Page 52 of 304 FirstFirst ... 24248495051525354555662102152 ... LastLast
Results 511 to 520 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #511
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    TẮT ĐÈN - Tiếp theo

    Chương II

    Mơ cái trên cột đ́nh lại há miệng nhận những cây dùi giận dữ. Trống cái dưới xá đ́nh lại lỳ mặt chịu những cái nện phũ phàng. Vừa dứt hồi vang của những tiếng mơ, tiếng trống bị những lũy tre ngăn cản phải lật trở lại, Lư trưởng liệng dùi trống xuống sân đ́nh và quát một cách a dáng ra phết:

    - Từ sáng đến giờ vẫn chưa đem chiếu ra trải, th́ cha nó ngồi vào đâu? À cái thằng Mới láo thật! Xong thuế rồi ông tống cổ...

    Mẹ Mới ở phía sau đ́nh lếch thếch ôm mấy chiếc chiếu đặt lên sàn đ́nh:

    - Bẩm ông hôm qua ông dặn bố nó nhà con sáng nay phải đi chợ sớm...

    - Trải ra! Rồi đi gọi các ông phần việc đến đây... Kệnh dệnh, kệnh dệnh! Bố người ta đấy mà hôm nào cũng bắt người ta phải mời... Chẳng qua việc là việc làng, chứ việc riêng nhà ai!.. Ngày mai mà không đủ thuế, th́ ông khai hết ra cho, thử xem thằng nào ngồi tù?

    Đằng sau có tiếng léo xéo:

    - Làm ǵ mà gắt gỏng dữ thế ông Lư? Bà cháu bận đi mang cơm thợ cầy, tôi phải nấu chín nồi cám cho con lợn sề nó ăn. V́ nó mới đẻ, sợ bỏ đói th́ nó mất sữa, rồi con nó xấu. Bởi thế tôi mới chậm ra một chút, chứ có kệnh dệnh ǵ đâu?

    Những câu phân trần tha thiết kéo dài từ ngoài đường vào đến giọt đ́nh. Thủ quỹ nhanh nhảu bước lên thềm đ́nh với cái tráp sơn đen bệ vệ nấp ở sườn tay phải. Lư trưởng vội vàng nói chữa:

    - Tôi nói là nói người khác kia! Chứ ông... nhà neo, lắm việc, tôi có trách ǵ ông đâu... Ḱa các ông ấy đă ra cả ḱa!

    Chưởng bạ ôm ống sổ và một tập sổ đi đầu một bọn độ hơn mười người : Thư kư lồng khăn xếp vào cánh tay, Phó lư quần áo thâm trên cổ. Chánh hội vắt áo the bên vai, năm sáu ông kỳ cựu và tộc biểu lệt xệt kéo đôi guốc gỗ đă ṃn hết gót. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đ́nh. Ai nấy trụt guốc cầm tay, nhảy lên sàn đ́nh, đút guốc vào dưới gậm chiếu rồi ngồi lên trên.

    Con vợ thằng Mới cung kính đệ len bên cạnh cột đ́nh một cái điếu đàn đựng trong một chiếc bát gỗ đánh đai bằng lạt và cái mồi rơm dài chừng một sải. Hai đứa con nó kỳ kệch khiêng lên chỗ đó nồi nước chè khô mới nấu, khói đương bốc lên nghi ngút và chồng bát đàn sơn bằng những cáu nước chè.

    Chánh hội vừa khơi mào nói về chuyện thuế th́ người nhà Lư trưởng lễ mễ bưng một bộ khay đèn thuốc phiện rước Chánh tổng từ nẻo xóm dưới đi lên. Ông cai lệ và hai ông lính cơ hộ tống cụ Chánh vào trước cửa đ́nh. trong đám đông mỗi người một câu:

    - Cụ đă ra!

    - Lạy cụ.

    - Xin mời cụ lên trên.

    Chánh tổng khoan thai bỏ giầy, bước qua một giẫy chiếu dưới, để lại mặt chiếu hai hàng dấu chân đầy cát bụi, rồi vắt vẻo ngồi lên chiếc chiếu trên cùng. Bộ khay đèn tự tay người nhà Lư trưởng sang tay cai lệ, lên nằm làm bạn với 'quan trong hàng tổng'.

    Ngay từ sáng sớm, cụ Chánh đă có điểm tâm độ vài chục điếu ở nhà Lư trưởng, cho nên cụ rất tỉnh táo. Nghiêm nghị, cụ lên giọng kẻ cả:

    - Các ông chức việc làng này thật lười quá. Hôm nay mà thuế c̣n thiếu be thiếu bét, chưa thu được một nửa bài chỉ! Tôi hạn từ giờ đến tối phải thu cho đủ. Nếu không đủ, sáng mai tôi phải tŕnh quan.

    Lư trưởng đón:

    - Vâng! Xin cụ thúc giục đi cho! Chứ mấy hôm nay các ông ấy cứ ỳ ra đó, chẳng ông nào chịu ra miệng ra tiếng.. th́ phỏng ai nó nộp cho?

    Mọi người đều im lặng. Không phải sợ câu dọa nạt của Chánh tổng Lư trưởng, họ c̣n măi nh́n ra cổng đ́nh.

    Thằng Mới kĩu kịt trên vai chiếc đ̣n gánh treo hai chiếc quang. Giằng trước là một xanh vừa gan vừa phổi, vừa tiết để trên rỗ ḷng. Đằng sau th́ một thúng thịt lợn.

    Lững thững ở ngoài tiến vào, nó đặt quang gánh xuống sân đ́nh, và mời ông Lư ra xem.

    - Bẩm ông, hôm nay thịt đắt, tất cả hết sáu đồng rưỡi.

    Ông Chánh hội, ông thủ quỹ và nhiều ông khác cùng đổ xô ra. Ai nấy đều biểu môi chê đắt, Chánh tổng nằm trong giữa đ́nh nói ra:

    - Đắt với rẽ chẳng qua cũng của mấy đứa phụ canh, các ông có mất ǵ đâu! Thôi để cho nó đem về làm đi, trưa lắm rồi!

    Thằng Mới mừng rỡ lại cất quang gánh lên vai. Lư trưởng dặn theo:

    - Phải đánh mỗi mâm một bát tiết canh, mày nhé!

    Rồi mọi người cùng lên sàn đ́nh, bắt đầu nhúng tay vào việc.

    Lư trưởng quăng cuốn sổ điền ra chiếu và bảo thư kư:

    - Ông đọc cho các ông kia tính, xem rằng chủ nào bao nhiêu... rồi biên ghi vào mảnh giấy. Tính những chủ chưa nộp đồng nào ấy thôi.

    Thủ quỹ mở tráp lấy ra cái bàn tính, cái bút ch́ và một tờ giấy tây, rồi đưa bàn tính cho ông Lư cựu:

    - Ông tính ta, tôi tính tây, rồi cùng kháp lại, hễ hai đằng mà không sai nhau là đúng.

    Một người đàn bà rón rén bước vào sàn đ́nh với một chuỗi tiền chinh trong tay:

    - Lạy cụ Chánh, lại các cụ ạ...

    Bên bàn đèn, một cậu lính cơ ngẩng cổ lên quát:

    - Làm ǵ mà đến hôm nay mới đem nộp thuế? Lại c̣n vác những khải định ra đấy! Ai lấy cho?

    Lư trưởng gạt đi:

    - Người nhà tôi đấy... các ông tính giùm, xem của bà ấy có bao nhiêu ruộng tất cả.

    Thư kư giở sổ đọc:

    - Nguyễn Thị Quí điền dĩ hạ : nhất sở Đồng Bắc xứ bảy sào chín thước, nhất sở Đồng Cá xứ sáu sào ba thước hai thốn...

    Lư cựu vừa gẫy con toán lách tách vừa nhẩm:

    - Nhất ngũ như ngũ, nhị ngũ nhất thập chi, tam ngũ nhất thập ngũ...

    Thủ quỹ chăm chỉ để hai con mắt vào mảnh giấy tây dưới ngọn bút ch́. Một hồi sau, Thư kư đọc hết, Lư cựu hỏi:

    - Có phải ba mẫu bốn sào năm thước ba thốn hay không?

    Thủ quỹ đáp:

    - Không biết. Bây giờ tôi mới tính. Cộng bằng tính tây vẫn chậm hơn tính ta. Ông biết thế.

    Thị Quí nói theo:

    - Vâng, ông thủ tính kỹ cho. Ruộng nhà cháu có đâu mà được ba mẫu!

    Một hồi nữa, thủ quỹ h́ hục với cây bút ch́, rồi ngẩng đầu lên mắng Thị Quí:

    - Bà nói lạ! Bốn mẫu hai ruộng cả thảy, sao dám bảo không được ba mẫu!

    Thị Quí thề sống, thề chết:

    - Cháu có ăn gian th́ trời không chứng! Thật quả ruộng của nhà cháu chỉ có hai mẫu bẩy sào...

    Lư cựu, Thủ quỹ cùng sô lại dồn Thị Quí. Người đàn bà ấy nhất định không chịu. Cái bàn tính và cây bút ch́ phải làm việc thêm nhiều lần nữa.

    Chánh tổng sốt ruột, giục Lư trưởng:

    - Ai tính cứ tính, ai đi đốc cứ đi đốc. Chứ xúm nhau ở cả đây, th́ đến tết cũng không thể thu xong thuế!

    Lư trưởng lấy làm phải, liền sai mấy tên gia nhân đi đưa các ông lệ, lính cơ đầy tớ Chánh tổng vào khắp những nhà đinh cùng và dặn:

    - Đứa nào chưa có sưu hay chưa có thuế th́ cứ trối cổ nó lại và điệu ra đây, để tôi cho chúng một mẻ.

    Mơ lại thúc, trống lại giục, tù và lại inh ỏi thổi lên.

    Ánh nắng bứt rứt chiếu đến nửa sân đ́nh. Mấy con trâu, ḅ vẫn nằm g̣ lưng dưới những gốc gạo, gốc đa, hơi thở trong cổ họng kéo ra hồng hộc.


    Hết chương II

  2. #512
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Tội nghiệp cho dân ḿnh

    Xem qua chương II trên , mới thấy thêm những nỗi khổ của dân đen thấp cổ bé miệng , trên đe dưới búa .

    Ông Vua nào chẳng muốn ḿnh là minh quân , chẳng muốn lo cho quốc thái - dân an . Nhưng từ Vua xuống đến dân , xa cách muôn trùng . Bọn quan lại tham lam tại địa phương tha hồ bóc lột dân chúng . Thuế thu của dân giao cho triều đ́nh có bao nhiêu đâu , mà phần lớn vào túi từ lư trưởng trong làng , lên tới xă , tới huyện , rồi tỉnh ...

    Thử hỏi như thế th́ sao nước giàu , dân mạnh được .

    Tigon

  3. #513
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Cả mấy nghìn năm dân quê ta vẫn khổ như thế

    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Xem qua chương II trên , mới thấy thêm những nỗi khổ của dân đen thấp cổ bé miệng , trên đe dưới búa .

    Ông Vua nào chẳng muốn ḿnh là minh quân , chẳng muốn lo cho quốc thái - dân an . Nhưng từ Vua xuống đến dân , xa cách muôn trùng . Bọn quan lại tham lam tại địa phương tha hồ bóc lột dân chúng . Thuế thu của dân giao cho triều đ́nh có bao nhiêu đâu , mà phần lớn vào túi từ lư trưởng trong làng , lên tới xă , tới huyện , rồi tỉnh ...

    Thử hỏi như thế th́ sao nước giàu , dân mạnh được .

    Tigon
    Ngày xửa ngày xưa, Chử Đồng Tử không có khố mà đeo, thấy đám tùy tùng phò tá công chúa Tiên Dung ra tắm biển, cậu ta bèn chui xuống cát trốn. Chẳng may Tiên Dung chọn ngay chỗ ấy dương màn xối nước tắm, làm cát trôi đi Chử Đồng Tử phơi ra. Duyên trời sao khéo thế. Chàng và nàng cùng nhau "tắm" cát hợp hôn.
    Mấy nghì năm sau, cụ Nguyễn Du tả cảnh nhà Kiều sau mười mấy năm luân lạc:
    " Nhà tranh vách đất tả tơi,
    Lau treo dèm trước trúc gài phên thưa"

    Cái nghèo vẫn theo đuổi người dân mãi..
    Nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã giết chết mấy triệu người....

  4. #514
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    TẮT ĐÈN - Tiếp theo

    Chương III - Cảnh nhà chị Dậu.

    Nếp nhà tranh lủn củn nấp dưới rặng tre là ngà, lặng lẽ úp lấy khu đất dề thành và kín đáo náu trong một con xóm cuối làng Đông xá, đứng xa ngó lại, có thể lầm với nơi nhốt lợn hay chứa tro, đó là nhà của Nguyễn Văn Dậu.

    Với tầm cao vừa xế mặt thành, giẫy mái hiên cườm cượp nḥm ra ven thành, luôn luôn phạt kẻ ra vào bằng những cái cộc bươu đầu choáng óc, nếu họ quên không cúi đầu.

    Với lớp rêu xanh điểm những lá tre vàng úa và những cỏ gấu phất phơ, cái sân đất rộng bằng đường bừa, lỗ chỗ vết chân chó sen vết chân người, vừa làm đường đi, vừa làm khu vực 'hoăn xung', pḥng bị những lúc mưa rào, đất ở chân thành khỏi lở vào thềm và cửa.

    Bao nhiêu bộ phận cần có của một gia đ́nh, đều được thu cả vào trong nhà.

    Nhà cất theo lối kiến trúc phổ thông của các cụ, toàn thể gồm có một chái và hai gian.

    Gian đầu là buồng.

    Bức mành rách mép lướt thướt rủ ngoài cửa buồng, cũng như bức phên nan nứa sừng sững chắn ngang ḷng nhà, đều hết sức giữ cho trong buồng có vẻ bí mật. Trái lại, những khe hở ở cạnh cửa và nhưng lỗ thủng ở chân phên lại cùng ra ư phô ṣng, như muốn khai rằng : ngoài chiếc giường tre gẫy giát, kê giáp bức bụa, trong này có một chum mẻ, vại hàn, chen nhau đứng bên cạnh đống đất hang chuột.

    Đối với buồng, ấy là bếp đun, cảnh tượng lại càng bề bộn.

    Dưới từng máy chái thấp hẹp, những luồng ánh sáng xanh tía, thông thống kéo thẳng từ nóc đến nền, cố hun cho khô những chỗ đêm qua mưa dột.

    Cạnh bó củi giong ẩm ướt, đoàn vung sứt miệng hềnh hệch nằm ngửa trong những cái rế tre, như muốn cười với lũ mêu đất thư nhàn, lông lốc lăn nghiêng lăn ngửa.

    Trên băi tro trấu tanh bành, nguội lạnh, mấy ḥn gạch vỡ chầu đầu vào nhau, nghiêng ḿnh nằm theo thế chân vạc, đương chờ đến lúc đội nồi.

    Kề đó đến bàn thờ.

    Chiếc ngưỡng tre uốn lưng gù gù đỡ lấy một đố tre, dơng dạc đứng ra h́nh chữ 'môn' và hộ vệ cho một mớ nan tre lành phành long bựt, giường thờ giống như cái chạn đựng bát. lơ lửng gác giữa khoảng cột của bếp và buồng.

    Tờ giấy xanh lạnh lùng phủ ngoài vách đất tỏ rằng nhà mới có tang.

    Nhưng mớ mạng nhện chằng chịt quấn trên đám chân hường lơ thơ, lại làm chứng cho một thời gian khá lâu, chủ nhân không hề cúng lễ. Rồi ở giữa nhà, chiếc chiếu rách thủng xộc xệch phủ trên tấm phản long đinh.

    Rồi ở dưới phản, mấy con chó con đ̣i ăn, ăng ẳng kêu không dứt tiếng.

    Và ở ngoài hiên, quang, gánh, liềm, hái sen, với áo yếm, áo, váy, quần, lôi thôi rủ suốt mấy gian ruổi.

    Trong tay bồng đứa con gái hai tuổi, chị Dậu thơ thẩn ngồi trên chiếc chơng long nan. Cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc ngọt, cái sinh sắn của cặp môi đỏ tươi, cái mịn màng của nước da đen gịn và cái nuột nà của người đàn bà hai mươi bốn tuổi, vẫn không đánh đổ những cái lo phiền buồn bă trong đáy tim. Nét mặt rầu rầu, chị im lặng nh́n sự ngoan ngoăn của hai đứa con nhỏ.

    Cái Tư và thằng Dần, đương hỳ hục bới đống rễ khoai, t́m những củ mập, củ giày, bỏ vào trong rổ. Chúng nó mừng reo hư hửng khi thấy một củ nguyên lành, và chúng nó căi cọ lầu nhầu khi lục măi chẳng được ǵ cả.

    Mặt trời gần đến đỉnh đầu.

    Ánh nắng xuyên qua lũy tre chiếu xuống trước thềm khoang cửa.

    Đằng sau gà gáy te te.

    Nóc bếp láng giềng ngọn khói bốc lên nghi ngút.

    Thằng Dần với bộ mặt th́u thịu, bỏ đống rễ khoai đứng dậy lùng bùng:

    - Nhặt măi từ sáng đến giờ mới được ba mẫu khoai ranh! Con không phải tội mà bới nữa. U đi mua gạo mau lên! Hàng xóm nấu cơm trưa rồi, nhà ta vẫn chưa ăn cơm sáng! Chúng con đói quá!

    Ngó con một cách đau đớn, chị Dậu ngọt ngào:

    - Con hăy cố nhặt thêm vài chục mẫu nửa, rồi chị nó luộc cho ăn, chứ u làm ǵ có tiền đông gạo?

    Thằng bé phụng phịu:

    - Hôm qua và hôm kia u bán hai gánh khoai lang được năm hào mà... đă tiêu ǵ đâu!

    Vừa nói nó vừa tung tăng chạy đến cạnh mẹ, toan lần dải yếm của mẹ. Cái Tư thỏ thẻ khuyên em:

    - Tiền bán khoai c̣n phải để dành đóng sưu cho ông Lư chứ? Dễ được đem mà mua gạo đấy hẳn? Em có đói th́ hăy ăn tạm củ khoai sống vậy!

    Câu nói nghĩa lư của con bé bảy tuổi, h́nh như có một sức mạnh thần bí, khiến cho chị Dậu hai hàng nước mắt chạy quanh. Uể oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng đă về chưa.

    Chồng chị, - anh Nguyễn Văn Dậu - tuy mới hai mươi sáu tuổi, nhưng đă học nghề làm ruộng đến mười bảy năm.

    Với cái sức khỏe mạnh, với cái tính nhanh nhẩu, với cái đức chịu thương chịu khó trong nghề cầy thuê cuốc mướn, những năm son rỗi, vợ chồng nhà anh cũng vẫn kiếm được thừa ăn. Mấy năn nay phần v́ thóc cao, gạo kém, phần th́ con đẻ thêm ra, vợ bận mọn luôn, sự tiêu dùng của anh mới không được rồi rào như trước, vặt mũi chỉ đủ đút miệng mà thôi.

    Rồi tháng tám năm ngoái, mẹ anh bị bệnh qua đời. Lại tháng giêng năm nay, thằng em trai của anh cũng v́ phải gió mà chết. Dầu anh hết sức tằn tiện, hai cái ma ấy cũng cứ lôi kéo đi mất của anh hai món là làng hết đúng sáu đồng, và hai cổ quan tài hết gần tám đồng. Nhà không có, anh phải quang co tần tảo cho có. Hai cái rớp ấy cũng đủ đưa anh lên đến bậc nh́, bậc nhất trong hạng cùng đinh rồi. Hơn nữa, tháng ba đến giờ thần bệnh sốt rét ở đâu kéo đến, nó bắt anh cứ phăi nghĩ việc nằm nhà.

    Thế là gần ba tháng trời, những sự đóng góp chi tiêu của một gia đ́nh năm miệng ăn, hết thảy trông vào hai bàn tay trắng của người đàn bà con mọn.

    Sự đói rách của con và sự lầm than của vợ, đắp đổi tiến đến trước mắt, đă làm cho anh gan ruột nẫu nà. Thêm mấy bữa nay, Lư trưởng ngày ngày sai người giục thuế, anh càng luống cuống như con kiến ḅ trong chảo nóng, không biết lo liệu thế nào. Sớm ngày, cơn sốt đă tan anh phải gắng gượng chống gậy ra đi, cũng định vay mượn lấy một vài đồng, trả cho xong 'món nợ nhà nước'. Nhưng đi th́ đi, chính anh cũng không tự biết ḿnh sè đi đến nhà a, và chừng bao giờ th́ về.

    Mong măi không thấy bóng chồng, chị Dậu lại bỗng cái Tỉu trở vào, ngồi phịch xuống chơng.

    Cái Tư vẫn loay hoay với đống rễ khoai. Thằng Dần đương ráu ráu nhai mẫu khoai sống.

    Bên nhà láng giềng có tiếng mâm bát lạch cạch. Mấy con nít tíu tít gọi nhau ăn cơm. Mùi canh rưa và mùi cá khi theo ngọn gió nồm đưa sang ngào ngạt.

    Thằng bé háu đói nuốt vội miếng khoai trong miệng, vớ tấm áo nâu toạc vạt khoác luôn vào ḿnh, đon đả chạy lại vỗ vào vai mẹ :

    - Con sang chơi bên nhà ông Bác, u nhé!

    Cái Tư chừng mắt:

    - Bên ấy sắp sửa ăn cơm ấy mà...! Sang làm ǵ? Rồi bà Bác lại đuổi oai oái như hôm nọ ấy. Thôi, đói th́ chịu vậy, chứ em cứ nhặt cố lấy mấy củ nữa, rồi chị đứng lên bắc nồi.

    Thằng Dần quăng tọt cái áo vào chơng, ngoảnh đít quay lại, trên mặt đầy vẻ thất vọng:

    - Khổ lắm, bao nhiêu củ ngon củ lành, u đă lựa hết đem bán, ở đây chỉ c̣n những rễ và rễ, lấy đâu ra khoai mà nhặt?

    Cái Tư lại dịu nét mặt :

    - Chả bán th́ lấy tiền đâu đóng sưu?... Em hăy chịu khó nhặt đi với chị! Hăy c̣n vô khối củ mẫm ra đấy.
    - Nhưng mà em c̣n đói vàng cả mắt, không nhặt được nữa...!

    Nói xong, thằng Dần bước đến bên cạnh rổ khoai, chọn lấy một củ lớn nhất, nó chùi vào bụng cho sạch cát bụi rồi cho vào mồm cắn...

    Chị Dậu tuy vẫn ngồi im không nói, nhưng ở khóe mắt, nước mắt lại cứ chan chứa chảy ra. Chừng như không muốn để cho các con thấy sự đau ḷng của ḿnh, chị vờ ngảnh mặt nh́n vào trong vách.
    Hết chương III.

  5. #515
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Cuộc sống người dân quê ngày xưa thật đến nỗi như vậy sao ?

    Buổi sáng sớm , cầm ly cà phê , mắt đọc câu chuyện này , thấy cà phê tự dưng sao đắng lạ .

    Miền Bắc th́ như vậy , nhưng miền Nam đỡ hơn , bà con nhỉ ?

    Tuy cũng bị cường hào ác bá hà hiếp , chắc không đến ĐÓI như dân nghèo ngoài Bắc ?

    Hồi mới ra trường , tôi cũng " bị đày " 3 năm dạy học ở miền quê , thấy dân nghèo họ rách rưới , nhưng không nhà nào như gia đ́nh anh chị Dậu này .

    Nếu Cộng sản miền Bắc không đem quân đánh phá miền Nam , miền đất ph́ nhiêu của đồng bằng sông Cửu Long đă trở thành vựa lúa lư tưởng của Đông Nam Á

    Tigon

  6. #516
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    Thật đấy

    Quote Originally Posted by Tigon View Post
    Buổi sáng sớm , cầm ly cà phê , mắt đọc câu chuyện này , thấy cà phê tự dưng sao đắng lạ .

    Miền Bắc th́ như vậy , nhưng miền Nam đỡ hơn , bà con nhỉ ?

    Tuy cũng bị cường hào ác bá hà hiếp , chắc không đến ĐÓI như dân nghèo ngoài Bắc ?

    Hồi mới ra trường , tôi cũng " bị đày " 3 năm dạy học ở miền quê , thấy dân nghèo họ rách rưới , nhưng không nhà nào như gia đ́nh anh chị Dậu này .

    Nếu Cộng sản miền Bắc không đem quân đánh phá miền Nam , miền đất ph́ nhiêu của đồng bằng sông Cửu Long đă trở thành vựa lúa lư tưởng của Đông Nam Á

    Tigon
    Gia đình chị Dậu nghèo nhất làng. Làng nào ngoài Bắc cũng tượng tự như thế. Trong chương V, quí vị sẽ thấy dinh cơ nhà Nghị Quế dưới mắt chị Dậu và ngòi bút của cụ Ngô Tất Tố.
    Quí vị đã đọc Lều Chõng giới nhà Nho thượng đỉnh của sĩ phu trĩ thức.
    Đọc Tắt Đèn để thấy xã hội ta ngày xưa của giới dân đen quanh năm chân lấm tay bùn, mà còn bị cừng hào ức hiếp...cả khi Tắt Đèn. Ngoài Bắc không phải ai cũng nghèo như gia đình chị Dâu. Cả vùng châu thổ sông Hồng trù phú lắm chứ. Hà Đông là một trong những tịnh cự phách về kinh tế và văn học đấy. Danh Thần khoa bảng như Chu văn An, Nguyễn Trãi, Tam Nguyên Thám Hoa Vũ Phạm Hàm.... kể ra không hết. hì hì.
    Last edited by CảThộn; 09-07-2011 at 09:40 AM.

  7. #517
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    TẮT ĐÈN - Tiếp theo

    Chương V Dinh cơ nhà ông Nghị Quế

    Bước vào khỏi cổng thôn Đoài, đă thấy nhà ông Nghị Quế.

    Nó là một đám bung xung nhọn như ngọn tháp, hùng dũng úp trên đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như phô nhà ḿnh thóc để hàng bốn, năm mùa.

    Nó là một lũ đốn rơm, đốn rạ lớn bằng trái núi, chen nhau đứng bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông chủ cầy cấy đến mấy trăm mẫu.

    Nó là những ṭa mái ngói muốn bảo tồn quốc túy bằng những 'đấu' vuông tṛm trơm, những sôi tầu cong rướn và những con cá chép ' mảnh sứ' há miệng nằm giáp tường hồi.

    Nó là một ngôi dương cơ rộng chừng ba mẫu, quây quần trong bốn bức tường gạch cắm mảnh chai, cảnh tượng phức tạp, giống như ngôi chợ đóng trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ, mới.

    Cái cơ nghiệp ấy tuy tự tổ tiên để lại, ông Nghị cũng có khai thác thêm nhiều.

    Ông không đi buôn, không đi thầu, chỉ làm ông chủ ruộng kiếm ông chủ thả lăi.

    Đụng đến của ông nhẹ nhất cũng là mười phân. Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết ruộng hay nhà, hoặc phải gửi vật ǵ khác làm đồ bảo đảm. Quá hạn th́ mất. Dương cơ ông ở cũng nhờ ruộng nương ông cấy, hạc đồng, lọ sứ ông thờ, phần nhiều là của những người vay nợ hết hạn không trả, bị ông chiếm lấy và bắt lấy.

    Nhà ông đời đời phát về bên hào. Bước đường công danh của ông cũng bắt đầu từ chức Lư trưởng vượt qua những bậc Phó tổng, Chánh tổng rồi, cơm rượu, ḅ lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức vó nhau đưa ông lên ghế nghị viên.

    Không như những kẻ mặt người dạ thú, mượn tiếng 'thay mặt dân' để hót Chánh phủ mà xin xỏ việc này việc kia, ông ra nghị trường, chỉ cốt mua cái 'vị thứ tân thời', lấy chỗ mỗi năm vài lần, ăn uống và... ngồi nằm với bọn tai mặt trong xứ.

    Cái đức 'không thèm biết...chữ' của ông hơn hẳn các bạn đồng viện, tuy những cai phu ông ấy chỉ xuất thân bằng nghề lái lợn hay. Vào viện ông cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và không cần nghe ai bàn. Nhưng, ông cũng chỉ ngáp vặt, chớ không ngủ gật bao giờ, v́ sợ đôi giầy chí long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi ông phải co chân đặt lên mặt ghế cho hợp thói quen của ông.

    Từ ngày 'giữ chức ông Nghị', danh tiếng của ông đă bay khắp tỉnh Trung sơn. Thế nhưng suốt năm chí tối, ông không phải thết một ông khách sáo, trừ ra hai ngày giỗ cha và giỗ mẹ.

    Cố nhiên, ông phải là một người cơ chỉ, so kè từ một đồng xu trở đi. Vậy mà lắm khi ông lại rất hào. Nhất là những dịp tết ta, tết tây, không dịp nào ông quên không bắt chim ngói, gà mái theo những thúng gạo tám thơm vào cửa mấy ông to lớn.

    Với ông, vợ chồng Đĩ Dậu không có họ hàng thân thích ǵ cả. Nhưng v́ các hắn cầy thuê cấy mướn cho ông đă nhiều, nên đều biết nhà, biết người.

    Sau khi Cai lệ và người nhà Lư trưởng đă dẫn anh Dậu ra đ́nh, chị Dậu theo lời chồng dặn, trao con bé con cho cái Tư, vớ chiếc nón rách đeo vào cổ tay. Thằng dần khóc nhếch khóc nhác, rầm rĩ kêu đói. Giả điếc, chị cứ lủi thủi cắp nón ra đi.

    Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. Hơi nước dưới đồng bốc lên, nóng như hơi trong chơ xôi. Những con cua chửa và những con rắn nước chịu không nổi sức nóng của nước trong ruộng, rủ nhau ḅ lên mặt đường và núp vào các khóm cỏ.

    Đông xá với Đoài thôn vẫn là một xă, cách nhau độ ba cây xộ trong lúc nắng gắt, người ta coi đoạn đường ấy như con đường thiên lư trong băi cát già. Nhưng, với chị Dậu nó không mùi ǵ, v́ đời chị đă quen hàng ngày rạn mặt với thần nắng.

    Nhờ sức che chơ của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi th́ tới cổng nhà Nghị Quế. Mặt trời

    đứng bóng. Trâu ḅ lũ lượt lôi thợ cầy ở ngoài đồng về. Thập tḥ ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc lau những giọt mồ hôi nhễ nhoại trên đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng nḥm vào trong cổng.

    Trên cái sân gạch Bát tràng mông mênh như băi đá bóng, không điểm một vết bóng râm. Đàn chim bồ câu chổng mông mổ trên nong đỗ. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít bón một băi phân cho chậu lan. Mấy con lợn con theo mẹ nghễu nghện diễu chung quanh chậu nước vo gạo.

    Không có người nào qua lại. Đánh bạo, chị Dậu xăm xăm tiến vào sân. Một đàn chó dữ như đàn hùm ở đâu nhất tề sồ ra. Chúng nó nhảy chồm lên tận mặt người lạ.

    Hoảng quá, chị Dậu ngồi phịch xuống gạch, vừa vung cái nón khua đuổi những con ác thú, vừa kêu:

    - Anh bếp có nhà không? Làm phúc đánh chó cho tôi với!

    Trong nhà có tiếng thét ra the thé, nghe rơ là tiếng đàn bà:

    - Làm ǵ mà nheo nhéo thế? Nhà ai không có chó? Làm sao đi không mang gậy? Thằng bếp c̣n bận việc khác, nó không phải hầu chúng bay!

    Rồi lại im. Th́ ra vợ chồng ông Nghị đương ăn cơm ở nhà khách. Nghe tiếng chị Dậu léo xéo, bà Nghị bực ḿnh, quát đổng vài câu cho oai, chứ bà không thèm đứng dậy. Tính bà xưa nay vẫn thế, chẳng khi nào lại chịu hạ ḿnh mà đi mắng chó, đuổi chó cho kẻ vay nợ hay người làm thuê.

    Đàn chó cứ vây kín chung quanh chị Dậu như quân đèn cù. H́nh như chúng nó muốn cố làm hết phận sự với chủ : con nào con ấy nhe răng lè lưỡi, chỉ chực vồ vào hai chân chị chàng đáng thương. Cái nón dùng làm khí giới đă bị đàn vật cắn rách tan tành. Chị Dậu luống cuống không biết làm thế nào. Bí quá, chị phải giơ hai nắm tay đánh nhau bộ với 'đội lính coi nhà' của ông Nghị.

    Một mụ thợ cấy ở dưới nhà bếp lật đật vác gậy chạy lên. Mụ đuổi đàn chó tán loạn mỗi con chạy đi mỗi ngả.

    Chị Dậu lóp ngóp đứng dậy và đi đến trước nhà khách. Bàn tay phải bị chó cắn vào lúc nào không biết, máu chảy đầm đ́a. Ghé răng, chị xé một miếng ở đầu dải yếm, buộc chặt lấy chỗ bị thương. Rồi rụt rè, chị lên bực thềm :

    - Thưa lạy hai cụ ạ!

    Bà Nghị gắt:

    - Chó cắn vào tay phải không? Cho chết!

    Đương lúc người ta ăn uống, ai bảo cứ dẫn xác vào? Hỏi ǵ?

    Ông Nghị đặt bát xuống mâm, vừa nhai nhồm nhoàm vừa đón :

    - Sáng ngày chồng nó đă sang xin bán đứa con. Chắc nó đến để nói nốt chuyện ấy, chứ ǵ nữa.

    - Bẩm cụ phải, con sang thưa cụ về việc ấy.

    Bà Nghị đưa mắt ra hiệu cho ông Nghị rồi bảo chị Dậu :

    - Thong thả! Hăy ngồi đấy! Để cho người ta ăn xong cái đă. Đừng quấy rầy!

    Ông Nghị như đă hiểu ư của vợ, cứ việc chan chan gắp gắp, không nói không rằng.

    Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống mặt thềm gạch. Mọi ngày tuy vẫn làm mướn cho ông Nghị ấy,

    nhưng chi, chỉ th́ thọt ra vào trong mấy gian bếp, chưa biết nhà trên thế nào. Hôm nay bạ men tới đây, ấy là lần đầu chị được trông thấy cảnh tượng nhà khách của ông dân biểu. Trong mắt chị nhà ấy lịch sự vô cùng. Nào ở cạnh bức hoàng phi khảm trai, mấy cô con gái tồng ngồng đùi, vú vừa nằm, vừa tủm tỉm cười t́nh.

    Nào ở giữa đôi câu sơn then thiếp vàng hai thằng bé con béo tṛn và xoay trần, lễ mễ khiêng hộp sữa ḅ cao lớn gần bằng chúng nó.

    Nào ở bên chiếc độc b́nh men đỏ, cái điếu ống vất vểu vươn cành xe trúc dài thườn thượt như cái cần câu.

    Rồi ở trong cái tủ chè chạm dây nho, một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu chồng trên bộ khay chè trắng bóng. Rồi ở trước cái sập gụ lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào một chiếc bàn mây sơn xanh. Và ở đầu cái giường tây sơn quang dầu, quần lĩnh thâm và khăn quàng nhiễu xanh cùng vắt một chỗ. Biết bao của quí vật lạ, chị Dậu nh́n vẫn chưa khắp.
    Trên bàn ăn có tiếng leng keng.

    Ông Nghị đâm chéo đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt húp một cái đánh 'soạt'. Rồi ông vừa nhai, vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm. Bà Nghị cầm đĩa ḍ kho ăn dở, chút vào trong niêu, sai thằng bếp treo lên lao màn và dặn :

    - Bà đă đếm kỹ từng miếng rồi đấy. C̣n mười bốn miếng tất cả. Hễ mất miếng nào th́ chết với bà!

    Thằng bếp bưng mâm cơm ra. Thằng nhỏ đệ chậu nước vào. Ông Nghị, bà Nghị mỗi người dúng ba ngón tay vào chậu, vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng uống nước, xỉa răng. Hai đứa đầy tớ đứng hai bên cầm quạt phẩy lại. Bà Nghị mở cái tráp tṛn lấy trầu và cau nhai với một vài sợi thuốc.
    Ông Nghị nhắc cái điếu ống để trên trốc tủ, giặt thuốc, châm lửa, vít cái xe chúc vào miệng. Bắt chân chữ 'Ngũ' ông vểnh mặt hút ṣng sọc một hơi :

    - Con mẹ kia! Bán con bán cái thế nào? Vào mà nói chuyện với bà... !

    Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và ngập ngừng:

    - Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp con.

    Bà Nghị nhả miếng bă trầu cầm tay, quai thật dài cặp môi cắn chỉ :

    - Chẳng cứu với vớt ǵ cả! Mày có bán đứa con gái tao mua!

    - Xin vâng!

    - Sáng ngày chồng mày nói rằng con bé ấy đă lên bẩy tuổi, xin lấy ba đồng. Cụ ông tưởng nó nói thật, bằng ḷng cho nó hai đồng. Nhưng giờ nghe nói con mày mới có sáu tuổi, th́ tao triết đi một nửa, chỉ cho một đồng thôi. Thuận bán th́ về đưa nhau sang đây!

    Chị Dậu ngơ ngác:

    - Thưa cụ, thật quả cháu đă lên bẩy, nó đẻ tháng dần năm Tư. Chúng con không dám nói dối thưa cụ!

    - Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà mày! Người ta mách tao là nó lên sáu, th́ tao hay nó lên sáu. Chứ tao biết đâu nó đẻ năm tư hay đẻ năm tỵ năm tỳ.. !

    Chị Dậu đờ mặt, không biết nói sao. Bà Nghị tiếp:

    - V́ cái hai bên kia...

    Ông Nghị cau mặt ngắt lời :

    - Sao bà cứ gọi con bằng lối xách mé như vậy? Tôi đă dặn bà phải gọi nó là mợ... Bây giờ ở nhà các quan, con gái đều được kêu là mợ tất cả. Tôi hèn ra cũng là một Nghị viên, có lúc ngồi với quan Sứ quan Thượng, danh giá không kém ǵ một ông quan. Bà có gọi con gái bà là mợ, cũng không quá lạm kia mà!

    Bà Nghị cười ngặt, cười nghẹo :

    - Thế th́ ông lầm rồi! Con dâu kia... người ta mới gọi là mợ; con gái th́ người ta gọi là cô. Chẳng cứ ǵ nhà các quan, tôi thấy những nhà ông kư, ông phán, những nhà buôn bán ở Hà Nội đều như thế cả.

    - Miễn là đừng có gọi chúng nó bằng cái kiểu tục tằn của những nhà bố cu, bố đĩ... Mợ th́ mợ, cô th́ cô....

    Bà Nghị ra bộ đắc ư :

    - Vâng, th́ cô!... Cô hai bên kia hiếm hoi mấy lần xem bói, thầy bói đều bảo cô ấy phải nuôi con nuôi th́ mới đứng số. Bởi thế, tao muốn mua cho cô ấy một đứa, để nó 'gánh vác đỡ đi'. Chứ nhà tao đây thiếu ǵ người hầu hạ? Vả lại, con bé mới lên sáu tuổi, đă làm được công trạng ǵ mà tao phải chuốc? Huống chi nó sang ở với cô ấy, cơm no áo lành, lại không sung sướng gấp trăm gấp ngh́n ở nhà với vợ chồng mày hay sao? Đáng lẽ biếu không th́ phải... Cho một đồng cũng quá lắm rồi. Không phải nài nẫn ǵ nữa! Chị Dậu ngồi đờ như gỗ, không biết trả lời ra sao.

    Hết chương V

  8. #518
    Member
    Join Date
    19-08-2010
    Posts
    820

    TẮT ĐÈN - Tiếp theo

    Chương VI – Bán con, bán chó mới đẻ chưa mở mắt cũng chưa đủ đóng thuế.

    Bà Nghị chỉ tay quát thằng nhỏ lấy nước. Bà uống một hớp dấp giọng rồi hỏi chị Dậu :

    - Thế nào mày nghĩ tao nói có đúng hay không?

    Chị Dậu dơm dớm nước mắt :

    - Vâng. Thưa hai cụ ư con cũng biết rằng cháu được sang đó nương nhờ hai cụ và cô Hai, thật là phúc cho nó lắm... Nhưng v́, nhà con thiếu hơn hai đồng tiền sưu, mới phải đến kêu cửa cụ. Nếu chỉ có một đồng, th́ c̣n hơn một đồng nữa, chúng con không biết chạy vào đâu được. Vậy xin hai cụ đón tay làm phúc...

    Ông Nghị quát :

    - Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể ǵ? Mày định bổ vào nhà tao đấy à?

    Chị Dậu thèn lẹn nâng dải yếm sẽ chùi vào mắt.

    Bà Nghị yên ủi:

    - Thiếu một đồng nữa th́ xem trong nhà c̣n có cái ǵ đáng tiền, đem mà bán nốt đi vậy! Chứ đứa con gái sáu tuổi, bây giờ cho không cũng không đắt thay, ai động rồ mà trả mày hơn....

    - Thưa lại hai cụ, thật quả nhà con không c̣n cái ǵ đáng giá hai hào.

    Bà Nghị cười nhạt :

    - Sao bảo nhà mày có con chó cái khôn lắm?

    - À, thưa cụ có! Nhưng nó mới đẻ, con nó hăy c̣n non lắm, có bán cũng không ai mua. Nếu có người mua cho, chúng con không phải bán con cháu.

    - Nó đẻ mấy con? Con nó đả mở mắt chưa?

    - Bẩm bốn con! Nó đả biết ăn cơm hai hôm nay... hay là xin cụ đỡ con hai đồng, lờ lă thế nào con cũng xin vâng. Chỉ độ hai phiên chợ nữa, mấy con chó ấy cứng cát, bán được th́ con xin nộp cụ.

    Bà Nghị bĩu môi :

    - Tiền tao có phải vỏ hến mà tao quẳng ra cho mày bây giờ? Dễ tao hám lăi của mày lắm đấy? Thôi.

    Thế này này : Chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con chó cái và đàn con chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con bé kia một đồng là hai.. Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi chó, khỏi nuôi con. Sướng nhé!

    Rồi bà Nghị vui vẻ nh́n mặt ông Nghị :

    - Ấy tôi cứ hay thương người thế đấy! Người khác th́ họ mặc kệ, ai hơi đâu? kêu lắm th́ bă bọt mép.

    Chị Dậu lại chứa chan nước mắt. Buồn rầu, chị sẽ ngồi xuống bực cửa và nói chầu lên :

    - Vâng! Con cũng biết cụ có ḷng thương nhà con mới thế. Chứ đàn chó vừa mới mở mắt, ai mua làm ǵ...? Nhưng, thưa cụ, giá chó bây giờ cũng không rẻ lắm, một con chó cái, con đem ra chợ bán ít nhất cũng được đồng rưỡi. C̣n bốn con chó con, nếu nuôi thêm vài phiên chợ nữa, thế nào cũng được năm hào một con. Vậy là tất cả đến ba đồng rưỡi, cụ cho một đồng th́ thiệt con quá. Xin cụ trông lại!

    Ông Nghị đập tay xuống sập :

    - Đem ngay đi chợ mà bán! Không nói lôi thôi! Mất th́ giờ! Thời Tây bây giờ, th́ giờ là vàng bạc, không ai công đâu mặc cả với mày.... Hừ! Vừa mới ngoen ngoẻn nói rằng 'bán không ai mua ', người ta làm phúc mua cho, lại c̣n nhằng ngằng kêu rẻ! Rẻ th́ đem ngay ra chợ mà bán. Ra ngay!

    Chị Dậu nhổm đít toan đứng lên. Bà Nghị thẽ thọt :

    - Chúng bay cứ cái thói ấy, không trách chẳng ai buồn thương, khổ là đáng kiếp. Trong lúc thuế má ngặt ng̣i, đồng bạc cho vay, lăi ngày năm xu, người ta đă phải bỏ ra mà mua đàn chó mới mở mắt,

    thế là người ta làm ơn cho mày. Mày tưởng người ta không thể mua đâu được chó đấy chắc? Hay là chó của nhà mày bằng vàng? Thôi, cho thêm hào nữa, thế là vừa con, vừa chó, cả thảy được hai đồng

    mốt. Bằng ḷng không?

    Chị Dậu lại tần ngần ngồi xuống :

    - Bẩm cụ, một vài hào ở cụ chẳng thắm vào đâu, nhưng, ở con th́ nó lớn lắm. Xin cụ cho con lấy năm hào nữa vậy.

    Bà Nghị ra bộ dễ dăi :

    - Con mẹ mày cũng ghê gớm lắm! Thấy bở th́ đào măi! Ừ, th́ tao trả thêm một hào. Là hai đồng hai.

    Bằng ḷng th́ lên nói với ông giáo làm văn tự cho. Và phải trả ông ấy hai hào giấy mực. Nghe không!

    Chị Dậu thất vọng :

    - Thế th́ con chỉ được hai đồng đem về...

    Ông Nghị lại cáu :

    - Chứ bao nhiêu nữa? Hai chục nữa nhé! Thôi, cho thế cũng đắt lắm rồi. Bán th́ đi làm văn tự. Không bán th́ về. Về thẳng!

    'Về th́ đăm đầu vào đâu? Để chồng bị trói đến bao giờ nữa?... Thôi, trời đă bắt tội, cũng đành nhắm mắt liều... ' Bên tai chị Dậu, văng vẳng có tiếng như vậy. Nước mắt ứa ra, chị lại đứng dậy với bộ mặt năo nùng :

    - Vâng con xin bán hầu hai cụ. Nhờ các cụ cho bảo ông giáo làm giấy giúp con!...

    Bà Nghị dơng dạc gọi xuống nhà dưới :

    - Đứa nào lên nhà học mời ông giáo xuống đây cho tao!

    Đồng hồ trên tủ thong thả đánh mười một tiếng. Giấy cót sổ ra xoe x̣e.

    Bà Nghị tươi cười nói với ông Nghị :

    - Sao bây giờ mới mười một giờ? Hay là đồng hồ nhà ta chạy sai?

    Ông Nghị rung đùi, vuốt chồm râu tây cong vắt trên mép ngậm tăm :

    - Bà quê lắm! Đồng hồ của Tây làm ra có bao giờ sai? Bây giờ mười một giờ là đúng. Nhà ta ăn cơm khi sớm.

    Bóng nắng xuống thềm gần một hàng gạch.

    Xe lửa 'một giờ' toe toe hét c̣i.

    Ông giáo kéo đôi giầy vá từ đầu nhà thờ đi sang. Trong tay đủ cả quản bút, lọ mực, giấy trắng và

    giấy thấm.

    Với cái búi tóc ngất ngưởng trên đầu, với cái sức học chữ Nho bằng rưỡi quốc ngữ, ông ấy gọi là thầy đồ th́ đúng hơn. Chỉ v́ về phần nhà chủ nuôi cơm, tiếng nuôi ông đồ không bằng tiếng nuôi ông giáo, cho nên ông ấy phải đổi sang ngạch 'thầy giáo', để dậy mấy đứa trẻ học tam tự kinh và A B C, và viết văn tự cho những người đến nhà ông Nghị cầm cố vay mượn. Vào nhà khách, ông giáo se sẽ đẩy thúng gạo nếp trên chiếc tràng kỷ gỗ lát và lễ phép ngồi vào chỗ đó.

    Sau một hồi để ư nghe lời ông Nghị dặn ḍ, ông giáo nghiêm trang cúi vào mặt bàn. Trịnh trọng ông ấy viết.

    Cả nhà im lặng.

    Năm phút, mười phút, nửa giờ... ông giáo ngẩng lên ngó mặt chị Dậu :

    - Chị kia, sang đây tôi đọc cho nghe, rồi điểm chỉ vào!

    Dón dén, chị Dậu đến cạnh tràng kỷ. Ông giáo đằng hắng ba tiếng, rồi bằng giọng cắt nghĩa cho học tṛ, ông ấy đọc :

    'Tên tôi là Nguyễn Văn Dậu, hai mươi sáu tuổi ở làng Đông xá, và vợ tôi là Lê thị Đào, hai mươi bốn tuổi, cũng ở làng ấy, có mượn ông của ông bà Hoàng thị Sẹo, năm mươi tám tuổi, vợ cả ông Nghị viên Trần Đức Quế ở làng Đoài thôn, một đôi hoa tai bằng vàng nặng ba đồng cân, đáng giá hai chục đồng bạc. Hạn trong năm năm phải trả. Nếu không trả, chúng tôi xin chịu tội bội tín. 'Giấy này làm tại làng Đoài thôn ngày... tháng... năm...'

    Chị Dậu nghe rồi rẫy nẩy :

    - Thưa ông, ông lầm rồi. Tôi bán con và chó, chứ có mượn hoa tai của bà đâu?

    Ông Nghị rút vội cái tăm trong miệng ḿnh, đặt ngang vào miệng tách nước :

    - Không ai thèm đánh lừa chúng bay. Bây giờ luật mới nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ không nói con, nói chó vào được. Sau này, mày cứ để cho con mày ở măi với cô hai, th́ cái giá ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem con về, tao sẽ chiếu giấy bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy, chỉ cốt giữ cho nhà mày khỏi lật nhà tao, chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà mày. Thế là bao giờ tao cũng nắm đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng lưỡi. Nghe không?

    Dứt mạch diễn thuyết, ông Nghị bưng tách nước uống mọt hớp lớn, súc miệng ̣ng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà:

    - Tùy đấy mày có tin nhà ta th́ điểm chỉ vào đem về cho chồng mày kư tên, và xin chữ lư trưởng nhận thực tử tế. Rồi mang sang đây, th́ tao sẽ giao tiền cho. Nếu mày không tin th́ thôi. Đây tao không ép.

    Hai hàng nước mắt ḥa với những giọt mồ hôi thánh thót rơi xuống g̣ má, chị Dậu cắm mặt đứng im. Một lát sau, chị quả quyết :

    - Con xin vâng theo lời cụ

    Thế rồi chị giơ bàn tay buộc rẻ ch́a hai ngón tay để cho ông giáo bôi mực và in vào bứa văn tự. Xong việc, chị gập bức văn tự, giắt vào dải lưng. Bước ra thềm, chị nhặt lấy cái mê nón bị chó cắn rách. Ngần ngại, chị đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo. Bà Nghị căn vặn nhắc đi nhắc lại :

    - Nhớ lấy cái ǵ đậy cho mấy con chó con, kẻo nó bị nắng.

    Hết chương VI

  9. #519
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    Nín thở đọc...lại "Tắt Đèn"

    Bác Cả ơi, tác phẩm Tắt Đèn là TP mà đọc chỉ muốn ..."tắt đèn" đi ngủ cho quên cái sự ...nghèo cuả nhà chị Dậu!

    Ngày hè Bắc Mỹ thì óng ả ngòai kia, - 9 giờ tối mà trời vẫn sáng - chỉ muốn ca bài "Trời hồng hồng, sáng trong trong...", nên TX thật tình không muốn "tắt đèn" chút nào hết.

    Nhưng mà để đáp lại tấm thịnh tình cuả bác, TX sẽ tiếp tục nén tiếng "thở dài" để đọc tiếp cho đến lúc ...tắt đèn đi ngủ vậy!

  10. #520
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Bác Cả ui ,

    Chừng nào tắt hết đèn , Bác cho đăng Nửa Chừng Xuân của Khái Hưng nha .

    Được không Bác Cả ?

    tigon

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •