Lập Trường của Người Việt Quốc Gia
Nguyễn Văn Thái, PhD
September 26, 2013

Người viết bài này xin được minh xác ngay cùng quư vị độc giả ở trong cũng như ở ngoài nước là tiêu đề "Lập Trường của Người Việt Quốc Gia" được đưa ra như là một đề nghị để được phán xét, chứ không hề có ư trịch thượng khẳng định là người Việt quốc gia phải có một lập trường như thế nào. Lí do đưa đến ư nghĩ cần phải tŕnh bày một đề nghị cho "Lập Trường của Người Việt Quốc Gia" bắt nguồn từ hiện tượng hoang mang trong các cộng đồng người Việt, nhất là các cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Đề nghị này cũng có thể có ích cho những người ở trong nước đang nỗ lực đấu tranh cho tự do và dân chủ. Sự hoang mang này được gây ra bởi sự kiện có một số người hoặc nhóm người thường chỉ trích hay kết án những người hay nhóm người khác là cộng sản hay có những phát biểu hoặc việc làm có lợi cho cộng sản. Sự kiện này xảy ra thường xuyên, nhất là với phương tiện kĩ thuật điện toán phổ biến của thời đại tin học. Những người chỉ trích và kết án này có thể được xếp thành ba nhóm người khác nhau:

1. Những chỉ trích và kết án này có thể bắt nguồn từ ḷng yêu nước nhiệt thành của những người không thể "đội trời chung" với bất cứ những ǵ là cộng sản, và đây là một hành động hoàn toàn tự do và đáng được kính trọng.
2. Nhưng những chỉ trích và kết án cũng có thể là do mưu mô của những cán bộ cộng sản tuân theo Nghị quyết 36 thẩm nhập vào cộng đồng người Việt quốc gia với mục đích phá vỡ sự đoàn kết trong nỗ lực đấu tranh cho tự do và dân chủ.
3. Người ta cũng không thể loại bỏ giả thuyết là cũng có thể có những người Việt làm công cụ — vô t́nh hay hữu ư — cho chính quyền Mĩ và đă ngăn cản những hoạt động đi ngược lại với chính sách của Hoa Ḱ.

Chính sách hiện nay của Hoa Ḱ là ổn định vùng, mà hoà hợp hoà giải là một trong những chiến thuật có tác dụng ổn định vùng. Hiện nay người Mĩ không c̣n muốn phải bị mất mát về nhân mạng cũng như tài sản nữa mà ngược lại, với chính sách ổn định vùng, họ có cơ hội đầu tư vào nhân lực phong phú (62% dưới tuổi 40) của Việt Nam, và trong dài hạn sẽ chinh phục được Việt Nam vào quỹ đạo đồng minh của họ bằng kinh tế và văn hoá.

Theo góc nh́n về quyền lợi của nước Mĩ th́ điều này có thể xem là một chiến lược hữu lí, nhưng nh́n từ góc cạnh quyền lợi của dân tộc Việt Nam, th́ đất nước phải chịu khổ luỵ cho đến bao giờ? Cho đến lúc Việt Nam biến thành một quận lị của Trung quốc? Hay cho đến lúc một số nhỏ quan liêu thái thú bái phục quan thầy Trung cộng và đày đoạ hàng thứ dân như những tên nô lệ thời thượng cổ?

Có một điểm mà người ta thấy rơ suốt dọc dài lịch sử ngoại giao của nước Mĩ là chính sách của Hoa Ḱ — để có được ổn định vùng — thường xuyên hỗ trợ lực lượng nào chiếm được quyền lực hay ít nhất là làm nghiêng được quyền lực về phe ḿnh. Mĩ đă từng hỗ trợ những nhà độc tài như Shah của Iran, Gaddafi của Lybia, và Mubarak của Egypt. Nhưng dù sao th́ trước công luận thế giới, chính sách của Mĩ là vẫn phải hỗ trợ — trên nguyên tắc — tự do và dân chủ.

1. Hệ quả của việc chỉ trích hay kết án

Ba nhóm người thường chỉ trích hay kết án những người khác là cộng sản hay có những phát biểu hoặc hành động có lợi cho cộng sản, như liệt kê ở phần trên, có thể có cơ sở cho lí luận của họ. Những điều họ nói có thể đúng và cũng có thể sai. Đúng hay sai là một vấn đề quan trọng v́ có thể gây ảnh hưởng lên hành động của những người khác, nhưng có lẽ không quan trọng bằng hệ quả của những chỉ trích hay kết án. Người dân b́nh thường không có tin tức t́nh báo để có thể rút ra cho ḿnh những kết luận về các thông tin do những người chỉ trích hay kết án cung cấp. Mà dù người dân có được nguồn tin t́nh báo đi nữa, th́ tin t́nh báo cũng chưa chắc đă chính xác hay có thể bị bóp méo theo mục đích của người cung cấp thông tin, như trường hợp tổng trưởng ngoại giao Mĩ Colin Powell dưới thời tổng thống Bush đă làm về vụ vũ khí sát thương tập thể ở Iraq với mục đích loại bỏ Saddam Hussein. Do đó người dân, một mặt không có cơ sở để thiết định cho ḿnh một lập trường chính trị vững chắc, mặt khác trở nên hoang mang và có thể trở nên chán nản, thờ ơ đối với tất cả mọi hoạt động chính trị, dù những hoạt động này sai hay đúng, giả dối hay chính trực.

2. Cơ sở cho lập trường chính trị

Như vậy làm thế nào để người Việt quốc gia có được một cơ sở để thiết định cho ḿnh một lập trường vững chắc trong nỗ lực đấu tranh cho dân chủ và tự do cho Việt Nam mà không bị hoang mang và phân hoá?

Dữ kiện duy nhất mà người dân có được là những phát biểu và hành động của những người mang danh nghĩa là những người Việt quốc gia đấu tranh cho tự do và dân chủ cho đất nước Việt Nam. Khi nào những phát biểu và hành động của những người này đúng với những mục tiêu của mô thức tự do và dân chủ th́ điều này chứng tỏ họ đang đóng góp vào công cuộc đấu tranh chính đáng. Khi nào những phát biểu và những hành động của họ đi lệch những mục tiêu hay đi ngược lại những mục tiêu này th́ họ — hoặc vô t́nh hay hữu ư — đă đi lạc hướng hay đang phục vụ một ư đồ hay âm mưu thâm độc nào đó.

2.1. Những điều kiện của tự do cho Việt Nam

Vậy những mục tiêu của mô thức tự do và dân chủ cho đất nước Việt Nam là ǵ?

Để cho người dân Việt Nam có thể có tự do, nghĩa là có quyền tự quyết về đời sống của ḿnh, có quyền tự quyết đeo đuổi hạnh phúc của ḿnh; th́ điều kiện tiên quyết là phải giải thể chế độ CSVN. Không giải thể chế độ CSVN th́ người dân không bao giờ có được tự do.

Có người đặt câu hỏi là tại sao lại phải giải thể mà không là hợp tác, tức "hoà hợp hoà giải". Tiêu biểu trong số những người này là nhạc sĩ Trúc Hồ, mà người viết nghĩ là đại diện cho SBTN khi ông phát biểu về vấn đề đất nước. Ông đă có nói (không trích nguyên văn mà chỉ lấy đại ư, những từ trong ngoặc kép là trích nguyên văn) là chúng tôi chỉ muốn "có được quyền làm người" và chúng tôi sẵn sàng "hợp tác" nếu chúng tôi có được "quyền làm người". Có ba cái lỗi lầm chính yếu trong lời phát biểu của nhạc sĩ Trúc Hồ: Thứ nhất, phát biểu của nhạc sĩ Trúc Hồ nghe như một lời van xin, do đó mặc nhiên công nhận vai tṛ chủ nhân ông, vai tṛ hợp pháp và có chính danh của chế độ bất hợp pháp CSVN. Thứ hai, nhạc sĩ Trúc Hồ khi phát biểu đă tin rằng tất cả những người Việt khác cũng suy nghĩ giống như ông, nghĩa là đồng ư sẵn sàng hoà hợp hoà giải nếu CSVN cho ông cái "quyền làm người", điều mà những người có kinh nghiệm cũng như hiểu biết lịch sử đất nước, nhất là lịch sử của Đảng CSVN, tin chắc là sẽ không bao giờ xảy ra. Sai lầm thứ hai này dẫn đến sai lầm thứ ba: nhạc sĩ Trúc Hồ đă dùng từ "nếu"; từ "nếu" chuyên chở hai nội hàm: (1) "nếu" với viễn ảnh của hi vọng rằng điều kiện đưa ra — tức "quyền làm người" — sẽ được thoả măn, và (2) "nếu" với nội hàm mang ư nghĩa hùng biện (rhetoric) v́ biết chắc rằng điều kiện ḿnh đưa ra sẽ không bao giờ được thoả măn. Những người có kinh nghiệm với người CS hay có kiến thức lịch sử về đảng CS có lẽ đều hi vọng là nhạc sĩ Trúc Hồ đă dùng từ "nếu" với nội hàm (2), nhưng thực tế cho thấy rơ là ông đă dùng từ này trong ư nghĩa của nội hàm (1), v́ nếu ngược lại, th́ ông đă không đề xuất lá bài hợp tác hay nói cách khác là hoà hợp hoà giải. Tôi không chỉ trích hay kết án nhạc sĩ Trúc Hồ. Ngược lại tôi vinh danh nhạc sĩ Trúc Hồ v́ ông đă, qua những công tác văn nghệ, có rất nhiều đóng góp vào công cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ cho đất nước Việt Nam, những đóng góp mà ít ai khác có thể làm nổi như ông. Nhưng tin vào viễn tượng chế độ CSVN sẽ thực sự tôn trọng nhân quyền để rồi người Việt hải ngoại trở về hợp tác xây dựng đất nước trong hoà hợp hợp hoà giải, th́ nếu không nói được đó là một lập trường hay một hành động ngây ngô, th́ cũng chỉ có thể nói được là một ảo giác, hoàn toàn không có cơ sở hiện thực. Tại sao?


V́ bản chất của Đảng CSVN là chuyên môn lừa lọc, lường gạt và gian trá như Cựu Tổng Bí Thư Liên bang Sô viết Mikhail Gorbachev đă nói: "…Đảng CS chỉ biết tuyên truyền và dối trá". Bằng chứng dối trá và lường gạt này cũng được chứng minh qua chính phủ liên hiệp (tức hoà hợp hoà giải) Trần Trọng Kim. Hơn nữa, trong lịch sử ngoại giao quốc tế trong liên hệ với chiến tranh, khi nào người ta nói đến hoà ước, tức người ta nói đến một bên thua và một bên thắng. Và trong hoà ước, bên thua cuộc luôn luôn bị thiệt tḥi. Người Việt hải ngoại không phải là bên thắng cuộc cũng không phải là bên có thế mạnh hay có quyền lực, cho nên hoà hợp hoà giải chỉ có thể có nghĩa là chịu quy phục dưới trướng của Đảng CSVN với những tệ hại cứ tiếp diễn như người ta đang chứng kiến mà thôi.

CSVN là một chế độ bất hợp pháp, độc tài toàn trị, kiểm soát tất cả mọi lănh vực của đời sống người dân và đàn áp dân lành vô tội. Chế độ CSVN là một chế độ bất hợp pháp v́ từ khi Hồ Chí Minh cướp chính quyền với sự hỗ trợ của quân lính Trung cộng năm 1945 cho đến ngày hôm nay, chưa bao giờ người dân có được cái quyền tự do ra ứng cử và tự do bầu cử cả; nếu có th́ chỉ là "Đảng cử, dân bầu". Chính quyền CSVN là một chính quyền "tự phong", độc đoán, đặt nhân dân dưới sự kiểm soát chặt chẽ của 14 nhân vật gian nịnh của Bộ ChínhTrị, bao che cho công an, cán bộ tham nhũng bóc lột nhân dân đến tận xương tuỷ, tịch thu đất đai của nông dân, bắt bớ và hành hạ những người yêu nước chống ngoại xâm, đàn áp dă man những tín đồ các tôn giáo không thuộc hệ quốc doanh, bóc lột lao động không cho thành lập những công đoàn độc lập bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân, bao che cho những vụ buôn và bóc lột lao động ra nước ngoài, những vụ buôn trẻ em từ 5 đến 10 tuổi làm nô lệ t́nh dục ở Kampuchia, buôn bán phụ nữ sang Trung cộng, Đài Loan, Nam Hàn để làm vợ cho những người già nua, tật nguyền, v.v… và trong một số trường hợp phải làm "vợ" cho cả gia đ́nh từ cha, đến chú, đến con; trong một số trường hợp khác th́ bị bán vào các nhà "thổ". Đa số nhân dân th́ nghèo khổ: có những em bé xông xáo trong đống rác từ 3 giờ sáng để kiếm miếng ăn; những em khác khoảng 9, 10 tuổi khiêng hàng mấy chục miếng gạch trên chiếc lưng nhỏ bé để xây công trường; những bà già bảy, tám mươi tuổi c̣ng lưng gánh hai thúng rau ra chợ bán hay ngồi co ro, lạnh lẽo bên chiếc ghế công viên. Trong lúc đó tập đoàn lănh đạo cộng sản và phe nhóm hối lộ, tham nhũng, giàu "nứt đố đổ vách", ăn tô phở tốn đến gần 40 đô; con cái đem tiền ra đốt chơi để tỏ sự giàu sang của ḿnh. Quyền lực đă cho phép họ có được những cơ hội này. Những nhà độc tài nhất quyết không bao giờ buông rơi quyền lực của ḿnh. Ngược lại, họ luôn luôn kềm kẹp người dân vào khuôn khổ kiểm soát của họ để họ bảo toàn quyền lực, nhất là thứ quyền lực đă được hun đúc một cách có hệ thống do lí thuyết và tổ chức cộng sản tạo ra. Hoà hợp hoà giải chỉ là con bài của người CS muốn thu tóm toàn dân, bao gồm cả những người Việt hải ngoại, với mục đích là toàn thể nhân dân phải phục ṭng họ mà thôi.

Do đó đối với chế độ CSVN, phương cách duy nhất để người dân Việt Nam có được tự do là phải giải thể chế độ này. V́ ngoài những lí do rơ ràng vừa nêu trên, những người CS ḱ cựu được sinh ra và trưởng thành trong cái "nôi" của chủ nghĩa CS, nước Nga, như Boris Yeltsin, cựu Tổng Thống Nga mà phải thốt lên "Cộng sản không thể sửa chữa mà phải đào thải nó". Cựu bí thư đảng CS Nam Tư Milovan Djilas phát biểu là "20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu". Cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Liên sô Mikhail Gorbachev cũng đă từng nói: "Tôi đă bỏ nửa cuộc đời cho lí tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng CS chỉ biết tuyên truyền và dối trá." Đương kim Tổng Thống Nga Vladimir Putin th́ nói: "Kẻ nào tin những ǵ cộng sản nói là không có cái đầu; kẻ nào làm theo lời cộng sản là không có trái tim". Đức Dalai Lama th́ nói rằng: " Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc, sinh sôi, nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời".

Thế th́ làm thế nào mà hợp tác, hoà hợp hoà giải, với chế độ CSVN được? Muốn có tự do th́ chỉ có cách duy nhất là giải thể chế độ CSVN, tức là đào thải nó đi mà thôi. Và do đó, điều kiện quan trọng thứ hai là không bao giờ hoà hợp hoà giải với chế độ CSVN.

Ngoài ra, để cho người dân Việt Nam có thể có tự do th́ tất cả mọi người dân cũng c̣n cần phải có bổn phận tôn trọng và bảo vệ sự trọn vẹn của chủ quyền, lănh thổ, và lănh hải của quốc gia, và chống lại tất cả mọi chính sách bá quyền (hegemony) bất cứ từ đâu đến, và hiện nay là từ Trung cộng. Trung cộng đă xâm chiếm gần khoảng 800 cây số vuông vùng đất biên giới phía Bắc, bao gồm cả Ải Nam Quan, thác Bản Giốc; khai thác hằng trăm cây số vuông rừng đầu nguồn; khoán chiếm vùng đất cao nguyên để khai thác bauxite, vùng đất yết hầu về quân sự và quốc pḥng theo quan điểm của Tướng Việt cộng Vơ Nguyên Giáp và c̣n có thể gây tác hại môi sinh v́ chất thải bùn đỏ tạo thiệt hại về đời sống cho khoảng 16 triệu dân cư ở vùng cuối sông Đồng Nai. Biển Đông gần như bị chiếm trọn vẹn với bản đồ h́nh lưỡi ḅ của Trung cộng: ngư dân Việt Nam sinh sống bằng nghề đánh cá trong vùng biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa suốt mấy trăm năm nay, nay bị lính Trung cộng bắt, đánh đập, tịch thu ngư sản và tàu đánh cá, lại c̣n bắt phải trả tiền chuộc. Tàu Việt Nam đi t́m mơ dầu th́ bị cắt giây cáp bao nhiêu lần. Người dân Trung hoa th́ nhập khẩu Việt Nam không cần chiếu khán. Hậu quả là bao nhiêu làng người Hoa mọc lên đầy dẫy khắp nước, từ Bắc chí Nam; hàng hoá và thực phẩm phế thải ở Trung cộng được du nhập tràn lan vào Việt Nam, giết chết nền kinh tế và nông nghiệp Việt Nam, đồng thời gây tai hại về sức khỏe cho toàn dân. Với một chính sách "ác với dân, hèn với giặc" như thế của tập đoàn lănh đạo CSVN, th́ Trung cộng không cần phải dùng đến sức mạnh quân sự mà chỉ cần một vài mươi năm nữa, nếu dân tộc Việt Nam không bị tiêu diệt v́ bệnh hoạn th́ cũng sẽ trở thành một quận lị của Trung quốc mà thôi.

Ư thức được điều này, vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308) đă để lại lời di chúc sau đây:

"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. V́ rằng họ cho ḿnh cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, th́ gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn : "Một tấc đất của Tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu". (http://vietnamclassical.files.wordpress.com/2010).

2.2. Những điều kiện của dân chủ cho Việt Nam

Về vấn đề dân chủ, th́ hiện nay nhiều người — bao gồm cả 72 trí thức trong nước và nhiều nhóm trí thức hải ngoại — yêu cầu Đảng CSVN bỏ điều 4 hiến pháp, nghĩa là bỏ điều khoản tôn vinh đảng CS là đảng lănh đạo Nhà nước và phải để cho những đảng khác có cơ hội tham gia vào công cuộc xây dựng quốc gia. Một số người khác đ̣i hỏi một thể chế có tam quyền (hành pháp, lập pháp, và tư pháp) phân lập. Thêm vào đó, một phong trào đang rộ nở trong nước cũng như tại hải ngoại tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam, yêu sách Đảng CSVN và vận động các quốc gia tự do áp lực Đảng CSVN phải tôn trọng những quyền căn bản của con người. Những tranh đấu này minh chứng ư thức vùng dậy của người dân, cần được vinh danh và hỗ trợ.

Tuy nhiên, đối với chính quyền CSVN độc tài và bất hợp pháp, th́ những tranh đấu này phải là những đ̣i hỏi chứ không thể là những lời yêu cầu hay van xin. Yêu cầu hay van xin là mặc nhiên công nhận tính hợp pháp và chính danh của tập đoàn CSVN. Tranh đấu là đ̣i hỏi những quyền bẩm sinh của con người, là khẳng định quyền lực của nhân dân, là xác quyết vai tṛ đầy tớ — phải phục vụ nhân dân — của bất cứ chính quyền nào.

Đa nguyên đa đảng và một chính quyền có tam quyền phân lập là những điều kiện quan trọng cho một nền dân chủ, nhưng những điều kiện này cũng chỉ là những điều kiện đủ của dân chủ chứ không phải là điều kiện cần. Điều kiện cần cho một nền dân chủ thực sự là quyền lực phải thực sự nằm trong tay người dân.

Nhưng khi nào và như thế nào th́ quyền lực mới thực sự nằm trong tay người dân? –Thưa, là khi người dân đă được thông tin và hiểu biết về quyền lực của ḿnh, là khi người dân biết rơ là họ có tự do ra ứng cử và có tự do bầu cử trước khi người dân thực thi quyền lực của ḿnh bằng lá phiếu tự do trong lănh vực lập hiến, lập pháp, và chọn lựa thể chế (dưới sự bảo trợ và giám sát của Liên Hiệp Quốc trong một thời gian được ấn định rơ ràng).

Một khi điều kiện "cần" cho việc xây dựng dân chủ này đă được hội đủ rồi, th́ những điều kiện "đủ" phải được thực thi, nghĩa là những người có khả năng sẽ ra ứng cử để nhân dân bầu vào quốc hội lập hiến. Trách nhiệm duy nhất của quốc hội lập hiến là soạn thảo và hoàn thành một hiến pháp mới bao gồm những luật căn bản nhằm mục đích tạo an ninh, trật tự cho quốc gia, bảo vệ những quyền căn bản của người dân, và ấn định những nguyên tắc thiết lập một thể chế dân chủ. Mặc dù không ai có quyền ấn định trước những nguyên tắc này, nhưng có những nguyên tắc phổ quát đă được các nước dân chủ, văn minh, tiến bộ chấp nhận và tôn trọng, đó là:

(1) nguyên tắc đa nguyên đa đảng
(2) nguyên tắc tam quyền — hành pháp, lập pháp, và tư pháp — phân lập và độc lập. C̣n thể chế th́ đại diện được dân bầu vào quốc hội lập hiến có thể chọn bất cứ thể chế dân chủ nào: tổng thống chế, tổng thống chế có thủ tướng, đại nghị chế, quân chủ lập hiến, v.v…tuỳ thuộc vào ước vọng của người dân được phản ảnh qua sự lựa chọn các vị dân biểu lập hiến sau khi các vị này đă tŕnh bày lập trường chính trị của ḿnh trước khi được bầu chọn. Nhiệm ḱ của quốc hội lập hiến sẽ chấp dứt sau khi các vị dân biểu hoàn thành hiến pháp có phần quy định những nguyên tắc ứng cử và bầu cử cho quốc hội lập pháp, ngành tư pháp, và hành pháp.

Diễn tiến tiếp theo là nhân dân bầu quốc hội lập pháp, những lănh đạo của ngành tư pháp, và những vị lănh đạo của ngành hành pháp. Dĩ nhiên là hiến pháp có quy định nhiệm ḱ của các nhà lănh đạo trong các ngành lập pháp, tư pháp, và hành pháp để bảo đảm là quyền lực luôn luôn nằm trong tay người dân. Nếu những giới chức được bầu này không thoả măn những nhu cầu của người dân, th́ người dân sẽ cất chức họ bằng lá phiếu của họ trong nhiệm ḱ tới.

Nhiều người trong và ngoài nước đă đưa ra đề nghị sửa đổi hiến pháp hiện nay của Đảng CSVN. Điều này có nghĩa là vẫn tiếp tục duy tŕ nguyên trạng về chính thể với hi vọng là Đảng CSVN sẽ tuân thủ hiến pháp. Hiến pháp của chế độ CSVN là một hiến pháp do tập đoàn lănh đạo cộng sản soạn thảo ra, không phản ảnh quyền lợi và nhu cầu của nhân dân và của đất nước mà chỉ phản ảnh quyền lợi của Đảng CSVN. Quan trọng hơn nữa là: v́ quyền lực vẫn nằm trong tay Đảng CS chứ không nằm trong tay người dân, th́ dù có cả ngàn bản hiến pháp tuyệt hảo cũng không ích lợi ǵ v́ những bản hiến pháp này dù tốt đẹp đến bao nhiêu cũng sẽ chỉ nằm ở một góc pḥng nào đó, hứng bụi, trong lúc Đảng Cộng sản vẫn cứ tiếp tục làm những điều mà họ vẫn thường làm: đàn áp nhân dân, thu tóm của cải làm giàu cho bản thân măi cho đến lúc người dân teo tóp thành những cái xác không hồn, vật vưởng trong một thế giới thiếu vắng t́nh người.

3. Xác định một thế đứng

Để trở lại một vấn đề then chốt liên hệ đến cơ sở cho lập trường chính trị, th́ khi nào những phát biểu cũng như những hành động của những người mang danh nghĩa là người Việt quốc gia đấu tranh cho tự do và dân chủ đáp ứng được những mục tiêu nói trên th́ họ đang đóng góp vào công cuộc xây dựng dân chủ cho đất nước Việt Nam. Khi nào những phát biểu và hành động của họ đi lệch hay đi ngược lại những mục tiêu nói trên th́ — vô t́nh hay cố ư — họ đă đi sai con đường xây dựng dân chủ hay là họ có thể đang thi hành một âm mưu thâm độc nào đó để phục vụ quyền lợi của Đảng CSVN hay phục vụ quyền lợi của Hoa Ḱ.

Quyền lợi của Hoa Ḱ có khi đi đôi với quyền lợi của dân tộc Việt Nam; có khi, th́ không. Những người Mĩ gốc Việt là những công dân Mĩ, nên cũng có bổn phận phải tôn trọng và phục vụ quyền lợi của quốc gia này. Tuy nhiên, Hoa Ḱ là một quốc gia tự do, cởi mở nên người dân có quyền có những tư tưởng chính trị khác biệt. Ổn định vùng bằng cách hỗ trợ chính thể CSVN — bằng cách giữ y nguyên trạng hay bằng giải pháp hoà hợp hoà giải — có thể có cái lợi thiết thực, tức thời trước mắt cho nước Mĩ, nhưng lại là một lập trường có tầm nh́n ngắn và có hại cho uy tín của quốc gia Hoa ḱ, v́ trước công luận thế giới, Hoa Ḱ sẽ mang tiếng là chỉ v́ cái lợi ngắn hạn mà sẵn sàng hỗ trợ độc tài, miễn sao có được ổn định và là Hoa Ḱ không quan tâm đến những nguyên tắc luân lí và những đau khổ của những dân tộc bất hạnh đang phải chịu sự bóc lột và đàn áp khắc nghiệt hằng ngày trong hiện tại. Hỗ trợ nỗ lực thiết lập một chính thể dân chủ cho Việt Nam trong đó người dân có tự do phát triển con người và phát triển khả năng sáng tạo là một đầu tư vừa có ư nghĩa v́ làm vơi nỗi đau của dân tộc Việt Nam và, trong dài hạn, vừa làm đẹp cho h́nh ảnh của Hoa Ḱ trước công luận thế giới v́ Hoa Ḱ có chính danh của một quốc gia văn minh xứng đáng với vai tṛ lănh đạo thế giới. Cho nên giải thể chế độ độc tài CSVN vừa phục vụ quyền lợi tối thượng của dân tộc Việt Nam, vừa là một h́nh thức tôn trọng và phục vụ quyền lợi của quốc gia Hoa Ḱ trong chiến lược dài hạn và có ư nghĩa.

Có thể lập trường của người Việt quốc gia về vấn đề giải thể chế độ CSVN, trong giai đoạn hiện tại, không có được sự đồng thuận hoàn toàn của chính sách của Hoa Ḱ, một chính sách có tầm nh́n ngắn. Nhưng một khi nhân dân Việt Nam đă làm nghiêng được cán cân quyền lực về phía ḿnh th́ Hoa Ḱ sẽ thấy cái lợi đầu tư vào phe kẻ mạnh, nhất là kẻ mạnh với lí thuyết tự do và dân chủ làm nền tảng cho xă hội. Vả lại, có được tự do và dân chủ hay không là hoàn toàn tuỳ thuộc vào quyết định của người dân đang chịu đau khổ, chứ không tuỳ thuộc vào bất cứ ai khác.

Với những mục tiêu rơ ràng như thế, người Việt ở trong cũng như ngoài nước có được những tiêu chuẩn rơ ràng để nhận diện ai là những người Việt quốc gia tranh đấu cho tự do và dân chủ thực sự cho đất nước Việt Nam, đồng thời cũng có những tiêu chuẩn rơ ràng để nhận định những lời chỉ trích hay kết án — dù có thiện ư hay ác ư — có giá trị hay không, do đó có thể rút ra được những kết luận cho con đường ḿnh đi mà không bị hoang mang hay chán nản đến mức độ thờ ơ hay ghê tởm mọi hoạt động chính trị.

Con người không thể không có thái độ chính trị; v́ không tham gia chính trị cũng đă là một thái độ chính trị rồi, nhưng thái độ chính trị có thể được thể hiện dưới nhiều h́nh thức khác nhau: hỗ trợ, bác bỏ hay tẩy chay bằng lời nói và hành động, hỗ trợ bằng cách không quan tâm đến những phát biểu hay hành động không có giá trị, hỗ trợ bằng tài chánh, hỗ trợ bằng hành động tham gia vào những công tác giúp đạt những mục tiêu nói trên. Mỗi một cá nhân đều có thể đóng góp trong cương vị và khả năng của ḿnh: sự đóng góp này không khẩn thiết đ̣i hỏi những hành động anh hùng, xuất chúng như là chết cho lí tưởng tự do và dân chủ mà chỉ có một số ít người có thể làm được mà thôi, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt, tuẫn quốc là một điều cần thiết, đáng được kính trọng và vinh danh. Tuy nhiên, tuẫn quốc không hẳn luôn luôn là hành động có hiệu quả nhất. Không có một đóng góp nào là nhỏ cả: Góp gió thành băo.

Một điểm khác cần được làm sáng tỏ thêm là những người mang danh nghĩa đấu tranh cho tự do và dân chủ có thể có những phần phát biểu hay những hành động đáp ứng những mục tiêu của mô thức tự do và dân chủ, nhưng cũng có thể có những phần phát biểu hay hành động khác lại đi lệch hướng hay đi ngược lại những mục tiêu này, th́ thái độ của người dân phải như thế nào? Theo thiển ư, lí lịch của một người có thân nhân là CS không là bằng chứng để kết án họ là người CS hay làm việc cho CS. Không thiếu ǵ những người quốc gia chân thành và hăng say chống cộng, đấu tranh cho tự do và dân chủ, có thân nhân là những giới chức cao cấp Cộng sản. Bao giờ họ c̣n nói đúng và làm đúng th́ họ đang đóng góp vào công cuộc xây dựng tự do và dân chủ. Đến khi nào họ nói và hành động sai hay đi ngược lại những mục tiêu dân chủ th́ chúng ta cần vạch ra những sai lầm đó để họ sửa sai. Nếu họ vẫn tiếp tục đi vào con đường sai lạc, th́ chúng ta biết là họ không đi trên cùng một con đường với ḿnh và rất có thể họ đang phục vụ quyền lợi của Đảng Cộng sản. Và phản ứng hẵn sẽ là rất dứt khoát, tuỳ thuộc vào lập trường của từng cá nhân và từng đoàn thể.

Một điểm quan trọng đă được bàn ở trên, nhưng cần được làm sáng tỏ hơn v́ là điểm nhạy cảm. Đó là lập trường không hoà hợp hoà giải với CSVN. Điểm này cần phải được minh xác rơ ràng là — theo thiển ư cá nhân — người Việt quốc gia không bao giờ hoà hợp hoà giải với chế độ CSVN, với tập đoàn lănh đạo CSVN, và với những người trung thành với lí thuyết Cộng sản. C̣n đối với toàn thể dân tộc Việt Namp; dù một số những người này vẫn đang c̣n ở trong hàng ngũ CS, nhưng đă nhận thấy chủ thuyết Cộng sản là sai lầm, đă thấy tập đoàn lănh đạo Cộng sản phản bội nhân dân, và nhận thấy thể chế dân chủ là một thể chế tôn trọng con người và quyền làm người, và muốn trở về với dân tộc, th́ hoà hợp hoà giải là một vấn đề không cần phải đặt ra, bởi v́ những người này cùng với gần 90 triệu người dân khác chỉ là một, không có xung khắc, th́ tại sao lại phải hoà hợp hoà giải?

Sự khác biệt hay xung khắc không khoan nhượng chính là sự khác biệt hay xung khắc đối với tập đoàn lănh đạo Cộng sản độc tài, đối với những thành phần ngu muội c̣n tin vào lí thuyết Marxist đă mục rữa, hay đối với những thành phần v́ hám danh hám lợi mà bỏ mất "lương tri", đành tâm hành hạ những người dân nghèo khổ, vô tội hay những người dân yêu nước. Đối với những hạng người này th́ không thể có hoà hợp hoà giải được mà phải lật đổ chế độ đang dung dưỡng họ.

Người viết bài tham luận như là một đề nghị này hi vọng đóng góp được một phần nào vào việc xoá bỏ những hoang mang, những hiểu lầm, những ngộ nhận, những bất đồng ư kiến hầu mong giúp đem lại sự đoàn kết cho những người dân trong nước cũng như những người Việt tại hải ngoại có ḷng yêu quê hương đang tranh đấu cho tự do và dân chủ thực sự cho đất nước Việt Nam thân yêu.

Nguyễn văn Thái, Ph.D
Pennsylvania, Ngày 12 Tháng 8, Năm 2013

Ghi chú ở cuối bài:

Người viết có đặt vấn đề giải thể chế độ Cộng sản Việt Nam ở trong bài, nhưng làm thế nào để giải thể là một vấn đề đ̣i hỏi nhiều suy tư chính chắn. Do đó người viết xin giới thiệu với quư vị độc giả tài liệu sau đây:

https://docs.google.com/folder/d/0B2...NIaVRuRG8/edit

Ước mong quư vị thấy đây là một phương thức đấu tranh hữu hiệu.