của riêng Anh
    Dù thế nào Anh vẫn nhận ra Em
    để hôn Em, với những nụ hôn dài
    và hôn Em, với những nụ hôn dài …
    (1) Tại Sài G̣n, thông cáo của cộng sản bảo chuẩn bị học tập 30 ngày.
    (2) Tại trại Tam Hiệp, cộng sản nói chính sách cải tạo 3 năm.
    (3) 147 tháng, hay là 12 năm 3 tháng trong các trại tập trung.
    (4) 21 năm trong quân ngũ.

    Thưa quí vị quí bạn,
    Bài thơ này khi ra trại tập trung về Sài G̣n hồi tháng 9 năm 1987, tôi cập nhật thời gian cho thích hợp. Cũng xin giải thích thêm về nỗi vui mừng của tôi. Trong những năm 1960, vợ chồng tôi bắt đầu một kế hoạch dành dụm cho con trai lớn du học sau khi xong bậc trung học. V́ đến lúc ấy, chúng tôi chỉ có khả năng thế thôi, trong khi hi vọng con tôi sau khi thành đạt có thể đùm bọc các em nó. Giờ đây, dù muốn hay không muốn, rơ ràng là trong cái “nguy” v́ chế độ tự do sụp đổ, lại có cái “cơ” hội. V́ không thể sống nỗi dưới chế độ độc tài tàn bạo của cộng sản, ngay đến cái đơn xin vào làm tiệm giặt ủi cũng không được chấp nhận v́ là con của “Đại Tá ngụy”, nên các con tôi phải vượt biển t́m tự do, và an toàn đến vùng đất tự do xa quê hương đến nửa ṿng trái đất. Vậy là tất cả các con chúng tôi được “du học tại chỗ” trên đất nước có nền giáo dục khoa học kỹ thuật được xếp vào bậc nhất thế giới. Khi biết được “thư chui” của tôi đă đến tay một chị bạn và chị ấy đă rời nhà thăm nuôi để về Sài G̣n, tôi mỉm cười khi nghĩ rằng:
    “Nếu tôi có chết trong trại tập trung của cộng sản, tôi vẫn giữ nụ cười khi nhắm mắt”, v́ các con chúng tôi có được tương lai, mà tương lai của các con chúng tôi chính là cuộc sống là hạnh phúc của vợ chồng tôi.
    Trại Nam Hà giai đoạn 1982-1987.
    Tết Nguyên Đán đầu năm 1982 là Tết thứ tư tại trại Nam Hà này. Từ cái bánh chưn kha khá, nhỏ dần xuống, rồi đến nhỏ xíu. Tết năm nay cái bánh chưn biến mất, thay vào đó là chén cơm nếp với 5 điếu thuốc lá đen. Nếu như không được gia đ́nh tiếp tế th́ tù chính trị chúng tôi sẽ là “những bộ xương cách trí” như tù h́nh sự thôi. Dưới chế độ cộng sản, từ quận/huyện tỉnh/ thành phố, đặc khu, biệt khu, đều có nhà tù, cộng thêm hằng loạt nhà tù trực thuộc trung ương nữa. Bởi dưới chế độ này, mọi người dân đều có tội với nhà nước v́ mỗi người không tội này cũng là tội khác, ngay cả ư kiến khác với nhà nước đă là có tội rồi. Trong xă hội xă hội chủ nghĩa Việt Nam, người dân không được nói những điều cộng sản cấm nói mà phải nói những ǵ cộng sản bảo nói, người dân không được thấy những ǵ cộng sản cấm thấy những phải thấy những ǵ cộng sản bắt thấy, người dân không được nghe những ǵ cộng sản cấm nghe nhưng phải nghe những ǵ cộng sản bắt nghe. V́ vậy mà nhà tù trên toàn cơi Việt Nam nhiều vô kể.
    T́nh h́nh kinh tế xă hội chủ nghĩa của họ suy sụp dần. Đầu năm 1979, họ bắt đầu cho gia đ́nh đến thăm và mang theo lương thực thực phẩm nuôi tù chính trị. Nhờ vậy mà t́nh trạng sức khỏe của anh em tù chính trị chúng tôi, nh́n chung là tốt, và “cái tốt” này lại là điều để họ khoe với các phái đoàn ngoại quốc đến thăm, chứng tỏ cho thế giới bên ngoài thấy cái mà họ gọi là chính sách nhân đạo đối với tù chính trị không có điều ǵ chỉ trích cả. Cái bản chất gian trá của họ dễ dàng nhận thấy trong các trại tập trung.
    Có lẽ do đời sống ngày càng suy kém của người dân nói chung, và của đám Công An “cai tù” nơi đây nói riêng, mà gần đây anh em chúng tôi mua chuộc được đám Công An trực trại với đám Công An quản giáo và vơ trang, ngoại trừ tên “Thịnh khuỳnh” và tên “Thắng chuột” an ninh. Dần dần chúng tôi có phần dễ thở. Điển h́nh như trường hợp Đội chúng tôi, cứ mỗi sáng khi đến chỗ lao động, tôi cho tên quản giáo với tên vơ trang 20 điếu thuốc quấn với b́nh trà, thế là chúng nó ngồi trong lều chớ không đi tới đi lui kiểm soát chúng tôi làm. Sở dĩ tôi cho nó thuốc hút với trà uống, v́ nó đồng ư với tôi là khi giao việc cho chúng tôi th́ chúng nó chỉ kiểm soát trước giờ về thôi. Thật ra chúng nó có bao giờ kiểm soát tất cả đâu. Thí dụ như giao chúng tôi mỗi người mỗi ngày đào và trồng 5 hốc bí rợ trong khu rừng chồi chen lẫn đá tảng, đâu làm sao chúng nó đếm từng cái một để biết chắc là chúng tôi làm đúng hay không đúng số lượng chúng giao.
    Ngày Ba Mươi và Mồng Một Tết, không một tên Công An nào vào trong trại. Thấy yên tịnh, bắt đầu có vài cuộc họp mặt đồng hương, ăn bánh mứt uống trà và nói với nhau cả chuyện xưa lẫn chuyện nay. Thấy được, anh em chúng tôi họp mặt nhau trong cùng binh chủng hay cùng đơn vị, hoặc họp bạn đồng khóa. Đông cũng được vài chục bạn, ít cũng năm bảy người. Tất nhiên là phải chọn cái góc nào đó trong trại tương đối kín đáo, hoặc nơi nào dễ trông thấy chúng nó vào trại để kịp giải tán. Hơn 20 anh em cùng khóa 5 Thủ Đức chúng tôi cũng ngồi lại với nhau ở sát góc buồng giam số 2. Mỗi anh mang theo vật dụng đựng nước uống, nếu anh nào có bánh mứt th́ mang đến, ngoài ra c̣n mang theo cái ǵ đó để làm ghế ngồi. Anh Văn Công Báu (Trung Tá Lực Lượng Đặc Biệt) nấu cho một thùng nước trà. Anh Khoa (Trung Tá Cảnh Sát) nhiều tuổi nhất, được anh em bầu làm “chủ tọa”. Anh Khoa có vài lời:
    “Tôi thành thật cám ơn các bạn. Trong chiến tranh, chúng ta gặp nhau trên khắp nẻo đường, bây giờ thua trận, chúng ta gặp nhau trong trại tập trung, đây là điều đáng quí của chúng ḿnh. Mong rằng, buổi họp mặt đơn giản nhưng có phần ấm áp hôm nay, sẽ giữ măi cho chúng ta một gạch nối t́nh cảm cho tương lai, dù chúng ta chưa biết tương lai sẽ ra sao. Xin mời các anh cùng nâng chén trà gọi là cùng nhau chúc mừng năm mới”.
    Thế là tất cả anh em gần như nói cùng lúc: “Chúc Mừng Năm Mới”, như vừa chúc cho bạn, cũng vừa chúc cho ḿnh.
    Tôi đưa ư kiến:
    “Bây giờ chúng ta thử bàn đến lời của ông Phạm Văn Đồng -Thủ Tướng cộng sản- đă nói chúng ta là thành phần ác ôn không thể tha thứ, đồng thời với sự kiện gần đây có dư luận cho rằng Hoa Kỳ sẽ “bốc” chúng ta sang Mỹ. Tôi nghĩ là chúng ta khó có đủ yếu tố khả dĩ dẫn đến kết luận, nhưng biết đâu trong lúc bàn luận lại có những điều mới có thể giúp chúng ḿnh cập nhật những hiểu biết liên quan…..”
    Nói đến đây th́ anh Bùi Quang Hiền đứng ở hành lang ngay lối vào buồng 2 này, anh ngoắc tôi:
    “Anh và mấy anh cẩn thận. Tụi nó đứng ngoài cổng trại đông lắm, có thằng Thịnh khuỳnh nữa”.
    Tôi bước nhanh đến đầu hành lang nh́n ra nhà trực trại ngay bên ngoài cổng. Đúng là tụi nó khá đông. Chạy vội vào trong:
    “Các bạn ơi! Không xong rồi, chúng ta nên giải tán th́ hơn, chúng nó vào trông thấy là phiền phức lắm”.

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7C / Trại tập trung Nam Hà 3
    P2



    Anh Khoa: “Giải tán anh em ơi! Một lần nữa, tôi cám ơn và chúc các anh sức khỏe và giữ vững nghị lực. Chúng ta sang bên Văn Hoá đi”.
    Anh em chúng tôi tay xách ghế xách lon theo hành lang ra sân trại để sang bên Văn Hoá. Anh Khoa đi sau cùng. Lúc anh vừa ra khỏi hành lang để sang Tổ Văn Hoá bên kia sân trại, Thịnh khuỳnh vào cổng với một toán Công An sau lưng. Hắn chận anh Khoa lại:
    “Các anh họp hành ǵ đó?”
    “Báo cáo cán bộ, không ạ! Vài anh em chúng tôi ngồi ăn bánh uống trà cho vui thôi cán bộ. Bây giờ sang Văn Hoá xem chung kết cờ tướng”.
    Hắn nh́n một lúc:
    “May cho các anh đó. Bộ các anh tưởng chúng tôi không biết các anh làm ǵ à!”
    Anh Khoa lẳng lặng băng qua sân trại về hướng pḥng văn hoá.
    Chẳng bao lâu sau đó, anh Khoa bị tai biến mạch máu năo và chết ngay. Anh Khoa bị cao huyết áp, đang mùa đông anh nấu nước nóng pha nước lạnh cho ấm để tắm. Nước ấm hết trong khi cơ thể chưa sạch xà bông, anh dùng lon nước lạnh xối lên đầu, thế là ngă quỵ trên nền xi măng. Và chết ngay sau đó.
    Vợ tôi đến thăm.
    Tuần kế tiếp, vẫn c̣n thoang thoảng hương vị ngày Tết Nguyên Đán. Trong khi lao động buổi sáng, tôi mua được nửa kí lô thịt heo nạc và khi cơm xong tôi bắt đầu kho tiêu. Lúc ấy kẻng báo thức buổi chiều vang vang, tôi vội nếm xem mặn lạt ra sao để dẹp vào và chuẩn bị lao động. Anh Nguyễn Tài Lâm gọi tôi:
    “Hoa ơi! Cán bộ gọi thăm nuôi ḱa”.
    “Thiệt hông Lâm?”
    “Cán bộ Trọng chờ anh ḱa”. Trọng trong toán trực trại.
    Anh Ngô Văn Huế: “Anh vô chuẩn bị đi, để nồi thịt tôi kho cho”.
    Tôi ra đến đầu hành lang gặp ngay Trọng “cụ non”. Công An ở đây gọi hắn là “Trọng cụ non” v́ lúc nào trông hắn cũng giống như “ông cụ” vậy.
    “Anh chuẩn bị ra gặp gia đ́nh”.
    “Ai thăm tôi vậy cán bộ?”
    “Tôi không rơ. Cán bộ Thúy nhờ tôi gọi anh đấy”.
    “Cám ơn cán bộ”.
    Tôi nghĩ măi nhưng vẫn không đoán được là ai đến thăm. V́ mùa đông giá rét này chắc chắn không phải là Ba tôi, c̣n vợ tôi đang bận lo cho mấy đứa em vượt biển chưa xong. Trong thư gần đây vợ tôi cho biết, sau khi các con đến noi an toàn, vợ tôi lo cho mấy đứa em vượt biển. Ngoài Ba tôi với vợ tôi, tôi nghĩ không có ai đến thăm tôi hết. Có thể là vợ tôi nhờ chị bạn nào đó nhân đến thăm gia đ́nh, thăm tôi luôn.
    Quanh năm mặc quần áo tù, lâu lâu được mặc quần tây sơ mi vào, cảm thấy gọn và khỏe. Với cái áo sơ mi ngắn tay màu vàng và cái quần tây màu nâu mà vợ tôi mua cho trong chuyến thăm tôi hồi giữa năm 1980, đôi giày thể thao do Mỹ sản xuất mà anh Trịnh Xuân Nghiêm (Sư Đoàn Nhẩy Dù) nhượng lại tôi v́ chân anh đi không vừa. Trước khi ra khỏi pḥng, anh Đặng Văn Hậu bảo tôi xoay qua xoay lại:
    “Ê! Trông c̣n phong độ lắm nghe”.
    “Thiệt hông đó?”
    “Tớ nói thiệt mà”.
    Ra đến nhà trực trại, thấy nụ cười của tên Thịnh khuỳnh là phát ghét rồi. Hắn hỏi:
    “Ai thăm anh mà diện thế?”
    “Báo cáo cán bộ, tôi không biết”.
    Công An Thúy, phụ trách hướng dẫn thăm nuôi, cười cười và nói nho nhỏ:
    “Đă biết mà c̣n hỏi. Khéo vớ vẩn”.
    Tên Thịnh khuỳnh hỏi tôi:
    “Nào, có thư từ ǵ bỏ ra ngay”.
    “Không có ǵ cả cán bộ”.
    “Chắc không. Tôi kiểm tra có th́ anh tính sao?”
    “Chắc chắn mà cán bộ. Cán bộ cứ kiểm soát tôi đi, nếu có ǵ vi phạm nội qui tôi chịu kỷ luật”.
    Họ dùng chữ kiểm tra, tôi dùng chữ “kiểm soát. Hắn chưa buông tha:
    “Trong giày có ǵ không?”
    “Chỉ có vớ không thôi, cán bộ”.
    “Anh đùa đấy à?”
    “Tôi nói thật mà cán bộ”Không biết hắn có tin hay không, nhưng c̣n ráng thêm một câu nghe như ân huệ:
    “Được rồi. Đội Trưởng tôi không kiểm tra”.
    “Cán bộ nói vậy chớ thật ra cán bộ kiểm soát tôi rồi”.
    Nói xong là tôi đi ngay. Trong thời gian gần đây, không c̣n cái xe cải tiến nào dành riêng cho thăm nuôi v́ chẳng ai tu bổ nên hư hỏng hết trơn. Cứ mỗi lần cần xe cải tiến cho thăm nuôi, phải xuống tổ nhà bếp mượn. Nhà bếp có ba chiếc nhưng chỉ c̣n một chiếc dùng được. Tuy ọp ẹp nhưng nhờ cái lạnh của mùa đông nên đỡ mệt khi kéo lên dốc. Lên đến đầu dốc, con bé Thúy mới nói:
    “Vợ anh thăm anh đấy”.
    “ Cám ơn cán bộ”.
    Tôi chửi thầm: “Con quỷ cái” này chắc không vừa với cái miệng quai xách của nó. Nó cầm đơn thăm nuôi trong tay, vậy mà lúc nảy tôi hỏi nó làm thinh. Dễ giận!
    Đến nhà thăm nuôi, vừa để cái xe bên ngoài là vợ tôi bước nhanh ra:
    “Anh”.
    “Em đến lúc nào vậy? Em đi đường có mệt lắm không?”
    “Em đến cách đây khoảng 3 tiếng đồng hồ. Em khá quen rồi nên không cảm thấy mệt như mấy lần trước, nhất là lần đầu thăm Anh”.
    “Trời lạnh quá sao Em dám đi. C̣n mấy cậu nó đi được chưa?”
    “Tụi nó đến Thái Lan hết rồi Anh. Nhưng chuyến đi gian khổ lắm v́ mưa băo, thức ăn nước uống đều liệng xuống biển cho tàu nhẹ bớt. Cuối cùng th́ tàu cũng đến nơi b́nh yên nhưng rất nhiều người chết v́ đói khát, trong số đó có hai đứa con của vợ chồng thằng Bảy (Triệu Văn Trí)”.
    “Vậy cũng là may lắm rồi. Em c̣n áo lạnh nữa không, nên mặc thêm vào chớ như vầy Em dễ bị cảm lạnh lắm”.
    “Không sao. Đủ rồi Anh. Để Em lấy h́nh của các con cho Anh xem. Em để ở pḥng nhỏ bên kia”.
    Tôi quay sang “Thúy quai xách”:
    “Báo cáo cán bộ, cho tôi sang pḥng bên soạn quà giúp vợ tôi?”
    Nó làm thinh một lúc mới mở miệng:
    “Được. Chỉ một lúc thôi nhé!”
    Tôi bước nhanh theo vợ tôi và hôn vợ tôi thật nhiều, v́ pḥng nhỏ bên này không có người nào cả. Đây cũng là những nụ hôn đầu tiên sau gần 7 năm xa cách … Ngần ấy, chỉ ngần ấy thôi, nhưng chứa đựng biết bao nồng thắm ngọt ngào bên trong những nụ hôn vội vàng ….
    Vợ Chồng tôi cùng mang quà sang pḥng bên, nếu vắng lâu thể nào “Thúy quai xách” cũng hỏi han tra xét.
    Từ đầu năm 1981, theo lệnh của Bộ Công An, Ban Giám Thị trại cho phép tù chính trị được thăm gặp vợ 24 tiếng đồng hồ. Giấy tờ th́ như vậy, nhưng nếu không ṣng phẳng với “cái giá phải trả” cho tên Vũ Quấc (tên của hắn là vậy) phụ trách giáo dục trại Nam Hà A này th́ đừng ḥng, v́ hắn cho ư kiến vào đơn xin trước khi đến tên trại trưởng quyết định. Đến lúc bấy giờ, “cái giá phải trả” là 200 đồng cho mỗi lần thăm gặp 24 tiếng đồng hồ. Ngoài ra c̣n phải ṣng phẳng với toán Công An phụ trách nhà thăm nuôi nữa, nhưng cái giá ở đây nhẹ nhàng thôi, chỉ cà phê thuốc hút loại đầu lọc coi như “ṣng phẳng”.
    Ngay chiều hôm ấy, tôi được trở ra nhà thăm nuôi đến chiều hôm sau mới hết hạn. Chúng tôi xem h́nh các con chúng tôi cao lớn cả rồi. Cùng thuê “chung cư” tại Houston sau thời gian được Cô Dượng Chú Thiếm chúng nó giúp đỡ. Vừa đi học vừa đi làm, dĩ nhiên là nhiều khó khăn lắm, nhưng các con chúng tôi chấp nhận vượt qua. Trong thư, các con chúng tôi nói rằng, những khó khăn trên đất Hoa Kỳ không có nghĩa ǵ so với những gian khổ trên quê hương Việt Nam cộng sản! Các con chúng tôi hứa sẽ thành công trên đất Mỹ.
    Có thời gian dài, vợ tôi kể cho nghe biết bao chuyện buồn vui lẫn lộn. Chuyện trong thân quyến chẳng bao nhiêu, nhưng chuyện mà đám Công An Phường với Công An Quận, đối xử với gia đ́nh chúng tôi mà họ gọi là “ngụy quân ngụy quyền” thật là khiếp đảm!
    - Chính sách lừa dối để đẩy hằng trăm ngàn quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Ḥa cũ vào các trại tập trung mà họ gọi là học tập cải tạo. (Năm 2004, khi xem tạp chí Dân Vận của đảng bộ Việt Quốc tại Đức, tôi đọc được những con số sau đây: Theo tài liệu của Sở Công An Sài G̣n mà họ gắn cái tên ông Hồ vào đó, đến cuối tháng 07/1975, cộng sản đă đẩy 154.772 người vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10/1975, Cảnh Sát Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung đến ngày 30/10/1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Ḥa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cơi Việt Nam là 222.809 người. Trong số khoảng 200 trại này, chỉ riêng Đoàn 776 của họ, đă quản trị đến 82 trại trong tổ chức của 6 Liên Trại trong vùng rừng núi từ Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn, ngược lên thượng nguồn Sông Hồng đến tận biên giới Việt Nam-Trung Hoa)
    - Ngày 20/08/1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh thiêu hủy tất cả văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Ḥa v́ họ cho là loại phản động và đồi trụy. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra ṭa án nhân dân. Chính sách này trong một mức độ nào đó, tương tự như chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và của Mao Trạch Đông thời Trung Hoa cộng sản.
    - Ngày 18/09/1975, lănh đạo cộng sản Việt Nam bất th́nh ĺnh thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền c̣n lại, mỗi khi gia đ́nh có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xă chứng nhận mới được cứu xét. C̣n cứu xét như thế nào th́ tùy họ khi vui lúc buồn.
    - Ngày 10/11/1975, chính sách triệt hạ kinh doanh thương măi tự do, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là vận động hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương măi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là khu kinh tế mới tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ th́ bị bắt vào trại tập trung, c̣n tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa th́ tài sản cũng vào tay cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xă hội- thế thôi.
    - Đến chính sách cải tạo văn nghệ sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21/03/1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Ḥa, đă bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13/06/1976.
    - Tháng 06/1977, lại một chính sách khác ra đời. Đó là chính sách buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là vận động đem tập trung vào Hợp Tác Xă. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xă quản trị, c̣n nông dân tùy theo lao động của ḿnh bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xă quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính.
    Người dân Việt Nam Cộng Ḥa cũ tại Sài G̣n, có câu nói truyền cho nhau nghe thật là cay đắng: “Ḥa b́nh, bắt đầu sum họp, cũng là lúc chia ly!” Những bạn đồng đội từ các đơn vị xa xôi về quê sum họp với gia đ́nh, nhưng rồi lại chia ly không ngày trở lại! Câu này cũng có thể hiểu “bọn cộng sản sum họp, người tự do chia ly! Cũng có câu: “Nếu cái cột đèn mà đi được th́ nó cũng vượt biển rồi”.
    Vợ tôi nhắc lại chuyện con thứ tư của chúng tôi là Phạm Bá Hùng vượt biển từ bờ biển Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, hồi giữa năm 1980. Bị quân cộng sản phác giác truy lùng, nhiều người lớn cùng với con tôi và các bạn nó bị bắt. Nhà giam chật quá, với lại có lẽ chúng nó thấy con tôi c̣n nhỏ (mới 14 tuổi), chúng nó bảo con tôi xuống nhà bếp phụ việc lặt vặt. Mấy ngày sau chúng nó thả về. Lúc ấy con tôi trần trụi v́ lúc chạy "bán sống bán chết", cái áo bị các nhánh cây "giữ làm kỷ niệm" lúc nào chẳng hay. Có một gia đ́nh gần đó, thấy vậy mới cho con tôi một cái áo, mà là "cái áo con gái" v́ nhà bà không có con trai. Khi con tôi về đến nhà Ba Má tôi ở Nha Mân, Ba Má tôi và vợ tôi trông thấy, vừa cười vừa khóc! Khóc v́ thấy nó nhỏ quá mà bị tù, c̣n cười v́ cái áo con gái trên người nó. Khi c̣n sống, mỗi khi Ba Má tôi nhắc lại chuyện ấy là Ông Bà cười thật tươi. Hiện giờ (năm 2008) con trai tôi đă vào tuổi 42, có vợ 2 con, và có cơ sở làm ăn ở tiểu bang khác. Chúng tôi xin mượn những ḍng chữ này để bày tỏ lời cám ơn chân thành của vợ chồng tôi đến gia đ́nh ân nhân của con chúng tôi 28 năm về trước. Cái áo không là bao, nhưng điều nghĩa ân mới là đáng quí".
    Trở lại chuyện thăm nuôi. Những tù chính trị chúng tôi khi được phép gặp gia đ́nh 24 tiếng đồng hồ, chỉ được đi khỏi nhà thăm nuôi cho đến cái cầu vệ sinh thôi, ngoài khoảng cách đó ra đều bị cấm.
    Buổi chiều, có vẻ như thời gian qua nhanh quá! Trong khi tôi đang xếp áo quần của vợ tôi mà chúng tôi giặt ban trưa, tiếng con Thúy ong ỏng:
    “Khẩn trương lên chứ. Làm ǵ mà lề mề thế!
    Hôn vợ tôi xong là ra cửa, vợ tôi vừa đi vừa nói:
    “Khoảng tháng 5 Em ra thăm Anh. Các con với mấy đứa em đi xong, Em có th́ giờ thăm Anh thường hơn”.
    Con Thúy chen vào ngay:
    “Thăm ǵ mà thăm liền thế?”
    “Xin lỗi cán bộ có gia đ́nh chưa?”
    “Anh định nói ǵ thế? Đă có th́ sao?”
    “Vậy mà tôi tưởng cán bộ chưa có gia đ́nh”.
    “Tại sao anh tưởng thế?”
    “Đă có gia đ́nh th́ cán bộ phải thông cảm t́nh vợ chồng, nhưng sao cán bộ có ư chỉ trích”.
    “T́nh cảm vợ chồng ai mà chẳng biết, nhưng c̣n công tác nữa chứ ”.
    “Chẳng lẽ cán bộ cho là chúng tôi trong Nam chỉ biết có gia đ́nh không thôi sao. Nếu vậy mà phải hơn 20 năm, quân đội nhân dân mới vào được Sài G̣n sao cán bộ”.
    Cô ta trừng mắt:
    “Anh định nói ǵ đấy? Đi vô”.
    Nhân lúc xuống dốc, tôi phụ đẩy xe quà của anh bạn để khỏi phải lôi thôi với con nhỏ có cái miệng quai xách này. Đám quản giáo với vơ trang gọi cô ta là “Thúy tây” v́ xem ra cô ta có phần trắng trẻo và sạch sẽ hơn những Công An “tóc dài” khác trong trại này. Con bé này “chưa nhận hối lộ” từ khi phụ trách hướng dẫn thăm nuôi thay con bé Kim. Hơn hai tháng trước, “Thúy tây” ŕnh chụp được một vụ. Hôm ấy anh Vũ Văn Dần (Đại Tá Cảnh Sát) được gia đ́nh đến thăm và được ở lại 24 tiếng. Có mấy anh kéo xe cát về ngang nhà thăm nuôi, ngừng trước cửa, chắc là do anh Dần bảo nên chị Dần bước vội ra và dúi nắm tiền vào đống cát trên xe cải tiến, “Thúy tây” đứng sau khung cửa sổ trông thấy nhưng không nói ǵ hết. Khi các bạn kéo xe cải tiến đi, cô ta nói lớn:
    “Các anh không được đi. Đứng đấy chờ tôi”.
    Thế là “Thúy tây” bảo mấy anh đang thăm nuôi ra về cùng với xe cải tiến chở cát. Đến nhà trực trại, “Thúy quai xách” yêu cầu trực trại kiểm soát xe cát. “Trọng cụ non” kiểm soát không thấy ǵ, cho xe cát đi. “Thúy quai xách” bắt đứng lại, nó bảo mấy anh kéo xe cát phải xúc ra từng xẻng cho nó kiểm soát. Cuối cùng, 500 đồng bạc phơi ḿnh trên đống cát, thế là “Thúy quai xách” lập biên bản. Ngay sau đó nó ra nhà thăm nuôi bắt anh Dần viết kiểm điểm và buộc chị Dần phải hứa 6 tháng sau mới ra thăm nuôi.
    Thế nhưng chỉ hung hăng con bọ xít được vài tháng là quỵ ngă trước sức cám dỗ của quà cáp tiền bạc. “Công An cái” với cái miệng quai xách này nhận hối lộ chẳng kém tên Công An cai tù nào cả. Nó mang cả tiền và thư vào trong trại trao tận tay cho tù chính trị chúng tôi, nhưng nó ăn 15% lận.
    Trở lại trường hợp anh Khoa chết. Trước khi ra về, tôi đưa vợ tôi địa chỉ nhà anh Khoa ở Sài G̣n để vợ tôi đến cho vợ anh Khoa là chị Bạch Vân biết trường hợp anh Khoa chết. Chỉ tuần sau đó, chị Khoa với cô con gái khoảng 20 tuổi đến trại. Chị Khoa xin cho tôi ra gặp chị. Không có đơn của vợ tôi nhờ thăm, có lẽ chị Khoa “hối lộ” cho chúng nó nên tôi được ra nhà thăm nuôi. Trông chị Bạch Vân buồn lắm, nhưng chị cố gắng nói chuyện với tôi:
    “Anh biết hông. Lúc chị (Hoa) đến nhà nói với tôi là anh Khoa chết, tôi đâu có tin. Tôi cứ hỏi tới hỏi lui xem chị có nghe lầm không, nhưng chị quả quyết là anh chứng kiến anh Khoa chết thật. Tôi chỉ mới nửa tin nửa ngờ chớ chưa tin hẳn, v́ tôi đâu được trại báo tin tức ǵ trong khi tôi chờ tin anh Khoa về nhà. Đến đây, tôi mới biết đó là sự thật”.
    Chị nín lặng khá lâu. Không khóc! Có lẽ chị đă khóc nhiều rồi! Sau cái dụi mắt mà tôi nghĩ là chị lau khóe mắt ươn ướt. Chị trở lại b́nh tỉnh:
    “Tôi nói anh nghe. Anh Khoa chết, coi như tôi thua canh bạc quá lớn anh à!”
    Đến đây th́ chị bật khóc thành tiếng! Con gái chị ngồi cạnh cũng khóc theo! Lúc ấy tôi chưa hiểu rơ câu nói của chị, cho đến tối tôi mới nghĩ: “Có lẽ chị Khoa lo tiền lo vàng ǵ đó để anh Khoa về, và cũng có lẽ đă đưa tiền đưa vàng cho họ rồi và đang chờ ngày anh Khoa về th́ phải”.
    Một lúc sau, chị lại nói và nói thật lớn như để các anh chị đang có mặt trong nhà thăm nuôi cùng nghe:
    “Mấy anh có biết là ông Văn Vĩ đă lái xe Honda chạy ṿng ṿng Sài G̣n được rồi hông?”
    Hầu như anh em tù chính trị đang thăm gặp gia đ́nh đều ngạc nhiên quá sức. Tôi cũng vậy. Lúc ấy chị Khoa nháy mắt với tôi, thế là tôi hiểu. Và tôi hiểu như thế này. Ông Văn Vĩ là nhạc sĩ cổ nhạc rất nổi tiếng. Bất cứ ai mà thích nghe cổ nhạc, có thể nói là đều nghe đến tên ông với ngón đàn tuyệt diệu của ông. Nhưng ông không thấy đường. Nói rơ hơn là ông Văn Vĩ bị mù. Thế nhưng vừa rồi ai cũng nghe chị Khoa nói là lái xe Honda hai bánh được rồi. Nghĩa bóng của câu ấy được hiểu là người dân Sài G̣n bây giờ sáng mắt ra rồi, tức là hiểu được cộng sản rồi, không c̣n mù ḷa về cái chủ nghĩa cộng sản ưu việt nữa. Tôi nói nho nhỏ:
    “Câu nói của chị thật rơ nghĩa. Câu nói công khai như vậy nhưng qua mặt chúng nó dễ dàng v́ chúng nó có biết ǵ đâu. Chị đă mang đến cho anh em chúng tôi một nhận thức chính trị của người dân Việt Nam Cộng Ḥa cũ. Cám ơn chị”.
    Nỗi khổ của dân quê.
    Mùa đông năm 1982, trại tổ chức lại các Đội tù chính trị sau khi các bạn từ trại tập trung Vĩnh Quang và Tân Lập (tỉnh Vĩnh Phú) chuyển đến đây, và một số đă chuyến về các trại trong Nam. Lần tổ chức này không c̣n các Đội cấp Đại Tá riêng biệt nữa, nghĩa là Đội hỗn hợp. Tôi vào Đội 5 và dọn sang buồng giam số 4, với trách nhiệm Đội Trưởng. Trong Đội 5 có 6 bạn trẻ mà trước đây thuộc Đội 20, bị bắt trong năm 1976 v́ tham gia tổ chức Phục Quốc do Công An cộng sản trá h́nh tổ chức. Đội này lúc ở buồng giam số 8 có lúc công khai chống đối đám Công An, nên bị chúng nó chuyển ra biệt giam tại trại Mễ ở Phủ Lư. Khi trở về trại, sức khỏe của các bạn quá kém v́ bị chúng nó hành hạ và phần ăn bị cắt giảm mà vốn dĩ đă không đủ no! Đến mức bạn trẻ Đặng Hữu Nam, trước đó là Đội Trưởng Đội 20, không thể tự ḿnh từ cổng trại vào buồng giam được phải nhờ một bạn cỏng vào!
    Đội 5 chúng tôi vào thung lũng khai phá trồng bí rợ và khoai ḿ. Thung lũng có nhiều cỏ tranh nên đám Công An gọi là thung gianh, trong khi chúng tôi gọi tắt là “thung”. Cách trại khoảng 4 cây số mỗi lượt đi về nên chúng tôi làm “thông tầm”, đi từ sáng đến chiếu mới về. Thung, toàn đá tảng trải dài hai bên triền núi cao, lác đác có đất trống từng mảng nhỏ nhưng cỏ tranh cao khỏi đầu. Công việc của chúng tôi là t́m những phần đất cỏ tranh để dọn sạch đào hốc trồng bí rợ và cuốc những khoảnh đất trống trồng khoai ḿ. Khởi đầu c̣n có Đội 6 với Đội 7 cùng vào thung lũng này, nhưng vài tháng sau chúng nó chuyển hai Đội bạn lao động khu vực khác.
    Mỗi sáng chúng tôi lănh phần gạo ăn trưa. Từ vài tháng nay chúng tôi được ăn gạo tuy là gạo đầy trấu và sạn. Nhớ lại những năm ăn 100% bo bo, khoai tây, khoai ḿ khô, hay bột ḿ luộc mà hăi hùng! Ngoài phần gạo, có thêm nắm rau. Chỉ thế thôi. Những anh có gia đ́nh đến thăm nuôi hoặc được gia đ́nh gởi tiếp tế th́ có chút ǵ đó giúp cho bữa ăn trưa thêm đậm đà.
    Thung lũng này rất rộng. Khi chúng tôi vào đây th́ nhiều gia đ́nh nông dân đang dở cḥi và đào khoai ḿ mà họ gọi là thu hoạch để t́m vùng đất khác trồng trọt. Hỏi ra mới biết, nhiều gia đ́nh nông dân từ Phủ Lư vào đây khai thác thung lũng hoang vu này cách nay 3 năm, khi thấy canh tác được nên Công An trại đuổi họ đi nơi khác với lư do đất của trại, họ bị đuổi nhưng không được một đền bù ǵ cả. Trong số dân nghèo khai phá trồng trọt ở đây, có gia đ́nh ông Tạ với hai cô con gái, chuyển cḥi của họ sát vào chân núi mà phía bên kia chân núi là nhà thăm nuôi của trại. Gia đ́nh này đào khoai đến đâu, chúng tôi đào hốc trồng bí rợ đến đó. Tôi hỏi chị Tạ sau khi t́m hiểu về t́nh cảnh những gia đ́nh canh tác nơi đây:
    “Gia đ́nh chị có ngần này người mà ban đêm dám ngủ ở đây sao?”
    “Có phải chúng tôi ở đây ban đêm hết đâu. Chiều th́ vợ chồng tôi về nhà ngoài Ba Sao một chút, ở nhà c̣n mấy cháu nhỏ nữa. Chỉ có hai đứa này ngủ đây thôi”.
    Vừa nói chị vừa chỉ hai con bé gái bé xíu của chị.
    Anh Dương Công Liêm ngạc nhiên: “Chị nói thiệt hả?”
    Con bé lớn cười cười:
    “Chỉ có cháu với em cháu ngủ đây thôi ông à. Mấy năm rồi chứ phải bây giờ đâu. Mà sao ông ngạc nhiên?”
    Các bạn chung quanh cùng nói: “Cháu can đảm thiệt”.
    Anh Liêm hỏi: “Chị Tạ ơi! Cháu này được mấy tuổi rồi chị?”
    “Cháu Oanh 16 tuổi, c̣n cháu Loanh 15. Cháu có can đảm can điếc ǵ đâu mấy ông ơi, chẳng qua là do miếng ăn dần dần rồi quen thôi ”.
    “Chị nói sao. Một cháu 15 và một cháu 16 à?”
    “Vâng. Trẻ con ở cái đất này có được ăn uống như trong Nam mấy ông đâu mà lớn được. Vùng Ba Sao ra đến Phủ Lư trẻ con đều thế cả”.
    “Xin lỗi chị. Tôi không có ư ǵ khác đâu”.
    Quả thật khó tin, nhưng trước mắt là sự thật. Chúng tôi không thể ngờ vóc dáng hai cháu này áng chừng 10 hay 11 tuổi là cùng, không ngờ chúng tôi đoán sai quá xa. Ngẫm cho cùng, câu nói của chị Tạ là một lời than cho cái thân phận người dân xă hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc! Nếu chưa đủ tiêu biểu cho nhiều địa phương đồng bằng Sông Hồng, ít ra cũng là cái khốn khổ của người dân nói chung và tuổi trẻ nói riêng quanh vùng này!
    Mỗi hốc bí rợ, chúng tôi cho vào 80% phân xanh làm từ những cây dại mà thân mềm, và 20% phân cứt dê mà chúng tôi gọi là “phân thầy”. Thường ngày có hai bạn là anh Phạm Kim Tấn với anh Thuận khiêng “phân thầy” từ cái chuồng dê mà chúng tôi gọi là “chung cư của thầy” ở măi 3 cây số cách nơi chúng tôi trồng bí. Đúng là người ăn độn, súc vật ăn độn, hốc bí rợ xă hội chủ nghĩa cũng ăn độn luôn.
    Đó là công việc, bây giờ mời quí vị quí bạn nh́n qua cuộc sống dọc theo thung lũng này một chút, hi vọng sẽ nhận ra điều ǵ đó về thân phận người phụ nữ xă hội chủ nghĩa nơi đây. Thượng nguồn thung lũng có một làng của người cùi, xa hơn nữa là nông trường trồng trà.
    Vào những ngày giáp Tết, tên vơ trang bảo tôi theo hắn vào làng cùi mua vài món về ăn. Ở đây có bán gà vịt, trái cây, rau cải. Vào làng cùi, phải thú thật là tôi rất sợ, v́ mọi người già trẻ lớn bé, không lở loét cũng tay không ngón, chân không bàn. V́ là lần đầu hắn kéo tôi đến đây nên trong túi không có đồng nào cả mà chỉ đi một ṿng rồi quay về Đội. Từ ngày Đội chúng tôi vào thung lũng này, có thể nói là chúng tôi “mua đứt” tên quản giáo với tên vơ trang, cho dẫu là tên vơ trang thay đổi hằng tháng, có khi hằng tuần. Mỗi sáng đến khu vực trồng bí, tôi cho mỗi đứa 10 điếu thuốc quấn và lon guigoze nước trà, do chú Hổ -bạn tù trẻ- nấu. Thuốc quấn, là thuốc điếu người ta quấn bằng tay bán từng bó 100 điếu chỉ vài đồng, mà tôi gởi tên quản giáo mua giùm để phát cho chúng nó hút khi ốheo Đội .

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7C / Trại tập trung Nam Hà 3
    P3



    Lúc ăn sáng ăn trưa, ngoài anh Phạm Kim Tấn (Trung Tá Cảnh Sát), tôi, với chú Hổ, c̣n có tên quản giáo với vơ trang cùng ăn với chúng tôi. Trừ lúc ăn, hai tên gần như chỉ ngồi trong cái cḥi bé xíu cách cḥi chúng tôi không xa, v́ hắn đồng ư với tôi là khi giao só lượng hốc bí cho chúng tôi làm, đến chiều trước khi rời nơi đây hắn mới kiểm soát kết quả việc làm. Nhưng làm sao hắn kiểm soát nỗi v́ khu vực rộng lớn toàn đá tảng với bụi rậm, chỗ này vài hốc bí, xa xa chỗ kia vài hốc bí, ngay khi chúng tôi đi t́m cũng khó chớ nói ǵ tên quản giáo kiểm soát. Chỉ khi những giây bí nằm la liệt trên các tảng đá hắn mới trông thấy được.
    Trước ngày nghỉ Tết, tên vơ trang hướng dẫn một số anh em chúng tôi vào làng cùi mua những cành đào rất đẹp để trang trí buồng giam chúng tôi, đồng thời tặng bên Tổ Văn Hoá để trang trí nơi tranh giải cờ tướng với giải bóng bàn do anh em “cầu thủ” tù chính trị chúng tôi tranh giải. Nói là “tranh giải” cho nó oai chớ thật ra khi chiếm hạng nhất cũng chỉ vài cái bánh ngọt với nhúm trà, và tiếng vỗ tay của bạn bè chung quanh thôi. Nhưng cũng giúp đôi chút nhẹ nhàng thư thái trong cái không khí trại tù vốn dĩ luôn căng thẳng!
    Hăy gọi là “thể thao”.
    Nói đến bóng bàn mà không nói đến anh Chu Văn Sáng (Đại Tá An Ninh Quân Đội) quả là thiếu sót lớn. Vào giữa những năm 50, anh Sáng là Trưởng đoàn tuyển thủ bóng bàn Việt Nam đoạt giải bóng bàn thế giới tại Tokyo, Nhật Bản. Chiến thắng oanh liệt của đoàn tuyển thủ Việt Nam khi hạ đoàn tuyển thủ Nhật Bản tại thủ đô của họ trước sự có mặt của Thái Tử Nhật. Sau đó, theo lời mời của đoàn tuyển thủ Pháp, đoàn tuyển thủ Việt Nam sang Paris và hạ luôn đoàn tuyển thủ này ngay tại thủ đô của họ.
    Nói đến cờ tướng mà không nói đến anh Nguyễn Văn Phiên (Đại Tá, Tổng Nha Tài Chánh & Thanh Tra Quân Phí/Bộ Quốc Pḥng), cũng là một thiếu sót khác. Tuy anh Chu Văn Sáng cũng là tay cờ tướng mà nhiều bạn không đương cự nỗi, nhưng anh Phiên là người đoạt giải.
    Hào hứng nhất là bóng tṛn, hay nói cho dễ hiểu là đá banh. Bước đầu h́nh thành tương đối khó, nhưng sau đó th́ cả trại chia ra 3 đội hạng A và 3 đội hạng B. Tôi nói “chia ra” chớ không phải tổ chức, v́ bất cứ bạn nào chịu mang giày vào sân, và thích đội nào th́ vào đội đó miễn đủ 7 người là được. Thay v́ đội banh phải 11 người, nhưng v́ sân trại không đủ kích thước của sân banh, nên chỉ cần 7 cầu thủ: 1 thủ môn + 2 hậu vệ + 1 trung vệ + và 3 ở hàng tiền đạo. Chia ra là như vậy, chớ nếu “tổ chức” phải chọn những anh thích hợp từng vị trí trong sân. Nguồn gốc của “phong trào” đá banh, xin tạm gọi như vậy cho ra vẻ một chút, là đầu tháng 09/1981, tổ Văn Hoá do anh Dương Huy Nam (đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng) trách nhiệm, được trại cấp cho 2 trái banh để tù chính trị đá chơi nhân ngày lễ 2/9 của họ. Anh Cao Văn Phước, một thời là thành viên Tổng Cuộc Bóng Tṛn Việt Nam, và từng hướng dẫn đoàn tuyển thủ bóng tṛn tham dự nhiều giải quốc tế, tương tự như anh Chu Văn Sáng bên bóng bàn vậy. Anh Phước rủ từng anh vào sân đá banh chơi. Thế là nhiều anh em tham gia, đá hươu đá vượn ǵ cũng được, miễn có chạy tới chạy lui th́ đám trực trại mới mở cửa buồng giam cho ra ở ngoài xem.
    Mang đôi giày vải vào sân là may rồi chớ làm ǵ có giày đá banh. C̣n cái sân banh chính là cái sân giữa trại, hai bên là hai bức tường đá tảng, bên trên có hàng rào kẽm gai, nền sân là nền đá lổm chổm, nếu không cẩn thận là đá luôn những cục đá nho nhỏ trên sân nữa. Chuẩn bị cho trận banh đầu tiên, anh Phước hỏi tôi:
    “Anh muốn đá ở vị trí nào?”
    “Tôi quen hậu vệ giữa, nhưng với kích thước sân này anh cho tôi đứng trung vệ xem sao”.
    “Ủa. Bộ anh có đá banh rồi hả?”
    “Trong những năm 1937 đến 1940, lúc học trường sơ học Đại Ngăi (Sóc Trăng), tôi là “vua ăn trộm” bưởi trên cây đem thui cho mềm một chút rồi cột giây chuối vào để đội banh tí hon tụi tôi đá được vài trận. Bị đ̣n quá trời nhưng hổng bỏ cái bệnh đó được v́ tôi mê đá banh lắm. Năm 1954, lúc học ở Trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, tôi cũng đá trong đội banh của trường. Năm 1956-1958 phục vụ Trung Đoàn 35 ở Plei Ku rồi Kon Tum, tôi vẫn đá”.
    “Ê! Trung vệ phải chạy lên tấn công rồi chạy về tăng cường pḥng thủ, mệt lắm à nghe. Nhắm kham nỗi hông đó?”
    “Lo ǵ, cứ thử một hiệp xem sao”.
    Thế rồi trận đầu tiên với hai đội tạp nham, với chiến thuật cũng tạp nham, mạnh ai nấy đá, trúng cũng đá mà trật cũng đá, nhưng rất ư là vui v́ “khán giả” ngồi bít các đầu hành lang vào các buồng giam, vỗ tay liên hồi. Vỗ tay, không phải do đá hay mà là đá loạn trên sân làm cho các bạn tức cười. Vậy là vui rồi. Nhưng sáng hôm sau hầu hết “cầu thủ” chúng tôi đều khai bệnh, v́ bắp thịt chân “bị xổ” nên đi đứng rất khó. Anh này nh́n anh kia, muốn cười mà cười không nỗi. Mỗi lần leo lên sàn gác bên trên, tay phải nắm song sắt cửa số đầu hồi buồng giam, tay trái nhấc cái chân để lên nấc cái thang sắt thẳng đứng, đến lượt thay tay để nhấc chân phải lên, và lần thứ hai là ngồi trên sàn gác được rồi. Nhưng sau vài trận th́ các bắp chân b́nh thường trở lại, không thấy đau nữa. Thật ra đâu phải mỗi ngày được đá banh, mà chỉ được đá vào chiều thứ bảy hoặc ngày chủ nhật thôi, nhưng có cái lợi là khi đá banh th́ đám trực trại không đóng cửa buồng giam, nếu không đá banh th́ chúng nó khóa cửa nhốt trong buồng.
    “Phong trào” đá banh được h́nh thành trong sự hào hứng như vậy đó, nhưng nuôi dưỡng được phong trào mới khó, thậm chí rất khó v́ làm sao có banh để đá, và có nước chanh đường để uống hằng tuần. Công An trại chỉ có thể cho vài trái banh nhân ngày lễ của họ thôi. Với lại banh do mấy cái xí nghiệp trời ơi của xă hội chủ nghĩa trên đất bắc sản xuất, đá vài trận là nó sút chỉ hết trơn, lúc ấy chỉ có liệng vào đống rác thôi.
    Trong lần vợ tôi thăm hồi đầu năm 1982, tôi thuật vợ tôi nghe về điều khó khăn để nuôi dưỡng phong trào đá banh, vợ tôi hứa sẽ nói với một số chị bạn trong mục đích luân phiên ủng hộ banh cho anh em chúng tôi. Thế là từ cuối mùa xuân năm 1982, gần như cứ hai tháng chúng tôi nhận được một trái banh từ Sài G̣n gởi ra. Thỉnh thoảng c̣n có một lố khăn lông nhỏ để lau mặt trong lúc giải lao giữa hai hiệp. Phải công nhận những trái banh do kỹ nghệ tại Sài G̣n sản xuất có phẩm chất tốt hơn nhiều so với kỹ nghệ xă hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc. Đá được 7 hay 8 trận mới loại ra, dù rằng sân đá banh toàn đá dăm nên da banh mau ṃn lắm. Anh Dương Huy Nam gởi Công An đi phép cuối tuần mua giùm cái c̣i cho trọng tài là anh Cao Văn Phước. Thỉnh thoảng anh Bùi Đức Tài (Đại Tá Tỉnh Trưởng Tây Ninh) hoặc tôi luân phiên làm trọng tài. Có điều là chúng tôi chỉ đá mỗi hiệp 30 phút thay v́ theo đúng luật phải đá 45 phút, v́ lẽ anh em cầu thủ chúng tôi trẻ nhất cũng hơn 30 tuổi, c̣n già sơ sơ như tôi cũng hơn 50, đá đúng luật theo thời gian e kiệt sức.
    Do hàng hóa sản xuất tại Sài G̣n dù là Sài G̣n cộng sản vẫn có được phẩm chất tốt, cho nên những tên Công An được đi công tác trong miền Nam, họ xem như tương đương với xuất ngoại sang Liên Xô vậy. Và đám Công An quản giáo với vơ trang, rất thích đá banh sản xuất tại Sài G̣n, nhưng v́ không có nên chúng nó muối mặt vào trại đá với tù chính trị chúng tôi. Chúng tôi đá với nhau c̣n nương tay nương chân, nhưng với đám Công An th́ chúng tôi đá đến nơi đến chốn lắm, nghĩa là thẳng chân. Ngón nghề nào dùng được là dùng với họ nhưng không sợ chúng nó trả thù, v́ khi đến chỗ lao động chúng nó vẫn nhờ cậy chúng tôi về trà thuốc, nhất là thuốc tây trị bệnh. Thỉnh thoảng cũng có đứa chơi xấu, lúc ấy anh em khán giả chúng tôi la ó dữ lắm, có hôm đến mức đám trực trại phải đánh kẻng nhốt vào buồng giam.
    B́nh thường không có lư do ǵ để “tranh giải” th́ giữa các buồng giam cáp độ đá với nhau, đội banh của buồng nào thua phải đăi bên buồng thắng một nồi chè. Chè ǵ cũng được nhưng phải ngọt đúng mức, v́ có lần buồng chúng tôi thắng trận nhưng khi ăn chè giống như ăn đậu xanh luộc vậy quí vị quí bạn à! Có những trận giữa hai đội lăo tướng, hoặc hai đội trẻ, lần vui nhất là đá với nhau giữa hai đội độc thân. Vui v́ độc thân được hiểu là c̣n trẻ, thế nhưng anh Nguyễn Kim Tây lúc ấy hơn 50 tuổi mà vẫn độc thân, cũng phải vào sân. Theo banh một lúc là đứng thở để banh lăn tự do. Chưa hết, chúng tôi c̣n cáp độ giữa khu bên này với khu bên kia nữa, tức là các buồng giam khu bên kia thành lập một đội banh, đấu với đội banh của các buồng giam khu bên này. Như vậy quí vị quí bạn cũng h́nh dung được là các cầu thủ “xào qua xáo lại” để có những cái tên đội banh nghe như nhiều lắm, chẳng hạn như trận đấu giữa hai đội lăo tướng, trận đấu giữa hai đội thanh niên, trận đấu giữa hai đội của hai khu, trận đấu giữa hai đội độc thân, trận đấu giữa đội nhà bếp với “đội tuyển trại”, v́ đội nhà bếp có nhiều cầu thủ ngon lành lắm, ..v..v…Có điều là trận banh càng dở chừng nào càng làm cho khán giả cười đến đau bụng lận.
    Sau Tết, khoảng trung tuần tháng 03/1983, một số các anh cấp Đại Tá đă chuyển trại trên Yên Bái hồi tháng 10/1977, lại chuyển đến trại Nam Hà. Lúc ấy tôi mới biết các anh ấy từ Yên Bái chuyển xuống trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú, sau đó chuyển vào trại Thanh Phong tỉnh Thanh Hóa. Tại đây một số trong số đó chuyển vào các trại trong Nam, và số c̣n lại chuyển đến trại Hà Tây tỉnh Hà Sơn B́nh, nay cả trại Hà Tây chuyển đến đây.
    Tháng sau đó, khoảng 200 cấp Đại Tá trong trại Nam Hà A -kể cả số Đại Tá từ trại Hà Tây mới chuyển đến- cùng chuyển vào Nam, và nghe đâu bị nhốt trong các trại tập trung ở Xuân Lộc với Hàm Tân. Riêng số bạn cấp Đại Tá hoặc viên chức hành chánh cao cấp trong Tổ Dịch Thuật từ Hà Tây đến, không một bạn nào chuyển vào Nam. Tổ này chuyên dịch các tài liệu và các sách Anh ngữ lẫn Pháp ngữ, nghe nói do cơ quan nghiên cứu ǵ đó thuộc Bộ Quốc Pḥng của cộng sản đưa dịch. Trong số các bạn từ Hà Tây xuống, c̣n có các vị cựu Tướng Lănh và bị nhốt riêng trong buồng giam số 3. Các vị không ra ngoài lao động mà chỉ quanh quẩn trong khuôn viên buồng giam này.
    Trở lại Đội 5 chúng tôi trồng bí rợ và trồng khoai ḿ trong thung lũng cỏ tranh. Bên ŕa thung lũng có một khu đất nho nhỏ chưa thể gọi là “nghĩa trang” nhưng cũng có một số mộ của tù chính trị lẫn tù h́nh sự. Mỗi khi có một tù nhân chết, họ sai hai tù h́nh sự khiêng cái gọi là quan tài đi chôn. Các anh h́nh sự cứ chỗ nào tiện đào là bỏ quan tài xuống đó mà lấp đất, tiện nhất là cứ t́m cái mộ nào thân nhân đă hốt cốt rồi quẳng cái quan tài xuống rồi lấp đất sơ sài là xong. V́ vậy mà những ngôi mộ ngang dọc rất ư lộn xộn, không biết đầu đít ngôi mộ ở phía nào v́ không có cái ǵ khả dĩ thay thế mộ bia. Sở dĩ chúng tôi biết có khu mộ này là do con gái của anh chị Tạ nói. Lúc nửa giờ nghỉ trưa, tôi nhờ Hổ với Tâm, hai anh bạn tù trẻ trước kia thuộc Đội 20, lén theo con bé để nó chỉ khu mộ đó để biết mà đốt nhang khi có thể thực hiện được.
    Nhân tháng “Thanh Minh”, tôi với Hổ lén đến khu mộ toàn cỏ tranh rậm rạp cao khỏi đầu. Hóa ra là gần cái cḥi của hai con bé Oanh và Loanh. Hầu hết đă bị trâu ḅ dẫm nát và gần như chỉ c̣n một nhúm đất cao thôi, nếu không được hai cô bé tội nghiệp kia chỉ từng nhúm đất th́ không thể nhận biết đó là ngôi mộ, ngoại trừ mộ của anh Khoa là dễ nhận. Thật là buồn! Đồng đội và đồng tù của chúng tôi khi từ giả cuộc đời không một người thân bên cạnh! Ngày vào trại tập trung với nguyên vẹn một con người từ thể xác đến tinh thần, ngày ra khỏi cổng trại lại nằm trong cái quan tài nhỏ bé tồi tàn, máng trên hai ṿng giây với cây đ̣n dài do hai chú tù h́nh sự khiêng đến chân núi bên kia trại mà ”yên nghỉ” dưới lớp đất sơ sài gọi là những nấm mộ!
    Sau khi cắm nhang xong, tôi nói với chú Hổ:
    “Hổ, ḿnh đứng yên lặng và cúi đầu một phút để tưởng nhớ các bạn đồng tù đă không c̣n nữa nghe Hổ!”
    Xong. Tôi với Hổ lần lên triền núi thử t́m hai ngôi mộ mà lúc cầu cơ có hai hồn nhập vào nói là sĩ quan Hoa Kỳ chết v́ kiệt sức tại trại Nam Hà A này, nhưng không t́m được bất cứ dấu vết ǵ để có thể xem đó là nấm mộ cả. Thuật chuyện quí vị quí bạn nghe như cả buổi trời, nhưng thật ra chỉ trong khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ là chúng tôi quay về, v́ e thằng vơ trang biết được th́ phiền lắm.
    Nỗi khổ của nữ công nhân.
    Trưa hôm sau, tôi nhờ Hổ lén sang nhờ hai con bé Oanh với Loanh làm cỏ quanh những ngôi mộ, nhưng hai con bé này đ̣i đến 5.000 đồng tiền công, đào đâu ra ngần ấy tiền v́ chúng tôi ước tính năm bảy chục đồng th́ chấp nhận được. Thế là anh Huỳnh Chí Tài -quốc tịch Hong Kong- bị Công An bắt v́ cờ bạc rồi đưa vào nhốt chung với chúng tôi, cùng với chú Hổ t́nh nguyện mỗi trưa lén sang làm cỏ.
    Cũng may là vài hôm sau đó, tên vơ trang gọi tôi:
    “Anh Hoa, anh vô Đội 4 Nông Trường chè (trà) với tôi”.
    “Chi vậy cán bộ?”
    “Đi chơi mà. Nếu tiện th́ mua ít đổ (đậu) xanh về nấu chè ăn”.
    “Xa không cán bộ?”
    “Khoảng 1 giờ đi chân”.
    “Liệu cán bộ Cảnh -quản giáo- có cho tôi đi không?”
    “Tôi nói với cán bộ Cảnh rồi”.
    “Không được cán bộ, tôi phải hỏi cán bộ Cảnh cho chắc”.
    Hắn ở đằng cḥi, nghe nói thế bèn lên tiếng:
    “Tôi đồng ư anh đi với cán bộ Minh, nhưng phải trở về đây trước giờ về trại”.
    Tôi xoay sang tên vơ trang: “Cán bộ chờ tôi một chút”.
    Tôi gọi chú Hổ:
    “Hổ, chú rủ anh Tài sang khu mộ làm cỏ được rồi, v́ tôi đi với cán bộ Minh cũng phải 3 tiếng đồng hồ lận. Áng chừng hai tiếng đồng hồ là quay về đây nghe Hổ”.
    Tên vơ trang đi trước, tôi theo sau. Băng qua làng người cùi, ngang qua khu rừng chồi, bắt đầu vào khu vực Đội 4 Nông Trường Trà ở thượng nguồn thung lũng. Hắn mặc đồ Công An, tôi mặc quần áo tù. Đứng trước gian nhà thật nhỏ ngay đầu dăy, đang có sáu cô gái ngồi bên trong. Một trong sáu cô gái vui vẻ:
    “Chào anh Minh”. Rồi cô ta nh́n tôi: “Chào anh”.
    Tên Minh đưa tay về phía tôi:
    “Giới thiệu với các cô, đây là anh Hoa”.
    Cô vừa chào, lên tiếng:
    “Mời anh Minh và anh vào. Các anh thông cảm cho cảnh nghèo của chúng em nhé!”
    Tên Minh có vẻ nịnh đầm:
    “Sao hôm nay cô Lan rào đón thế?”
    Hai cô cầm hai chiếc ghế đẩu mời ngồi cạnh cái bàn già nua ọp ẹp, trong khi bốn cô kia ngồi chung trên cái giường cá nhân mà tuổi đời với phẩm chất của nó cũng tương đương với cái bàn. Tên Minh hỏi:
    “Tất cả các cô ở chung gian nhà này à?”
    Cô gái tên Lan trả lời:
    “Không anh à! Mỗi gian chúng em ở hai hoặc ba người. Gian này em ở với chị Ánh. Đây là nhà ở, vừa là văn pḥng của Đội 4”.
    Cô ta quay sang tôi:
    “Mời anh dùng chè. Anh có dùng chè xanh được không? Ở đây chúng em nghèo lắm, chè này nếu phải mua chúng em cũng không có tiền mua đâu. Đây là chè xanh trên mấy ngọn đồi mà các anh vừa đi qua đấy”.
    Từ nảy giờ tôi im lặng ḍ xem thái độ các cô gái này đối với tôi xem sao, v́ trông vào bộ đồ của trại tù tất nhiên các cô này đoán biết tôi là tù. Các cô nh́n tôi, nh́n thẳng lẫn nh́n lén. Có lẽ các cô muốn nhận biết người miền Nam như thế nào, cho dẫu người miền Nam đang đối diện với các cô là tù chính trị.
    “Cám ơn các cô. Đến nay là hơn 7 năm tôi ở trong các trại trên đất Bắc, tôi uống trà xanh này khá nhiều. Có nghĩa là tôi uống được. C̣n các cô than nghèo, thật ra đất nước nghèo, người dân nghèo, điều này cả nước biết mà. Tôi xin hỏi, các cô có biết tôi là thành phần nào ở vùng này không?”
    “Dạ có, v́ nơi anh ở là trại Ba Sao, nơi anh đang ngồi là nhà chúng em ở Nông Trường Ba Sao, nên chúng em biết”.
    “Vâng. Cám ơn các cô”.
    Cô Ánh hỏi tôi:
    “Anh có đến đây lần nào chưa?”
    “Đây là lần đầu tiên. Chẳng lẽ cô nghĩ tôi muốn đi là đi được sao?”
    “Xin lỗi anh”. Im lặng một lúc, cô ta nói tiếp:
    “ Chắc anh chưa biết hoàn cảnh của chúng em. Trong Đội 4 này có 102 công nhân, nhưng có đến 100 nữ mà chỉ có hai nam công nhân thôi …”.
    Tên vơ trang cắt ngang dường như nó quê v́ không cô nào nói chuyện với nó:
    “Trong số 100 cô, có bao nhiêu cô có chồng?”
    “Chỉ có hai chị có chồng”. Cô Lan trả lời.
    “Buồn nhỉ?”
    “Anh nói anh buồn hay anh nói chúng em?”
    Tên Minh ú ớ măi mà chưa trả lời, tôi mĩm cười:
    “Có lẽ cán bộ Minh muốn làm người thứ 3 lập gia đ́nh ở đây nhưng chưa rơ ư các cô ra sao th́ phải”.
    Cô tên Ánh nói như một lời than:
    “Không ai đến đây với chúng em đâu anh!”
    Ngưng một lúc, dường như cô ta đang xúc động!
    “Chúng em biết số phận của chúng em trong xă hội này lắm anh. Có khi cả năm mới có một vài anh v́ lư do ǵ đó mới tạt vào đây, chứ chẳng anh nào muốn làm bạn với những cô gái lam lũ quanh năm chỉ quanh quẩn những đồi chè như chúng em đâu!”

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7C / Trại tập trung Nam Hà 3
    P4


    “Tôi là người miền Nam, nhưng các cô đừng nghĩ là tôi quá lời về miền Nam chúng tôi. Miền Nam chúng tôi có rất nhiều đồi trà mênh mông bao quanh thành phố Plei Ku và vùng Bảo Lộc, mà là có từ bốn năm chục năm trước. Nhưng ngay trong mấy chục năm chiến tranh mà công nhân vẫn có mức sống cao cùng với mọi tiện nghi trong gia đ́nh, và hưởng mọi tiện nghi tân tiến trong xă hội nữa. Thật ḷng mà nói, tôi không hiểu tại sao đời sống của các cô như thế này?” Tôi xin hỏi thêm, theo các cô th́ những cô gái ở các vùng khác có cuộc sống khá hơn các cô ở đây không?”
    Tên vơ trang lên tiếng:
    “Tại v́ chế độ trong đó thoáng hơn”.
    Tôi đáp với chút ngạc nhiên: “Có thể là như vậy”.
    Lẽ ra tôi phải nói chính xă hội chủ nghĩa làm cho dân nghèo, đất nước nghèo, nhưng dù ǵ th́ thằng này cũng là Công An cai tù, nói như vậy cũng đủ rồi. Câu của hắn vừa rồi, không hiểu là hắn muốn bẫy tôi, hay trong lúc bất chợt hắn bộc lộ nhận thức chính trị trong con người thật của hắn? Hắn hỏi tôi:
    “Anh có đọc bài báo viết về Nông Trường Chè Sông Bôi chưa?”
    “Có, v́ tôi phụ trách đọc báo trong buồng giam”.
    Cô tên Lan hỏi tôi: “Bài báo nói ǵ vậy anh?”
    “Tôi không biết là có nên nói hay không nữa”.
    Đó là cách gợi thêm tính ṭ ṃ của cô ta nên tôi bỏ lửng như vậy. Tên Minh châm mồi:
    “Bài báo nói bên Nông Trường Sông Bôi có đến mấy trăm cô chưa chồng đó mà”.
    Cô Lan tỉnh bơ:
    “Tưởng ǵ chứ tin đó b́nh thường thôi. Hiện giờ công nhân nữ ở Nông Trường nào cũng thế đấy. Bộ anh Minh tưởng Nông Trường này ít à!”
    “Tôi thấy bài báo nói ở đó hơn 400 cô chưa chồng, nhưng không thấy nói tổng số các cô ở đó là bao nhiêu nên chưa thể nói là nhiều hay ít”.
    “Họ nói chưa đúng đâu anh …..”.
    Tên Minh cắt ngang:
    “Chẳng lẽ cứ câu chuyện này măi sao!
    Như một lời than, cô Lan nói:
    “Thú thật với các anh, chuyện của chúng em ở cái xó rừng này quanh quẩn chỉ thế thôi. Đó là sự thật không thể chối bỏ, đến mức chúng em xem nó b́nh thường nên chẳng tránh né ǵ cả”.
    Không thể chần chờ được nữa v́ phải một tiếng đồng hồ đi bộ để c̣n kịp giờ về trại, tôi nhắc tên vơ trang ra về. Cô Lan vào trong cầm ra một bọc giấy nhỏ:
    “Anh Minh cho anh Hoa nhận trà xanh đem về trại uống được không?”
    “Được”. Anh Hoa nhận đi”.
    Cô ta quay sang tôi:
    “Anh Hoa, anh mang trà này về trại uống. Ở đây chúng em chỉ có thế”.
    “Cám ơn cô. Chào các cô”.
    Sau lời chào đó, tất cả các cô bước ra cửa vẫy tay như một cử chỉ thân thiện. Trên đường về, tôi hỏi:
    “Bộ thanh niên vùng này không thích cưới vợ là công nhân ở các Nông Trường sao cán bộ?”
    “Anh không biết. Thời bây giờ chẳng anh nào lao đầu vào cưới các cô không có kinh tế cơ bản cả. Tôi không rơ trong Nam các anh ra sao, nhưng ngoài này (tức đất Bắc), sắc đẹp là thứ yếu, kinh tế (ư nói có tiền) mới là chủ yếu”.
    “Cán bộ có thể nói trường hợp điển h́nh được không?”
    “Bất cứ cô nào trong số đó, nếu chuyển sang làm mậu dịch viên (tức là đứng bán hàng) là tôi cưới ngay. Làm mậu dịch hoặc nghề máy khâu (thợ may) th́ có đồng vào, chứ cưới vợ mà vợ không đẻ ra tiền lại đẻ ra con th́ chết sớm thôi. Thanh niên ngoài này (tức trên đất Bắc) thế đấy”.
    “Tôi nhớ ra rồi. Có lần cán bộ Giao nói với anh em chúng tôi rằng, sở dĩ cán bộ Giao không cưới cô Liên em gái cán bộ Thịnh (khuỳnh), mà cưới cô nào đó làm thợ may ở Ninh B́nh v́ cô thợ may có tiền vô hằng ngày, dù rằng cô đó kém cô Liên về sắc đẹp. Cán bộ Giao c̣n nói cô Liên chỉ là công nhân nhà bếp, vài chục đồng lương mỗi tháng làm sao mà sống”.
    “Thanh niên miền Bắc chúng tôi vậy đó anh. Anh biết vợ cán bộ Lực không?”
    “Biết, v́ khi Đội chúng tôi trồng rau dưới đồng, cô ấy hay xuống xin rau”.
    “Xấu như ma lem mà ông Lực vẫn cưới, chỉ v́ bố vợ ông Lực là Đại Úy trưởng pḥng tổ chức của trại, nên ông Lực nương vào bố vợ để tiến thân. Nhờ vậy ông Lực mới được cái chức trưởng toán trực trại chứ b́nh thường th́ đừng ḥng”.
    “Cán bộ có biết vụ cán bộ Hèo từ hôn với cô nào đó không?”
    “Có chứ. Bị ông bố ép quá nên ông Hèo mới chịu làm lễ đính hôn với cô công nhân trồng cói (tức lát làm chiếu). Mà anh có nghe nói ǵ về cô đó không?”
    “Không, cán bộ”.
    “Cô ấy nom xinh xinh nhưng v́ không có kinh tế cơ bản, nên sau một tháng đi lại với nhau th́ ông Hèo bỏ luôn”.
    “Theo cách nh́n của tôi, cán bộ Hèo hành động như vậy không đúng. Thà không chịu từ lúc đầu, đằng này cán bộ Hèo dắt cô ta về quê cả tuần rồi dứt giây là không tốt”.
    “Anh nói theo anh ở trong Nam, chứ thanh niên ngoài Bắc này nhất trí (tức đồng ư) với hành động của ông Hèo”.
    Qua câu chuyện vừa rồi, tôi nhận ra vài điểm sau đây:
    - Thật ḷng mà nói, lời của các cô gái xă hội chủ nghĩa ở Nông Trường trà vừa rồi, chính là những lời than tự con tim các cô ấy rất là tội nghiệp! Các cô nói lên sự cùng cực về vật chất, và cùng cực về t́nh yêu trai gái như một số phận! Chấp nhận một cách tự nhiên như hơi thở từ giây này sang giây khác vậy! Nhưng tôi không cho là số phận, mà chính là tội ác của lănh đạo cộng sản Việt Nam đă đẩy xă hội miền Bắc xuống đến tận cùng của đau khổ!
    - Lời của tên Minh vơ trang “tại v́ chế độ trong đó thoáng hơn”, tôi tin là hắn bộc lộ bản chất thật trong con người của hắn. Hắn nhận ra điều đó, nhưng hắn không thể nói với đồng chí của hắn, và trong lúc bất chợt hắn không kịp nén lại bên trong mà thốt nên lời. Chừng như hắn nhận ra sự lỡ lời đó nên hắn xoay sang đề tài khác.
    - Vậy là quan niệm hôn nhân của thanh niên xă hội chủ nghĩa trên đất bắc này không c̣n lồng trong cái gọi là lư tưởng cộng sản nữa, mà là gói gọn trong vật chất dù chỉ là mớ vật chất nhỏ nhoi của cô thợ may hay cô gái bán hàng mà họ gọi là mậu dịch viên. Hoàn toàn không c̣n t́nh yêu trong hôn nhân nữa.
    Những nhận xét trên đây, chính là ông Hồ và những nhóm lănh đạo cộng sản Việt Nam, vừa xây dựng con người trên nền tảng duy vật vừa phá tan đạo đức dân tộc để thay vào đó cái gọi là đạo đức cách mạng, chỉ biết nghe theo đảng và chết cho đảng. Hoàn toàn không có cái ǵ thuộc về bản thân của những thế hệ thanh niên đúng nghĩa thông thường nữa.
    Miên man trong câu chuyện xă hội chủ nghĩa mà lần đầu tôi được biết qua những cô gái vừa nghèo vừa khổ, mà về đến Đội lúc nào không hay. Khi tiếng chú Hổ gọi tôi mới ngưng suy nghĩ v́ đến cái cḥi của chúng tôi rồi.
    Tôi rút cây viết ra v́ trong cây viết có cái đồng hồ nhỏ xíu mà vợ tôi cho hồi đầu năm nay, thấy c̣n th́ giờ, tôi đi một ṿng xem qua những đám bí rợ và khoai ḿ. Bí rợ th́ vài tuần nữa là hái được, nhưng khoai ḿ c̣n phải vài tháng nữa. Trồng khoai ḿ th́ sau khi bỏ “cọng hom” xuống cái hốc, cứ chờ đến ngày nhỗ lên lấy củ, trong khi dây bí rợ ḅ tứ tung phải kéo đầu nó để lên các tảng đá hoặc những nhánh cây nhỏ cho nó bám vào. Khi bí rợ ra hoa mà hoa th́ có hoa đực hoa cái, cứ mỗi sáng anh Nguyễn Xuân Dung (Đại Tá Thiết Giáp) được phân công, len chân vào đám bí ngắt “hoa đực” đem cắm vào “hoa cái” gọi là “thụ phấn” để có đủ âm dương mà kết thành trái. Đúng ra theo tự nhiên th́ “hoa cái” thụ phấn do ong, bướm, kiến, đậu trên hoa đực rồi bám vào hoa cái, thế nhưng “nước sông công tù” nên dư nhân công để làm “cái việc ấy” thay ong bướm. Khi từ nụ hoa kết thành trái th́ phát triển nhanh lắm. Đến khi không cần cho kết trái nữa sau khi mỗi giây chỉ để 2 trái cho nó lớn, chúng tôi tha hồ ngắt đọt bí và bông bí luộc hay nấu canh đều ngon cả. Tôi nói luộc hay nấu canh, quí vị quí bạn nghe như những món ăn “đâu ra đó” chớ thật ra chỉ là nồi nước với đọt bí bông bí bên trong, đổ nước ra gọi nó là luộc, để nguyên nước cho vào chút muối với chút bột ngọt gọi nó là canh.
    Nỗi khổ của hai ba thế hệ.
    Nơi mà chúng tôi chọn làm cái lều nhỏ xíu để nấu nước cho Đội và anh em tự nấu cái ǵ đó để ăn, là ngă ba đường ṃn. Con đường ṃn này dài theo thung lũng, có cái ngă ba leo lên dốc núi khá cao để qua thung lũng bên kia núi thuộc tỉnh Hà Sơn B́nh, v́ bên đó có nhiều người dân từ Phủ Lư vào khai phá trồng trọt. Trong số những người dân làm lụng bên đó có một gia đ́nh bốn người, gồm: Một ông già khoảng 60 tuổi với 3 đứa cháu: Một cô gái khoảng 20 tuổi, và hai cậu bé 12 và 14 tuổi. Theo lời ông cụ, mỗi lần vào là ở đó một tuần, về lại Phủ Lư vài ngày th́ trở vô. Nh́n thấy cả gia đ́nh gánh khoai ḿ từ thung lũng bên kia, leo lên đỉnh núi cao, lại tuột dốc xuống thung lũng chúng tôi đang làm, lại leo lên cái đỉnh núi nữa mới xuống đến con đường đá gần nhà thăm nuôi để ra Ba Sao rồi về Phủ Lư. Những củ khoai ḿ cột chặt ở hai đầu cây tre mà gánh. Ông cụ với cô gái, mỗi người khoảng 15 kí lô, mỗi cậu bé 7 kí lô. Nh́n tận mắt cái lam lũ của gia đ́nh này thật là tội nghiệp! Cuộc sống của họ bi đát quá! Hơn 20 năm sống trong xă hội xă hội chủ nghĩa trên đất Bắc cằn cỗi này, họ chỉ được ăn những củ khoai ḿ mà họ đổ ra biết bao công lao cộng với hiểm nguy của núi rừng mới có được! Nếu muốn ăn gạo, phải bán 3 kí lô khoai ḿ mới đủ mua 1 kí lô gạo.
    Từ khi Đội chúng tôi vào đây, mỗi khi gia đ́nh này cũng như những gia đ́nh khác đi ngang đều ghé vào lều xin nước uống, v́ chúng tôi luôn có nước trà. Một hôm tôi hỏi:
    “Mỗi lần vào rẫy, bác phải mang theo thức ăn hay vào mua trong đó?”
    “Đâu có mang ǵ theo ngoài gạo hoặc bắp với muối. Trong đó cũng đâu có ǵ ăn được ngoài rau, mà rau đâu phải lúc nào cũng có. Khi trồng chưa ăn được, phải chia nhau vào rừng t́m những thứ ăn được hái về ăn”.
    “Bác làm ǵ ăn khi có rau?”
    “Luộc chấm với muối chớ có ǵ khác đâu ông”.
    “Bác có quen dùng bột ngọt không?”
    Ông già hỏi lại: “Ông nói bột ngọt là ǵ thế?”
    Cậu bé nhanh miệng: “Là ḿ chính đó Nội”.
    Tôi hỏi cậu bé:
    “Vậy là ở nhà có dùng phải không cậu bé?”
    “Dạ có, nhưng ít khi lắm, v́ phải mua”.
    “Bây giờ tôi biếu bác một ít đủ nấu canh trong mấy hôm ông với các cháu ở trong rẫy. Dù sao th́ có chút canh dễ ăn hơn”.
    Tôi quay sang chú Hổ:
    “Hổ ơi! Chú ráng cho ông cụ đầy hai muỗng bột ngọt nghe Hổ”.
    Nh́n thằng bé cứ mân mê gói bột ngọt chút xíu trên tay với nụ cười vừa dễ thương vừa tội nghiệp! Chừng như nó đang nghĩ là sẽ được những bữa ăn ngon do cái gói nhỏ xíu này vậy!
    Ông già run run:
    “Cám ơn ông. Thật là quí hóa quá”.
    “Không có chi đâu bác. Chắc bác cũng biết, trong hoàn cảnh chúng tôi chẳng phải nhiều nhỏi ǵ, nhưng giúp nhau được ǵ th́ anh em chúng tôi không hẹp bụng đâu”.
    “Chúng tôi biết. Ngoài Phủ Lư cũng biết. Tuy các ông như vậy (ư nói ở tù th́ phải), nhưng cuộc sống của các ông vẫn hơn chúng tôi nhiều. Chúng tôi làm ǵ có cơm trắng như các ông, chỉ mong ăn no chứ đâu dám mong ăn ngon”.
    “Thật t́nh tôi không ngờ cuộc sống của người dân đất Bắc xă hội chủ nghĩa này kém cuộc sống của người dân trong Nam chúng tôi không thể tưởng tượng được, dù rằng chúng tôi phải đương đầu với chiến tranh triền miên do ngoài này gây ra”.
    Ông già buông một lời than rất tội nghiệp:
    “Ngoài này nghèo lắm ông ơi!”
    Trong cái cḥi của chúng tôi có cái vạt giường nhỏ xíu và cái bàn ăn cũng nhỏ xíu, là tôi trả công cho hai cô con gái của anh chị Tạ bằng 100 gram bột ngọt. Hai con bé vào rừng t́m những sợi giây leo cở ngón tay út, phơi vài nắng cho dai rồi kết lại thành cái vạt giường nằm êm lưng lắm. Cái chân bàn bằng cây rừng, cái mặt bàn làm bằng cây chổm. Trước khi về trại phải đem giấu trong bụi rậm chớ để đây là mất, v́ khu vực này có tù h́nh sự thường đi ngang để vào làng cùi mua ǵ đó cho những tên Công An cai tù.
    Thời gian cứ tuần tự trôi qua và đám bí rợ đến ngày cắt trái. Đội chúng tôi cắt và gom lại một chỗ, Đội khác vào đây khiêng về. Phải một tuần lễ mới cắt hết trái. Tổng cộng lần cắt bí này mà họ gọi là thu hoạch đầu tiên, bộ phận kế hoạch cân được 2.600 kí lô. Thật ra, trước khi cắt bí th́ anh em chúng tôi tự do ăn cắp những trái nho nhỏ đem về trại luộc, xào, kho, hay nấu canh. C̣n tại chỗ th́ cắt ăn công khai. Ngay cả quản giáo với vơ trang, cho dẫu có lục lọi cách mấy cũng không thể nào t́m thấy tất cả trái bí.
    Khu vực này khoảng 2 cây số vuông, rất nhiều tảng đá hốc đá mà ở đó giây bí trái bí chen lẫn với cỏ tranh và cây dại hoa dại. Tôi, anh Trần Ngọc Thống, và anh Nguyễn Xuân Dung chuyên viên thụ phấn, chúng tôi biết rơ những trái bí nằm ở đâu v́ chúng tôi giấu nó từ lúc c̣n nhỏ, nên chúng tôi chỉ chỗ cho các bạn ăn cắp. Với lại theo lời của cán bộ Cảnh -quản giáo- th́ bộ phận kế hoạch cho là “được mùa bí” nên họ chỉ kiểm soát qua loa chớ không hạch hỏi ǵ. Nói chung là họ không thể t́m thấy “cái bê bối” về cái gọi là “chỉ tiêu” đă giao cho chúng tôi.
    Tôi xin nhấn mạnh, cái không khí dễ chịu đó không phải do chính sách của họ, mà là do chúng tôi mua chuộc mới có kết quả như vậy. Bất cứ lợi ích nào cũng có cái giá của nó mà. Trong nhà tù cũng vậy, nếu ḿnh nhận ra được yếu điểm của họ trong khi ḿnh có thể và có cách trả giá th́ cái giá sẽ nhẹ nhàng.
    Bếp của Đội chúng tôi có anh bạn sồn sồn và hai chú bạn trẻ. Trẻ là chú Hổ nấu cơm và chú Phùng A Ốn nấu nước. Sồn sồn là anh Trương Đ́nh Thăng (Đốc Sự Hành Chánh) lấy củi cung cấp cho Hổ và chú Ốn. Anh Thăng cẩn thận lắm, khi vác củi về c̣n chặt nhỏ phơi khô mới giao “nhà bếp”. Nhờ vậy mà cứ vào đến cḥi một lúc là chú Ốn gọi các bạn đến lấy nước sôi, v́ ḍng nước bên cạnh trong khi có sẳn củi khô. Các bạn cần nấu cơm th́ đến suối vo gạo, cho nước vào rồi đem gởi chú Ốn vừa nấu nước vừa nấu giùm những lon gô hoặc gà mèn cơm hoặc canh. Những cái có quai th́ chú máng quanh miệng thùng nước, những dụng cụ nấu nướng mà không quai, chú cào than ra ngoài và để lên đó.
    Một hôm anh Thăng vác củi về là “tấn công” tôi:
    “Anh Hoa, hai d́ cháu con nhỏ đó hỏi thăm anh ḱa”.
    “Ǵ kỳ vậy. Hai d́ cháu nào mà hỏi bất tử vậy cha nội?”
    “Đừng vờ vịt nữa. Tuần trước có hai người, một sồn sồn một trẻ xinh xinh, ghé lều xin nước uống đó chớ ai. Có không? Khai mau lên?”.
    “A! Hôm ấy là chú Hổ mời uống nước chớ hổng phải tôi à nghe. Lúc tôi vác cuốc về lều cũng là lúc bà ta đi ra, chớ có nói ǵ đâu mà bây giờ hỏi thăm”.
    Anh Thăng cười cười:
    “Tôi hổng biết, bà ta hỏi thăm th́ tôi chuyển lời thôi. C̣n muốn biết có hay không th́ hôm nào d́ cháu người ta đi ngang chận lại mà hỏi”.
    “Anh quỷ quái lắm. Đă quen với ai trên núi rồi về đây kiếm chuyện phải hông? Khai thiệt nghe coi”.
    Chú Hổ nhảy vào: “Anh Thăng có bồ rồi anh Hoa ơi”.
    Anh Thăng xuống giọng chậm răi:
    “Đi trên núi, người ta chào ḿnh, ḿnh chào lại chớ có ǵ đâu”.
    Tôi bắt bí anh:
    “Vậy là nhận rồi hén. Người ta là ai? Khai lẹ lên”.
    “Người ta là d́ cháu đấy. Sao mà hỏi kỹ thế”.
    “Hỏi kỹ đặng nghiên cứu xem có nên mét hay không vậy mà”.
    Anh Thăng cười lớn:
    “Đó” th́ chưa rơ, chớ “đây” có hiếu với vợ lắm, đừng ḥng mà đe với dọa”.
    Tôi bèn cười theo:
    “Ô! Đây cũng thế. Vậy là Phe ta rồi. Cho bắt tay cái đi”.
    Vài nét đặc biệt.
    Trong Đội 5 chúng tôi hầu như mỗi người có cái nét ǵ đó, hay gọi cho oai là cái “tài” ǵ đó, chẳng hạn như:
    - Anh Huỳnh Văn Trứ (cựu Dân Biểu) là “kỹ sư” sửa đồng hồ. Đồng hồ hư nhận sửa đă đành, đồng hồ không hư cũng nhận sửa cho hư rồi sửa lại hết hư để khỏi cuốc đất.
    - Anh Nguyễn Khoa Phước (cựu Nghị Sĩ) là ca sĩ già với giọng rất hấp dẫn “phụ nữ”, nhưng tiếc một điều là trong trại tập trung này không có tù nữ.
    - Ông Lê Văn Sớt (Phủ Đặc Ủy T́nh Báo) nằm cạnh tôi, tóc bạc trắng nhưng không bỏ sót buổi tập thể dục nào. Tôi với ông Sớt, ai dậy trước th́ kêu người kia. Chúng tôi tập ngay trong mùng từ mờ sáng trước khi trực trại mở cửa buồng giam, chớ ra sân làm ǵ có th́ giờ mà tập.
    - Chú Nguyễn Văn Thuận (Sĩ quan Cảnh Sát) trong số các bạn trẻ của Đội 20, chuyên viên trốn lao động nhưng có tài kể truyện chưởng với những chi tiết được “pha chế” làm cho nội dung trở nên ly kỳ hấp dẫn.
    - Chú Tâm “mập” cũng là bạn trẻ trong Đội 20 cũ, “mê” khơi khơi một cô khi thấy cô ta về làng cùi thăm thân nhân. Mê đến nỗi lúc say rượu mà miệng cứ nói câu “nàng ơi, nàng đừng bỏ ta nghe nàng”. Bạn bè cười quá trời, v́ anh chàng Tâm thương cô nào đó chớ cô ta có thương lại đâu. T́nh yêu một chiều đó quí vị quí bạn à!
    - Chú Nguyễn Kim Tiếng (Cảnh Sát đặc biệt) cũng là bạn trẻ trong Đội 20 cũ, từ lúc ở tù không một thân nhân nào đến thăm. Ấy vậy mà chỉ hai bàn tay trắng trơn dần dần trở thành một trong những tù chính trị “giàu sụ” nhờ “bán hàng lậu” trong trại và ngoài trại. “Hàng lậu” thoạt nghe tưởng như ghê gớm lắm nhưng thật ra chỉ là những món lặt vặt như nắm rau, con cá, hộp sữa, trái chuối, củ khoai, … mua bên ngoài mang “chui” vào trại bán, mua áo quần từ bên trong mang “chui” ra ngoài bán. Nét đặc biệt của chú bạn trẻ này là khách hàng của chú, chẳng những là bạn tù trong trại, mà khách hàng c̣n là dân bên ngoài trại, và cả Công An cũng là khách hàng của chú nữa. Ngay đám nữ Công An bán hàng cho chú Tiếng đủ thứ hết, ngược lại th́ mua áo quần lẫn những thứ hàng thường dùng do trong Nam sản xuất hoặc hàng ngoại quốc, như xà bông thơm, viên thuốc tây, kem đánh răng, răng vàng, nhẫn vàng, nói chung là thượng vàng hạ cám trong trại tù có đủ hết. Cái hoạt cảnh vui nhộn hơn hết là lúc Nguyễn Kim Tiếng, cầm cây kềm cạy cái răng vàng c̣n trong miệng một bạn cần bán để có tiền mua thuốc lào. Phải công nhận Nguyễn Kim Tiếng vóc dáng không có ǵ hấp dẫn, nước da ngâm đen, nhưng nói chuyện kèm theo nụ cười rất có duyên.
    Khi có phương tiện trong tay kể cả tiền, chú bạn trẻ này dần dần mua chuộc được “Thịnh khuỳnh”, và mua luôn tên phụ trách giáo dục trại Nam Hà A là Vũ Quấc nữa. Nhờ vậy công việc “mua bán chui” vào trại ra trại an toàn mặc dù nội qui nghiêm cấm. Đến mức mua nguyên con dê của tên Niệm, phụ trách giáo dục toàn trại, khiêng vào trại bán lại anh em gần như công khai nhưng an toàn.
    Thấy vậy, Đội 5 chúng tôi chuẩn bị Tết Nguyên Đán đầu năm 1984. Nguyễn Kim Tiếng t́nh nguyện mua nguyên con heo làm sẳn từ những Công An “tóc dài”, đem vào trại bán lại cho anh em có thịt ăn Tết, chỉ cần lời bộ đồ ḷng nấu cháo cho cả Đội ăn là được. Thế là chiều 30 Tết, anh em trong Đội được ăn cháo ḷng đúng nghĩa của nó. Điểm đáng quan tâm là tất cả anh em trong Đội, đều chung tay góp sức vào tổ chức tất niên chiều nay. Bạn nào làm được việc ǵ th́ nhận ngay việc ấy, kể cả công việc lặt rau, kiếm củi, gánh nước, chụm củi, ..v..v.. Cũng xin nói thêm là mỗi khi chúng tôi “chui” được con dê hay con heo vào trại xẻ thịt bán cho nhau, th́ y như rằng, đám Công An trực trại cũng có bữa nhậu không mất tiền. Âu đó cũng là “ṣng phẳng theo luật chơi”, v́ nếu không như vậy th́ không thể nào “chui cả con heo con dê” vào trại được.
    Anh em chúng tôi khoái nhất là mua cá do đám Công An cai tù mang vào trại bán. Khoái là v́ bọn họ thức đêm thức hôm lặn lội xuống mấy cái hồ dưới cánh đồng chiêm câu cá, nôm cá, để rồi sáng sớm chúng nó đem cá chui vào cái khe thoát nước ở bờ tường đá tảng từ trong trại ra ngoài, sau đó chúng nó vào cổng trại túm cá trong cái bao đem bán cho chúng tôi. Chính v́ vậy mà chúng tôi sử dụng chút tiền với vật dụng có được, để khai thác đúng mức cuộc sống thiếu thốn của chúng nó, ảnh hưởng trực tiếp vào sinh hoạt hằng ngày của tù chính trị chúng tôi càng lúc càng dễ thở hơn. Có lần tên cán bộ Quan, trong lúc uống cà phê với anh Phạm Kim Qui ở hàng hiên buồng (giam) số 1, hắn buột miệng:
    “Tôi không hiểu tại sao khi mấy anh mới đến trại, chúng tôi bắt mấy anh phải đứng xa 6 mét mỗi khi cần nói chuyện với chúng tôi. Thật ra mấy anh rất tốt”.
    Tất nhiên là hắn chỉ nói với chúng tôi chớ đâu dám để “đồng chí” của hắn nghe câu nói ấy, v́ chúng nó có bao giờ tin vào chúng nó đâu.
    Trong trại tập trung Nam Hà A này, tuy là qua những góc cạnh nhỏ thôi, nhưng chúng tôi có nhận xét chúng nó rất luộm thuộm về mặt tổ chức. Chẳng hạn như cấm mang tiền vào trại, nhưng khi tiền vào trại rồi th́ tha hồ mua những thứ mà chúng nó đưa vào trại hoặc ngang qua các anh phụ trách mua hàng ở căn-tin của chúng nó ngay bên ngoài trại. Có lần bọn chúng đi săn được con nai, xẻ thịt để ở căn-tin bán từ sáng đến chiều không hết, bọn chúng mang vào bày ở giữa sân trại bán lấy tiền mặt mà không hỏi han ǵ về số tiền đó ở đâu ra. Sự thể như vậy, nhưng khi chúng nó khám xét lục soát buồng giam mà thấy tiền là tịch thu ngay trong khi chúng tôi không thể phân bua ǵ được, v́ trái nội qui. Cho nên mua bán có vẻ dễ dàng, nhưng lúc nào cũng phải cất giấu tiền bạc cẩn thận. Phần tôi, tôi giấu tiền trong cái hộp đựng sữa bột mà tôi thường dùng loại này để gởi được nhiều trang thư về vợ tôi. Chiếc nhẫn th́ giấu trong cái túi da đựng kem, bàn chải, xà bông, và dao cạo râu. Cái túi này có hai lớp mà phần đáy khá dày, để vào ngay lằn xếp và may dính vào đó.
    Đến đêm, anh em chúng tôi trong buồng giam này cùng đón Giao Thừa bằng hoạt cảnh Sớ Táo Quân, có đủ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào Bắc Đẩu, với Táo Quân. Nếu quí vị quí bạn đứng bên ngoài cửa sổ đầu hồi buồng giam, sẽ thấy chúng tôi cười đến ra nước mắt, và ngay sau đó là từng nhóm năm ba người quây quần bên những gói bánh mứt, những cái ca cái lon nước trà hoặc cái ǵ đó đựng chút cà phê. Nhóm nào trong số chúng tôi cũng nói chuyện râm ran với ư tưởng lạc quan về ngày ra khỏi trại tập trung, nhưng không có chuyện nào dẫn đến kết luận rơ nét cả, v́ lẽ chưa đủ yếu tố vững chắc mà toàn là đồn đoán trong dư luận, dư luận ở Sài G̣n, dư luận trong trại, và dư luận ngay trong buồng giam chúng tôi.
    Trong những ngày nghỉ Tết, hầu như tất cả tù chính trị chúng tôi quây quần với cờ tướng, bóng bàn, bóng chuyền, nhưng ba môn thể thao này có khuynh hướng ch́m dần trong khi môn bóng tṛn ngày càng được anh em hâm mộ. Vài tháng nay, hai khung thành của cái gọi là “sân banh” có lưới bọc phía sau và hai cạnh. Lưới này đan bằng giây thừng phế thải từ kho của trại. Anh Dương Huy Nam, Tổ Văn Hóa, xin được gói thuốc lá đầu lọc của một bạn vừa được vợ đến thăm nuôi, làm “ch́a khóa” (hối lộ) mở cửa nhà kho khiêng vào trại đống giây mục đứt nhiều đoạn. Lại phải trả công bằng 2 kí lô gị heo và 2 kí lô hủ tiếu cho mấy anh tù h́nh sự đan 2 lưới khung thành. Tuy không sắc sảo nhưng không đến nỗi tệ. Nói nghe nhẹ nhàng suông sẻ như vậy, nhưng thật ra cuộc sống trong trại tập trung mà chúng tôi làm được những chuyện như vậy không phải là dễ dàng, nếu như không có niềm tin vào tương lai dù chưa biết tương lai sẽ như thế nào, cộng với những phương tiện trong tay.
    Tấm ảnh đầu tiên.
    Tết năm 1984 này có sự kiện được xem là đặc biệt. Đó là tên trại trưởng trại Nam Hà A -Đại Úy Lới- cho phép gia đ́nh anh Nguyễn Viết Tân (Đại Tá Hải Quân) ở lại một tuần kể từ 27 Tết, để nuôi anh Tân trong t́nh trạng bại liệt do tai biến mạch máu năo. Gia đ́nh anh Tân gồm vợ và con gái tên Phương Nga. Nhà trực trại dành một pḥng trống nhỏ xíu để anh Tân được bạn khiêng từ trong trại ra nằm, vợ và con anh Tân từ nhà thăm nuôi vào đó chăm sóc anh. Hết giờ làm việc chiều, vợ con anh Tân trở ra nhà thăm nuôi, trong khi anh Tân được các anh Phan Văn Minh (Đại Tá Không Quân), Nguyễn Văn May (Đại Tá Hải Quân), và anh Phan Văn Phương (Thiếu Tá Hải Quân) khiêng vào trạm xá. Chị Tân và cháu Phương Nga có trường dạy “nữ công gia chánh” cùng tên Phương Nga ở góc đường Phạm Ngũ Lăo, gần chợ Thái B́nh, Sài G̣n. Chị Tân có mang theo nguyên liệu và dụng cụ làm bánh, kể cả mua than từ Hà Nội. Nhờ vậy mà mỗi đêm, chị Tân với “con gái rượu” của chị làm và nướng bánh, để sáng mang vào nhà trực trại hoàn chỉnh phần “bắt bông kem” để tặng Ban Giám Thị với trực trại gọi là “có đi có lại cho toại ḷng nhau”. Chị cũng tặng cho anh em chúng tôi gần phần nửa trong số bánh mà chị với con gái của chị làm. Đều đều như vậy trong một tuần lễ chị được phép chăm sóc chồng.
    Sáng Mồng Một Tết, theo đơn xin của chị Tân, tôi được ra nhà trực trại ngay trước cổng trại gặp chị. Lúc ấy cháu Nga lấy trong giỏ ra cái máy ảnh, tôi nói khẻ:
    “Nga, con cẩn thận”.
    Vừa nói tôi vừa chỉ tấm vách có chiều cao lưng chừng:
    “Bên kia họ trông thấy và theo dơi nghe con. Nếu họ bắt gặp con chụp ảnh, có thể họ sẽ tịch thu cái máy, mà hổng chừng sẽ có biện pháp ǵ đó trong những lần thăm nuôi sau này nữa nghe con”.
    “Dạ. Con cám ơn bác, con sẽ cẩn thận. Bác bước ra sát vách, con chụp lén cho bác một tấm ảnh đem về đưa cho bác gái”.
    Thế là cháu Nga ra ngoài cửa xem có tên Công An nào ở đó không. Vắng vẻ. Tôi bước ra ngoài đứng vào một góc trong khi cháu bước vào trong rồi quay lại bấm máy thật nhanh. Tuy tấm ảnh không thành công về mặt kỹ thuật, nhưng với tôi th́ thành công về tâm lư, v́ từ nửa ṿng bên kia trái đất, các con tôi trông thấy tôi qua tấm ảnh mờ mờ này.
    Đến trước ngày hết phép, chị Tân lại làm đơn xin cho tôi ra nhà trực trại lần nữa. Chị nói với tôi:
    “Anh biết không. Khi được trại cho phép ở lại một tuần, má con tôi mừng lắm. Nhưng ban đêm ở nhà thăm nuôi, má con tôi sợ lắm anh ơi! Nhà thăm nuôi sát chân núi, bên cạnh chỉ có dăy nhà của Công An, c̣n trước mặt là cái thung lũng mịt mù bóng tối. Nói thiệt với anh, má con tôi không dám ngủ cho nên phải thức làm bánh choán th́ giờ c̣n hơn là nằm mà run, v́ lúc nào cũng nghe như có bước chân bên ngoài. Không biết họ canh gác tuần tra hay ŕnh rập ám muội ǵ th́ không rơ, nhưng lúc nào má con tôi cũng sợ hăi!”
    “Tôi nghĩ, không phải chúng nó canh gác ǵ đâu v́ chúng nó đâu có sợ chị trốn mà canh giữ chị. Nhưng bên ngoài có người đi lại th́ không ai khác hơn là bọn chúng nó đâu chị”.
    “Suốt đêm, tôi với con Nga đâu dám ra ngoài. Hai má con cột cánh cửa dính vô cái ghế đặng không cho bên ngoài đẩy vào. Chỉ làm được như vậy thôi anh à”.
    “Thành ra tuần lễ Tết này chị với cháu Nga vất vả quá, nhưng bù lại có được thời gian trực tiếp chăm sóc anh Tân, phải hông chị?”
    “Con Nga nó vui lắm anh”.
    Last edited by alamit; 23-02-2013 at 03:46 AM.

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7C / Trại tập trung Nam Hà 3
    P5




    Tôi phải vào trại ngay để kịp đá banh. Tôi thuộc đội banh hạng B nên đá trước để c̣n th́ giờ cho hai đội hạng A. Tôi nói hạng A với hạng B chắc là quí vị quí bạn nghe có vẻ như “đâu ra đó” lắm, nhưng thật ra cứ anh nào nhanh tay lẹ chân mà biết kỹ thuật đá banh chút ít là hạng A, c̣n lại là hạng B chớ có ǵ ghê gớm đâu. Đang mùa Đông khá lạnh, cứ khoảng 5 giờ chiều là màn đêm xuống rồi. Sân trại toàn đá dăm mà chúng tôi gọi là “sân banh”, chiều nay “khán giả” đông nghẹt. Khán giả tù chính trị lẫn khán giả Công An vào xem. Cái lư do thu hút khán giả hôm nay là v́ có “con gái rượu” của anh chị Nguyễn Viết Tân đứng xem. Cháu Phương Nga, khoảng 20 tuổi. Chỉ có “khán giả dân” duy nhất này trở thành cái “đinh” của khán giả Công An. Đội h́nh đội banh buồng 5 chúng tôi với chú Đinh Vượng trong khung thành, tôi hậu vệ tḥng ở giữa, hậu vệ bên phải bên trái là anh Nguyễn Đức Đào với anh Hoàng Bá Thông. Trận banh bắt đầu độ 15 phút th́ tạm ngưng, v́ tên vơ trang mới lên phiên gác cổng bước vào hỏi cháu Phương Nga:
    “Cô là ai mà vào đây?”
    “Tôi đến thăm ba tôi là Nguyễn Viết Tân. Thấy đá banh vui tôi vào xem”.
    Hắn nạt: “Đi ra ngoài ngay”.
    Tiếng một bạn nào đó trong số khán giả tù chính trị chúng tôi:
    “Với phụ nữ phải lịch sự một chút chớ”.
    Hắn quay t́m hướng có tiếng nói: “Anh nào phát biểu đó?”
    Đâu có bạn nào điên mà lên tiếng, thế là hắn quê. Càng quê hắn càng tức, nhưng cũng tiết ra một chút lịch sự:
    Mời cô đi ra”.
    Không tên Công An nào có mặt lên tiếng cả, v́ đó là quyền của tên gác cổng. Lại có tiếng của một bạn tù chính trị: “Vừa phải thôi chứ”.
    Hắn không lườm lườm t́m ai nói nữa mà theo cháu Phương Nga ra cổng, rồi leo lên “chuồng cu” tiếp tục nhiệm vụ gác cổng.
    Những ngày Tết trôi qua… Đội 5 chúng tôi trở vào thung lũng cỏ tranh, chuẩn bị đất xuống 10.000 cọng hom khoai ḿ cho số lượng phải trồng trong năm 1984. Ngày đầu tiên vào thung lũng, tên Cảnh -quản giáo- và tên Minh -vơ trang- đồng ư cho Đội chúng tôi nghỉ trọn ngày. Tôi ướm thử tên quản giáo:
    “Nhân ngày Tết, cán bộ có thể cho một số anh em chúng tôi sang khu nghĩa trang cắm nhang cho bạn bè nằm ở đó được không cán bộ?”
    Hắn suy nghĩ một lúc:
    “Tôi đồng ư nhưng anh phải hết sức cẩn thận, v́ mấy ổng thấy chẳng những mấy anh bị mà tôi cũng bị kiểm điểm nữa”.
    “Hổ ơi! Chú lo cơm trưa cho tuị nó nghe. Chú chịu khó đi dọc theo thung lũng nhổ cải trời về luộc ăn với thịt heo kho cũng được lắm nghe chú”.
    Tôi với 10 anh nữa vẹt lau sậy và nhanh chân sang chân núi, nơi có một số mộ của các bạn. Đến nơi, tôi trao mỗi anh 5 cây nhang do hôm trước chị Tân cho tôi. Chúng tôi chia ra mỗi bạn đi một hướng, cứ thấy ngôi mộ th́ khấn vái cắm nhang mà không phân biệt mộ của ai. Thật ra cũng khó nhận ngôi mộ lắm, v́ mấy anh tù h́nh sự đấp sơ sài rồi trâu ḅ đạp lên, nên thấy đất cao cao một chút có vẻ như ngôi mộ là cắm nhang. Trong khi một số bạn theo tên vơ trang vào làng cùi, xem họ ăn Tết ra sao, và nếu có ǵ mua được th́ mua.
    Sau khi trở về cḥi, tôi với anh Thống đi ṿng quanh khu trồng cây “so đủa” mà họ giao chúng tôi trồng thử. Chúng tôi trồng hai bên đường ṃn dọc theo ḍng nước quanh co giữa thung lũng, khi nó cao ngang đầu người trông đẹp lắm. Cây “so đủa” là cây nhiệt đới, bông của nó nấu canh chua hoặc xào ngon lắm, v́ trên đầu của bông có cái hộc nhỏ chứa một chút mật, c̣n thân cây làm củi. Mùa hè và mùa thu, cây so đủa phát triển tốt như trồng ở miền Nam vậy, nhưng mới hai tháng mùa đông nó khuỵu hết trơn.
    Trồng khoai ḿ xong, chúng tôi phải trồng 1.200 hốc bí rợ mà họ gọi là bí đỏ, sau bí rợ là trồng bí đao mà họ gọi là bí xanh. Bí rợ trồng theo hốc cho ḅ lên những tảng đá, bí đao trồng theo luống và làm giàn h́nh chữ A, cao 8 tấc (0.8 thước), để hai hàng giây bí leo lên. V́ thung lũng này toàn đá tảng, cho nên có những giàn bí chỉ có năm bảy giây mỗi bên thôi.
    Tổ Văn Hoá.
    Một buổi chiều về đến cổng trại, tên Lực trực trại điểm số cho Đội vào, nhưng hắn bảo tôi:
    “Anh để Đội vào, c̣n anh đứng lại”.
    Khi Đội vào trại xong, hắn ra lệnh:
    “Ngay chiều nay, anh nhận bàn giao của anh Dương Huy Nam với trách nhiệm Tổ trưởng văn hoá, v́ anh Nam được tha ra trại. Nhận xong, anh dọn sang buồng 7 ngay tối nay”.
    “Sao lại là tôi?”
    “Thôi. Vô trại lo công việc đi, ở đó mà hỏi tại sao”.
    Anh Dương Huy Nam, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng tôi không rơ anh thuộc hệ phái nào, có điều tôi thắc mắc anh là thành viên đảng chính trị mà lại được ra trại một ḿnh.
    Anh Nam hướng dẫn tôi phải làm ǵ, khi có đơn thăm nuôi từ trực trại đưa vào, khi có báo do bộ phận giáo dục đưa vào, cho mượn sách và đ̣i sách, tổ chức vài môn thể thao để anh em vui Tết, nói chung là chẳng có ǵ gọi là quan trọng cả, v́ tên Vũ Quấc là Tổ Trưởng Giáo Dục mà Tổ văn hoá này dưới quyền hắn. Nói cho dễ hiểu là làm theo lệnh của hắn chớ có tự ḿnh đâu. Cái công tác tham mưu có ǵ ghê gớm mà Vũ Quấc cứ hỏi tôi:
    “Anh có nắm được không?”
    “Báo cáo “ban” có”.
    Ở trại tập trung này, tất cả tù chính trị chúng tôi lẫn tù h́nh sự, phải gọi những Công An dù là lính, hạ sĩ quan, hay sĩ quan, là “cán bộ”. Nhưng c̣n một “tầng lớp” nữa mà chúng tôi phải gọi là “ban”. Ban, nguyên chữ là “Ban Giám Thị” nhưng gọi tắt là ban. Khi đứng trước tên nào đó trong thành phần Ban Giám Thị mà cần báo cáo, phải nói: “báo cáo ban” …. Ban Giám Thị trại này chỉ năm ba người ǵ đó tôi không rơ, nhưng trường hợp Vũ Quấc mà anh em tù cũ -trước khi chúng tôi từ Yên Bái đến đây- đều gọi là “ban”. Do vậy mà khi cần nói ǵ với hắn, phải mở đầu: “Báo cáo ban” trở thành cái lệ không miễn trừ, dù hắn không thuộc thành phần để được gọi là “ban”, nhưng nếu gọi hắn là cán bộ th́ cái mặt của hắn trở nên cau có và có chuyện ngay.
    Hắn nói thêm:
    “Anh có điều ǵ không rơ phải hỏi anh Nam để được hướng dẫn”.
    “Báo cáo ban, tôi không có ǵ phải hỏi thêm”.
    Anh Dương Huy Nam hầu hạ tên Vũ Quấc này đến nơi đến chốn lắm. Mỗi năm có một hoặc hai lần nhà bếp có làm heo th́ y như rằng anh Nam xuống bếp -kể cả ban đêm- chỉ cho các bạn nhà bếp xén những phần thịt ngon cung cấp với tính cách riêng tư cho hắn. Nhiều anh em chúng tôi bất măn với anh Nam về cái việc cắt xén quyền lợi chung của cả trại để cung phụng riêng tư cho tên Quấc .
    Tôi đang muốn ra sân v́ trận banh gọi là tiễn anh Dương Huy Nam đang ồn ào ngoài sân trại. Sở dĩ có trận banh giao hữu giữa Đội banh tù chính trị chúng tôi với Đội banh Công An cai tù để tiễn anh Nam, v́ phong trào đá banh bắt đầu từ anh Nam nối vào anh Phước về tổ chức, và tôi phụ trách cung cấp banh do vợ tôi cho kể cả xin của các chị bạn. Cuối cùng tôi cũng vào đá hiệp hai. Đội tù chúng tôi thắng Đội Công An cai tù 4-2.
    Trở lại Tổ Văn Hoá. Năm 1978, khi chúng tôi từ trại Yên Bái chuyển xuống đây, văn pḥng Tổ Văn Hoá trong gian nhà ọp ẹp mà họ gọi là câu lạc bộ. Trong một cơn mưa giông đă đè cái câu lạc bộ nằm sát mặt đất nên Tổ Văn Hoá phải chuyển vào khuôn viên buồng giam số 10, sử dụng gian nhà để đồ đạc làm văn pḥng, c̣n buồng giam làm nơi hội họp được gọi là hội trường.
    Tổ Văn Hoá, ngoài Tổ trưởng, c̣n có cụ Hoàng Văn Úy (Việt Nam Quốc Dân Đảng), anh Đinh Tiến Dũng (Thiếu Tá An Ninh Quân Đội. Anh Dũng là em ruột của kịch sĩ Thanh Hoài), anh Khiêm (Thiếu Tá bộ binh), và bạn tù trẻ Đinh Vượng (tổ chức Phục Quốc). Đó là trong văn pḥng, c̣n phụ trách làm vườn trong khuôn viên buồng 10 là ông Vũ Văn Vỵ (đảng chính trị). Công việc gồm có:
    - Nhận đơn thăm nuôi do trực trại đưa vào, ghi vào sổ, gọi các anh có gia đ́nh đến thăm, hướng dẫn ra cổng cho trực trại.
    - Nhận báo. Vài ba ngày tên Vũ Quấc hoặc tên Dục -phụ tá tên Quấc- đem vào một lần. Chuyển đều cho các buồng (tù h́nh sự không có). Khi các buồng hoàn trả, cho vào tủ cất.
    - Trong trại có xảy ra việc ǵ làm mất trật tự th́ đến giảng ḥa, nếu không được th́ báo cho đám trực trại vào giải quyết. Các buồng giam tù h́nh sự đánh đấm đâm chém như cơm bữa, không đánh nhau cũng là tranh căi ồn ào.
    - Nếu có bạn nào bệnh bất ngờ, đi mời bác sĩ (cũng là bác sĩ tù) ở trạm xá lên hoặc khiêng bệnh nhân xuống trạm xá.
    - Điều hành công việc cho mượn sách. Trong ngăn sách có khoảng 700 cuốn, có đến hơn phân nửa là sách dịch của Nga.
    - Vài ba tháng, bộ phận giáo dục có đem phim vào chiếu ở sân trại. Thông báo các buồng đến xem. Phần lớn là phim của Nga.
    - Tổ chức văn nghệ và thể thao nhân ngày Tết, do anh em chúng tôi thực hiện.
    Trại trưởng mới, tù dễ thở.
    Bận rộn nhiều nhất của chúng tôi là đá banh. Từ đầu năm 1984, chúng tôi được tổ chức đá banh nếu có th́ giờ chớ không cần đến ngày nghỉ nữa. Thường th́ các Đội làm thông tầm về trại khoảng 2 đến 3 giờ chiều, hễ “cáp độ” được là ra sân đá ngay. “Cáp độ mà tôi dùng ở đây, được hiểu là có được hai Đội th́ đá chớ với nhau cho vui, chớ không mang tính chất ăn thua bằng vật chất. Xem như phụ trách cáp độ là ông Lê Phước Thưởng (đảng chính trị), tuy lớn tuổi nhưng tinh thần thể thao c̣n cao lắm. Ông thường đến các buồng cáp độ ra sân, có khi cáp độ ngay tại chỗ lao động nữa. Ông là cầu thủ Đội “lăo tướng”, đá hậu vệ, nhưng nhớ khoảng sau 10 phút là phải đưa lăo tướng khác vào thay để ổng ra ngoài đứng thở.
    Đội banh lăo tướng chúng tôi gồm: Anh Cao Văn Ủy thủ môn, ông Lê Phước Thưởng, ông Nguyễn Hữu Vị (Phủ Đặc Ủy T́nh Báo), ông Lê Văn Sớt (Phủ Đặc Ủy T́nh Báo), anh Phạm Kim Tấn góc trái (Trung Tá Cảnh Sát), anh Nguyễn Thành Long (Phủ Đặc Ủy T́nh Báo), và anh Trương Đ́nh Thăng (Đốc Sự Hành Chánh). Nhưng chỉ sau hai trận th́ Đội banh “trẻ” phản đối cầu thủ Thăng dữ quá, với lư do cầu thủ lăo tướng mà chưa đến 50 tuổi. Thế là phải “loại” anh Thăng ra và đưa cầu thủ Bùi Đức Tài vào. Anh Tài là cầu thủ góc mặt. Tôi phụ trách trọng tài có cái c̣i hẳn ḥi, chỉ vào trận khi thiếu “lăo cầu thủ”.
    Trong khi “phong trào” đá banh -tạm gọi như vậy- giúp anh em chúng tôi không bị nhốt trong buồng giam, thỉnh thoảng tên Vũ Quấc (tên của hắn viết như vậy đó), cán bộ giáo dục trại vào kiếm chuyện. Có hôm hắn nói đá banh gây ồn ào trong trại, có hôm hắn dọa đóng cửa buồng giam, và rồi hắn yêu cầu tên Lực, cán bộ trực trại nhốt tất cả vào buồng giam, nhưng tên Lực trả lời là Ban Giám Thị cho phép. V́ đó là quyền của trực trại nên hắn im. Trong thời gian gần đây, tên Quấc tỏ ra lấn quyền Trưởng Trại A mà tiêu biểu là gần như quyết định về thời gian thăm nuôi của tù chính trị chúng tôi. Không rơ hắn với Đại Úy Lới -Trưởng Trại A- như thế nào mà mỗi khi hắn cho ư kiến “thuận” sau khi nhận tiền đút lót, th́ hầu như Trưởng Trại đều chấp thuận đơn xin thăm gặp gia đ́nh theo ư kiến của hắn. Theo tên Dục, phụ tá cho hắn th́ hắn đang âm mưu “hạ bệ” tên Lới để hắn lên nắm chức Trưởng Trại A này.
    Dưới nét nh́n của chúng tôi, tên Thịnh “khuỳnh” trực trại là loại ác ôn về những sinh hoạt của tù trong phạm vi quyền hạn của hắn, trong khi Vũ Quấc vừa độc vừa đểu khi hắn cho ư kiến cái gọi là “nhận xét về mức độ cải tạo” của tù. Có thể nói một cách chắc chắn rằng, không một tên Công An nào trong trại Nam Hà A này chơi với hắn cả.
    Cuối cùng th́ trại Nam Hà A cũng có Trưởng Trại mới, nhưng không phải Vũ Quấc mà là Đại Úy Công An Bùi Dênh. Cũng từ đó, tên Vũ Quấc mờ dần ở vị trí cán bộ giáo dục trại A. Vẫn theo tên Dục, những đơn xin thăm gặp gia đ́nh của tù chính trị, tuy rằng Vũ Quấc vẫn có ư kiến nhưng không c̣n tính cách quyết định như thời tên Lới làm trại trưởng nữa. Tuy Bùi Dênh là loại vai u thịt bắp, nhưng hắn có chút ít cởi mở đối với tù chính trị chúng tôi. Tôi nhấn mạnh về “chút ít cởi mở” của Bùi Dênh, là do chính hắn sau một chuyến công tác trong Nam trở về Bắc, chớ không phải cởi mở do chính sách của Bộ Công An. Tiêu biểu cho “chút ít cởi mở” là Bùi Dênh cho phép gặp gia đ́nh 24 tiếng đồng hồ, đôi khi được 48 tiếng, và có trường hợp bệnh hoạn cần gia đ́nh chăm sóc sẽ được xét thăm gặp trọn tuần. Mặt khác, Bùi Dênh c̣n khuyến khích chúng tôi tiếp tục giữ phong trào đá banh.
    Phải công nhận rằng, được thăm gặp một ngày hay hai ngày, nói chung là nhiều giờ, ngoài chuyện riêng tư c̣n giúp vợ chồng hiểu sâu thêm hoàn cảnh gia đ́nh nhất là cuộc sống và học hành của các con, sau khi chúng tôi bị đẩy vào các trại tập trung. Từ đó, người chồng có cơ hội “rót” vào tai vợ những lời khen nhẹ nhàng, người cha “rót” vào tai con những lời khuyến khích nồng nhiệt cùng với những hướng dẫn cần thiết, bởi lời khuyến khích hay lời hướng dẫn của những người chồng người cha bị nhốt trong bốn bức tường trại tập trung có ảnh hưởng mạnh mẽ, nếu như khéo léo tế nhị trong cung cách xử sự với vợ với con. Và cao hơn nữa, trong một đôi ngày bên nhau có khả năng củng cố thêm t́nh cảm thân thương gia đ́nh, nâng đỡ thêm nghị lực để vượt qua cuộc sống đầy bất trắc trong xă hội mà nhóm lănh đạo cuồng tín cai trị, luôn ập lên đầu gia đ́nh các sĩ quan viên chức và cán bộ Việt Nam Cộng Ḥa cũ!
    Nh́n chung, trong đầu trưởng trại Bùi Dênh có mưu định ǵ thâm độc đối với tù chính trị chúng tôi hay không th́ không rơ, nhưng có điều trước mắt là anh ta tạo không khí giảm bớt tính cách hà khắc với chúng tôi. Nhớ lại thời trưởng trại Huy “hô”, cái không khí trong trại tập trung này lúc nào cũng nghẹt thở, bởi những ǵ xếp vào loại hắc ám nghiệt ngă đều có ở đây. Cho đến cuối thời tên Huy có nới lỏng đôi chút do các anh em Đội Trưởng chúng tôi tranh đấu đ̣i hỏi, như ban đêm đem đồ vật vào buồng giam để tránh mất trộm và nấu ăn có thêm dinh dưỡng. Thời trưởng trại Lới “lé”, sự sa ngă của đám Công An từ trực trại, quản giáo, vơ trang, đến đám Công An hướng dẫn thăm nuôi rất rơ nét, chung qui do tù chính trị chúng tôi mua chuộc bằng tiền và bằng vật chất. V́ bất cứ sản phẩm ǵ do xă hội xă hội chủ nghĩa sản xuất với phẩm chất quá ư tồi tệ, nên những sản phẩm mà anh em chúng tôi có là từ ngoại quốc gởi về, hoặc ít nhất là do sản xuất trong miền Nam phẩm chất vẫn cao hơn, nên khả năng thu hút họ rất mạnh tong cuộc sống thiếu thốn của họ.
    Thấy đám trực trại cũng như đám quản giáo buồng giam giảm bớt mức độ khắc khe, từng bước, các anh trực buồng giam xới khoảnh đất bé xíu phía sau buồng để trồng vài luống rau có thêm chất dinh dưỡng. Dần dần những bầu những mướp đậu rồng đậu đủa che kín bờ tường, bên dưới th́ hành ng̣ cải xanh cải bắp ớt cà xanh tươi. Không thấy phản ứng của họ, nhóm chúng tôi trong tổ văn hoá cũng xới khoảnh đất phía sau hội trường trồng rau trồng đậu. Nh́n vào chẳng bao nhiêu, nhưng thật sự những hoa màu ít ỏi đó cũng góp phần đáng kể cho bữa ăn của chúng tôi, nhất là các anh bị bệnh khó trị.
    Về “thư chui” mà trong suốt thời gian trong Đội trồng rau tôi gởi vào “hộp thư chết”, nhưng khi vào tổ văn hoá th́ tôi rất lo là không biết phải bằng cách nào để tiếp tục gởi thư chui. Nhưng rất may có chú Đinh Vượng rất trẻ, thường giúp đám trực trại những thứ lặt vặt mà chúng nó cần, nên chú được đám trực trại cho ra vào cổng trại với nhà trực trại khi cần. Do vậy mà tôi nhờ chú lận lưng “thư chui” đưa ra cho anh tù h́nh sự từ nhà thăm nuôi vào trực trại, hoặc vào bếp của Công An bên ngoài trại. Một đôi khi chú Vượng ra tận nhà thăm nuôi, bằng cách len lỏi luồn lách giữa các dăy nhà lụp xụp của Công An, rồi xuống lưng chừng triền núi ra tận nhà thăm nuôi, tạt vào nhà của đám Công An phụ trách ở đây để mời chúng nó hút thuốc hay biếu gói cà phê, sau đó xin phép chúng nó chạy qua nhà thăm nuôi đưa cho các bà các chị thăm tù chính trị chúng tôi nữa. Phải có “tí hối lộ” với vài lời “giao tế” như vậy mới “thuận buồm xuôi gió”.
    Công việc tương đối nguy hiểm, nhưng Đinh Vượng nhanh tay lẹ chân mà lại mau miệng nữa, nên chẳng mấy khi bị chúng nó bắt tại trận, chẳng qua là nghi ngờ thôi. Nếu bị bắt, Đinh Vượng xuống nước năn nỉ, điều mà các anh lớn tuổi như chúng tôi không thể hạ ḿnh làm như vậy. Lại có khi Đinh Vượng mang vào trại một lúc đến mấy ngàn đồng trao lại các bạn, và hoàn toàn mang giùm chớ không nhận đồng thù lao nào cả. Trước kia Đinh Vượng là chuyên viên cơ khí phục vụ Sư Đoàn 3 Không Quân, bị bắt năm 1976 khi tham gia tổ chức Phục Quốc.
    Anh em trong Tổ văn hoá chúng tôi lại dọn sang buồng giam số 1, ở chúng với tổ văn nghệ của anh Phạm Kim Qui, và tổ chăn nuôi của anh Chu Mạnh Bích (Đại Úy Không Quân).
    Những màn kịch cởm.
    Hạ tuần tháng 1/1985, hơn 100 anh được ra về. Trước ngày chánh thức có lệnh tha ra trại, nhiều tin đồn đăi đưa vào trại là người này có tên người kia có tên, bắt nguồn từ những Công An “tóc dài” có liên lạc buôn bán chui hoặc thường nhờ vả thuốc men của tù chính trị. Anh Huỳnh Văn Châu (Không Quân) đang trong tổ thợ điện của trại, chạy t́m tôi đang chăm sóc vườn rau “mini”:
    “Anh ơi! Em có tên về rồi. Con “Hoa điện” vừa cho em hay và em đă hỏi lại th́ đúng rồi”.
    “Hoa điện” là tổ trưởng điện, cán bộ quản giáo của anh Châu.
    “Hay quá. Vậy th́ anh có th́ giờ thu xếp chuyện gia đ́nh cho ổn, chớ t́nh trạng của anh c̣n kéo dài, tôi e gảy gánh thiệt đó Châu”.
    “Em cũng lo lắm anh”.
    “Hăy cố lên. Đă có được thời gian, anh đừng để vấn đề vuột khỏi tầm tay nghe Châu”.
    Anh Ngợi cũng t́m tôi:
    “Anh ơi! Em cũng có tên về rồi Anh. Anh Châu có nói với anh chưa?”
    “Có. Châu mới nói với tôi đây. Anh về là nhanh tay lẹ chân tổ chức đám cưới cô bạn gái chờ anh hơn chục năm rồi. T́nh yêu như vậy tôi cho là đẹp lắm, v́ thời gian thử thách quá dài với lại trong hoàn cảnh nghiệt ngă”.
    “Em sẽ cố gắng nhưng phải về mới biết rơ sự việc được anh”.
    Phải nhận rằng, anh em tù chính trị chúng tôi xôn xao trong ư nghĩa tốt, có thể nói vui vẻ là khác. Tối đến, anh Châu với tôi ngồi đối diện hai bên sàn gác. Châu nói:
    “Anh ơi! Một trăm mấy anh em mà tụi nó chia làm hai chuyến đi, cách nhau vài ngày, và nghe đâu chuyến thứ nh́ có quay phim nữa”.
    “Liệu về kịp Tết hông Châu?”
    “Con Hoa nó nói em về đến Sài G̣n trước giờ Giao Thừa. Thôi th́ miễn về là được rồi anh, sớm muộn cũng không sao”.
    Quả thật khi họ đọc danh sách th́ những anh được đồn đoán đều đúng, và về Sài G̣n trong hai chuyến cũng đúng luôn. Ngay sau khi họ đọc danh sách ra trại, tổ văn hóa chúng tôi bận tíu tít, v́ họ bảo viết đến mấy bản danh sách, cùng lúc gọi các anh đến hội trường làm thủ tục. Anh Khiêm trong tổ văn hoá được về trong đợt này. Anh em có tên ra về cùng với khá đông anh em không có tên cũng có mặt trong khuôn viên buồng 10, về th́ vui đă đành nhưng chưa về cũng vui, v́ nhắn gởi về gia đ́nh. Tụm năm tụm ba tṛ chuyện khá ồn ào, pha lẫn trong tiếng của đám Công An gọi từng anh vào làm thủ tục. Chuyến thứ nhất lên xe trại ra Phủ Lư để lên Hà Nội, các bạn trong chuyến thứ nh́ chuẩn bị cho đoàn quay phim dường như của Thụy Điển đang thu h́nh các Đội trồng rau gánh rau về trại. Cứ mỗi lần có phái đoàn đến thăm trại cho dù là cộng sản hay tư bản thân cộng, Bộ Công An từ Hà Nội xuống hướng dẫn trại trưởng tổ chức màn kịch để phô trương. Muốn phô trương phải che giấu cái tồi tệ của họ, mà chính v́ che giấu lại làm cho màn kịch của họ trở nên tồi tệ hơn. Mời quí vị quí bạn theo dơi 3 màn kịch tồi.
    Màn kịch thứ nhất.
    Thật là vô duyên khi hai đội banh tạp nham bị bắt buộc vào sân đấu với nhau để họ quay phim. Theo lời của đám trực trại th́ Bộ Công An muốn đoàn quay phim ngoại quốc thấy cảnh sinh hoạt của tù chính trị, nhưng theo chúng tôi nhận xét th́ nhóm quay phim chú trọng thu h́nh những lối ra vào khu vực các buồng giam, v́ họ đặt hai máy thu h́nh ở hai đầu sân thu h́nh sự đi lại của anh em chúng tôi ra vào các hành lang đó. Không hiểu họ khai thác góc cạnh nào trong sự đi lại của anh em chúng tôi, nhưng rơ ràng là họ chú trọng những h́nh ảnh đó hơn là trận banh trên sân.
    Đến tổ dịch tài liệu do anh Lại Đức Chuẩn phụ trách, được chọn lọc hẳn ḥi chớ không phải toàn tổ đều tham dự tŕnh diễn tại hội trường, trong khi tổ văn nghệ do anh Phạm Kim Qui phụ trách tŕnh diễn nhạc ḥa tấu. Trong màn này có lẽ họ muốn phô trương “sinh hoạt của tù chính trị trí thức” là như vậy đó.
    Màn kịch thứ hai.
    Sau đoạn phim về trận banh tạp nham với hai tổ dịch thuật và văn nghệ, đến đoạn phim tù chính trị ăn cơm chiều với “thực đơn” đặc biệt. Đám trực trại cho dọn cái gọi là nhà ăn của buồng giam số 1, để ở đó một cái bàn với sáu ghế ngồi. Cả mấy trăm tù chính trị mà chỉ có một bàn ăn duy nhất, làm sao che giấu cái bản chất dối trá trước phái đoàn truyền thông quốc tế? Vậy mà họ vẫn cứ thực hiện. Sáu anh tù chính trị được chỉ định ngồi vào bàn ăn “kịch cởm” này, họ bắt phải mặc áo quần mà họ nói là đẹp nhất. Tôi với cụ Hoàng Văn Úy đến từng anh thuyết phục nên mặc đồ thường thôi, v́ hy vọng đoàn quay phim này sẽ có tác dụng thuận lợi cho ḿnh khi họ phổ biến trên hệ thống truyền thông thế giới. Các bạn đồng ư, nhưng cũng cố gắng một chút tươm tất, nếu không sẽ không yên với đám an ninh của trại.
    Tôi và anh Đặng Hoàng Long đứng nh́n nhóm Thụy Điển thu h́nh. Anh chàng chuyên viên chỉ đưa ống kính quét một lượt phần trên bàn, rồi anh ta ngồi bệt trên sàn xi-măng, đưa ống kính vào các ống chân bàn chân của “thực khách” và thu thật chậm nên không sót bàn chân anh nào cả. Đó là những bàn chân nứt nẻ bị bùn đen bám vào, cộng với nước phèn ngấm vào da, làm cho những bàn chân trở nên sàm sở, và người quay phim khai thác một cách rất nghệ thuật về những chứng tích không thể chối cải trong trại tập trung của cộng sản Việt Nam.
    Màn kịch thứ ba.
    Lúc ấy trời tối hẳn, v́ mùa đông nên th́ giờ ban ngày ngắn hơn th́ giờ ban đêm. Họ hoàn toàn thu h́nh mà không hỏi bất cứ ai về bất cứ điều ǵ. Nhóm quay phim Thụy Điển yêu cầu Công An cho mở các phên cửa sổ để có chút ánh sáng thu h́nh vài sinh hoạt trong buồng giam số 1. Nghe thông dịch xong, tên Công An từ Hà Nội xuống ra lệnh cho Công An trại:
    “Không được. Nói với chúng nó nếu mở tấm phên th́ mấy anh này chịu lạnh không nỗi”.
    Thật ra không phải đám Công An Hà Nội sợ tù chính trị chúng tôi lạnh đâu, và đây là bằng chứng vẫn do tên Công An Hà nội nói:
    “Bọn này ghê lắm! Chúng nó quay toàn những cảnh không như Bộ hướng dẫn chúng nó trước khi vào trại. Không cho chúng nó quay nữa”.
    Sau cái lệnh không cho mở tấm phên cửa sổ, anh chàng chuyên viên thu h́nh Thụy Điển cao lêu nghêu, lặng lẽ ra chỗ xe của anh ta ngoài sân đem vào cái ống trắng giống ống đèn néon nhưng lớn một chút, dài khoảng 6 hay 7 tấc ǵ đó. Hóa ra cái ống ấy là đèn điện tử, tỏa một vùng ánh sáng thật dịu nhưng thật mạnh trong khoảng chừng một thước vuông, đủ để họ lần lượt thu h́nh 3 quang cảnh.
    Cảnh 1 là anh Đặng Hoàng Long (họa sĩ và là thông dịch viên Anh ngữ) cùng với một bạn nữa (dường như là anh Bửu Uy) đang đánh cờ tướng.
    Cảnh 2 là anh Nguyễn Hữu Vị (Trung Tá, Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo) có hàm râu dài trắng phếu, đang ngồi vá chiếc áo mùa đông, trông thật là buồn!
    Và cảnh 3 là anh Phạm Văn Thuần (Đại Tá, Phủ Thủ Tướng) dưới ánh đèn leo lét đang cắm cúi viết “thư t́nh già” gởi về cho “má bầy trẻ”. Cái gọi là bàn viết của anh Thuần chỉ là cái mền chồng lên cái gối do mấy bộ quần áo tù cuộn lại. (Mấy tháng sau đó, con gái của anh Vị từ Paris gởi về anh Vị tấm ảnh “anh ngồi vá áo” do chụp lại từ trong tivi mà cuộn phim đó tŕnh chiếu trên hệ thống tivi nước Pháp).
    Trước khi rời trại, một anh chàng trong nhóm quay phim của Thụy Điển cầm cái micro dài, đứng giữa sân áng chừng 5 phút trong khi anh chàng quay phim thu h́nh anh ta. Trại trưởng Bùi Dênh nói với đám trực trại đang đứng nh́n:
    “Cứ để nó thu, cho nó thấy sự yên tĩnh trong trại. Điều đó tốt thôi”.
    Hôm sau, các Đội xuất trại xong, tên Niệm -phụ trách giáo dục của toàn trại- vào tổ văn hoá:
    “Anh Hoa. Anh Vũ Tiến Phúc có đi lao động không?”
    “Tôi không biết cán bộ”.
    Hắn quay sang tên Lực trực trại:
    “Đồng chí Lực, cho người xuống đồng t́m anh Phúc, bảo về trại ngay”.
    Nửa giờ sau, hắn nói với anh Phúc đang đứng trước mặt:
    “Anh đă có tiến bộ về tư tưởng thông qua phóng sự do đài truyền h́nh Cần Thơ thực hiện hai tháng trước. Ông Bộ Trưởng (Công An) xem xong đoạn phim đó ra lệnh thả anh về. Anh tiến hành thủ tục ra trại ngay hôm nay để cùng về với toán kia”.
    Xin nói thêm một chút. Khoảng năm 1977, lúc bị nhốt trong trại tập trung trên Yên Bái, anh Vũ Tiến Phúc có nói với tôi rằng, anh có liên hệ gia đ́nh với cộng sản Vơ Trần Chí, Bí Thư thành ủy Sài G̣n mà chúng nó lắp cái tên ông Hồ thay vào chữ Sài G̣n. Theo người nhà của anh cho biết, th́ Vơ Trần Chí muốn lănh anh ra trại nhưng anh không đồng ư. Anh nói anh không muốn dính dáng tới cộng sản dù là anh em.
    Về đoạn phim mà tên Niệm gọi là “phóng sự”, thật ra anh em tù chính trị chúng tôi không ai biết về cuộc phỏng vấn của đài truyền h́nh Cần Thơ tại trại Nam Hà A này cả. Chỉ biết là họ có thu h́nh anh Vũ Tiến Phúc và anh Lâm Chánh Ngôn (Đại Tá, Sư Đoàn 21 Bộ Binh). Hôm đó là buổi chiều, họ thu h́nh hai anh đứng cuốc đất trên khoảng đất nhỏ xíu ngay góc cái giếng lớn cạnh cổng chánh của trại. Khoảng đất “đầu thừa đuôi thẹo” chút xíu x́u xiu này chưa bao giờ trồng trọt ǵ cả. C̣n phỏng vấn lúc nào và ở đâu, chúng tôi hoàn toàn không biết.
    Nếu cho rằng đài truyền h́nh Cần Thơ muốn phỏng vấn những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Ḥa từng phục vụ vùng đồng bằng Cửu Long mà đài truyền h́nh này xem là địa phương, th́ đâu phải chỉ có anh Phúc với anh Ngôn, mà có các anh Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn May, Huỳnh Thanh Sơn, và nhiều nữa. Phải chăng đó chỉ là cách nói của trại như là lư do ra về của anh Phúc do ông Bộ Trưởng Bộ Công An “tử tế và rộng lượng quá”, chỉ cần lúc nhàn hạ ngồi xem một đoạn phim là đủ yếu tố để quyết định thả tù, loại tù mà ông Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đă tuyên bố là không thể tha thứ.
    Buổi trưa, tất cả các anh rời trại chuyến thứ hai, cộng thêm anh Vũ Tiến Phúc, tập trung ở khuôn viên buồng 10 chờ lên xe ra Phủ Lư. Đám trực trại không cho tiếp xúc với anh em c̣n ở lại. Lệnh là như vậy, nhưng giờ trưa chẳng có tên nào vào trại, thế là anh em chúng tôi tha hồ nhắn gởi về nhà.
    Khi tập trung để đám trực trại điểm số, cũng là lúc nhóm quay phim Thụy Điển làm công việc thu h́nh. Nhóm này thu h́nh khi anh em ra cổng trại đi bộ lên chỗ xe buưt đậu trước nhà tên Lưu Văn Hán, trại trưởng toàn trại Nam Hà. Nghe đám trực trại nói chuyện, mới biết là nhóm quay phim Thụy Điển thu h́nh tại nhà ga Hà Nội, sau đó lên phi cơ vào Sài G̣n để thu h́nh các anh tại nhà ga Ḥa Hưng.
    Tháng sau đó, một anh bạn được vợ đến thăm, nhờ đó mà anh em chúng tôi biết nhóm quay phim Thụy Điển theo anh Đoàn Viết Cảnh -trong số được tha- và gia đ́nh về đến nhà, nhưng không rơ là họ có phỏng vấn ǵ không.
    Khoảng hai tháng sau đó, tên Lực trực trại, vào buồng giam số 1 chúng tôi nói chuyện linh tinh. Sau khi uống tách cà phê, hắn nói:
    “Mấy thằng Thụy Điển đểu lắm. Nó quay phim các anh ở đây nó không hỏi ai điều ǵ, nhưng khi về bên đó nó thuyết minh ngược lại hết làm cho Bộ Công An bị phê b́nh dữ dội”.
    “Họ thuyết minh thế nào vậy cán bộ?”
    “Khi thu h́nh Đội trồng rau trên đường về trại, Ban Giám Thị bảo bó cuốc xẻng lại và vác về cho nó thấy là cẩn thận, nhưng lời thuyết minh trong phim cho rằng trại bắt các anh vác củi về cho trại sau giờ lao động. Nó nói như vậy là v́ nó chỉ thu h́nh từ phía trước, mà phía trước chỉ là những cán cuốc cán xẻng chớ đâu thấy lưỡi cuốc lưỡi xẻng. C̣n lúc nó đứng thu âm thanh ở giữa sân, nó thuyết minh là sự khắc nghiệt đến mức mà hằng ngàn tù nhân cũng không dám phát ra một âm thanh nào cả, nghĩa là một không khí im lặng đến nghẹt thở! Đểu đến thế!”
    “Đúng là chúng nó đểu rồi”.
    Đó là lời của cụ Hoàng Văn Úy nói theo kiểu vuốt đuôi tên Lực, nhưng trong ḷng anh em chúng tôi thầm cười “cái đểu rất đểu với bọn cộng sản quá đểu”. Thế là những màn kịch tồi đă bị nhóm thu h́nh Thụy Điển vạch trần một cách nghệ thuật. Xin cám ơn các bạn Thụy Điển trong nhóm quay phim ấy.
    Lại một cái Tết trong tù.
    Sau khi các anh thuộc chuyến thứ hai ra về, tù chính trị chúng tôi c̣n lại vừa hơn 400, chuẩn bị “ăn Tết”. Tết đầu 1985 này có cái đặc biệt, rất đặc biệt. Đó là trại trưởng Bùi Dênh cho phép tất cả vợ con của tù chính trị đang có mặt tại nhà thăm nuôi ngày 30 Tết, được ở lại “ăn tết” với chồng. Theo cái lệnh đặc biệt đó, các anh sau đây được sống với vợ con trong 3 ngày Tết: Anh Vĩnh Thái, (Trung Tá Nhảy Dù), anh Trần Hiệp Thới, anh Nguyễn Minh Công, anh Huỳnh Quang Minh, và anh Huỳnh Chí Tài (anh Tài quốc tịch Hong Kong).
    Lần đầu tiên, sáng Mồng Một, phái đoàn tù chính trị gồm các anh Đội Trưởng và Tổ Trưởng do tên Dục hướng dẫn lên nhà trại trưởng chúc Tết. Nhưng Lưu Văn Hán, trại trưởng Nam Hà đă về quê ăn Tết, giao lại cho Đại Úy Tân, phụ trách giáo dục toàn trại. Tên Niệm mở đầu:
    “Nhân ngày đầu năm, Ban Giám Thị muốn tiếp xúc với đại diện trại viên (họ gọi tù chính trị chúng tôi là trại viên) và các gia đ́nh đang được thăm gặp thân nhân, để chuyển lời thăm hỏi và chúc mừng đầu năm của Trại Trưởng. Bây giờ mời một anh đại diện phát biểu”.
    Trước khi ra cổng trại, các bạn tôi giao tôi trách nhiệm đáp lời nếu như họ bảo tù chính trị chúng tôi làm việc đó. Sau khoảnh khắc im lặng, tôi đẩy ghế, đứng dậy:
    “Thưa Ban Giám Thị và các cán bộ, thưa các Anh các Chị. Tôi được phép thay mặt các bạn tôi có măt trong pḥng này, chúc Ban Giám Thị, chúc cán bộ và gia đ́nh, một năm mới nhiều sức khỏe. Xin chúc các Anh Chị được vui vẻ bên nhau trong mấy ngày Tết lạnh buốt nơi đây. Tôi xin hết lời”.
    Nói xong, tôi ṿng qua bên kia bàn, trao cho con gái của anh chị Thới và hai con của anh chị Tài, mỗi cháu một nhánh đào bé bỏng mà tôi ngắt từ cành đào thật lớn bên cạnh, với lời chúc mừng các cháu thêm một tuổi.
    Đến chị Trần Hiệp Thới thay mặt các chị, chúc Tết Ban Giám Thị và mời họ một trái dưa hấu. Trái dưa này của chị Vĩnh Thái đưa chị Thới làm quà đầu năm, xem như “có qua có lại” cho ṣng phẳng.
    Không phải trưởng trại A Bùi Dênh chúc Tết chúng tôi, mà là Đại Úy Tân, phụ trách giáo dục toàn trại. Cùng lúc, mấy tên Công An trong bộ phận tổ chức và kế hoạch mời chúng tôi uống trà với thuốc lá đen. Thường ngày chúng nó có việc cần là vào trại bảo chúng tôi làm việc như điên, bây giờ chúng tôi ngồi vào ghế để chúng nó mời thuốc mời trà lia lịa.
    Last edited by alamit; 23-02-2013 at 03:45 AM.

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    KƯ SỰ TRONG TÙ
    ĐẠI TÁ PHẠM BÁ HOA
    Chương 7C / Trại tập trung Nam Hà 3
    P6




    Sau đó, các anh chị được thăm gặp nhau trở ra nhà thăm nuôi, anh em chúng tôi quay vào trại. Vẫn là những tṛ giải trí như năm trước, cờ tướng, đá banh, đánh banh (bóng chuyền). Đó là phần nhiệm của tổ văn hoá, c̣n đàn hát th́ buồng giam nào cũng có. Các bạn “chạy sô văn nghệ” tại các buồng giam như anh Lương Trọng Lạt (Thiếu Tá Cảnh Sát), anh Vũ Quang Tĩnh (Đại Úy Cảnh Sát), anh Phạm Duy Thanh (Thiếu Tá Cảnh Sát), anh Nguyễn Phan Đệ (Đại Úy), anh Phạm Gia Đại (viên chức cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Nha Trang), anh Bửu Uy (Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo), anh Đặng Hoàng Long (họa sĩ, thông dịch viên), và anh Nguyễn Văn Quí (Đại Tá Cảnh Sát). Thật ra th́ rất nhiều anh không thuộc tổ văn nghệ, nhưng tiếng đàn giọng hát vững vàng lắm.
    Ngoài các anh kể trên, c̣n có các anh Lâm Minh Sơn (Thiếu Tá) có biệt danh “Sơn gà tre” v́ khi đá banh anh chạy nhanh lắm, Lê Thành Kỉnh (Tuyên Úy Phật Giáo), Chu Mạnh Bích (Đại Úy, lái phi cơ C130), Nguyễn Minh Chí (một trong những bạn rất trẻ), anh Phan Văn Minh (Đại Tá Không Quân), anh Vĩnh Thái (Trung Tá Nhẩy Dù), ..v..v...
    Đâu đă hết, c̣n có các anh thuộc hàng “thợ ca” như anh Nguyễn Khoa Phước (Nghị Sĩ), anh Vĩnh Biểu (Đại Tá), anh Phạm Kim Tấn, Nguyễn Hữu Vị, anh Đinh Tiến Dũng, anh Nguyễn Dũng, anh Nguyễn Văn Năm (Đại Úy, lái khu trục phản lực), Trương Đ́nh Thăng, Triệu Huỳnh Vơ (anh Thăng với anh Vơ là Đốc sự hành chánh). Trong số này có hai “thợ đàn với thợ ca” thuộc hạng siêu là anh Nguyễn Văn Năm với anh Nguyễn Dũng. Hai bạn này cạnh nhau, sau khi nằm yên trong mùng th́ anh Năm đàn anh Dũng ca. Tiếng đàn với tiếng ca thật nhỏ. Nói nghe có vẻ quá lời, thật ra hai anh có thể đàn hát tới sáng cũng chưa hết bài hát thuộc ḷng nữa quí vị quí bạn à!
    Tối Mồng Một Tết trong buồng giam số 1, chúng tôi quân quần bên nhau trên sàn gác, uống trà uống cà phê đàn ca hát xướng. Chỉ cần một tiếng đồng hồ, anh Đặng Hoàng Long vẽ xong chân dung tôi (bên cạnh), và vẽ một hoạt cảnh bằng bút ch́. Ôi thôi, “ca nhạc sĩ” đủ kiểu ngồi nằm vừa đàn vừa hát, áo quần ngổn ngang trên những giây giăng mùng, những túi những lon móc đầy trên vách, đằng sau “ban nhạc” là anh Nguyễn Văn Sảo (Đại Tá An Ninh Quân Đội) “thưởng thức văn nghệ bỏ túi” trong thế ngồi bó gối, có vẻ như anh đang buồn ngủ? Cứ sau khi đám trực trại khóa cửa buồng giam, chúng tôi tự cho ḿnh được tự do ca hát, mà hát toàn những bài liên quan đến đời sống chiến đấu lẫn đời sống t́nh cảm thời chiến tranh giữ nước. Hát nhạc ngoại quốc, phải công nhận anh Lê Minh Đảo (Thiếu Tướng), anh Phạm Kim Tấn, anh Bửu Uy, anh Vĩnh Biểu, anh Phạm Gia Đại, anh Chu Mạnh Bích, thuộc nhiều mà hát hay nữa. Trong chốn riêng tư của con người, đêm đêm cái đám Công An vào đứng hay ngồi bên ngoài cửa sổ các buồng giam để nghe đàn hát. Những khi không nghe đàn hát, chúng nó yêu cầu chúng tôi hát những bài hát mà chúng nó muốn nghe cứ như “chương tŕnh nhạc yêu cầu” vậy.
    Ngày Mồng Hai Tết, anh Lại Đức Chuẩn, tổ trưởng tổ dịch thuật bên buồng giam số 2, tổ chức văn nghệ có ăn trưa hẳn ḥi. Từ 9 giờ sáng đến 1 giờ trưa ngưng lại ăn cơm. Ăn xong tiếp tục phần hai, nhưng có lẽ “mở heo” (từ thịt kho) bám vào thanh quản nhiều quá nên “các ca sĩ” xuống phong độ và chấm dứt sớm.
    Thưa quí vị quí bạn, đó là niềm vui trong cái đắng cay của những người thua trận chúng tôi, nhưng đó cũng là cách góp phần giúp chúng tôi giữ vững nghị lực mà tin tưởng ngày mai, dù ngày mai vẫn là niềm hy vọng chưa có câu trả lời rơ nét.
    C̣n lại một ngày nghỉ nữa, tôi đưa anh Đặng Hoàng Long mấy tờ giấy “bristol” mà tôi ăn gian của mấy tên Công An nhờ tổ văn hoá trang trí đám cưới của chúng nó, để anh Long vẽ chân dung cho anh nào muốn lưu lại cái kỷ niệm đắng cay trong trại tập trung!
    Tưởng cũng nên kể lại quí vị quí bạn biết qua cách trang trí đám cưới của chúng nó để có khái niệm về lễ cưới của thanh niên xă hội chủ nghĩa trên đất Bắc. Phần phụ trách trang trí là anh Đinh Tiến Dũng với anh Đặng Hoàng Long. Trên tờ giấy trắng dầy, anh Long vẽ hai trái tim đỏ ḷm chồng lên nhau, viết hai mẫu tự đầu của cô dâu chú rể ngay giữa hai trái tim. Trên cuống hai trái tim có hai sợi giây tơ hồng quyện vào nhau do hai con chim bồ câu cắn hai đầu giây đó trong tư thế đang bay. Vẽ xong, dán lên tấm phông trắng treo trên vách sân khấu hoặc tương tự như vậy nếu ở nhà riêng. Bên trên có hàng chữ trăm năm hạnh phúc cắt giấy màu dán lên. Trong khi đó, anh Dũng dùng loại giấy xấu có màu xanh lá cây cắt thành bụi tre. Gần trên ngọn tre có mặt trăng bằng giấy màu vàng. Cạnh bụi tre, vẫn giấy màu xanh, cắt h́nh một nam một nữ d́u nhau dưới ánh trăng. Toàn bộ đó dán bên trái tấm phông, c̣n bên phải tấm phông dùng giấy màu tím màu vàng màu đỏ cắt h́nh một ban nhạc với đầy đủ nhạc công nhạc khí. Trên nền trắng c̣n lại, cắt những ngôi sao với những nốt nhạc dán lên đó. Đấy là tấm phong gọi là hoàn chỉnh cho một đám cưới.
    Anh Long với anh Dũng thường phá chúng nó bằng cách, vẽ hai sợi giây vừa quấn vào nhau mà vừa đá nhau, c̣n anh Dũng cho chân chúng nó đá nhau dưới ánh trăng, nhưng chỉ có “phe ta” biết chớ chúng nói làm sao biết được cách chơi “xỏ lá” đó.
    Đổi tiền lần thứ ba.
    Trung tuần tháng 9 năm 1985, đây là lần thứ ba chúng nó đổi tiền. Lần thứ nhất vào tháng 09/1975, lúc ấy họ tự qui định 1 đồng của họ bằng 500 đồng Việt Nam Cộng Ḥa cũ. Lần thứ nh́ họ gọi là thống nhất hai đồng bạc miền Nam với miền Bắc theo trị giá đồng bạc miền Nam. Bây giờ họ lại tự qui định 1 đồng mới bằng 10 đồng cũ. Nói cách khác, 1 đồng bây giờ bằng 5.000 đồng Việt Nam Cộng Ḥa trước.
    Sáng sớm ngày đổi tiền, khi nghe cái loa của trại loan tin tôi chạy t́m tên Dục, đang là cán bộ giáo dục của trại A trong khi chờ tên khác đến thay vị trí tên Vũ Quấc buộc phải về hưu:
    “Cán bộ có thể đổi giúp giùm tôi ít tiền được không?”
    “Anh có nhiều không?”
    “Tôi và các bạn gộp lại được 1.200 đồng”.
    “Được. Anh đưa tôi”.
    Đến chiều, hắn mang vào trại đưa tôi 120 đồng mới. Tôi đưa nó 20 đồng:
    “Cán bộ giữ cái này uống cà phê”.
    “Không. Các anh chẳng có bao nhiêu, giữ mà tiêu”.
    Để ṣng phẳng, sáng hôm sau tôi tặng hắn cái áo thể thao với màu sắc rất đẹp. Trông thấy là mắt hắn sáng lên trong khi miệng cám ơn lia lịa. Áo này tôi mua lại của anh Nghiêm hồi năm ngoái với giá 200 đồng. Ở đâu không biết chớ tại trại tập trung này, đám Công An mê hàng sản xuất từ Hoa Kỳ lắm, cứ thấy nhản hiệu USA là sáng mắt ngay.
    Công An Dục rất trẻ, tuy đôi lúc bốc đồng nhưng chẳng mấy khi gắt gỏng. Hắn cũng “ngậm” như những tên khác, nhưng được một điều là khi có việc nhờ hắn th́ hắn làm ngay. Hầu hết anh em chúng tôi chủ trương ṣng phẳng dứt khoát với đám Công An để không dây dưa với chúng nó.
    Về trường hợp tên Vũ Quấc ra ŕa và bắt buộc phải về hưu, làm cho hắn xem những đồng chí áo vàng (đồng phục của Công An) của hắn là thù địch. Chuyện là mấy tháng trước, hắn xin đi áp tải tù chính trị duy nhất vào Nam, đó là anh Ung Ngọc Nghĩa, trước kia là đảng viên chính trị. Anh Nghĩa là em ruột của Ung Ngọc Ky, tên cộng sản tập kết ra Bắc năm 1954. Trong khi Vũ Quấc vào Nam, cái đám chi bộ đảng của hắn tại trại Nam Hà A này, đưa tên hắn vào danh sách đề nghị cưỡng bách về hưu. Vũ Quấc là tên Công An vừa tham vừa thâm lại vừa độc, ngay cả với những “đồng chí” của hắn nếu như họ không đứng trong phe cánh với hắn. Theo tên Dục nói lại th́ trong một tháng ở Sài G̣n, Vũ Quấc được anh Dương Huy Nam hướng dẫn đến một số các anh tù chính trị về trước để xin tiền. Trở về trại là hắn tối tăm mặt mũi, khi biết bị đám đồng chí của hắn chơi một đ̣n quá nặng.
    Tôi không rơ là hắn đă gởi đơn tố cáo các đồng chí của hắn ra sao, nhưng hắn nói với tôi thế này:
    “Rồi đây sẽ có phái đoàn trung ương đến đây thanh tra, nếu họ có hỏi anh th́ anh nói là cả trại này chỉ có ông Quấc là có uy tín, c̣n th́ thối nát cả”.
    Thưa quí vị quí bạn, đúng là cái đám Công An trại này đều thối nát, nhưng Vũ Quấc là tên thối nát hơn tất cả, mà ăn nói cũng ngược ngạo hơn tất cả. Hắn nói như vậy, rơ ràng là hắn không hiểu tôi chút nào, và đó là sự thành công của tôi. Tôi nói “thành công”, v́ tôi luôn “giữ cái tẩy” để chúng nó không nhận ra được con người thật của tôi đối với chúng nó. Lúc nào cần ṣng phẳng tôi ṣng phẳng, lúc nào cần xỏ lá là xỏ lá. Có lẽ nhờ vậy mà hắn hiện nguyên h́nh của một tên Công An ác ôn độc hại khi hắn nói với tôi câu ấy.
    Điển h́nh cái tham cái độc của Vũ Quấc. Tháng 01/1985, khi anh Liêm (Thiếu Tá) Đội trưởng đội thợ mộc được ra trại, hắn bảo anh Liêm ăn cắp dụng cụ đồ nghề của thợ mộc gồm cưa, bào, đục, giũa, búa, khoan, đem về buồng giam, rồi lúc thuận tiện sẽ có tù h́nh sự đến lấy đem ra pḥng hắn bên ngoài cổng trại. Đến chú Vượng có thời gian giữ kho dụng cụ, trước khi được ra trại, hắn bảo ăn cắp mai xén đất, cuốc bàn, cuốc chim, xà beng, búa tạ, dao lớn dao nhỏ dao dài dao ngắn, bao bọc lại rồi lén mang đến pḥng hắn vào buổi trưa. Đâu đă hết tham, hắn xuống buồng giam số 18 thấy mấy tấm “lưới chống B40”, hắn bảo mấy anh tù h́nh sự tháo ra rồi gập lại cho ngắn gọn, bỏ vào giỏ rác, buổi trưa khiêng ra cổng đổ vào đống rác. Hắn lại bảo anh h́nh sự phục vụ khu doanh trại, chờ giờ nghỉ trưa lén mang đến pḥng hắn, để hắn mang về nhà đúc cái sân thượng nho nhỏ. Nhưng cái số của hắn đă mạt càng thêm mạt, v́ cuộn lưới cuối cùng trên đường đến pḥng hắn th́ tên Công An gác cổng kêu dừng lại xét, và bắt tại trận. Không biết hắn có bị ǵ không, nhưng anh h́nh sự bị đuổi về Đội đi lao động, không được phục vụ ngoài khu doanh trại nữa. Cái khác biệt giữa theo đội đi lao động với phục vụ khu doanh trại bên ngoài, tuy cùng là lao động nhưng lao động khu doanh trại tự do hơn, v́ chỉ có một ḿnh nên sự đi lại dễ dàng, nhưng ngược lại khi tên Công an nào bảo ǵ th́ làm nấy.
    Về hưu cũng là một vấn đề dưới chế độ xă hội chủ nghĩa miền Bắc. Không phải nói về hưu là nghỉ ngay đâu. Trước khi thật sự nghỉ hưu, họ được về nhà nghỉ chơi từ hai đến năm năm tùy từng đơn vị, sau đó mới thật sự về hưu. Trong thời gian “đuổi gà cho vợ” họ vẫn hưởng những quyền lợi như đang làm việc, như tiền lương, được phân phối gạo, thịt, đường, với giá như cho không.

    Trại trưởng mới, tù nghẹt thở.
    Không biết có phải do “chính sách riêng” của Bùi Dênh về việc nới lỏng đối với tù chính trị chúng tôi hay không, mà sau Tết th́ Đại Úy Tân, cán bộ giáo dục toàn trại Nam Hà, thay thế Bùi Dênh trong chức vụ trưởng trại Nam Hà A. Chỉ biết rằng, theo mấy “thằng chèo” biệt danh do chúng tôi đặt ra để chỉ đám Công An cai tù, trong khi người dân vùng này gọi chúng nó là “chó vàng”, nói chuyện với nhau th́ nguyên nhân do Bùi Dênh “nới lỏng chúng tôi” nhưng lại “siết chặt chúng nó”. Chữ trói chặt, chúng tôi suy đoán có lẽ do Bùi Dênh nắm quyền trực tiếp quyết định những vấn đề liên quan đến sinh hoạt của tù chính trị th́ phải, bởi đó là cánh cửa để chúng nó kiếm “chút cháo” từ chúng tôi.
    Cũng không biết có phải v́ vậy hay không, mà tên Tân “bô lô ba la” khi nắm quyền trưởng trại là bắt đầu siết chúng tôi lại, và phần thăm gặp gia đ́nh là hắn siết chặt nhất. Điển h́nh là rất ít trường hợp được thăm gặp 24 tiếng đồng hồ, và tuyệt đối không có trường hợp nào quá 24 tiếng đồng hồ cả. Hạn chế gắt gao nấu nướng và trồng rau cải trong khuôn viên buồng giam. Có lần đám tù h́nh sự coi chúng tôi đá banh rồi đánh nhau đến đổ máu, thế là hắn cấm đá banh luôn. Từ đó, không khí trong trại trở nên nghẹt thở như lúc ban đầu. Chưa hết, hắn c̣n ngăn cấm những ai đến thăm thân nhân mà mang giúp quà cho người khác, nghĩa là chỉ được mang quà cho thân nhân thôi. Thường khi vợ anh Huỳnh Chí Tài mang theo rất nhiều quà của các chị bạn với ít tiền công để làm lộ phí, thế là chị Tài bị bắt buộc phải mang về. Nhưng chị ấy mang ra bưu điện Ba Sao gởi, thông thường th́ bưu điện Ba Sao gọi trong trại ra lănh, và trường hợp này th́ Tổ văn nghệ của anh Phạm Kim Qui được cử đi.
    Đẩy xe cải tiến ra bưu điện Ba Sao nhận bưu kiện, cũng là niềm vui nho nhỏ của tù chính trị chúng tôi. Cứ mỗi lần đi như vậy, một số anh em chúng tôi gởi tiền cho các bạn ra đó mua thức ăn, con gà con cá củ khoai bó rau hay bánh kẹo. Thường khi hướng dẫn ra bưu điện Ba Sao là tên Dục phụ trách cùng với một tên vơ trang. Tổ Văn nghệ đưa tiền cho tên Dục giữ lúc ra cổng trại, trên đường ra Ba Sao th́ hắn đưa lại anh em. Tất nhiên khi mua hàng thể nào cũng mua cho hắn món ǵ đó để gọi là ṣng phẳng, thế là mọi việc đâu vào đó. Đến Ba Sao, mấy bà trong cái chợ chồm hổm này thấy tù chính trị chúng tôi là mừng lắm, có món ǵ cũng mời gọi v́ các bà ra giá bao nhiêu chúng tôi mua bấy nhiêu, mua không cần trả giá mà lại mua nhiều nữa. Các bà bán hàng gọi chúng tôi là “tù miền Nam” trong khi đám thanh thiếu niên gọi chúng tôi là “tù áo hoa”. Cả hai tên gọi mà người dân ở đây gắn cho chúng tôi, nghe như chỗ thân t́nh chớ không nhằm châm chọc.
    Một hôm, anh Thanh hỏi mấy cậu bé đứng xem mua hàng:
    “Em học lớp mấy?”
    Mấy đứa cùng trả lời, đứa lớp 5 đứa lớp 4. Anh Thanh hỏi tiếp:
    “Lớn lên mấy em muốn làm ǵ?”
    Đám trẻ như tranh nhau trả lời, tuy cách dùng chữ có khác nhau nhưng cùng chung một nghĩa:
    “Em muốn làm tù áo hoa”.
    Không phải riêng anh Thanh mà các anh cùng đi đều ngạc nhiên. Một anh hỏi tiếp:
    “Tù áo hoa tức là như mấy anh đây phải không?”
    Thằng bé tỉnh bơ, cứ như trong sự suy nghĩ non nớt của nó h́nh thành từ bao giờ:
    “Phải”.
    “Tại sao em muốn làm tù áo hoa?”
    “Tại v́ làm tù áo hoa sướng hơn”.
    Trả lời xong là cả đám cháu ngoan của ông Hồ vừa cười vừa chạy, cứ như chúng nó bằng ḷng với lời bày tỏ ước vọng tương lai của chúng nó vậy.
    Thưa quí vị quí bạn, “tù áo hoa” v́ những bộ đồ rằn ri tức đồ trận mà anh em chúng tôi mặc, do họ lấy trong các kho của Tiếp Vận quân lực Việt Nam Cộng Ḥa và phát cho chúng tôi sử dụng, và chúng tôi thường mặc khi thời tiết vào đông. Do vậy mà các “đấng nhi đồng với thanh thiếu niên xă hội chủ nghĩa” nơi đây gọi chúng tôi là “tù áo hoa”. Nhưng tại sao các “đấng thiếu niên” đó nói như một ước vọng khi lớn lên làm tù áo hoa sướng hơn? Chữ “sướng hơn” mà cậu bé lớp 5 sử dụng, trong một mức độ nào đó, đă thể hiện rơ nét về đời sống người dân quá khổ dưới chế độ xă hội chủ nghĩa 20 năm trên đất Bắc này, hay ít nhất cũng là trong khu vực nơi đây! Khổ đến mức tuổi lên mười cũng nhận ra được, và lớp tuổi này cũng nhận ra mức sống của tù chính trị chúng tôi trong trại tập trung để so sánh.
    Trở lại với tên trại trưởng Đại Úy Tân. Hắn có giọng nói ngọng nghịu, cái tật hay nói nhưng sau khi nói quá nhiều th́ hắn nói là hắn không muốn nói nhiều. Chúng tôi nói hắn “bô lô ba la”, v́ khó khăn lắm hắn mới thoát ra khỏi một đề tài để sang đề tài khác. V́ sự hách dịch và bóp chẹt thăm gặp gia đ́nh, bóp chẹt sinh hoạt trong trại, và cả lao động nữa, một số anh em chúng tôi, nhất là anh Qui với anh Chuẩn, thường cho hắn khi hắn ngửa tay xin thuốc tây cho vợ chồng hắn, đồng ư bóp chẹt lại hắn. Họa hoằn lắm mới nhả ra cho hắn chút chút sau vài lần xin. Đó là cách “trả đủa thụ động” mà chúng tôi có thể làm được.
    Chẳng hiểu chúng nó sắp xếp ra sao, mà tên Thắng “chuột” lại được làm quản giáo nhà thăm nuôi nữa. Chúng tôi gắn cho hắn chữ “chuột” theo sau cái tên của hắn, v́ “cái mỏ” của hắn dài và nhô ra trông như mỏ con chuột vậy. Tân “bô lô ba la” với Thắng “chuột” kết lại nhau, càng làm cho trại Nam Hà A này mất sinh khí.
    Tháng 06/1986, sau khi vợ tôi đến thăm, cùng với các chị bạn trở lên Hà Nội đề về Sài G̣n. Lúc ấy vùng Thanh Hóa bị cơn băo tàn phá nhiều nhà cửa cầu đường, và xe lửa không lưu thông được v́ một đoạn đường rầy hư hỏng. Tất cả các chị từ Sài G̣n ra thăm nuôi đều bị kẹt lại, mà theo thông báo của nhà ga Hà Nội ít nhất phải chậm lại một tuần. Vợ tôi với chị Tài và hai con của chị, mua một ít trái cây trở xuống trại tập trung Nam Hà trao cho chồng. Không phải riêng của tôi với anh Tài, mà c̣n vài chị bạn cũng gởi thêm chút ít. Nói nghe có vẻ nhiều lắm, nhưng thật ra mỗi người chỉ một gói và́ kí lô thôi v́ sợ trại không cho gặp.
    Tên Tân đi khỏi, tên Thụng trại phó không cho gặp. Tên Thung là tên đă uy hiếp tôi bằng cách dùng cây nhọn xoáy nhẹ vào lưng tôi khi phái đoàn Pháp chọn tôi để gặp họ. Tôi nhét cho tên Dục 100 đồng, hắn xoay sở thế nào với đám trực trại mà hắn dắt tôi ra nhà thăm nuôi lúc giữa trưa, và chỉ ở đó trong một tiếng đồng hồ. Khi theo tên Dục vào trại, tôi yên tâm là sáng mai vợ tôi với chị Tài mới ra Phủ Lư. Thế nhưng khi tôi vào đến nhà trực trại th́ Thắng “chuột” lù lù tới. Hắn hằn học với tôi, kèm theo nụ cười lúc nào cũng nham hiểm:
    “Ai cho anh ra gặp vợ anh?”
    “Tôi không biết. Cán bộ gọi tôi th́ tôi đi”.
    “Anh có mang thư ra không?”
    “Không”.
    Tôi trả lời cộc lốc mà không dùng chữ báo cáo cán bộ.
    “Anh có mang tiền vào không?”
    “Cán bộ gọi cán bộ trực trại xét tôi đi”.
    “Tôi sẽ xét vợ anh xem có thư anh th́ anh biết tay tôi”.
    “Cán bộ có quyền th́ cán bộ cứ xét đi”.
    Sau đó không biết Thắng “chuột” nói nặng nói nhẹ ǵ vợ tôi, mà chú h́nh sự tôi thường “thuê” chuyển thư “chui”, khi vào trại cho tôi biết là vợ tôi với chị Tài cùng hai con của chị ấy, đi bộ ra Ba Sao ngay lúc xế chiều. Anh ta nói thêm là đoạn đường từ trại ra Ba Sao cũng như từ Ba Sao ra Phủ Lư, từ giờ đó không có xe nào ra Phủ Lư cả.
    Lần thăm nuôi sau đó, vợ tôi thuật lại chuyện hôm ấy như thế này. Hắn hạch hỏi:
    “Chồng chị có đưa thư cho chị mang về không?”
    “Không có thư ǵ cả, v́ tôi đến thăm th́ chồng tôi đâu cần gởi thư”.
    “Bây giờ chị phải đi khỏi nhà thăm nuôi”.
    Tức quá! Vợ tôi, chị Tài và hai con của chị, đi bộ ra Ba Sao, hy vọng có xe ra Phủ Lư. Người dân ở đây cho biết là không có xe nào ra Phủ Lư vào giờ này đâu, mà ở Ba Sao cũng không có nhà trọ. Thế là vợ tôi với chị Tài quyết định đi bộ, cũng nuôi chút hy vọng mong manh là dọc đường biết đâu có chuyến xe nào ra Phủ Lư quá giang. Cứ thế mà đi! Đi 17 cây số đường đồi đất đá! Không chiếc xe nào ra Phủ Lư! Không một quán nước bên đường để giảm cơn khát! Chập choạng tối mới đến Phủ Lư! Chờ xe lửa lên Hà Nội. Trở lại đến nhà trọ th́ tay chân đều sưng lên, trong khi bụng đói, người mệt lả! Trong t́nh cảnh đó, các chị bạn giúp đỡ xoa bóp và nấu cho chén cháu đỡ ḷng thay v́ cơm nặng bụng. Hai ngày sau mới giảm bớt, và hai ngày sau nữa lên xe lửa về Sài G̣n.
    Thật ḷng mà nói, tôi không thể nào tưởng tượng được là vợ tôi đă đi bộ trên quảng đường dài đến như vậy! Và cũng không thể nào tưởng tượng được là vợ tôi chịu đựng nỗi cái tức trong ḷng do tên Thắng “chuột” gây ra, dẫn đến cái khổ về thể xác đến như vậy!
    Điều ǵ đă giúp vợ tôi vượt lên cái đau cái tức đó? “Phải chăng là t́nh yêu chồng cộng với t́nh thương con?” Vợ tôi đă xác nhận như vậy, và nói bên tai tôi rằng:
    “Khi Anh vào tù, cuộc sống của Anh và tương lai các Con chính là cuộc sống của Em, như ḿnh đă đồng ư với nhau từ những ngày đầu viết thư qua lại cho nhau”.
    Ánh sáng cuối đường hầm.
    Trước khi nhận ra chút ánh sáng, xin mời quí vị quí bạn đến thăm tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân một chút. Tiến sĩ Xuân một thời là Tổng Trưởng Kinh Tế, một thời là Việt Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ. Trong thời gian bị giam tại trại Nam Hà này, ông gởi mua sách học tiếng Nga để tự học. Ông nói với tôi là tiếng Nga cũng không khó như ông tưởng. Tôi quen biết với ông từ năm 1964.
    Tại trạm xá có một “bác sĩ” Công An, nhưng thật sự là bác sĩ Trương Văn Quưnh điều hành. Bác sĩ Quưnh từng là Giám Đốc Bệnh Viện Sài G̣n chuyên về cấp cứu, ông có uy tín trong giới y khoa thuở ấy. Phần lớn bác sĩ thời Việt Nam Cộng Ḥa đều bị giam ở các trại tập trung trong Nam, nhưng bác sĩ Quưnh và một số ít bác sĩ khác bị chúng nó đưa ra giam giữ cùng chúng tôi trên đất Bắc, do là thành viên của đảng chính trị hoặc do chúng nó gắn cho cái tội trời ơi ǵ đó. Tuy lúc ấy bác sĩ Quưnh không thấy rơ nếu không nói là gần như bị mù, nhưng ông giúp anh em chúng tôi rất nhiều về kinh nghiệm chuyên môn của ông. Anh em chúng tôi rất quí trọng ông.
    Tôi nhớ hôm ấy là buổi sáng, một anh đau răng đến trạm xá nhờ ông nhỗ, ông Quưnh vừa cười vừa nói.
    “Ngồi đó đi, tôi nhổ răng không đau đâu, anh đừng sợ”.
    V́ ông không thấy rơ, nên ông cho tay vào miệng bệnh nhân lắc lắc từng cái răng, và hỏi liền miệng:
    “Phải cái này hông? Phải cái này hông? Phải cái này hông?” Đến cái răng thứ tư, bệnh nhân đáp vội vàng:
    “Đúng rồi. Đúng rồi. Cái đó đó bác sĩ”.
    Bác sĩ Quưnh cầm cái kềm, lựa thế để kẹp cái răng, và chỉ một tiếng “phựt” là cái răng ngoan ngoản theo cái kềm ra ngoài. Súc miệng xong, bệnh nhân ngậm miếng bông g̣n chút xíu rồi khoan khoái trở về buồng giam. Chiều hôm ấy, anh “bệnh nhân” trở xuống trạm xá, lớn tiếng từ ngoài cửa:
    “Cái răng đau của tôi c̣n nguyên, vậy mà ông nói ông nhổ răng không đau. Bây giờ ông nhổ lại cho tôi đi”.
    Bác sĩ Quưnh tỉnh bơ:
    “Tôi hỏi anh đàng hoàng, anh chỉ cái răng cho tôi nhổ chớ có phải tôi tự ư đâu”.
    Ông cười cười với giọng nửa đùa nửa thiệt:
    “Hồi sáng tôi có nói với anh là tôi nhổ răng không đau, anh cũng đồng ư mà”.
    Rồi ông trở nên nghiêm chỉnh:
    “Thôi. Ngồi xuống đây, tôi nhổ cái răng đau cho anh với điều kiện anh phải chỉ đúng cái răng đau à nghe”.
    Trở lại trường hợp tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân. Sau khi khám bệnh ông Xuân trong lúc tôi đang xin miếng bông g̣n thoa vết trầy ở chân, bác sĩ Quưnh kéo tay tôi bảo sờ ngực trái sát trên xương vai của ông Xuân:
    “Cậu Hai có thấy ǵ không?” Ông thường gọi đùa tôi là “cậu Hai”.
    “Không bác sĩ. Tôi không cảm thấy ǵ hết”.
    Ông lại bảo tôi sờ lần nữa, tôi vẫn không cảm nhận ǵ cả. Ông nói: “Vậy hả”. Rồi im lặng. Măi đến khi ông Xuân rời khỏi trạm xá ông mới nói:
    “Sát trên xương vai trái ông Xuân có cái u nho nhỏ, phải mạnh tay một chút mới cảm thấy. Theo kinh nghiệm của tôi, đó là triệu chứng ung thư. Thông thường, cái u đau th́ không nguy hiểm trong khi mấy anh thấy đau th́ sợ, nhưng thật sự cái u không đau mới là đáng sợ. Ông Xuân trong trường hợp thứ hai”.
    Tôi nghe vậy hay vậy chớ biết ǵ đâu mà bàn luận. Mấy hôm sau, ông Xuân nghe được lời chẩn đoán của bác sĩ Quưnh, ông xuống trạm xá phản đối lời chẩn đoán đó của bác sĩ Quưnh.
    Sau lần thứ hai bệnh viện Phủ Lư khám nghiệm ông. Bác sĩ cộng sản tại đó hỏi bác sĩ cộng sản trạm xá Nam Hà:
    “Tôi nghe nói trong trạm xá của trại có anh bác sĩ ǵ đó giỏi lắm, anh ấy c̣n trong đó không?”
    “Bác sĩ cộng sản của trạm xá trả lời:
    “C̣n. Anh ấy vẫn c̣n trong trại”.
    “Anh bác sĩ đó có nói anh này (tức anh Xuân) bị bệnh ǵ không?”
    “Anh Quưnh cho biết đó là triệu chứng ung thư”.
    Anh bác sĩ cộng sản ở bệnh viện Phủ Lư, buông một câu như lời khen thầm kín:
    “Ít ra cũng có một bác sĩ chẩn đúng bệnh. Đúng là anh ấy giỏi”.
    Và rồi sau đó bệnh ung thư của ông Xuân phát triển rất nhanh. Chỉ trong vài tháng, từ cái u c̣n sâu dưới lớp da lớn dần và nổi cao lên trên, nếu nh́n theo chiều dài cái trứng gà nhỏ th́ nó lớn khoảng một phần ba của cái trứng úp xuống. Lúc ấy ông Xuân không ăn uống ǵ được nữa. Trại cho phép anh Phạm Hữu Trung (Đại Úy Cảnh Sát), từ buồng giam số 1 xuống trạm xá giúp chăm sóc ông Xuân. Anh Trung rất kiên nhẫn, cứ mỗi lần cho được một muỗng nước pha mật ong vào miệng ông Xuân, anh dùng tay liên tục vuốt ở cuống họng măi năm bảy phút sau muỗng nước ấy mới xuống thực quản. Anh lại từ tốn cho thêm muỗng nước khác vào miệng ông Xuân, và cứ liên tục vuốt như vậy. Rồi cái u ấy di chuyển dần từ trái sang phải, vừa di chuyển vừa tụt dần xuống đến thắt lưng bên phải. Trong thời gian cái u ung thư di chuyển, cũng là thời gian ông lịm dần theo cái chết. Và khi đến thắt lưng, tiến sĩ kinh tế Nguyễn Duy Xuân chết hẳn! Lúc ấy là cuối năm 1986 do ung thư di căn.
    Theo lời tên Dục phụ tá giáo dục, trại chụp tấm ảnh để hồ sơ sau này có cơ quan nào cần th́ tham khảo. Đây là lần đầu tiên trong số rất nhiều anh em chúng tôi chết tại đây, nhưng có bao giờ nghe họ nói đến cái vụ chụp h́nh lưu hồ sơ như trường hợp này đâu. Anh em chúng tôi, mỗi người một tay gọi là tẩn liệm ông vào cái quan tài tồi tàn, nhưng không được phép chôn cất ông như hồi anh Trần Hữu Dụng chết, mà họ giao cho hai anh tù h́nh sự cột hai ṿng giây, xỏ cây đ̣n dài theo quan tài và khiêng như khiêng món hàng ǵ đó mà ra cổng trại. Gần một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đứng trong sân trại nh́n hai anh tù h́nh sự từng bước leo lên đường đỉnh sau nhà thăm nuôi, đem chôn ở thung lũng bên kia trại. Đám tang ông Nguyễn Duy Xuân thật là buồn trong cái lạnh buốt của mùa Đông 1986! Thôi th́ điểm đến cuối cùng của qui luật trong cuộc sống của mỗi con người, có hoàn cảnh nào giống hoàn cảnh nào đâu!
    Tên Dục cho anh em chúng tôi trong tổ văn hoá xem tấm ảnh chụp trước khi để ông vào quan tài. Cứ vài hôm tôi xuống trạm xá thăm ông Xuân, nhưng khi nh́n tấm ảnh, tôi vẫn không thể tưởng tượng nỗi mức độ tàn tạ của ông. Người trong h́nh, chẳng qua chỉ là bộ xương bao bọc bởi lớp da nhợt nhạt, ở đôi mắt tinh anh của ông ngày nào nay là hai cái hốc sâu thẳm với màu nâu đậm, những cái xương sườn hiện lên rất rơ. Nói chung là không c̣n chút ǵ để nhận ra cái xác ấy là tiến sĩ Nguyễn Duy Xuân, Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ cả!
    Ít lâu sau đó, cháu của ông Xuân đến trại. Với những ǵ c̣n lại đă làm biên bản ngay sau khi ông Xuân chết, trong đó thuốc tây rất nhiều, người cháu yêu cầu trại giao cho cựu Chuẩn Tướng Trực sử dụng, v́ ông Trực với ông Xuân là anh em cột chèo.
    Thưa quí vị quí bạn, đầu năm 1987, sau vài năm gần như im hơi lặng tiếng về những đồn đoán, nay bừng lên niềm hy vọng dù c̣n là mong manh, do sự kiện đại hội của cộng sản Việt Nam hồi cuối năm qua (1986) đưa ra nghị quyết “đổi mới” c̣n gọi là “cởi mở”. Dù họ chưa có chính sách nào rơ rệt về đổi mới, nhưng một xă hội xă hội chủ nghĩa ngày càng kiệt quệ đến mức sát bờ vực thẳm, họ phải t́m cách để tồn tại. Và từ trong cách mà họ t́m sự tồn tại đó, biết đâu vấn đề tù chính trị chúng tôi lại là một cách góp phần “giúp họ” chăng?
    Những ngày đầu năm âm lịch năm nay không có cái ồn ào vui nhộn với những thi đấu thể thao, cờ tướng, văn nghệ như những năm gần đây, nhưng bù lại là cái không khí vui vẻ bàn luận về “hy vọng ngày ra trại”. Đó đây trong các buồng giam đều có cảnh tụm năm tụm ba quanh chén trà điếu thuốc, râm ran bàn luận và lần này kết thúc với lời chúc “đoàn tụ gia đ́nh”. Nhưng trong chốn riêng tư, khá đông anh em tù chính trị chúng tôi vẫn giữ mức lạc quan dè dặt. Trong sự dè dặt đó, tôi nói với cụ Hoàng Văn Úy và ông Trương Đ́nh Nam, cả hai cùng là đảng viên Việt Quốc:
    “Cụ ơi! Tôi tin là trong đường lối mới của họ có ảnh hưởng đến ḿnh, nhưng tôi cho rằng, nếu điều đó có thành sự thật cũng phải từ nửa cuối năm nay hay chậm hơn nữa chớ không sớm đâu, v́ họ cần ổn định cơ cấu lănh đạo mới của họ. Cụ với ông Nam nghĩ sao?”
    Cụ Úy đáp:
    “Tôi đồng ư là có ảnh hưởng tốt, nhưng về thời gian có thể phải sang năm (1988) chớ năm nay chưa đâu ông. Cái bọn cộng sản nó ĺ lợm lắm ”.
    Cái không khí lạc quan có vẻ như tràn ngập trại Nam Hà A này. Nơi chốn đông bạn bè th́ mức độ lạc quan theo cái lạc quan chung mà thường là lạc quan quá mức, nhưng trong chốn riêng tư th́ niềm lạc quan dè dặt vẫn có, v́ chẳng lẽ hơn chục năm trong các trại tập trung mà không rút ra được kinh nghiệm ǵ về bản chất gian trá và ngoan cố của nhóm lănh đạo cộng sản Việt Nam sao!
    Công An tên Sáng chánh thức giữ chức cán bộ giáo dục trại Nam Hà A thay tên Vũ Quấc. Hắn đến buồng này uống cà phê đến buồng kia ăn bánh uống trà v́ vẫn c̣n hương vị ngày Tết, trong lúc uống cà phê tại buồng giam 1, hắn nói với chúng tôi:
    “Các anh có triển vọng được ra về nhờ đường lối cởi mở của đảng. Như thế nào th́ tôi chưa rơ, nhưng triển vọng như vậy không phải là không thành sự thật đâu”.
    Khi hắn ra khỏi pḥng, anh em chúng tôi trong tổ văn nghệ, tổ chăn nuôi, với tổ văn hoá bàn luận. Câu chuyện bàn luận của chúng tôi như thế này:
    “Các bạn thấy có thể tin thằng này được không?”
    “Tôi nghĩ có thể tin được, v́ hai điểm: Thứ nhất là tánh hắn không có cái bí hiểm như tên Quấc “đểu”, Thịnh “khuỳnh”, hay Thắng “chuột”. Chưa thấy hắn gắt gỏng với anh em ḿnh, cho nên tôi nghĩ hắn không “nói đại” để uống tách cà phê của anh Qui đâu. Tin th́ ḿnh chưa hẳn tin, nhưng nếu nh́n qua các khía cạnh khác có thể giúp chúng ta có yếu tố để tin hắn hay không tin hắn. Thứ hai là xă hội xă hội chủ nghĩa kiệt lực nếu không nói là sắp sụp đổ, biết đâu sự kiện anh em ḿnh ra trại lại là sự đổi chác ǵ đó với Hoa Kỳ cũng nên. Tôi tin lời hắn, nhưng tin trong mức dè dặt”.
    “Tôi cũng có nhận xét tương tự, nhưng thêm một yếu tố nữa. Đó là anh Đàm Quang Yêu mới nhận thư nhà cho biết, dư luận trong Sài G̣n về nguồn tin anh em chúng ḿnh ra về trong ngày gần đây, và sẽ sang Hoa Kỳ mà Mỹ với cộng sản Việt Nam thỏa thuận rồi”.
    “Các anh tin th́ tin, tôi chẳng tin ǵ chúng nó cả”.
    “Chúng nó là ai mà ông nói? Ở đây chúng ḿnh bàn chuyện giữa Hoa Kỳ với tụi cộng sản Việt Nam, chớ có phải thằng cộng sản nói đâu. Có tin hay hay th́ nói ra cùng nghe, c̣n đúng hay không c̣n phải chờ chớ có ǵ đâu mà ông châm chích”.
    “Thôi, đừng căi nhau các anh ơi! Anh em cứ có tin ǵ cứ nói ra, biết đâu là từ những tin tức đó mà ḿnh t́m ra được cái lư vững vàng, cho dẫu “cái lư vững vàng đó” có lợi hay không có lợi, nhưng ít ra niềm tin của ḿnh cần có lư có lẽ chớ”.
    Câu chuyện chưa kết thúc th́ Thịnh “khuỳnh” bước vào cổng khuôn viên buồng giam, chúng tôi xoay sang chuyện bánh mứt. Hóa ra hắn vào đây t́m chú Nguyễn Minh Chí -tù chính trị trẻ nhất trong buồng giam số 1- ra dọn sạch sẽ nhà trực trại.
    Đầu tháng 05/1987, vợ tôi từ Sài G̣n ra thăm mang theo đồn đoán liên quan đến tin tức làm xôn xao anh em tù chính trị chúng tôi. Thêm nữa, tin tức không chỉ đồn đoán tại Sài G̣n, mà thư các con tôi từ Hoa Kỳ cho biết, trong Cộng Đồng Việt Nam bên đó cũng có dư luận về tin tức này và tin tưởng sẽ là sự thật. Ngoài tin tức sốt dẻo nói trên, lại có tin không vui của vợ tôi. Đó là sự kiện hồi tuần trước, trong khi vợ tôi lên xe lửa tại Sài G̣n bị đám lưu manh giựt cái túi xách tay mà trong đó có một số tiền đáng kể, gồm của vợ tôi và của các chị bạn gởi ra để các anh có tiền về đường, và cái túi quần áo cũng bị giựt. Nói chung là cả áo quần lẫn tiền bạc đều mất hết. Sau khi khai báo với Công An, vợ tôi quay về gom góp trong nhà và mượn của đứa em trai để trả lại các chị và mua sắm ít đồ dùng. Dù bị mất mát khá nhiều, nhưng vợ tôi vẫn cố gắng ra thăm tôi để nói với tôi về việc anh em tù chính trị chúng tôi rất có hy vọng được ra về.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 19-01-2013, 05:04 AM
  2. NGHỆ THUẬT CA NHẠC TRONG MÙA LỄ HỘI TẠI HẢI NGOẠI
    By Tigon in forum Văn Hóa - Nghệ Thuật
    Replies: 31
    Last Post: 28-12-2012, 10:26 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2011, 04:35 PM
  4. Replies: 2
    Last Post: 28-12-2010, 11:08 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •