Page 1 of 5 12345 LastLast
Results 1 to 10 of 48

Thread: Bao giờ người dân VN mới dám đứng lên ?

  1. #1
    Member
    Join Date
    10-11-2010
    Posts
    865

    Bao giờ người dân VN mới dám đứng lên ?

    Bao giờ người dân VN mới dám đứng lên ?

    H́nh phía dưới là tấm ảnh lịch sử ô nhục của đảng cộng sản Viêt Nam .

    H́nh dưới là quang cảnh phái đoàn cộng sản VN do tên Nguyễn mạnh Cầm đại diện phía VN kư hiệp ước xin sỏ đuợc làm một tỉnh lỵ của Trung Quốc như Tây Tạng ,Nội Mông với tên Đường Gia Truyền đại diện phía Trung Quốc ngày 30-10-1990 tại Thành Đô bên Trung Quốc .Phía Trung Quốc chấp thuận lời xin sỏ này và cho VN thời hạn 30 năm để sắp xếp nội bộ và tập cho dân chúng VN quen dần với tập quán cùng văn hóa Trung Quốc .V́ thế trong suốt thời gian qua đảng cộng sản và nhà cầm quyền Hà nội bằng đủ mọi cách đồng hóa dân VN từng bước cho thích hợp và quen dần với văn hóa ,tập quán cũng như ngôn ngữ của người Trung Quốc Đồng thời để người Trung Quốc đuợc tự do qua lại VN sinh sống ,kết hôn cho hai bên hội nhập ḥa hợp lúc nào mà chính người dân VN cũng không biết ḿnh đă bị đồng hóa và không c̣n biết ḿnh đă trở thành dân Trung Quốc lúc nào nữa .Chỉ c̣n 3 năm nữa thời gian qua rất nhanh mà người dân trong nước hầu như vẫn chưa biết và chưa tin chuyện này đó là bởi tại các cơ quan truyền thông đă bị bưng bít ,bởi tại những kẻ trí thức hèn hạ chỉ biết lo cho bản thân và gia đ́nh của ḿnh đưa con em chạy ra hải ngoại mà vẫn dối trá với quần chúng trong nước .Tấm ảnh này là nỗi nhục nhă đê hèn của đảng cộng sản ,của bọn người luôn muồn xưng là "lăo thành cách mạng " ,của đám " sĩ phu HàThành" ,của lũ " trí thức yêu nước " và " mặt trận giải phóng Miền Nam " đồng thời nó cũng là nỗi ê chề cay đắng của "quân đội nhân dân " vào sinh ra tử ḥ hét "kẻ thù nào cũng đánh thắng " v́ "độc lập tự do" hy sinh hàng triệu người chỉ để làm những viên gạch lót đuờng cho bọn chính trị đảng cộng sản dẫm đạp lên thân xác qùy gối trước quan thầy Trung Quốc dâng hiến đất nước và dân tộc Việt Nam .Tấm ảnh cũng là nỗi chua xót tủi nhục cho cả một dân tộc đă từng chống trả hàng vạn cuộc xâm lược từ phương Bắc để dành độc lập sau suốt một ngàn năm Bắc Thuộc nay lại qúa dễ dàng để mất nước mà vẫn b́nh chân như vại nhởn nhơ đua đ̣i ăn chơi xa hoa phù phiếm .
    Năm 2020 là thời hạn chót của 30 năm mà phía Trung Quốc chỉ định ,một "bộ phận nhỏ " trong đảng cố gắng bám víu vào Mỹ hy vọng qụyt nợ và xóa bỏ hiệp ước với Trung Quốc nhưng đă không thành công v́ cái căn bản cần phải xóa bỏ là đảng cộng sản chứ không phải xóa nợ ,xóa đuợc đảng cộng sản tất nhiên mọi liên hệ giữa hai đảng Viêt Trung không c̣n nữa đuơng nhiên mọi hiệp ước giữa hai bên đều trở thành vô hiệu ,nhưng những kẻ có quyền hành vẫn sợ mất đảng vẫn muốn bám víu vào đảng để giữ quyền hành vơ vét cướp đoạt cũng như họ sợ chết v́ tay đă nhúng qúa nhiều máu ,vậy chỉ c̣n chính người dân Việt Nam phải là người quyết định ,bao giờ người dân VN mới dám đứng lên, thời gian chỉ c̣n 3 năm nữa ?

  2. #2
    Hội nghị bán nước
    Khách
    Cho đến ngày hôm nay, chưa ai biết chính xác việt cộng đă kư kết điều ǵ với chệt cộng tại hội nghị Thành Đô. Chuyện năm 2020 VN trở thành tỉnh lị của chệt cộng có lẽ chỉ là lời đồn đăi, không có bằng chứng rơ ràng nên chúng ta không nên khai thác v́ làm như thế sẽ ảnh hưởng đến uy tín sau này.

    Mọi người VN trong và ngoài nước đều hiểu rất rơ rằng giai đoạn đầu thập niên 90 là lúc chế độ cộng sản thế giới đă hoàn toàn sụp đổ. Điều dĩ nhiên xảy ra cho loài kư sinh việt cộng là mất chỗ bám víu, cảm thấy bơ vơ không nơi nương tựa. Chuyện ǵ đến là phải đến. Đă là loài kư sinh th́ phải đi t́m sinh vật chủ để duy tŕ sự sống. Việt cộng đă t́m đến chệt cộng để xin thần phục là một điều không thể tránh khỏi.

    Cách đây đúng 2 năm, một nhóm gọi là "Mạng lưới Bloggers Việt Nam" đă t́m cách gửi đến Quốc hội một kiến nghị xin bạch hóa Hội nghị Thành Đô. Theo đúng kế hoạch được công khai trên mạng Internet từ ngày đầu tuần, đại diện của Mạng Lưới Bloggers Việt Nam thực hiện ‘Điều chúng tôi muốn biết’ ở cả hai nơi là Hà Nội và Sài G̣n vào sáng ngày 15 tháng 10 (năm 2014) đến tại trụ sở Ban Dân Nguyện ngay tại thủ đô Hà Nội và Văn pḥng Quốc hội ở phía nam tại Sài G̣n để trao văn bản ‘Yêu cầu Quốc hội bạch hóa Hội nghị Thành Đô’. Tuy nhiên đi đến đâu cũng bị công an và DLV ngăn chặn...


    Đọc thêm ở đây: Yêu cầu bạch hóa Hội nghị Thành Đô http://www.rfa.org/vietnamese/in_dep...014063925.html

  3. #3
    Member Ba Búa's Avatar
    Join Date
    07-10-2010
    Posts
    1,828
    Hôm nọ tôi có đọc ở HNPD có người viết nói rằng cái tin VC sát nhập vào với TC năm 2020do Kami tung tin ra .Tôi không biết Kami là ai . Nguồn tin có đáng tin không .?? Thế là từ đó mọi người cứ tin theo ,rồi theo đó mà b́nh luận , mà la hoảng lên .Dễ tin vậy sao ??
    Hội nghị Thành Đô ra sao vẫn c̣n bí mật ,không ai biết cả . Đến nỗi Ông Tướng Mật ? của VC cũng c̣n không biêt yêu cầu bạch hoá .

    Tôi nghĩ nếu có kư kết ǵ th́ bọn Bộ Chính Trị phải biết , để mấy thằng đầu xỏ đă kư kết có chết đi th́ những thằng kế tục phải biết mà thi hành chứ , phải không ??

    .
    Ngoài ra vài năm qua đồn rằng có tay Đại tá hay Tướng ǵ đó của VC tị nạn ở WA có đem theo hồ sơ Thành Đô ǵ nữa , nhưng tôi nghi đó là tin Vịt thôi ..

    Tóm lại đến nay cũng chả có ai biết ǵ hết , ngoài tin do Kami đưa ra .
    Rồi ḿnh cứ dựa vào nhảm nhí mà bàn luận e bọn VC cười cho .
    Last edited by Ba Búa; 24-09-2016 at 11:14 PM.

  4. #4
    Khó hiểu
    Khách
    VN dứt khoát không phổ biến những điều đă được kư kết trong hiệp định Thành Đô có nghĩa trong hiệp định đó có nhiều điều nhượng bộ, thua thiệt, nhục nhă... cho dân tộc VN. Nếu cứ đường đường chính chính như vụ kư hiệp định Genève th́ chẳng có ai phải dấu dấu diếm diếm làm ǵ. Càng dấu chứng tỏ càng có nhiều điều sai trái.

    Về vụ "Kami" th́ bên trang Quan Làm Báo có viết "Kami Blog được điều khiển bởi một tổ chức gián điệp có nhiệm vụ chống phá phong trào dân chủ cho Việt Nam do Tướng Nguyễn Văn Hưởng xây dựng và đến nay dù đă nghỉ hưu song y vẫn cầm đầu nhóm này." (http://quanlambao.blogspot.com/2012/...ami-la-ai.html) Không biết hực hư ra sao chứ không lẽ việt cộng lại tự tố giác ḿnh sao!

  5. #5
    Member
    Join Date
    10-11-2010
    Posts
    865

    ĐỌC LẠI HỒ SƠ BÁN NƯỚC: HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990

    ĐỌC LẠI HỒ SƠ BÁN NƯỚC: HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990
    Bài 1
    VỀ HỘI NGHỊ CẤP CAO
    VIỆT - TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ - TRUNG QUỐC

    Hồi kư "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
    nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu



    LỜI GIỚI THIỆU: Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới trí thức ở Việt Nam đă chuyền tay nhau tập hồi kư Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao. Tập hồi kư 82 trang (khổ A4, viết xong lần thứ nhất năm 2001, hoàn thành tháng 5-2003) chưa được xuất bản công khai. Với nội dung phong phú, chính xác và trung thực, tác giả cung cấp những thông tin quư hiếm về những vấn đề Việt Nam đương đại.


    Tác giả làm việc ở Bộ ngoại giao từ năm 1954. Năm 1968 ông tham gia Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về b́nh thường hoá quan hệ với Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng giải quyết vấn đề Campuchia (thập niên 80-90 thé kư 20). Năm 1991, được đề nghị làm Bộ trưởng Ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch, ông viện lư do “sức khoẻ” để từ chối. Cuối năm 1993, ông xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương Đảng.



    Những tư liệu dưới đây trích trong cuốn hồi kư Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ là những thông tin rất quan trọng nói lên sự thật về quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong một giai đoạn khó khăn, đồng thời về những bất đồng trong nội bộ lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.


    Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ sau sự kiện ngày 30-04-1975 đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để b́nh thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhă của Việt Nam chuyển con đường phát triển của nước dẫn đến t́nh h́nh một lần nữa Trung Quốc lại trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lănh thổ và con đường phát triển của Việt Nam.



    Cuộc gặp Thành Đô giữa lănh đạo Trung-Việt (3-9-1990).
    Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng,
    cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lư Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9)


    Nội dung các tư liệu này nêu bật trách nhiệm nặng nề của hai ông Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh vào đầu thập niên 1990 (lúc đó là Tổng bí thư và Bộ trưởng Quốc pḥng) trong quan hệ với Bắc Kinh về việc giải quyết vấn đề Campuchia và b́nh thường hóa quan hệ Việt Trung


    Vể cuộc gặp cấp cao Việt – Trung ở Thành Đô diễn ra hai ngày 3 và 4/9/1990, trong hồi kư Hồi ức và Suy nghĩ, ông Trần Quang Cơ viết :


    “Cuộc gặp cấp cao Việt – Trung tại Thành Đô : Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lư Bằng mời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô , thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề b́nh thường hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu B́nh có thể gặp anh Tô (Cố vấn Phạm Văn Đồng). Trung Quốc c̣n lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được v́ khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô."


    Theo ông Trần Quang Cơ :


    "Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề b́nh thường hoá quan hệ. Năm ngày trước – ngày 24.8.90 – Trung Quốc c̣n bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ư cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề b́nh thường hoá quan hệ".


    Thái độ “ thiện chí ” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách :


    a. Tất cả những hoạt động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc trong hơn 10 năm qua khẳng định chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết thực hiện “ 4 hiện đại ”, biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu trên thế giới, đồng thời xác định vị trí nước lớn của ḿnh trước hết ở Đông Nam Á và châu Á - Thái B́nh Dương. V́ lợi ích chiến lược đó, Trung Quốc kiên tŕ tranh thủ Mỹ, Nhật, phương Tây, đồng thời b́nh thường hoá quan hệ với Liên Xô.


    Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, t́nh h́nh chính trị, xă hội và kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn, mục tiêu chiến lược đó đang bị đe doạ nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ, Nhật và phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá tŕnh cải thiện quan hệ Mỹ-Xô tiến triển rất nhanh. Xô-Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết các vấn đề thế giới và khu vực không kể đến vai tṛ của Trung Quốc. Ngay trong vấn đề Campuchia, vai tṛ Trung Quốc cũng bị lấn át (Xô-Mỹ tiếp xúc trao đổi chặt chẽ về vấn đề Campuchia, cuộc gặp Sihanouk – Hun Xen ở Tokyo là do sự dàn xếp của Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ư muốn của Trung Quốc). Phương Tây tiếp tục đ̣i Trung Quốc thực hiện dân chủ và giải quyết vấn đề Campuchia trên cơ sở kiềm chế Khmer Đỏ.

    (c̣n tiếp )

  6. #6
    Member
    Join Date
    10-11-2010
    Posts
    865
    Bài 1 tiếp theo )

    b. Chuyến đi Đông Nam Á của Lư Bằng (6-13.8.90) nằm trong yêu cầu chiến lược của Trung Quốc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà b́nh để thực hiện “ 4 hiện đại ”, diễn ra trong bối cảnh liên minh Trung Quốc xây dựng ở Đông Nam Á trong 10 năm qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và sau khi Mỹ đă điều chỉnh chính sách. Cuộc đi thăm của Lư đă bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN. Các nước ASEAN vẫn rất lo ngại lư do bành trướng của Trung Quốc. Trung Quốc buộc phải cam kết nội bộ các nước trong khu vực, ủng hộ các đảng cộng sản và vấn đề Hoa kiều, tuyên bố sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối đầu với Việt Nam không c̣n phù hợp với chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc này nữa.


    c. Sau khi Việt Nam đă hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia, các nước phương Tây, Mỹ, Nhật, ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta theo hướng không có lợi cho tính toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước t́nh h́nh đó, Trung Quốc không muốn chậm chân.


    d. Về thời điểm : trong cuộc họp ngày 27 và 28.8.90 tại Nữu Ước, P5 đă thoả thuận văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia (gồm các vấn đề : các lực lượng vũ trang Campuchia, tổng tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ, nhân quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương lai của Campuchia). Văn kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến vấn đề diệt chủng, chỉ nói Campuchia sẽ “ không trở lại chính sách và hành động trong quá khứ ”.


    C̣n Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không c̣n đ̣i lập chính phủ liên hiệp 4 bên ngang nhau, phải chấp nhận vai tṛ lớn của LHQ. P5 thoả thuận lịch giải quyết vấn đề Campuchia : trong tuần từ 3.9 đến 9.9 họp các bên Campuchia ở Jakarta để lập SNC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ, tiếp đó họp mở rộng với các nước trong khu vực (có Trung Quốc), đến khoảng tháng 10-11.90 họp uỷ ban Phối hợp Hội nghị Paris về Campuchia để soạn thảo Hiệp định trên cơ sở văn kiện khung do P5 vạch ra, các ngoại trưởng kư Hiệp định ; 15 nước trong Hội đồng Bảo An thông qua.


    Trung Quốc đặt cuộc gặp cấp cao Trung-Việt trong cái khung thời gian này. Tuy nhiên Bắc Kinh giấu không cho ta biết ǵ về những thoả thuận giữa họ và các nước lớn trong Hội đồng bảo an, mặt khác cũng giữ kín cuộc hẹn gặp ta ở Thành Đô v́ không muốn làm cho phương Tây và ASEAN lo ngại khả năng đoàn kết hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam.


    Ngày 30.8.90, Bộ Chính trị họp bàn về việc gặp lănh đạo Trung Quốc. Anh Linh nêu ư kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xă hội chống đế quốc, và hợp tác giữa Phnom Penh và Khmer Đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia, mặc dù trước đó Bộ Ngoại Giao đă tŕnh bày đề án nêu rơ là rất ít khả năng thực hiện phương án này v́ phương hướng chiến lược của Trung Quốc vẫn là tranh thủ phương Tây phục vụ “ 4 hiện đại ”.


    Anh Lê Đức Anh bổ sung ư anh Linh : “ Phải nói về hoà hợp dân tộc thực sự ở Campuchia. Nếu không có Pol Pot th́ vẫn tiếp tục chiến tranh ”. Anh Vơ Chí Công không đồng ư, nói : “ Trung Quốc sẽ không nghe ta về hợp tác bảo vệ chủ nghĩa xă hội. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây ”.


    Anh Thạch cảnh giác : “ Vẫn có 3 khả năng về quan hệ giữa ta và Trung Quốc, không phải chỉ là khả năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu công thức “ SNC 6+2+2+2 ” để nhấn rơ là có 4 bên Campuchia (trong đó Khmer đỏ là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng...” Sự thực sau này cho thấy Trung Quốc c̣n đ̣i cao hơn thế !


    Ngày 2.9.90, ba đồng chí lănh đạo cao cấp của ta đến Thành Đô đúng hẹn. Tháp tùng có Hồng Hà - Chánh Văn pḥng Trung ương, Hoàng Bích Sơn - Trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng chú ư là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.


    Sau 2 ngày nói chuyện (3-4.9.90), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là“ Biên bản tóm tắt ” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với b́nh thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.


    Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung về mặt quốc tế mà 2 bên đang c̣n tranh căi (giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia ; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có dẫn chứng), c̣n 5 điểm th́ hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Không có điểm nào theo yêu cầu của ta cả. Trong bản thoả thuận, vấn đề nổi cộm nhất là điểm 5 về việc thành lập SNC.


    Lănh đạo ta đă thoả thuận dễ dàng, không do dự (!), công thức “ 6+2+2+2+1 ” (phía Phnom Penh 6 người ; phía “ 3 phái ” 7 người ; 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk) mà Từ Đôn Tín vừa đưa ra ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi cho Phnom Penh, với công thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số người ngang nhau mà Sihanouk và Hun Xen đă thoả thuận ở Tokyo.


    Về sáng kiến “ giải pháp Đỏ ” cho vấn đề Campuchia mà lănh đạo ta đưa ra, tưởng như phía Trung Quốc sẽ nhiệt liệt hoan ngênh, song Lư Bằng đă bác đi: “Các đồng chí nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với nhau để phát huy hơn nữa. Tôi đồng ư một phần và không đồng ư một phần. Bốn bên Campuchia, xét về lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là hai đảng cộng sản, có vai tṛ nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ư là ở Campuchia không chỉ có hai đảng cộng sản mà c̣n có các thế lực khác là lực lượng của Sihanouk và lực lượng của Son San. Lực lượng của họ không lớn lắm nhưng họ được quốc tế ủng hộ. Bài xích họ th́ cô lập SNC, không thể đoàn kết Campuchia. Cần phải để cho hai bên kia phát huy tác dụng ở Campuchia ”.


    Và Giang Trạch Dân cùng nói thêm : “ Các nước phương Tây rất chú ư tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt nam XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng Cộng sản lănh đạo, họp với nhau bàn cái ǵ đây ? V́ vậy chúng tôi giữ kín chuyến đi này. T́nh h́nh quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta ”.


    Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta ?


    Ngay say khi ở Thành Đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và Lê Đức Anh, đă bay sang Phnom Penh thông báo lại với Bộ Chính trị Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung.


    Để thêm sức thuyết phục Phnom Penh nhận Thoả thuận Thành Đô, anh Linh nói với lănh đạo Campuchia : “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc”.


    Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rơ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải t́m đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”


    Nhưng câu trả lời của Heng Somrin, thay mặt cho lănh đạo Campuchia, vẫn là : “ Phải giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải quyết ”.


    Về “ giải pháp Đỏ ”, Phnom Penh nhận định : “ Trung Quốc không muốn hai phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ của họ với Sihanouk và với phương Tây. V́ vậy chúng tôi thấy rằng khó có thể thực hiện “ giải pháp Đỏ ” v́ “ giải pháp Đỏ ” trái với lợi ích của Trung Quốc ”.


    Mặc dù ban lănh đạo Campuchia đă xác định rơ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục Bạn : “ Ta nói “giải pháp Đỏ” nhưng đó là “ giải pháp Hồng ”, vừa xanh vừa đỏ. Trước mắt không làm được nhưng phải kiên tŕ. Ta làm bằng nhiều con đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần t́m nhiều con đường tiếp xúc với Khmer Đỏ. Vấn đề tranh thủ Khmer Đỏ là vấn đề sách lược mang tính chiến lược… Nên kiên tŕ t́m cách liên minh với Trung Quốc, kéo Khmer Đỏ trở về… Ta đừng nói với Trung Quốc là làm “ giải pháp Đỏ ”, nhưng ta thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ; có đỏ có xanh…nhưng thực tế là hợp tác hai lực lượng cộng sản ”.

    Nguyễn văn Linh bồi thêm : “ Xin các đồng chí chú ư lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép Trung Quốc nên Trung Quốc cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt th́ ta có giải pháp Đỏ."


    Theo báo cáo của đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn Campuchia đối với ta từ sau Thành Đô có đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của ḿnh, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định trái với sự gợi ư của ta trên nhiều việc.Nh́n lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đă mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm :


    * Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và vấn đề b́nh thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, c̣n vấn đề b́nh thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện b́nh thường hoá quan hệ hai nước ;


    * Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu B́nh có thể gặp cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “ mồi ” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.


    * Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đă được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.


    Ngày 7.9.90 Bộ chính trị đă họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao Việt-Trung và cuộc gặp cấp cao Việt- Campuchia sau đó, và quyết định ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc thông báo lại lập trường của Campuchia ; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đă thông báo với Campuchia.


    Nếu có ai hỏi về công thức “ 6+2+2+2+1 ”, nói không biết. Nhưng Báo Bangkok Post ngày 19.9.90 trong bài của Chuchart Kangwaan đă công khai hoá bản Thoả thuận Thành Đô, viết rơ Việt Nam đă đồng ư với Trung Quốc về thành phần SNC của Campuchia sẽ gồm 6 người của Nhà nước Campuchia, 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk, thành viên thứ 13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức Chủ tịch Hội đồng.


    Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER) số 4/10 (10.10.90) đăng bài Củ cà-rốt và cái gậy viết về cuộc gặp gỡ cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô giữa Tổng Bí Thư Đảng và Thủ tướng hai nước, cho biết hai bên đă thoả thuân công thức “ 6+6+1 ” về việc lập SNC.


    Phía Việt Nam có nhượng bộ nhiều hơn. Việc Ngoại trưởng hai nước không dự họp cấp cao là đáng chú ư. Bên trong, Trung Quốc nói họ coi ông Thạch là người có quan điểm cứng rắn về vấn đề Campuchia cũng như đối với Trung Quốc.


    ( c̣n tiếp )

  7. #7
    Member
    Join Date
    10-11-2010
    Posts
    865
    (Bài 1 tiếp theo )

    Ngày 12.10.90, nhà báo Nayan Chanda nói với anh Thạch : “ Trung Quốc đang tuyên truyền rộng răi là lănh đạo Việt Nam đánh lừa mọi người, họ kư kết với lănh đạo Trung Quốc về thành phần SNC nhưng đă không thực hiện thoả thuận cấp cao Việt-Trung. Việt Nam lại c̣n xúi dục chính quyền Phnom Penh chống việc bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC và đưa ra hết điều kiện này đến điều kiện khác.”


    Ngày 5.10.90, anh Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker.


    Baker cho biết là sau khi cuộc họp các bên Campuchia ở Bangkok vừa qua thất bại, Trung Quốc rất bất b́nh với lănh đạo Việt Nam. Trung Quốc cho rằng lănh đạo cấp cao của Việt Nam đă hoàn toàn đồng ư với đề nghị của Trung Quốc về con số 13 thành viên của SNC nhưng lại nói với Phnom Penh là công thức đó là ư kiến riêng của Trung Quốc, đă không làm ǵ để thúc đẩy Phnom Penh thực hiện thoả thuận giữa cấp cao hai nước. Không thể tin được ngay cả lănh đạo cấp cao nhất của Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao Việt Nam.


    Baker c̣n nói rằng Trung Quốc đă bác bỏ đề nghị của lănh đạo cấp cao nhất của Việt Nam là Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ CNXH chống âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ CNXH cũng như đề nghị của Việt Nam về giải pháp dựa trên liên minh giữa Phnom Penh và Pol Pot.


    C̣n Lư Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24.10.90, đă xác nhận có một cuộc gặp bí mật giữa lănh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và cho biết kết quả cuộc gặp đă được phản ảnh qua cuộc họp giữa các bên Campuchia ngày 10.9.90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía Việt Nam đă cố gắng thuyết phục Phnom Penh đến đâu, Lư nhận định là Hà Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Phnom Penh đă có “ một thái độ thiếu hợp tác ”.


    Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là v́ chính ta đă tự lừa ta.


    Ta đă tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xă hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “ diễn biễn hoà b́nh ” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đă dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “ giải pháp Đỏ ”.


    Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đă có nhiều ư kiến bàn căi về chuyến đi này. Song măi đến trước Đại hội VII, khi Bộ Chính trị họp (15-17.5.91) thảo luận bản dự thảo Báo cáo về t́nh h́nh thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới, cuộc gặp cấp cao Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại Giao có câu “ có một số việc làm không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia ”.


    Cuộc họp này đầy đủ Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh, các cố vấn Phạm văn Đồng, Vơ Chí Công, các uỷ viên BCT Đỗ Mười, Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh B́nh.


    Anh Tô nói :
    “ Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để nhận định sâu sắc th́ tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận về thái độ của ḿnh. Nói là tự kiểm điểm th́ tự kiểm điểm. Tôi ân hận là ở hai chỗ.


    Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói là anh Linh. Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lư Bằng tŕnh bày phương án “ 6+2+2+2+1 ” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở Hà Nội đă ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đă đồng ư (nói không có vấn đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói : tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ư tôi nói là không công bằng... Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ư lại sau bữa tiệc buổi tối.


    Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh bên Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được nguyên tắc “ consensus ” (nhất trí), c̣n con số không quan trọng. Tôi nghe hơi yên tâm nhưng vẫn nghĩ có hội ư vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa kư bản thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội dung trước khi ta hạ bút kư. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau phiên họp đầu, sau khi Lư Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 th́ ta có thể có cách bàn thêm với họ.


    Hai là trước khi kư văn bản do chuyên viên hai bên thoả thuận, các đồng chí lănh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt ǵ trước khi kư. Nghĩ lại, khi họ mời Tổng Bí Thư, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ta sang gặp Tổng Bí Thư, Chủ tịch Quốc vụ viện, lại mời thêm tôi. Tôi khá bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn, nên đi. Nhưng đi để rồi kư một văn bản mà ta không lường trước hậu quả về phản ứng của Bạn Campuchia, rất gay gắt. Tôi hiểu là Bạn khá bất b́nh, thậm chí là uất nhau. Cho ta là làm sau lưng, có hại cho người ta.”


    Anh Linh : “ Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ư, tôi chỉ nói ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia… Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc ḿnh chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải tính đến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xă hội ở châu Á, cả ở Cuba. Nó đă phá Trung Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta… Trung Quốc muốn thông qua Khmer Đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào th́ Trung Quốc vẫn là một nước xă hội chủ nghĩa.”


    Anh Thạch : “ Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đă đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lănh đạo ta ở Thành Đô cho Phnom Penh. Hun Xen nói là trong biên bản viết là “ hai bên đồng ư thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1” nhưng băng ghi âm lại ghi rơ anh Linh nói là “ không có vấn đề ǵ ”.


    Tôi xin tŕnh bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu. Tại Tokyo tháng 6.90, Sihanouk và Hun Xen đă thoả thuận thành phần SNC gồm hai bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức 6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi ta sang Phnom Penh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm việc consensus trong SNC, anh Hun Xen nói riêng với tôi : chúng tôi thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) th́ mang tiếng Campuchia bị Việt nam và Trung Quốc ép. Như vậy, dù là consensus cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là Phnom Penh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đă thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô và nói với họ là lănh đạo Việt Nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đă sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…”


    Hôm sau, Bộ Chính trị họp tiếp,
    anh Mười nói : “ Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc Tối cao, Hun Xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh Thạch đi Thanh Đô th́ tốt hơn…”


    Anh Tô : “ Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta như thế nào ? Ở Thành Đô, điều ta làm có thể chứng minh được nhưng Cam-puchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. V́ vậy mà tôi ân hận. Tôi ân hận là về sau này sẽ để lại hậu quả.”


    Anh Mười : “ Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không sai. Ban Campuchia nghĩ ǵ về ta là quyền của họ. Với tinh thần một người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của bạn.”


    Anh Thạch : “ Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng. Có phải khi đi Thành Đô về, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô nhận consensus (nguyên tắc nhất trí) ” .


    Anh Vơ Văn Kiệt : “ Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ư có anh Tô trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng th́ anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lư, không có Đặng. Ḿnh bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”


    Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đă phải phát biểu : “ Ḿnh hớ, ḿnh dại rồi mà c̣n nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, c̣n được hay không th́ không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lănh đạo nên làm như vậy.”


    Thoả thuận Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đă để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Phnom Penh. Trong phiên họp Quốc hội Campuchia ngày 28.2.91, Hun Xen phát biểu :


    “ Như các đại biểu đă biết, vấn đề SNC này rất phức tạp. Chúng ta phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng hộ chúng không đâu. Mặc dù Hội đồng đă được thành lập trên cơ sở 2 bên b́nh đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến thành 4 bên theo công thức 6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được ”.


    Tôi c̣n nhớ khi tiếp tôi ở Phnom Penh, ngày 28.9.90, Hun Xen đă có những ư khá mạnh về thoả thuận Thành Đô : “ Khi gặp Sok An ở Bangkok hôm 17.9, Trung Quốc doạ và đ̣i SOC phải công nhận công thức mà Việt Nam và Trung Quốc đă thoả thuận. Nhưng Phnom Penh độc lập. Sok An đă nói rất đúng khi trả lời Trung Quốc là ư này là của Việt Nam không phải của Phnom Penh.”


    Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. V́ quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đă hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được ḷng Bắc Kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đă làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó làm việc b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.


    Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xă hội chống đế quốc Mỹ, thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ở Campuchia là không phù hợp với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị mà c̣n gây khó khăn với ta trong việc đa dạng hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN, và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia.


    Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.


    Cùng với việc ta thúc ép Phnom Penh đi vào “ giải pháp Đỏ ”, việc ta thoả thuận với Trung Quốc công thức SNC tại Thành Đô là không phù hợp với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối quan hệ với ta với Campuchia và Lào.”


    Trần Quang Cơ
    Hồi kư “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)

  8. #8
    Member
    Join Date
    10-11-2010
    Posts
    865

    VAI TR̉ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGUYỄN VĂN LINH - LÊ ĐỨC ANH

    Bài 2
    VAI TR̉ VÀ TRÁCH NHIỆM
    CỦA NGUYỄN VĂN LINH - LÊ ĐỨC ANH
    TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC



    Hồi kư "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
    nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu



    Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp
    Đại sứ Trương Đức Duy (5-6-1990)


    Lời giới thiệu : Trong cái gọi là công cuộc đổi mới, giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam tâng bốc Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là người khởi xướng ; c̣n Lê Đức Anh th́ được thuộc hạ xủng ái như môt thái thượng hoàng thời cộng sản độc quyền cai trị đất nước. Nhưng trong hồi kư “Hồi ức và Suy nghĩ”,Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đă bộc lộ một bộ mặt khác: Hèn nhát, bạc nhược đầu hàng quan thầy Trung Quốc.


    Chương 10 mang tựa đề “Thuốc đắng nhưng không dă được tật” nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết :


    "Sáng 30.5.90, Bộ Chính Trị họp bàn về đàm phán với Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 Tổng bí thư Đảng Lào và Đảng Campuchia ngày 20-21/5, nói là dự định sẽ gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và một số trong Bộ Chính trị tỏ ư phải thận trọng trong xử sự với Trung Quốc.


    Anh Tô nói: Mấy ngh́n năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả tin. Ta cần thăm ḍ thúc đẩy nhưng phải cảnh giác, đừng để hớ. Đỗ Mười cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng t́nh với dự định của anh Linh, cho rằng phải thăm ḍ và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử lư mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực Hội đồng bảo an, tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước XHCN.


    Đa số trong Bộ Chính trị đều cho rằng không nên nói đến “giải pháp Đỏ” với Trung Quốc nữa. Cuối cùng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh kết luận lại là anh sẽ chỉ gặp đại sứ Trung Quốc, c̣n không gặp Từ Đôn Tín; về phía lănh đạo ta, chỉ có anh Thạch tiếp Từ. Nguyễn Văn Linh c̣n nói khi gặp Trương Đức Duy anh sẽ chỉ nói về hợp tác hai nước và đề nghị gặp cấp cao, không nói đến “giải pháp Đỏ”. Nhưng trên thực tế trong cuộc gặp đại sứ Trung Quốc vài hôm sau, Nguyễn Văn Linh đă lại nêu vấn đề đó.


    Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đă mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ ḷng trọng thị đối với Bắc Kinh.


    Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê b́nh của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đă sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”.


    Anh sốt sắng ngỏ ư muốn sang gặp lănh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xă hội” v́ “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xă hội... chúng âm mưu diễn biến hoà b́nh, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành tŕ Xă hội chủ nghĩa , nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xă hội... Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lănh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay... Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xă hội, kiên tŕ chủ nghĩa Mác-Lênin”.


    Về vấn đề Campuchia, anh Linh đă gợi ư dùng “giải pháp Đỏ” để giải quyết: “Không có lư ǵ những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản được”, “họ gặp Sihanouk c̣n được huống chi là gặp lại nhau”.


    Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc pḥng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch.


    Nội dung cuộc gặp này măi đến ngày 19/6 trong cuộc họp Bộ Chính trị để đánh giá cuộc đàm phán 11-13/6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đă gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ư mà anh Linh đă nói với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xă hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau).


    Nhưng trước đó, từ ngày 6/6, phía Trung Quốc (tham tán Lư Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đă cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy.


    C̣n đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6/6, anh Lê Đức Anh đă nói khá cụ thể về “giải pháp Đỏ”: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai tṛ tượng trưng, danh dự, c̣n lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của ḿnh, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, c̣n bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường... Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi...”


    Trưa ngày 9/6/90, Đại sứ Trương Đức Duy nói với Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta rằng, trong cuộc gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, phía Trung Quốc rút ra được 3 ư kiến:


    Đồng chí Nguyễn Văn Linh nói về quan hệ hai nước rất đậm đà. Nói 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái sai như lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa. Muốn gặp cấp cao Trung Quốc để trao đổi những vấn đề lớn trong quan hệ hai nước.


    Về t́nh h́nh quốc tế: t́nh h́nh Liên xô, Đông Âu có nhiều thay đổi. Liên Xô trước đây là thành tŕ của chủ nghĩa xă hội, nay thành tŕ này cũng lung lay rồi. Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ xă hội chủ nghĩa, kiên tŕ chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên tŕ chủ nghĩa Mác-Lênin. Những mgười cộng sản chân chính phải đoàn kết để bảo vệ chủ nghĩa xă hội. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào chủ nghĩa xă hội. Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ này sẽ làm cho chủ nghĩa xă hôi biến mất.


    Về Campuchia: tại sao những người cộng sản không hợp tác với nhau ? Polpot và Hunxen phải hợp tác với nhau.
    ( c̣n tiếp )

  9. #9
    Member
    Join Date
    10-11-2010
    Posts
    865
    (Bài 2 tiếp theo )

    Chiều 10/6/90, Bí thư thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn nói với anh Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao: “Từ Đôn Tín tuy là trợ lư ngoại trưởng nhưng là người có thực quyền trong việc giải quyết các vấn đề châu Á. Trên khía cạnh nào đó có thể nói c̣n có thực quyền hơn cả cấp thứ trưởng. Việc Từ sang Việt Nam lần này là có sự quyết định của cấp cao nhất của Trung Quốc, chứ không phải Bộ Ngoại giao.”


    Theo Hồ Càn Văn, ngày 23/5/90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc pḥng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đă mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc pḥng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đă làm cho Trung Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đă có sự phân hoá và vai tṛ của Bộ Ngoại Giao không c̣n như trước.


    Ngày 8/6/90, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn Tín. Bộ trưởng Quốc pḥng Lê Đức Anh c̣n điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến “giải pháp Đỏ”:


    Việc hai bên Đỏ tiếp xúc với nhau là chuyện lâu dài, cần cho ổn định lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía Campuchia thân Trung Quốc, ta sẽ tác động với phía Campuchia thân ta để hai bên kiềm chế việc thù địch nhau. Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đ̣i họ trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được th́ họ trả lời... Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói khi đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi Trung Quốc gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói tới.”


    Những lời dặn ḍ này đối với tôi thực ra là không cần thiết, không phải v́ tôi sẵn ư thức bảo mật cao, mà bởi v́ ngay từ đầu tôi đă khó chịu với cái ư nghĩ gọi là “giải pháp Đỏ”, với ư nghĩ bắt tay với bọn diệt chủng – dù chỉ là gián tiếp - để làm vừa ḷng Trung Quốc.


    Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11/6/90 sau đàm phán phiên đầu với Từ Đôn Tín tôi về Bộ Ngoại Giao hội báo lại với anh Thạch. Anh Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá t́nh h́nh Đông Âu - Liên Xô.


    Nghe tôi phản ánh t́nh h́nh đàm phán xong, anh liền gạn hỏi tôi có nói với Từ về “giải pháp Đỏ” không. Tôi nói: “Đồng chí Lê Đức Anh đă dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán.” Anh Thạch vặn lại: “Vậy đồng chí nghe theo ư kiến Bộ trưởng Quốc pḥng hay ư kiến Bộ trưởng Ngoại giao ?”. Tôi đáp: “Là cán Bộ Ngoại giao, tôi sẵn sàng chấp hành ư kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là Ủỷ viên Bộ Chính trị”.


    Lúc ấy tôi thật bất ngờ trước phản ứng của anh Thạch, nhưng đồng thời cũng cảm nhận được vết rạn nứt trong Bộ Chính trị đă khá sâu.


    Phía Trung Quốc tất nhiên không để lọt hiện tượng này v́ chính họ đang muốn tác động vào nội bộ ta. Chính thái độ quá đặc biệt, quá nhún ḿnh và cũng quá sơ hở của lănh đạo ta ngày 5 và 6/6/90 đă gây khó khăn không nhỏ cho ngoại giao ta trong đợt đàm phán này.


    Ngay từ hôm đầu đến Hà Nội và trong suốt mấy ngày đàm phán, Từ Đôn Tín luôn giở giọng cao ngạo, dùng uy lực của chính lănh đạo ta để gây sức ép với cán bộ ngoại giao ta. Ngay trong lời đáp từ tại buổi tiệc của tôi chiêu đăi đoàn Trung Quốc tối 9/6/90, Từ đă nói:


    “Sau khi nghe đại sứ Trương Đức Duy báo cáo lại, tôi càng tăng thêm ḷng tin tưởng, tôi tin rằng đồng chí thứ trưởng Trần Quang Cơ và các đồng chí ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nhất định sẽ tuân theo ư nguyện và tinh thần của các đồng chí lănh đạo Việt Nam, cụ thể hoá vào cuộc trao đổi với chúng tôi để chúng ta nhanh chóng giải quyết xong vấn đề”.


    Vào phiên đàm phán đầu tiên, sáng 11/690, Từ đă t́m cách ghim lại những điểm có lợi cho Trung Quốc hoặc ít nhất cũng hợp với ư đồ của họ bằng cách nêu ra “5 nhận thức chung rất bổ ích” mà hai bên đă đạt được trong cuộc gặp ở Bắc Kinh đầu tháng 5/90:


    “Hai bên đều cho rằng vấn đề Campuchia cần đạt được một giải pháp toàn diện, công bằng và hợp lư.


    Phía Việt Nam bày tỏ đă rút hết quân khỏi Campuchia, chấp nhận sự kiểm chứng của LHQ và cam kết sẽ không quay lại Campuchia.


    Hai bên đều cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở Campuchia sau khi Việt Nam rút hết quân, chấm dứt viện trợ bên ngoài và thực hiện ngừng bắn, cần thành lập Hội đồng toàn quốc tối cao. Về nguyên tắc, hai bên chúng ta đều tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao phải là cơ cấu quyền lực có thực quyền. C̣n việc tổ chức Hội đồng đó thế nào, ư kiến của hai bên cơ bản nhất trí với nhau. Ứng cử viên của Hội đồng đó cụ thể là ai th́ phải do các bên Campuchia lựa chọn. Trung Quốc, Việt Nam tôn trọng sự lựa chọn đó. Chúng ta tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao không loại trừ bất cứ bên nào, cũng không để bên nào nắm độc quyền. Về Hoàng thân Sihanouk, hai bên đều chủ trương Hoàng thân Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng toàn quốc tối cao.


    Vấn đề quân sự trong thời kỳ quá độ, hai bên đều cho rằng để tránh xảy ra nội chiến và giữ hoà b́nh ở Campuchia, cần có sự sắp xếp thoả đáng quân đội 4 bên Campuchia. Dĩ nhiên sắp xếp như thế nào, hai bên chúng ta cần bàn thêm.


    C̣n một điểm nữa, các đồng chí Việt Nam bày tỏ từ nay về sau sẽ không nhắc đến vấn đề diệt chủng, kể cả trong các văn kiện quốc tế cũng không nêu nữa”.


    V́ vậy Từ đề nghị tập trung bàn hai điểm tồn tại của lần gặp trước là vấn đề phạm vi quyền lực của SNC và vấn đề lực lượng vũ trang của các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ.


    Trong 3 ngày đàm phán, mỗi khi phía Trung Quốc thấy ta không chấp nhận yêu sách vô lư của họ về hai vấn đề thuộc nội bộ Campuchia này, nhất là khi ta kiên tŕ công thức “hai bên Campuchia” – tức là hai chính phủ PhnomPenh và chính phủ Campuchia Dân chủ, hoặc có thể nói “các bên Campuchia”, nhưng dứt khoát bác công thức “4 bên Campuchia” của họ mang hàm ư chấp nhận vai tṛ hợp pháp của bọn Khmer đỏ và nhắc đến thoả thuận Tokyo, th́ Từ lại lên giọng chê trách tôi làm trái ngược ư kiến của lănh đạo Việt Nam.


    Y đưa ra lập luận là lănh đạo Việt Nam đă đưa ra ư “hợp tác giữa 2 phái cộng sản Khmer” tức là1 nhận từ “4 bên Campuchia” (có nghĩa là đưa Khmer đỏ lên ngang với Chính phủ PhnomPenh).


    Từ nói: “Phát biểu của các đồng chí không nên trái ngược với các đồng chí lănh đạo Việt Nam. ư kiến của Bộ Ngoại giao nên nhất trí với ư của lănh đạo cấp cao, không nên có hai tiếng nói trái ngược”.


    Tôi phải đưa Từ trở về vị trí của y: “Đồng chí có thể yên tâm, không cần lo hộ chúng tôi là Bộ Ngoại giao có tiếng nói khác Trung ương. Đảng chúng tôi nhất trí từ trên xuống dưới. Bộ Ngoại giao là một bộ phận chịu sự lănh đạo chặt chẽ của Bộ Chính Trị chúng tôi”.


    Về vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia, Trung Quốc kiên tŕ 3 điểm:


    a. SNC phải là cơ quan chính quyền tối cao hợp pháp duy nhất, đại diện cho độc lập, chủ quyền, thống nhất của Campuchia. Về mặt đối ngoại, đại diện cho Campuchia trên quốc tế, giữ ghế của Campuchia ở LHQ; về mặt đối nội, thực hiện quyền lập pháp và quản lư hành chính, trực tiếp nắm các ngành quan trọng ảnh hưởng đến tổng tuyển cử tự do, công bằng gồm quốc pḥng, ngoại giao, nội vụ, tuyên truyền, tài chính (với hiểu ngầm là xoá 5 bộ này của chính quyền PhnomPenh).


    b. Không loại bên nào (tức là không loại Khmer Đỏ), không bên nào độc quyền.


    c. Thành phần, số lượng do 4 bên Campuchia bàn bạc và quyết định. Sihanouk làm chủ tịch SNC (thực chất là bác bỏ Thông cáo chung Tokyo đă thoả thuận là Hội đồng gồm 12 người, chia đều cho 2 bên, mỗi bên 6 người).


    Tôi khẳng định SNC có trách nhiệm và quyền lực trong việc thực hiện các hiệp định được kư kết về Campuchia, về hoà giải dân tộc và về tổng tuyển cử; hai chính quyền hiện tồn tại không được làm việc ǵ cản trở trách nhiệm và quyền lực trên đây của SNC. C̣n việc các bên Campuchia chấp nhận ư kiến của Trung Quốc đến đâu là quyền của các bên Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc không thể thay các bên Campuchia sắp đặt việc nội bộ của Campuchia.


    Về vấn đề lực lượng vũ trang, Trung Quốc đ̣i ghi vào biên bản thoả thuận: quân đội của 4 bên Campuchia phải tập kết vào những địa điểm của Ủỷ ban giám sát của LHQ chỉ định. C̣n việc giảm quân hay giải pháp th́ để cho SNC hoặc chính phủ sau bầu cử quyết định.


    Tôi nói: “Việt Nam tôn trọng thoả thuận giữa các bên Campuchia ở Tokyo là lực lượng vũ trang ở đâu đóng đó. Nguyên tắc về lực lượng vũ trang các bên Campuchia là chấm dứt nội chiến càng sớm càng tốt, duy tŕ ngừng bắn, không can thiệp vào đời sống chính trị, không can thiệp vào tổng tuyển cử để bảo đảm cho tổng tuyển cử được thực sự tự do và công bằng. C̣n các biện pháp để thực hiện các nguyên tắc trên sẽ do các bên Campuchia thoả thuận với nhau”.


    Sau khi tỏ phản ứng về lập trường của ta, Từ nói:


    “Tôi muốn nói thật rằng nếu lần này chúng ta đi một bước không hay th́ sẽ có hậu quả sau này. Không những hai chúng ta thất vọng mà kết quả c̣n trái ngược với nguyện vọng của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lănh đạo khác nói với chúng tôi. Chúng ta đang ở ngă ba đường, lựa chọn thế nào ? Thời gian không cho phép. Trung tuần tháng 7, 5 nước Hội đồng bảo an họp lại. Trung Quốc không thể không tỏ thái độ. Nếu Trung Quốc và Việt Nam không đạt được kết quả giải quyết vấn đề Campuchia th́ ḷng mong muốn của chúng ta sẽ chịu hậu quả lớn.”


    Như để thuyết phục ta chấp nhận lập trường của họ, Từ đưa ra dự kiến của Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước:


    Trung – Việt đạt được thoả thuận về giải pháp vấn đề Campuchia và ghi nhận lại bằng một biên bản nội bộ;
    Họp ngoại trưởng 5 nước Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Lào và ra tuyên bố chung;
    Họp hội nghị có tính chất khu vực giữa 5 nước trên và 4 bên Campuchia;
    Họp 5 nước Hội đồng Bảo an và 4 bên Campuchia.
    Họp hội nghị quốc tế Paris về Campuchia.


    Từ nói chỉ trao đổi nội bộ với ta dự kiến này ở đây, không nói với 4 nước Uỷ viên thường trực Hội đồng bảo an, cũng không nói với Liên Xô để tránh sự quấy nhiễu của bên ngoài. Tôi tránh b́nh luận cụ thể, chỉ nói đây là một gợi ư thú vị, rất đáng suy nghĩ, song cần làm sao cho bước khởi động của chúng ta ở đây có kết quả th́ toàn bộ kế hoạch mới có khả năng triển khai được.


    Chiều ngày 12/6/90, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, đă có cuộc họp hẹp giữa hai trưởng đoàn. Qua đó Từ nhờ tôi chuyển tới lănh đạo Việt Nam trả lời của lănh đạo Trung Quốc về những ư kiến mà Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đă nói với đại sứ Trung Quốc ngày 5 và 6/6/90:


    “Lănh đạo Trung Quốc rất coi trọng quan hệ Trung – Việt, Lănh đạo Trung Quốc cũng rất coi trọng những ư kiến Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và đồng chí Lê Đức Anh đă nói với đại sứ Trương Đức Duy. Phía Trung Quốc cho rằng quan hệ Trung–Việt sớm muộn cũng sẽ b́nh thường hoá. Hai bên đều cần cùng nhau cố gắng để thực hiện. Vấn đề Campuchia, cuộc chiến tranh Campuchia đă kéo dài hơn 10 năm. Đây là vấn đề toàn thế giới quan tâm, các nước trong khu vực, nhất là ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với hai nước Trung Quốc và Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết hiện nay là trên cơ sở những nhận thức chung đă đạt được, tiếp tục trao đổi ư kiến về hai vấn đề tồn tại (vấn đề quyền lực của Hội Đồng tối cao và việc xử lư quân đội của các bên Campuchia), làm sao cho có tiến triển hai vấn đề này. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự giải quyết vấn đề Campuchia. Bước đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có đi xong bước này, chúng ta mới có thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng có nghĩa là chỉ có đi xong bước này lănh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ về việc gặp cấp cao và việc thúc đẩy hai phái cộng sản Khmer hoà giải với nhau”.


    Nghe Từ đọc xong, tôi hỏi lại: “Như vậy có phải là chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề quyền lực của SNC và vấn đề lực lượng vũ trang Campuchia th́ Trung Quốc mới nghĩ đến việc gặp cấp cao?”


    Từ khẳng định đúng là như vậy và nói thêm: “Giải quyết hai vấn đề đó có nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam đă nhất trí cơ bản về việc giải quyết vấn đề Campuchia, sẽ làm thành biên bản chung ghi các điều đă nhất trí làm cơ sở để thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia, tác động đối với bạn bè mỗi bên và mở đầu quá tŕnh b́nh thường hoá quan hệ hai nước”.


    Từ nói: “Nhất quyết phải giải quyết xong hai điểm tồn tại đó để có được giải pháp toàn bộ, không nên vượt qua vấn đề Campuchia. Giải quyết xong vấn đề Campuchia th́ các bước tiếp theo về gặp gỡ cấp cao và b́nh thường hoá quan hệ giữa hai nước sẽ dễ giải quyết”.


    Ngay sau đó, tôi sang gặp Thủ tướng Đỗ Mười báo cáo t́nh h́nh cuộc đàm phán để chuẩn bị cho việc anh ấy tiếp Từ Đôn Tín chiều hôm sau như đă dự định. Tôi nói:


    “Chỉ với việc anh Linh và anh Lê Đức Anh gặp Trương Đức Duy trước khi Từ Đôn Tín tới Hà Nội đă làm cho phía Trung Quốc lên giọng trong đàm phán, nay nếu anh Linh hoặc anh Mười lại tiếp hắn nữa th́ rất không nên”.

    ( c̣n tiếp )

  10. #10
    Member
    Join Date
    10-11-2010
    Posts
    865
    ( Bài 2 tiếp theo )

    Nghe tôi tŕnh bày xong, Đỗ Mười bảo sở dĩ anh nghĩ đến chuyện gặp Từ là v́ sáng 10/6/90, Lê Đức Anh đến yêu cầu Đỗ Mười gặp Từ, nay như vậy th́ không cần gặp nữa. Đỗ Mười bảo tôi cùng đi ngay sang báo cáo sự t́nh với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh v́ anh Linh cũng dự định tiếp Từ.


    Sau khi nghe tôi tŕnh bày, có một phút lặng đi, tôi nghĩ bụng Tổng bí thư chắc bị bất ngờ về những câu trả lời quá ư lạnh nhạt của lănh đạo Trung Quốc đối với những điều tâm huyết mà anh và Lê Đức Anh đă thổ lộ với đại sứ Trương Đức Duy. Rồi anh Linh cho ư kiến là trong t́nh h́nh này anh Mười hoặc một cấp cao khác của ta không cần tiếp Từ Đôn Tín nữa.


    Ba ngày đàm phán với Từ nói chung là căng, nhưng giông tố chỉ nổ ra khi Từ Đôn Tín đến chào Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chiều 13/6/90 trước khi đoàn Trung Quốc rời Hà Nội.


    Ngay từ đầu không khí tṛ chuyện đă không lấy ǵ làm mặn mà lắm. Nhưng đến khi Từ nói:


    “Các đồng chí nói chúng ta nên khuyên hai phái cộng sản Campuchia hoà giải với nhau, (Hói đó là mong muốn chân thành của Việt Nam Nhưng trên thực tế, các đồng chí cố sức tiêu diệt Khmer Đỏ. Nếu lănh đạo Việt Nam muốn có sự hoà giải giữa hai nhóm cộng sản Khmer th́ lẽ dĩ nhiên phải chấp nhận “4 bên”.] Chúng tôi không thể hiểu được trong hai giọng nói đó, cái nào là thật, cái nào là giả. Nghe tiếng nói này th́ tiếng nói kia là giả dối, nghe tiếng nói kia th́ tiếng nói này là giả dối. Mong rằng sau này các đồng chí không nên làm như vậy”,


    anh Thạch đă phản ứng mạnh: “Chúng tôi không đ̣i các đồng chí nói chỉ có hai bên Campuchia; các đồng chí cũng không thể đ̣i chúng tôi nói 4 bên. Chúng tôi nói các bên, không loại bỏ bên nào là đủ rồi. Nếu nói khác đi là chống lại Hội nghị Tokyo. Tôi nói thật, dùng thủ đoạn xuyên tạc th́ rất khó đàm phán... Tôi rất trọng đồng chí nhưng rất không hài ḷng với những điều đồng chí nói v́ đồng chí có những xuyên tạc. Như thế rất khó đàm phán”.


    Cuộc nói chuyện kết thúc bằng câu “Chào Ngài ! ” của Từ Đôn Tín. Và anh Thạch cũng đáp lại bằng từ đó thay vào từ “đồng chí”.


    Tôi không có mặt trong buổi anh Thạch tiếp Từ Đôn Tín, nhưng khi nghe kể lại chuyện đó tôi không hề ngạc nhiên.


    Tôi nhớ như in cái giọng ngạo mạn kiểu “sứ giả thiên triều” của Từ trong buổi gặp ngày 13/6/90: “Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đă chuẩn bị ư kiến về quan hệ hai nước Trung Quốc - Việt Nam”.


    Khi nói “nguyện vọng của các đồng chí” là Từ muốn nói đến những điều mà anh Linh và Lê Đức Anh đă nói với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy ngày 5 và 6/6/90. Đây là cuộc đàm phán giữa hai quốc gia b́nh đẳng, làm sao Trung Quốc có thể nói đến chuyện “xem xét nguyện vọng” của lănh đạo Việt Nam được. Thêm vào đó, tâm trạng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong những ngày này lại đang nặng chĩu những suy tư khác.


    Sau khi xảy ra va chạm giữa Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và trưởng đoàn Trung Quốc Từ Đôn Tín, sức ép vào nội bộ ta càng mạnh hơn: suốt nửa cuối 1990 đến 1991, Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại giao, chỉ làm việc với Ban Đối ngoại; Ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham từ chối gặp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại kỳ họp Đại hội Đồng LHQ ở Nữu-ước tháng 9.90.


    Trước đó, ư đồ Trung Quốc phân hoá nội bộ ta đă bộc lộ rơ: muốn ta phải thay đổi Bộ trưởng Ngoại giao. Không chỉ thế, Trung Quốc c̣n lợi dụng sự cả tin của lănh đạo ta để phá hoại uy tín đối ngoại của ta bằng cách dùng thủ đoạn cố ư lộ tin ra với các nước.


    Liều thuốc của thày Tàu bốc cho ta thật là đắng, thế nhưng đâu có dă được tật !

    Trần Quang Cơ
    Hồi kư “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 26-07-2013, 08:30 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 04-01-2012, 06:37 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 25-08-2011, 05:03 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 16-05-2011, 04:41 PM
  5. Replies: 7
    Last Post: 06-12-2010, 08:46 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •