Page 23 of 471 FirstFirst ... 131920212223242526273373123 ... LastLast
Results 221 to 230 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #221
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    Không nhớ rõ

    Chị Tigon ơi, Kỳ Viên tự mà chị nói có khác với Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng không?
    Ngaỳ mới di cư vào, sau vài tháng tạm trú nhà ngừơi cậu ruột ở đường Đồn Đất, bố mẹ em đã mua nhà ở khu Bàn Cờ, và gia đình em ở đó hai năm thì dọn đi nơi khác, lúc đó em vẫn chưa có hân hạnh góp mặt với đời, nhưng vẫn nghe chuyện kể về nhà cũ.
    Chị còn thiếu một món ở chợ Bàn Cờ là món bánh đúc với tương!Ngon vô cùng chị nhỉ!

  2. #222
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    Rạp ..."chớp bóng" tại Sàigòn thuở ấy.

    Các rạp cinéma ở Sài G̣n trước 1975



    Sau đây là danh sách các rạp xi-nê Sài G̣n trước 1975 được sắp theo thứ tự abc. Hiện tại, một số lớn các rạp hoặc không c̣n tồn tại hoặc đă ngưng hoạt động.

    Kỷ niệm cá nhân của tôi với các rạp xi-nê th́ rất nhiều. Các bạn nào đă xem qua phim “Cinema Paradiso” (1988) hẳn phải biết tâm trạng của những đứa bé mê xi-nê như thế nào.
    Alhambra – Nguyễn Cư Trinh.
    Alliance Française – Đồn Đất. Rạp của Trung Tâm Văn Hóa Pháp chiếu toàn phim Pháp không có phụ đề Việt ngữ, hiếm khi thấy người Việt đi xem. Mặc dù mấy ông Tây rất ghét Mỹ, điều đó ai cũng biết, nhưng đôi khi có chiếu phim Mỹ. Tôi xem được một phim xưa do Humphrey Bogart đóng và phim “Easy Rider” (1969) ở rạp này.
    Aristo – Lê Lai. Sau 1954 đây là nơi tŕnh diễn thường trực của đoàn cải lương Kim Chung di cư từ miền bắc vào nam, đoàn có thêm tên phụ là Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô. Tài tử chính là nừ nghệ sĩ Kim Chung.
    Asam – Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao. Rạp này đă dẹp quá lâu rồi, ít ra là vào khoảng từ giữa đến cuối thập niên 50. Rạp không c̣n vết tích ǵ nên tôi không c̣n nhớ, khi bạn bè nhắc lại tôi cũng không h́nh dung ra sao. Chỉ đến khi nhớ lại phim “Le Retour de Jack Slade” (1955) mà tôi đă xem ở rạp này mới nhớ ra là rạp nằm trong một hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên Hoàng gần góc đường Phan Thanh Giản. Gần đó có tiệm ḿ Cây Nhản nổi tiếng một thời, về sau nghe nói tiệm ḿ này dời về ngả tư hay ngả năm B́nh Ḥa ǵ đó.

    Cẩm Vân – Vơ Di Nguy, Phú Nhuận. Có những rạp mà dân coi xi-nê làm như không có duyên hội ngộ nên chẳng bao giờ có dịp bước chân vào. Đối với tôi, mặc dù rạp này cách rạp Văn Cầm Phú Nhuận không bao xa nhưng tôi chưa bao giờ đến xem ở đây. Điều này chứng tỏ rạp Cẩm Vân đă không chiếu phim đúng với sở thích của tôi.


    Rạp Cao Đồng Hưng – Bạch Đằng, chợ Bà Chiểu, Gia Định


    Rạp Cao Đồng Hưng ngày nay là một nhà sách.

    Casino Đa Kao – Đinh Tiên Hoàng. Rạp tương đối khang trang, phim khá chọn lọc, giá cả nhẹ nhàng, địa điểm rất thuận tiện nằm gần Cầu Bông. “Major Dundee” (1965), “The Great Race” (1965).
    Casino Sài G̣n – Pasteur. Tên mới là Vinh Quang. Năm lên 10 tuổi, tôi được bác của tôi cho lên Sài G̣n ăn ở để đi học trường Taberd. Ngay hôm đầu tiên, tôi đă được cho đi xem xi-nê ở rạp này v́ bác tôi có giấy mời coi thường xuyên bao nhiêu lần cũng được. Và cứ thế, mỗi chiều cuối tuần tôi đều được coi xi-nê khoái tỷ, rạp chiếu phim ǵ cũng coi tuốt hết. Thời đó, những phim tŕnh chiếu rất chọn lọc nên ít khi gặp phim dỡ. Một kỷ niệm nhớ đời và một bài học quí giá cho tôi là phim “20.000 Dặm Dưới Đảy Biển” (1954). Tuần đó, bác tôi đă cho đi xem một lần nhưng trong nhà c̣n có người chưa xem nên bác tôi cho cả nhà đi xem một lần nữa. Thế là đến mấy cái màn hay ho tôi tôi đều nói trước làm cho người chưa xem thấy mất hay, nhất là cái màn mấy ông thổ dân bị điện của tàu ngầm giật xẹt lửa tùm lum phải phóng xuống nước. Về nhà, tôi bị chửi cho một trận nên thân. Từ đó trở đi, tôi luôn nhớ không bao giờ tiết lộ cái bất ngờ hoặc đoạn cuối của phim cho người chưa xem. Trong rạp có bán kem eskimo rất ngon nhưng rất đắt tiền. “20000 Leagues under the Sea” (1954), “Drum Beat” (1954), “Touchez Pas Au Grisbi” (1954).


    Rạp Casino Sài G̣n ngày nay.

    Cathay – Công Lư, Chợ Cũ.
    Catinat – Tự Do. Nếu tôi nhớ không lầm, rạp xi-nê tí hon này nằm trong một hành lang từ đường Tự Do xuyên qua đường Nguyễn Huệ về sau chuyển đổi thành pḥng trà ca nhạc với nhiều tên: ‘Au Chalet’, và ‘Đêm Màu Hồng’, nơi ra mắt của ban ‘Phượng Hoàng’ thời kỳ trước khi nhập với ca sĩ Elvis Phương.
    Cầu Muối – Bến Chương Dương, Khánh Hội.
    Cây Gỏ – Minh Phụng, Chợ Lớn.
    Diên Hồng – Yersin.
    Đại Đồng – Nguyễn Văn Học, Gia Định.
    Đại Đồng – Cao Thắng. Một rạp nhỏ chuyên chiếu phim cũ nhưng khá chọn lọc, giá cả thật nhẹ nhàng, địa điểm rất thuận tiện. Càng thuận tiện hơn nữa v́ cạnh rạp có một tiệm ḅ bía rất ngon và rẻ, họ cho rau sống và củ sắn thật nhiều nên tôi thường ghé ăn thế bửa cơm luôn.


    Đại Lợi – Thoại Ngọc Hầu, Chợ Ông Tạ.

    Đại Nam – Trần Hưng Đạo. Rạp Đại Nam là rạp sang trọng nhất Sài G̣n, những phim mới được chiếu trước tiên ớ đây và một vài rạp khác rồi một thời gian sau mới được đưa đi tỉnh hoặc các rạp nhỏ chuyên chiếu lại. Mỗi phim gồm có nhiều cuộn nên thời đó mấy rạp cùng chiếu chung một phim bằng cách chia lệch giờ khởi chiếu. Mỗi khi chiếu xong một cuộn th́ có người xách đi giao cho rạp kế tiếp và ngược lại. Có lần rạp Đại Nam đang chiếu phim “Pillow Talk” (1959) th́ anh chàng đi giao cuộn phim đă măi mê uống nước giải khát hay sao đó mà để mất đi cuộn phim phải giao. Tất cả các rạp cùng chiếu phim đó đành phải ngưng lại và đem phim khác ra chiếu đỡ. Măi một thời gian sau, không rơ cuộn phim được chuộc lại hay phải mua phim mới Pillow Talk mới được chiếu trở lại. Đến khi rạp Rex ra đời vào năm 1962 th́ rạp Đại Nam xuống c̣n ngôi vị thứ hai. Tôi có ít nhiều kỷ niệm với rạp này. Gia đ́nh bạn học P.T. Sơn nghe nói sở hữu rạp nên bạn bè chúng tôi thường hay dí bạn Sơn để t́m vé mời. Lâu lâu Sơn cũng chiều ư bạn bè và ch́a ra vài vé. Tôi được xem phim “Bernardine” (1957) là do vé mời của Sơn tặng. Một kỷ niệm khác là khi mới bắt đầu chơi nhạc cùng với Lê Hựu Hà vào khoàng năm 1965, chúng tôi được dịp tŕnh diễn một lần ở đây. Lúc đó, Hà mới bắt đầu sáng tác và giao cho tôi tŕnh bày bản “Chiều Về” v́ phần ḥa âm đ̣i hỏi Hà phải bận độc tấu guitar suốt bài nhạc không tiện hát chính ngoại trừ những đoạn ca bè theo. Vài năm sau, một Đai Hội Nhạc Trẻ được tổ chức ở đây. Vào cái thời tiểu thuyết của nữ văn sĩ Trung Hoa Quỳnh Dao đang hồi cực thịnh và được quay thành phim liên miên trong đó có “Mùa Thu Lá Bay” với đôi tài tử đẹp trai đẹp gái Đặng Quang Vinh và Chân Trân, tôi đă xem phim này ở rạp Đại Nam và được cái hân hạnh đưa một cô gái Tàu thật trẻ đẹp đi xem cùng. Đầu đuôi câu chuyện như sau đây. Đám nhạc sĩ chúng tôi khi đến vũ trường nào chơi nhạc trước sau ǵ rồi cũng dính với một em ca ve ở đó. Rồi khi nhổ neo sang vũ trường khác thường th́ cũng đành ca bài chia tay vui dầy duyên mới. Có nhiều em ca ve hay gọi đùa chúng tôi là mấy thằng cha ‘thợ đờn’. Nói vậy chớ mấy em không hận thù ǵ hết, thời loạn ly mà, vui được ngày nào hay ngày nấy miễn là c̣n gặp nhau là c̣n chơi đẹp với nhau. Năm đó, nhạc sĩ Đức Phú mời tôi vào ban nhạc về cộng tác với vũ trường ‘La Sirène’ nằm trên đường Pasteur đối diện với rạp Casino Sài G̣n. Suốt mấy đêm đầu đứng đàn trên ban nhạc và quan sát thật kỹ lưỡng đội ca ve của vũ trường, tôi hoàn toàn thất vọng. Điệu này đàn ở đây coi bộ mất hứng rồi, không lẽ không c̣n ǵ nữa hay sao? Ngay lúc đó, tôi bèn giật ḿnh khám phá ra một cô hầu bàn người Tàu rất trẻ và rất xinh đứng trông chừng mấy cái bàn phía tôi hay đi lên đi xuống. Thế là lần này tôi chuyển hướng sang cô xẩm nhỏ và đưa cô ấy đi xem phim Mùa Thu Lá Bay đang chiếu ở rạp Đại Nam. Được dịp coi phim Tàu mà lại có người đẹp Tàu đi xem cùng và phiên dịch cho ḿnh nghe những điểm hay của phim làm tôi rất thích thú…cho đến khi cô ấy đem chai dầu hiệu ‘con sóc’ ra xức th́ mọi cái ǵ hay đẹp đối với tôi đều sụp đổ một cái rụp! Vốn cái lổ mũi của tôi trời cho quá thính nên cái mùi ǵ không hợp là bắt buộc tôi phải tháo chạy. Về sau này, có những lúc nằm chèo queo một ḿnh nhớ lại thấy tiếc. Nhận xét của tôi về nhan sắc của cô gái Tàu rất đúng, một thời gian sau, tôi thấy cô bỏ nghề hầu bàn đi làm ca ve. Chắc chắn là cô ấy cũng nổi tiếng như một vài hoa khôi khác của làng ca ve Sài thành hồi đó và biết đâu cô ấy đă tiến bộ hơn không c̣n xài dầu con sóc nữa!


    Rạp Đại Nam ngày nay.

    Đại Quang – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Rạp này hoàn toàn Trung Hoa chẳng có ǵ là Việt Nam hết v́ họ chiếu toàn phim Tàu nên tôi không bao giờ có dịp bước chân vào. Tuy vậy, tôi lại có một kỷ niệm dễ thương với rạp này do rạp nằm ngay cạnh vũ trường Bách Hỷ, nơi tôi chơi nhạc mấy năm cuối cùng trước khi rời khỏi Việt Nam vào hạ tuần tháng 4 năm 1975. Do cảm t́nh đặc biệt, mỗi tối khi tôi đến Bách Hỷ, một em trai chạy đến đem chiếc xe gắn máy honda cà tàng của tôi đi cất cùng với những chiếc xe của khán giả rạp Đại Quang. Khi vũ trường tan, tôi vừa bước ra khỏi cửa là đă thấy em dắt chiếc xe lại cho tôi. Dù đó là một cử chỉ nhỏ nhặt tầm thường nhưng đối với tôi nó có một cái ǵ thật là ấm ḷng chiến sĩ.
    Đồng Nhi – Lê Quang Định, Gia Định.
    Eden – Tự Do. Rạp này quá nổi tiếng và đối với tôi cũng nhiều kỷ niệm. Trước nhất, rạp này không nằm ngoài mặt đường mà lại nằm sâu trong một thương xá cũng được gọi là Eden. Đến rạp, khán giả có thể đi vào từ phía đường Tự Do, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ đều được cả. Cái tên rạp tiếng Pháp tự nó cho biết rạp này đă có từ thời Pháp thuộc và kiến trúc bên trong th́ đúng y như những rạp bên Pháp được thấy qua các phim xi-nê. Ở Sài G̣n, chỉ duy nhất rạp này mới có hai balcons (tầng lầu). Thông thường, khi xem xi-nê, ngồi balcon 1 là hay nhất v́ nh́n xuống vừa tầm mắt không mỏi cổ và không bị cái đầu của người ngồi hàng ghế trước che khuất tầm nh́n. Balcon 2 của rạp Eden th́ nhỏ hơn và quá cao nên nh́n sâu xuống muốn cụp cái cổ luôn nên phần đông khán giả chẳng màng để ư đến sự hiện hữu của nó, ngoại trừ dân đào kép Sài G̣n th́ chiếu cố rất nhiệt liệt và gọi đó là ‘pigeonnier’ (chuồng bồ câu). Đi xem xi-nê một ḿnh khi rạp hết chổ phải lên đó th́ buồn lắm v́ trên ấy đào kép mùi mẩn chẳng cần biết trên màn ảnh chiếu cái ǵ, nhất là những cặp ngồi ở hàng ghế chót có sau lưng nguyên bức tường th́ tha hồ lâm ly chẳng lo có ai nh́n đến trong cái tối mù mù. Ca sĩ Dalida đă tŕnh diễn ở rạp này. Một lần khác, tôi đi xem một ban nhạc jazz của Tây Đức (thời đó c̣n Tây Đức và Đông Đức). Mấy năm sau đó, cũng tại rạp này, tôi được xem phim “Parlez-Moi d’Amour” (1961) do Dalida đóng. Một kỷ niệm cho các bạn cùng học Taberd với tôi là khoảng đầu thập niên 60, không rơ là do nhă ư của ai, cả lớp chúng tôi và các lớp khác được đưa đến rạp này để xem phim “Les Pilliers du Ciel” (Pillars of the Sky (1956)), một phim cao bồi của Mỹ do Jeff Chandler và Dorothy Malone đóng. C̣n về kỷ niệm cá nhân th́ mấy năm sau nữa, vào một chiêu cuối tuần, tôi mời cô đào của tôi đi nhảy đầm matiné nhưng cô ấy nói đă lở mua vé xem phim “My Fair Lady” (1964) tại Eden cùng với một cô bạn rồi. Tôi kêu cô đào của tôi bán cái vé lại cho người khác rồi đi chơi với tôi. Thế là buổi hôm đó, cô bạn gái của cô đào của tôi tự nhiên thấy có một người đàn ông lạ hoắc lù lù đến ngồi kế bên. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy buồn cười và nghĩ xa hơn về chuyện đời th́ thấy là khi mới quen nhau c̣n chịu đèn th́ mọi việc đều ổn thỏa, đến khi không c̣n nồng thắm nữa th́ cái ǵ cũng không xong: nào là bận cái này cái nọ, nhức đầu nóng lạnh đủ mọi lư do trên đời!


    Phía sau của rạp EDEN nằm trên đường Nguyễn Huệ, thời điểm không rơ. (Ảnh từ Internet.)

    Hào Huê – Nguyễn Hoàng, Chợ Lớn.
    Hoàng Cung – Triệu Quang Phục, Chợ Lớn.
    Hồng Liên – Hậu Giang, Chợ Lớn.
    Hùng Vương – Pétrus Kư, Sài G̣n.

    Hưng Đạo – Nguyễn Cư Trinh. Trong thời kỳ tin tức chiến sự sôi động biến chuyển từng ngày từng giờ của tháng 4 năm 1975, tinh thần của mọi người giao động đến cực độ và linh tính sẽ có chuyện ǵ lớn lao sắp xảy ra. Tôi cũng như bao nhiêu người khác c̣n biết làm ǵ hơn là chờ đợi những ǵ sẽ đến. Một ngày thượng tuần của tháng, tôi đến rạp Hưng Đạo xem xi-nê trong cái tinh thần đó, một cách để giết th́ giờ chớ tâm trí của tôi không thể chú ư một cách b́nh thường vào t́nh tiết đang diễn ra trên màn ảnh. Trong trạng thái xem phim hờ hửng đó th́ bổng phim ngưng chiếu và đèn trong rạp bật sáng lên, không phải dấu hiệu của cảnh đứt phim thông thường v́ có một số rất đông khán giả ùn ùn đi ra ngoài. Tôi cũng đi theo và được biết là dinh Độc Lập vừa bị dội bom. Bây giờ, tôi cố nhớ lại lúc đó xem phim ǵ cũng không ra, chỉ nhớ loáng thoáng là một phim Pháp. C̣n về thời điểm chính xác của biến cố, tôi thấy chẳng cần phải truy t́m thêm v́ lúc nào cũng có sẵn trên Internet.
    Khá Lạc – Nguyễn Tri Phương. Rạp nằm cạnh tiệm phở Tương Lai hiện vẫn c̣n bán phở. Một anh bạn thân cho biết lần đầu tiên anh được xem xi nê là tại rạp này với phim “Samson and Delilah” (“Samson et Dalila”). Riêng cá nhân tôi, tôi hoàn toàn không biết rạp này cho đến khi anh bạn nói tới, mặc dù nhà của tôi cùng nằm trên đường Nguyễn Tri Phương kể từ năm 1962. Như vậy, rạp này có lẻ đă hoạt động trước thời Đệ Nhất Cộng Ḥa. Một điểm khác nói về tiệm phở Tương Lai cạnh rạp, trước Tết năm 1966, chúng tôi đến ăn phở ở đây và phải trả 200 đồng cho một tô phở, trước đó chỉ khoảng 150 đồng. Đấy là thời điểm vật giá bắt đầu leo thang vào những năm 60.
    Khải Hoàn – Vơ Tánh và Cống Quỳnh. Trong cuộc đời làm người xem xi-nê của tôi, có những rạp không có duyên với tôi nên tôi chưa bao giờ được bước chân vào các rạp đó. Trái lại, có những rạp rất có duyên với tôi nên xem hết phim này đến phim khác. Rạp Khải Hoàn là một. Có thể yếu tố quyết định là rạp này tuyển chọn phim đúng ư tôi và địa điểm tọa lạc nơi thị tứ, giá tiền lại tương đối phải chăng nên tôi đă xem khá nhiều phim ở đây trong đó có phim “Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm”, và “Mưa Lạnh Hoàng Hôn”. Riêng phim sau, chương tŕnh quảng cáo có phụ diễn tân nhạc nhưng hôm đó khán giả đă chờ măi vẫn không thấy hơi hám ca nhạc sĩ đâu hết. Cuối cùng có nghệ sĩ Ngọc Phu bước ra sân khấu làm một màn tự biên tự diễn không đàn địch phụ họa chi cả, anh giả làm tiếng chó sủa, gà gáy, ngựa hí, quạ kêu qua loa cho xong rồi chiếu phim. Hiện tại, anh và gia đ́nh đang sinh sống ở Nam California và tôi cũng đă có lần sinh hoạt văn nghệ với nghệ sĩ đàn anh này. Một kỷ niệm khác của tôi ở rạp này là gặp phải nạn móc túi. Gặp hôm mua vé có chen lấn, tôi cảm thấy có mấy ngón tay cứ muốn thọt vào túi quần và tôi đă kịp chận lại. Rất có thể đây là một tay chưa chuyên nghiệp. Bằng không th́ chắc số tiền ít ỏi của tôi cũng đă bay mất rồi!
    Kim Châu – Nguyễn Văn Sâm, Chợ Cũ. Cảm t́nh của tôi đối với rạp này tương tợ như đi mua một chiếc xe mới. Khi rạp bắt đầu khai trương th́ họ đă quảng cáo sẽ chiếu phim “Sapho” (1960). Tuy chỉ là một phim hạng B hoặc C nhưng nữ tài tữ Tina Louise có vẽ đẹp duyên dáng nên tôi đến xem phim trong tinh thần như vừa mua sắm được một chiếc xe như ư. Qua đến những phim kế tiếp, rạp Kim Châu đă tuyển chọn những phim cùng loại nên rất được khán giả hài ḷng.
    Kinh Đô – Lê Văn Duyệt. Đây là một rạp xi-nê hạng sang, chỉ kém hơn rạp Đại Nam một tí. Rạp khai trương sau rạp Đại Nam nhưng lại chỉ hoạt động một thời gian tương đối ngắn ngủi rồi biến thành một chi nhánh của cơ quan USAID. Tôi có một kỷ niệm với rạp này. Hai cha con tôi vốn là những người ghiền xi-nê, Hôm đó, cha tôi đưa tôi lên Sài G̣n để nhập học nội trú sau một kỳ nghỉ hè, tôi được thả ở ngoài phố để đi dạo mua sắm. Tôi vẫn được sống một cuộc sống tự do như thế từ khi c̣n nhỏ. C̣n khá nhiều th́ giờ trước khi phải tŕnh diện mấy sư huynh La San Taberd, tôi bèn lang thang đến rạp Kinh Đô nơi đang chiếu phim “La Dernière Torpille” (“Torpedo Run”) (1958). Trùng hợp thay, tôi gặp lại cha tôi cũng vừa đến đó, thế là cha tôi cho tôi cùng vào xem phim, tôi đở phải bỏ tiền ra mua một cái vé xi-nê.
    Kinh Thành – Hai Bà Trưng, Tân Định.
    Lạc Xuân – Gia Long, G̣ Vấp. Mặc dầu đơn vị của tôi tọa lạc ở Hạnh Thông Tây cách rạp này không bao xa và sau này có rất nhiều lần đi ngang qua nhưng tôi không hề biết đến sự hiện hữu của nó. Một người bạn thân lúc c̣n ở quân ngũ đă được huấn luyện gần đó có nhắc nên tôi mới biết. Bà con ở G̣ Vấp th́ biết rạp này rất rơ.
    Lam Sơn – Bùi Chu. Mũi tàu Lê Lai, Bùi Chu, Vơ Tánh chéo góc với nhà thờ Huyện Sĩ, ṿng qua bên hông rạp phía đường Lê Lai th́ có nhà của nữ kịch sĩ Kim Cương. Rạp xi-nê này chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn ngủi rồi bị đóng cửa v́ vị trí của rạp quá gần một nhà thờ, vào thời kỳ đó là Đệ Nhất Cộng Ḥa, nên Công Giáo đang có ưu thể.
    Lê Lợi – Lê Thánh Tôn. Rạp chiếu phim cũ nhưng tuyển chọn toàn phim hay và chỉ chiếu trong 1, 2, hoặc 3 ngày rồi đổi sang chiếu phim khác. Những phim classic như “High Noon”, “Crimson Pirates”, “Vera Cruz”, “Waterloo Bridge”, …được chiếu đi chiếu lại luôn, nếu hụt xem phim nào th́ khán giả cứ kiên nhẩn chờ đợi, một thời gian sau thế nào phim đó cũng sẽ được chiếu lại. Lịch tŕnh chiếu phim được niêm yết trước gần một tháng để khán giả chuẩn bị ngày đi xem phim. Rạp Lê Lợi có thể nói là rạp duy nhất ở Sài G̣n chiếu phim theo phương thức này, một ít rạp khác có bắt chước phần nào nhưng rồi cũng không theo hoàn toàn hoặc sau đó phải thay đổi phương hướng.
    Rạp Lê Lợi được nhóm học sinh chúng tôi chiếu cố khá nhiều v́ rạp chiếu phim hay và giá vé rất nhẹ. Thời đó, chúng tôi đi học ngày hai buổi nên buổi chiều nào chán học là chúng tôi rũ nhau ‘cúp cua’ đi xem xi nê ở rạp này.
    Ngoài ra, một người bạn cùng lớp là con cháu của chủ rạp Lê Lợi nên chúng tôi hay ‘dí’ hắn để kiếm vé mời xem xi nê ở rạp này khỏi tốn tiền, chỉ phải đóng tiền thuế rất nhẹ mà thôi.
    Khi qua đến Mỹ, tôi mới được biết loại rạp xi nê này được gọi là ‘revival movie theater’, chỉ khác một chi tiết là họ chiếu hai phim liên tiếp cùng có chủ đề giống nhau. Ai chịu đựng nổi th́ ngồi xem hết, ai chịu không nổi th́ phải bỏ về thôi v́ quá đói bụng, họ không cho đem thức ăn từ ngoài rạp vào và trong rạp chỉ có bán popcorn (bắp rang Mỹ), kẹo, bánh, soda (nước ngọt có ga như: Coca Cola, 7Up…).
    Thời đó vào đầu thập niên 80, video cassette vừa mới xuất hiện chưa có ra phim nhiều, những phim Âu Châu rất hiếm, chỉ có thể xem tại các rạp revival này. Rạp Nuart là một, rạp này nằm ở tận Santa Monica cách xa sở làm của tôi cả tiếng đồng hồ lái xe, nhưng khi gặp phim đă kết th́ giá nào cũng đi xem cho được. Buổi chiều vừa ra khỏi sở là phóng xe ào ào cho kịp giờ chiếu phim, vào rạp mua một bịt popcorn rồi tử thủ xem cho hết luôn hai phim. Cũng may là popcorn giúp cơ thể chống đói rất hay, nếu chịu không nổi nữa th́ có kẹo chocolate, chơi vào một cây ‘Three Musketeers’ là bao tử êm ngay. Tôi học cái bí quyết này từ mấy cô gái Mỹ, đi chơi với họ rất tự nhiên thoải mái. Khi date họ mà trong túi lại ít tiền th́ mấy cô ấy bảo cứ mua cho họ một thỏi chocolate là xong, khỏi cần ăn tối để đi chơi mục khác.
    Lệ Thanh – Phan Phú Tiên, Chợ Lớn.
    Lido – Đồng Khánh, Chợ Lớn. Rạp này có một lịch sử khá ly kỳ. Rạp nằm trong vùng Chợ Lớn cạnh Đại Thế Giới cũ chuyên chiếu phim Âu Mỹ trong khi các rạp chung quanh đều chiếu phim Tàu. Đến cuối thập niên 60, rạp ngưng hoạt động để cho Mỹ mướn làm khu cư trú và câu lạc bộ. Sau năm 1975, rạp hoạt động chiếu phim trở lại và chỉ mới gần đây, rạp đă bị đập phá ra để nhường chổ cho một công tŕnh xây dựng nhà cao tầng hay ǵ đó. Bạn nào có kỷ niệm đẹp hay quyến luyến rạp này th́ chỉ c̣n có thể nhớ qua kư ức mà thôi v́ rạp đă biến mất không c̣n nữa.

    Kỷ niệm của cá nhân tôi đối với rạp này cũng khó quên. Khi c̣n học ở bậc tiểu học, cha mẹ tôi cho tôi vào nội trú v́ gia đ́nh ở tỉnh xa, mỗi lần vào Sài G̣n rước tôi ra chơi th́ lưu trú ở khách sạn Kim Linh đối diện với rạp Lido. Có lần tôi đă ṃ qua xem một phim của ông già cao bồi Randolph Scott. Về sau, khi chơi nhạc cho các club Mỹ, có lần tôi cộng tác với anh Ngọc Hàm tự là Hàm Râu v́ anh để râu giống như Nguyễn Cao Kỳ và cũng hay giả giọng của vị tướng này rất là giống. Tôi thật sự khâm phục biệt tài ăn nói trước khán giả của anh, ngay cả khán giả Mỹ cũng phải lăn ra cười khi anh diễu trên sân khấu. Không biết anh học những cái tếu đó ở đâu hoặc chính anh tự nghĩ ra mà quá hay. Vào khoảng năm 1969, anh đang là luật sư tập sự và cũng là trưởng ban nhạc do anh lập ra, nhạc sĩ của ban nhạc thường là ráp nối, ít ai cộng tác lâu dài có lẽ v́ không có duyên với anh hay sao đó. Hôm đó, anh lănh một show chơi nhạc cho Mỹ tại club Lido. Thành phần gồm có: Ngọc Hàm (keyboard, vocal), Ngọc Hải (lead guitar, vocal) lúc đó cũng đang tập sự luật sư, Đăng Chí (bass guitar, vocal), tôi không c̣n nhớ tay trống là ai, ca sĩ có Connie Kim lúc đó chúng tôi thường hay gọi cô bằng tên Phượng. Như vậy, có thể nói ban nhạc chúng tôi xem như là trí thức nhất rồi v́ lúc đó tôi cũng đang theo học Luật Khoa và sau này đă lấy bằng Cữ Nhân Luật Khoa Công Pháp vào năm 1973.

    Được dịp chơi nhạc ngay phố phường Sài G̣n, Chợ Lớn, chúng tôi rất thích thú thay v́ phải di chuyển xa xôi ra các đơn vị tiền đồn của quân đội Mỹ như ở Phước Thành chẳng hạn. Đây là một căn cứ hỏa lực (fire base), khi đi chơi nhạc, xe van của chúng tôi phải chạy lên Dĩ An, rồi từ đó chiếc trực thăng Chinook CH-47 nuốt chửng nguyên chiếc xe van có ban nhạc chúng tôi ngồi trong đó, xong nhả ra tại căn cứ. Chúng tôi chơi nhạc giữa lúc những khẩu đại pháo gà cồ khạc đạn ầm ĩ rung rinh cả barrack và sân khấu tŕnh diễn.

    Trở lại chuyện Lido, Ngọc Hải và tôi nhận thấy c̣n khá nhiều th́ giờ trước khi tŕnh diễn nên hai đứa thả bộ lang thang trên đường Đồng Khánh. Măi mê nh́n ngắm thiên hạ nhất là mấy cô xẩm duyên dáng nên khi quay trở về club Lido th́ đă trễ đi một chút. Ngọc Hàm bèn mắng hai đứa chúng tôi bằng một câu xem như là trí thức như sau: “Hai đứa bây tưởng tụi bây là ai?”. Ngọc Hải và tôi chỉ c̣n nước ngậm câm.

    Chính Ngọc Hàm cũng đă làm thay đổi hẳn cuộc đời chơi nhạc của tôi. Trước khi gặp Ngọc Hàm, tôi c̣n chơi rhythm guitar (guitare d’accords hay accompagnement) rồi từ khi chơi nhạc với Ngọc Hàm lúc đó đang cần một tay bass nên anh bảo tôi chuyển qua đánh bass. Cũng nhờ đó mà sau này khi chuyển qua nhà nghề chơi nhạc với các nhạc sĩ đàn anh suông sẽ hơn lại c̣n nhờ biết ca hát, gọi là bass ca, nên lương bổng cũng cao hơn một tí.
    Long Duyên – Hồ Văn Ngà.
    Long Phụng – Gia Long, chuyên chiếu phim Ấn Độ.
    Long Thuận – Trương Công Định và Nguyễn An Ninh.
    Long Vân – Phan Thanh Giản. “El Dorado” (1966).

    Rạp Long Vân, thời điểm không rỏ. (Ảnh từ Internet.)

    Majestic – Tự Do. Rạp đă ngưng hoạt động từ trước 1975. Nơi đây được xây thành vũ trường Maxim tầng trên và sân khấu tŕnh diễn ca vũ nhạc kịch tầng dưới do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách. “Les Portes Claquent” (1960).
    Minh Châu – Trương Minh Giảng.
    Minh Phụng – Hồng Bàng, Chợ Lớn. Thật ra, nơi đây là đ́nh Minh Phụng, khi xưa có lúc khai thác chiếu phim ban ngày.
    Mini Rex – Lê Lơị. “Paint Your Wagon” (1969).
    Moderne – Trần Văn Thạch, Tân Định. Tôi không có duyên với rạp này nên chưa bao giờ có dịp bước chân vào. Theo lời một thân hữu, rạp này có vài ba đặc điểm: lối vào rạp đâm ngang hông phía giữa những hàng ghế, ghế bằng cây nên khi dứt phim khán giả cùng đứng dậy làm cho ghế cây khua lên rầm rầm, và cũng v́ ghế cây nên đoàn quân rệp tha hồ cắn phá đám khán giả trong bóng tối của buổi chiếu phim.
    Mỹ Đô – Trần Nhân Tôn và Vĩnh Viễn. Tên xưa là Thành Chung, tên mới là Vườn Lài.


    Rạp Mỹ Đô ngày nay

    Nam Quang – Lê Văn Duyệt và Trần Quư Cáp.
    Nam Tiến – Bến Vân Đồn.
    Nam Việt – Tôn Thất Đạm, Chợ Củ. “The Bravados” (1958).
    Nguyễn Huệ – Nguyễn Huệ. Rạp đă ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là cơ sở U.S.O.. “Journey to the Center of the Earth” (1959).
    Nguyễn Văn Hảo – Trần Hưng Đạo.
    Olympic – Hồng Thập Tự. “To Hell And Back” (L’Enfer des Hommes (1955)).
    Oscar – Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn.
    Phi Long – Xóm Củi.
    Palace – Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn.


    Rạp Palace ngày nay.

    Quốc Thái – Trần Quốc Toản, Chợ Lớn.
    Quốc Thanh – Nguyễn Trải.
    Rạng Đông – Pasteur. Tên cũ là Hồng Bàng. “The Ambassador’s Daughter” (1956).


    Rex – Nguyễn Huệ. “Dirty Harry” (1971), “Le Passager de la Pluie” (1969).

    Thanh B́nh – Phạm Ngũ Lăo. “Le Magnifique” (1973).
    Thanh Vân – Lê Văn Duyệt, Ḥa Hưng.
    Thủ Đô – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Tên cũ là Eden.
    Trung Hoa – Đồng Khánh, trước nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn.
    Văn Cầm – Trần Hưng Đạo. Rạp đă ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là đại lư Honda đầu tiên tại Việt Nam.

    Văn Cầm – Vơ Di Nguy, Phú Nhuận. Rạp này có cái lệ luôn luôn chiếu một phim ngắn của 3 anh hề ‘Stooges’ trước khi chiếu phim chính. Rạp rất rẻ tiền không có máy lạnh nên rất ngộp thở. Tôi không bao giờ ngồi vào ghế mà lúc nào cũng đứng phía sau cùng nơi có cái màn đen che ánh sáng. Khi nào ngộp thở quá th́ vén màn tḥ đầu ra ngoài thở không khí mát một chút rồi thả màn ra coi tiếp.

    Vào năm 1961, tôi đang theo học lớp 5e chương tŕnh Pháp (đệ lục chương tŕnh Việt hoặc lớp 7 bây giờ) ở trường Taberd. Khoảng thời gian đó, tôi mê xem xi nê rạp Văn Cầm gần nơi tôi ở đến độ bỏ đi consigne (bị phạt phải vào lớp chiều Thứ Báy lúc nghỉ học) nên bị mấy sư huynh hành hạ tơi bời nhớ đời luôn khiến tôi không thể nào quên được cái khoảng đời học sinh tương đối đen tối của lúc đó.
    Mời các bạn click vào những gịng dưới đây để xem lại những phim ngắn của mấy anh chàng Stooges.
    Văn Hoa – Trần Quang Khải, Đa Kao


    Rạp Văn Hoa ngày nay.

    Văn Lang – Cách Mạng, Phú Nhuận.
    Victory Lê Ngọc – Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn.
    Việt Long – Cao Thắng.
    Vĩnh Lợi – Lê Lợi. Khoảng đầu thập niên 60, có xảy ra một vụ nổ lựu đạn trong rạp, có người bị thương nặng phải cưa chân. “Deliverance” (1972).Rạp này chuyên chiếu phim Pháp và Phim xưa, giá vé rẻ và có thể ngồi cả ngày chung với nhóm P.D
    Ngoài những rạp xi-nê b́nh thường c̣n phải kể đến những nơi có chiếu phim không bán vé.
    Trường Taberd. Thỉnh thoảng các sư huynh chiếu phim cho học sinh xem vào chiều cuối tuần không có lớp học, phim th́ cũ rích, máy th́ nhỏ chỉ đủ xem trong pḥng lớp. Về sau này, khi có auditorium khang trang với balcon đàng hoàng không thua ǵ các rạp xi-nê lớn ngoài phố. Tôi được xem phim “Ivanhoe” (1952) ở đây. Học sinh nội trú Taberd được xem phim mỗi tối Chúa Nhật. Phim tôi nhớ nhất là “Titanic” (1953) lúc tàu đang ch́m, ban nhạc và những người ở lại với chiếc tàu cùng nhau hát bài “Chúa ơi con nay gần kề…” thật cảm động. Mặc dù bị đám học sinh nội trú chê là “ciné Taberd toujours local”, các sư huynh ở đây tiến bộ hơn các sư huynh ở tỉnh, những pha cụp lạc hôn hít vẫn được tôn trọng để nguyên cho học sinh xem. Trái lại, khi tôi học nội trú ở trường Saint Joseph, Mỹ Tho, phim nào có cảnh hôn hít đều bị cắt xén trước khi chiếu. Có lần, v́ không kịp kiểm duyệt trước nên lúc chiếu có màn hôn hít, sư huynh phụ trách bèn điều chỉnh cho h́nh ảnh mờ đi chẳng c̣n thấy cái ǵ mặc cho đám học sinh la ó om x̣m.
    Đơn vị Công Binh. Nhà của tôi ở gần một căn cứ quân đội. Một thượng sĩ được lệnh chiếu phim mỗi tuần vài ba đêm cho trại gia binh xem. Phim thuộc loại 16mm mượn của quân đội Hoa kỳ nên dĩ nhiên là chẳng có phụ đề Việt ngữ ǵ cả. Ngược lại, phim rất mới và không có chiếu ngoài rạp Sài G̣n, hoặc ít ra cũng phải một hay hai năm sau mới có chiếu như phim “Les Félins” (1964). Điểm ngộ nghĩnh của nơi chiếu phim này là người chiếu phim lại cần đến khán giả. Những phim nào dễ hiểu th́ bà con c̣n coi cho vui, phim nào khó hiểu th́ bà con bỏ đi về hết một phần v́ trời tối khuya khoắc. Có lần chỉ c̣n tôi và một người bạn ráng ở lại để cho thượng sĩ phụ trách vui ḷng. Một điểm kỹ thuật là máy chiếu phim không có hoặc hư hoặc mất cái ống kính chiếu phim đại vỹ tuyến nên gặp phim loại nà̉y là h́nh ảnh cứ dẹp đép theo chiều đứng. Thượng sĩ chiếu phim bèn nghĩ ra cách là để máy chiếu nằm chéo góc với màn ảnh nên xem cũng tạm tạm mặc dù một bên lớn, một bên nhỏ. Tôi được xem những phim độc đáo như “Goldfinger” (1964), “She” (1965)…

    Câu Lạc Bộ Mỹ. Nhờ chơi nhạc trong các căn cứ quân đội Hoa Kỳ, tôi được mấy anh G.I.s mời trở lại thăm viếng và cùng xem xi-nê với họ. Như đă nói, đây là những phim 16mm nhằm giải trí cho quân nhân Hoa Kỳ. Tôi được xem phim “Your Cheatin’ Heart” (1964) kể lại cuộc đời của ca sĩ nhạc country Hank Williams. Phim loại này chắc chắn khó được các nhà phân phối phim Sài G̣n mua nhập v́ người Sài G̣n có thể nói rằng chẳng hề biết Hank Williams là ai cả. Nói về nhập cảng phim, tôi vẫn c̣n nhớ đến hảng Cosunam khi mở đầu phim luôn có cảnh bộ lư đang hun khói cùng với đoạn nhạc hiệu lập đi lập lại nghe đến phát chán. Ngoài ra c̣n có hảng Mỹ Vân đă đóng góp rất nhiều cho nền điện ảnh Sài G̣n qua phần nhập cảng, chuyển âm và sản xuất phim.

    Đài Truyền H́nh Số 11. Khai sinh cùng lúc với Đài Truyền H́nh Số 9, Đài 11 của quân đội Hoa Kỳ nhằm thông tin và giải trí cho quân nhân và nhân viên Mỹ ở Sài G̣n. Tiết mục chương tŕnh có phần chiếu phim. Nhiều phim rất hay đă được chiếu qua Đài 11. Tôi c̣n nhớ có phim “The Last Man on Earth” (1964) do Vincent Price đóng. Về sau, rạp ở Sài G̣n có chiếu phim “The Omega Man” (1971) do Charlton Heston đóng với cốt chuyện tương tự nói về người sống sót cuối cùng trên địa cầu…. Đài 11 tồn tại cho đến sau khi Hiệp Định Paris được kư kết năm 1973 và toàn bộ cơ cấu quân đội Hoa Kỳ rút đi. Những đêm cuối cùng trước khi Đài 11 tắt sóng, tôi được xem phim “Un Homme et une Femme” / “A Man and a Woman” (1966).

    Hội trường của công ty Shell. Được biết ở đây có chiếu phim, tôi đến xem phim “Play Misty For Me” (1971). Chỉ xem có một lần nên không biết có chiếu nhiều lần hay không, nếu có th́ tôi đă bỏ lỡ cơ hội rất tốt v́ căn cứ theo phim đă xem th́ nơi này chọn lựa phim rất hay.
    Nguồn: Macđinhchi.net

  3. #223
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Khác chứ

    Quote Originally Posted by TiếngXưa View Post
    Chị Tigon ơi, Kỳ Viên tự mà chị nói có khác với Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng không?
    Ngaỳ mới di cư vào, sau vài tháng tạm trú nhà ngừơi cậu ruột ở đường Đồn Đất, bố mẹ em đã mua nhà ở khu Bàn Cờ, và gia đình em ở đó hai năm thì dọn đi nơi khác, lúc đó em vẫn chưa có hân hạnh góp mặt với đời, nhưng vẫn nghe chuyện kể về nhà cũ.
    Chị còn thiếu một món ở chợ Bàn Cờ là món bánh đúc với tương!Ngon vô cùng chị nhỉ!
    Không phải đâu , TX .

    Kỳ Viên Tự ở trên đường Phan Đ́nh Phùng , gần góc đường Cao Thắng .
    C̣n Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng , bên kia đường của nhà bảo sanh Đức Chính . Gần Tam Tông Miếu có một rạp chiếu bóng , hay chiếu phim Tàu , giá cả nhẹ nhàng cho giới b́nh dân . C̣n rạp Văn Hoa , trước ngă ba Trần Quư Cáp th́ giá cao .

    ( Đang xem CNN chiếu cảnh sóng thần tràn qua bờ biển , cuốn trôi tất cả nhà cửa , xe cộ theo gịng nước , đẩy nước biển vào sâu 6 miles trong đất liền . Thấy mấy chiếc xe đang chạy cố trên đường , nhưng chắc không thoát nổi , ghê quá !)

    Trở lại chuyện Saigon , Ḅ bía ngon nhất là trước quán nước mía Viễn Đông ở phía Chợ Cũ . Nói cho ngay , ai " mến" ông Ba Tàu nào , th́ khen ḅ bía ở đó ngon . Nhưng thật ra , cả ngày đâu thấy người cuốn ḅ bía rửa tay đâu ?

    Bây giờ nếu trở lại chỗ đó , có dám sơi vài cuốn nữa không nè ?

    Tigon
    Last edited by Tigon; 12-03-2011 at 07:56 PM.

  4. #224
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    Chuyện ...bò biá!

    Nói chuyện bò biá thì chắc ai nấy sẽ nhao nhao mỗi người cho tên một xe bò bía ngon nhất cuả mình thành một "bảng phong thần" ngay thôi. Và những đôi "tay ngà" cuốn bò biá liên hồi không bao giờ ...rưả???
    Bên trường Gia Long sau này có mấy xe bò biá ngon lắm chị Tigon à, bọn TV gà nhà muốn ăn nhưng vì "tự ái dồn dập", lạng qua lạng lại nhưng làm ngon, không thèm ghé. Phái bộ TV có... ghé vào cốt là chỉ muốn thử xem có đúng lời đồn hay không thôi. Ăn mà mắt cứ dán vào mấy cái cuốn bò biá, không dám ồn ào bàn tán khen chê, tóc thì kéo ra trước để che phù hiệu, sợ bị lộ chân tướng!

  5. #225
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Áo Dài Saigon Năm 1950


    H́nh chụp của báo LIFE

    Các chị chú ư vào vai áo dài , sẽ thấy đây là kiểu áo dài tay nối .
    Như vậy kiểu áo dài tay nối xuất hiện cuối thập niên 1960 , sau kiểu hở cổ , không phải là " kiểu mới " ?

    Nói chung là mốt áo dài của phụ nữ VN xào qua , xào lại . sau một thời gian sẽ trở lại kiểu cũ .

    Sau này mấy ông thợ may của các công ty phát hành băng nhạc , bắt các nữ ca sĩ mặc mấy cái áo dài ta không ra ta , Tàu chẳng giống Tàu , có lúc lại c̣n lai áo dạ hội của Tây Phương .

    C̣n mấy người vẽ kiểu , cứ bày ra " kiểu mới " , cổ áo lúc cao , lúc thấp lúc không cổ . vạt áo th́ hết ngắn cũn , tới dài thọng , bây giờ lại lết đất , dài cả hơn quần , lê thê quét đất .

    Ngày xưa chỉ có kiểu quần đen và quần trắng , bây giờ quần mặc với áo dài có thể đủ màu . Điều này cá nhân Tigon thâư đẹp hơn là chỉ màu đen và trắng . Nhưng có khi mấy bà , mấy cô phang luôn một cái quần đỏ chói , bên cái áo dài mầu nhạt , trông chói mắt làm sao ấy .

    Tigon

  6. #226
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    PPS mới : Tóc Thề Đi Đâu Mà Vội




    Em đi đâu mà vội
    Tóc thề sao vội cắt
    Cho t́nh sao long đong

    Nhạc : Phạm Anh Duy
    Ca sĩ : Nguyễn Phi

  7. #227
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Những Tà Áo Trắng Của Saigon Thuở Ấy



    Em Saigon một thời áo trắng tung bay ....

    Để nhớ về những ngày hoa mộng của Saigon Thuở ấy


    tigon

  8. #228
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Những Bản Nhạc Gợi Nhớ về Saigon Thuở Ấy

    Bạn đang nhớ về Saigon ?

    Đang hoài niệm một h́nh bóng cũ ?

    Muốn có những giây phút thả hồn về chốn xưa ?


    Hăy click vào link này :


    http://an.gachnoionline.com/music/SaiGon/NhoSaiGon.htm

    Bạn sẽ t́m lại những kỷ niệm dạo phố cùng bạn bè trên đường Catinat .

    Sẽ tưởng ḿnh đang thả bước thần tiên bên người ấy trên con đường t́nh ta đi Nguyễn Du .

    Xin mời

    Tigon


    Last edited by Tigon; 16-03-2011 at 04:53 AM.

  9. #229
    Member
    Join Date
    13-09-2010
    Posts
    386

    Sàig̣n thuở âư.

    Quote Originally Posted by Tigon View Post



    Em đi đâu mà vội
    Tóc thề sao vội cắt
    Cho t́nh sao long đong

    Nhạc : Phạm Anh Duy
    Ca sĩ : Nguyễn Phi
    C̣n đây. .
    “Em đi đâu mà vội”
    Bỏ người ta chơ vơ.
    Như lá xanh lià cuống.
    Đợi chờ ngày héo khô.

    “Em đi đâu mà vội”.
    Chẳng t́ếc buôỉ xuân th́.
    Nhởn nhơ đờ́ hoa bướm.
    Ngập tràn khắp lối đi.

    “Em đi đâu mà vội”.
    Bỏ quên ánh trăng sầu.
    Anh biết chở về đâu.
    Con t́nh si đắm đuối.

    “Em đi đâu mà vội.”
    Sao chẳng chút ngại ngần.
    Chẳng một bước phân vân.
    Hân hoan lời mời gọi.

    “Em đi đâu mà vội”.
    Cho vấp ngă dập vú
    Trên mỗi bước chân đi..
    Vẫn c̣n đây dấu ấn.

  10. #230
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    "Tình bạn thời áo trắng" cuả những người Sàigòn

    KHOC BẠN


    Bác Dương thôi đã thôi rồi
    Nước mâyman mácngậm ngùi lòng ta

    Từ thuở ấu thơ, anh em chúng tôi đều được mẹ ru bằng bài thơ Khóc Bạn của cụ Tam nguyên Yên Đổ khóc ông cố nội chúng tôi là cụ Nghè Dương Khuê. Bài thơ trở thành bài ca dao nằm trong ký ức tôi từ ngày đó, hơn 40 năm sau lại bật ra như những lời nhớ thương tha thiết của tôi với người bạn thân: Vũ Hoàng Oanh. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê lúc tuổi đời đã xế chiều nên nỗi nhớ chỉ là ngậm ngùi, còn tôi khóc bạn khi tuổi đời chưa tới 50 là cái khóc xót thương vô hạn.

    Ngày còn học Trưng Vương thì Oanh học trên tôi một lớp. Chúng tôi chỉ biết nhau nhưng chưa phải là bạn. Mãi đến khi thi vào trường Sư Phạm, vô tình làm sao, hai đứa trùng tên nên có số báo danh kế nhau. Gặp nhau ở trường thi, lại ngồi cạnh nhau thì không quen cũng thành quen huống chi chúng tôi cùng là dân TV lại biết nhau từ trước. Dĩ nhiên hai đứa tôi mau chóng kết hợp với nhau, cóp qua cóp lại bài nhau nên kết quả là hai đứa cùng đậu và còn được xếp chung vào một lớp. Tôi và Oanh trở thành bạn thân từ đấy.
    Oanh không đẹp nhưng dễ thương với đôi má bầu bĩnh, đôi mắt hơi đượm buồn, lúc nào cũng như vướng vất một câu hỏi gì chưa được giải đáp.Nhưng điều mà bạn bè nhớ nhất ở Oanh là tính tình đôn hậu, chiều bạn và tử tế với mọi người.
    Đời học trò, dẫu rằng lớp học trò này đang chuẩn bị làm người lớn, vẫn có biết bao niềm vui nỗi buồn non trẻ để chia sẻ cùng nhau. Đôi khi thấy bạn bè có người yêu đến đón hoặc ghé thăm, đôi mắt hỏi han cuả Oanh chợt tối lại, vương một chút buồn bã. Tôi gạn hỏi, Oanh chỉ lắc đầu, nhiều lần sau nữa, chẳng đặng đừng, Oanh cười mỉm chi đáp” Nhớ bồ” “Thế bồ đâu rồi “ “Bồ thuộc người khác rồi”, rồi nhanh chóng Oanh lảng ngay” Thôi khỉ ạ, đừng hỏi nữa, chuyện xưa rồi”.

    Thời gian trôi thật nhanh. Gần đến ngày ra trường, chúng tôi gấp rút học thi và ráo riết chuẩn bị các bài thi thực tập. Một hôm, gặp phải bài thi hóc buá, tôi hỏi mượn Oanh một bài mẫu vì Oanh rất chăm chỉ trong việc sưu tầm các bài dạy mẫu, còn tôi là con cháu họ lười nên rất chểnh mảng. Oanh đang hí hoáy viết nên bảo” Mở cặp ra, ngăn bên trái đó”. Tôi mở cặp lục lọi. Bài mẫu chẳng thấy đâu, tôi vớ ngay được một lá thư. Quên béng ngay bài dạy, tôi len lén kéo nhẹ tờ thư ra khỏi baovà liếc thật nhanh vài giòng. “Ồ, thư tình”, tôi thầm kêu trong đầu. Vừa lúc đó Oanh quay sang, thấy vậy, Oanh vội vã quăng ngay cây bút, xoài người giựt lại lá thư, miệng la bài hải 'Ố́í, ối, trả đây, trả đây”. Lá thư không dài và cũng không có những lời lẽ yêu đương hoa mỹ nhưng đọc thì biết ngay đó là thư tình, thư tình cuả một nhà văn. Ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ cuả một người viết văn thì có muôn ngàn cách để bày tỏ tình yêu. Tôi mừng thấy bạn bẽn lẽn cất lá thư. Một chút ửng hồng trên đôi má bầu bĩnh... Từ đó tôi thấy Oanh hay cười hơn.

    Trong khi chờ đợi kết quả sắp hạng ra trường, chúng tôi phải đi khám sức khoẻ tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Hôm đó Oanh chở tôi bằng chiếc Vélo Solex mượn được. Chỉ còn cách bệnh viện khoảng 100m thì bất ngờ xe đang chạy ngon trớn bỗng đâm xầm vào một đống đá xanh đổ ngay giữa lòng đường. Xe mất thăng bằng đổ ập xuống, quăng hai đứa chúng tôi ra hai nơi. Lúc đó tôi đang có thai cháu đầu lòng khoảng 4 tháng. Hốt hoảng,Oanh bật dậylao ngay về phiá tôi mà không thấy rằng 1 đầu gối quần bị rách để lộ vết thương rướm máu và 1 bàn tay bị đá xanh đâm nát máu thấm đỏ cả. Oanh lính quýnh ôm nâng tôi dậy, mặt tái mét, miệng líu lại” Oanh, Oanh có sao không? Có đau bụng không?” Tôi tuy cũng rất lo sợ cho cái thai nhưng thấy Oanh quá lo lắng cho tôi, tôi thấy lòng cồn cào thương bạn nên vội trấn an”Mình không sao, đừng lo. Thôi mau nhấc xe dậy, vào ngay bệnh viện nhờ họ băng bó cho Oanh”.

    Ra trường, tôi về̀ dạy ở Gia Định, còn Oanh xuống Biên Hoà. Như một sui khiến cuả số mệnh, người yêu cuả Oanh,nhà văn Dương Hùng Cường, còn có bút hiệu là Dê Húc Càn đồng thời là một quân nhân cũng đang làm việc tại phi trường Biên Hoà. Họ đã được gần nhau, cuộc tình dẫn đến kết cuộc tốt đẹp là cái đám cưới vào năm 1964. Năm sau, 1965, Oanh sinh cháu đầu lòng Dương Mạc Thi rồi tiếp theo Oanh sinh liền 7 cô công chúa trong vòng 10 năm. Khi anh Cường đổi về làm việc tại Sài gòn thì Oanh cũng được thuyên chuyển về dạy học taị trường Hồng Bàng (sau năm 1975 thì dạy tại trường Hùng Vương, cùng thuộc quận 5). Chúng tôi lại có dịp gần gũi nhau.

    Vào khoảng năm 74 tôi thấy Oanh ngoài giờ dạy ở trường công còn dạy thêm ở 2 trung tâm tư nữa. Thấy tôi thắc mắc sao Oanh dạy quá nhiều, không còn thời giờ dành cho các con nữa thì Oanh tâm sự:” Ông Cường giành phần chăm mấy đứa nhỏ. Ông ấy bảo, ổng ru con hay hơn mình”, rồi Oanh xuống giọng “ Mình phải dạy thêm lấy tiền cho ông Cường in truyện”. Nói là chăm sóc con chứ thật ra thì lúc đó gia đình nào cũng có người giúp việc, lo cơm nước, giặt giũ, bế bồng trẻ nhỏ rồi. Tôi
    thông cảm với Oanh vì thời gian đó, lương hai vợ chồng gom lại, dẫu rằng anh Cường còn viết báo thêm cũng chỉ đủ chi tiêu cho một gia đình mười mấy miệng ăn mà thôi. Muốn in sách truyện, Oanh phải cật lực giúp chồng. Thế là bao nhiêu tiền bạc dành dụm được đều đổ dồn vào việc cho ra đời đứa con tinh thần “Vĩnh biệt Phượng”. Thương thay, sách vừa xuất xưởng, chưa kịp phân phối ra ngoài thì ngày 30 tháng 4 như một cơn cuồng phong ập đến, xoá tan hết bao ước mơ, bao xây đắp cuả cả một miền Nam thân yêu trong đó có 2 gia đình chúng tôi. Ông xã tôi cũng như anh Dương Hùng Cường đều trở thành tù nhân cuả chế độ mới và 2 gia đình chúng tôi trở thành những nạn nhân như trăm ngàn gia đình quân nhân công chức chế độ cũ, luôn luôn bị soi mói, rình rập, theo rõi, lúc nào cũng sống trong phập phồng, lo lắng, sợ sệt... Với đồng lương chết đói, chúng tôi vẫn phải cố bám vào trường lớp để khỏi phải bị đuổi đi vùng kinh tế mới. Hai đứa tôi cùng chia nhau cái ngậm ngùi cuả số phận. Oanh 7 con và tôi 6, gia tài chỉ là hai bàn tay trắng với cõi lòng đầy ắp âu lo. Chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Hai đứa lăn lưng ra làm đủ mọi việc

    Thoạt đầu là bán sách. Lúc bấy giờ chủ trương cuả chế độ mới là thiêu huỷ hết số sách báo của miền Nam được gọi là văn hoá đồi truỵ, tàn dư Mỹ ngụy. Chúng tôi lại thuộc các gia đình văn nghệ sĩ, càng bị để ý, bị lục xoát thường xuyên hơn. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép vào đủ thứ tội tình. Để được yên thân nuôi con và cũng là để che mắt thế gian, chúng tôi gom góp hết số”tàn dư Mỹ ngụy”trong nhà, nhờ người quen dẫn giắt lên chợ sách Nguyễn Huy Thiệp bày bán. Nhìn những cuốn sách mình từng nâng niu yêu quý từ từ đội nón ra đi, lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Cầm cuốn “Chạy trốn Tự do” mà ông xã tôi mới dịch trước đó không lâu, tôi thầm tự hỏi:” Tại sao laị dịch cuốn sách mang cái tên oan nghiệt này?” Cuốn Vĩnh Biệt Phượng cuả anh Dương Hùng Cường cũng cùng chung số phận, phơi mặt trên 1 tấm ni lông trải dưới mặt đường con phố NHT. Tôi và Oanh thủ 2 cái nón rộng vành, hễ liếc xa xa thấy người quen kẻ thuộc hay bạn bè gần xa cuả chồng thì lập tức cái nón được kéo sụp xuống. Ôi thời thế có ai học đến chữ ngờ!

    Một hôm vào khoảng xế trưa, hai đứa đang ngồi vêu ra thì một cháu gái cuả Oanh đạp xe lên tìm mẹ, báo tin em bé út vưà phải vào nhà thương. Khi đó cháu Dao Tiên mới non 1 tuổi. Oanh hốt hoảng ra về. Hôm sau, rồi hôm sau nữa cũng không thấy Oanh lên tôi đoán chắc Oanh phải ở trong bệnh viện với con. Ba, bốn hôm sau Oanh trở lại, cặp mắt còn sưng, oà khóc, nói” Oanh ơi, cháu Dao Tiên mất rồi. Cháu mất vì thiếu dinh dưỡng , vì đói ăn đó Oanh ạ! “

    “ Nghề “ bán sách cuả chúng tôi do thời cuộc mà tự sinh thì cũng do thời cuộc mà tự diệt. Ch́úng tôi học quấn thuốc lá, vào bao rồi đem vô Chợ Lớn bán nhưng cũng chẳng được bao lâu thì chợ thuốc lá cũng bị càn quét. Tôi nhờ biết may vá từ nhỏ nên quay ra may quần áo con nít đem giao các chợ, còn Oanh thì đi bỏ mối bánh kẹo cho các căn tin trường học. Cứ thế, chúng tôi lần hồi sống qua ngày.
    Ngoài lúc đi kiếm cơm, chúng tôi còn rủ nhau đi kiếm chồng tù. Hai năm trời biền biệt không chút tin tức, chúng tôi lo sợ cho số phận các ông chồng. Dò la, thăm hỏi chẳng có kết quả, chúng tôi đánh bạo rủ nhau lên tận ban Quân quản Thành phố để hỏi han. Câu trả lời cũng chỉ như bao nơi khác:” Cứ yên tâm chờ đợi “. Cuối cùng thì cuối năm 1977 cũng có tin về sau hơn 2 năm kể từ ngày các sĩ quan cuả chế độ cũ nghe lời đường mật “ Chuẩn bị đồ ăn uống và vật dụng cá nhân trong vòng 10 ngày để đi trình diện”. Ông xã tôi bị nhốt ở trại Hàm Tân, còn anh Cường thì ở Long Khánh. Cứ 3 tháng chúng tôi được phép thăm nuôi tiếp tế thức ăn và thuốc men 1 lần. Hai đứa lại có dịp chỉ bảo nhau làm món gì để được lâu, thuốc nào cần nhất v..v.. để mang lên trại.

    Tôi còn nhớ thời gian đó, mỗi chiều tối, sau giờ tan trường, Oanh thường ghé tôi, có khi ở đến tận khuya. Các con Oanh ở nhà đã có cô cháu gái mà Oanh cưu mang từ sau năm 75 chăm nom cơm nước. Chúng tôi ngồi bên nhau chia sẻ mọi điều. Tôi hiểu Oanh nhiều nỗi lo lắng vì nợ nần thúc giục mà không có phương cách giải quyết. Tôi đỡ hơn Oanh một chút là tôi còn có mẹ. Đôi khi hai đứa ngồi bên nhau hàng giờ mà chẳng nói với nhau một tiếng nhưng chúng tôi đều hiểu rằng chúng tôi đang chia nhau nỗi sầu khổ âm thầm.

    Một hôm, khoảng sau Tết năm 1978 Oanh ghé tôi theo lệ thường, nhưng hôm đó vẻ mặt Oanh rất bần thần, ngồi hoài không nói. Tôi hỏi:
    - Hôm nay Oanh có chuyện gì không mà như mất hồn vậy?
    Oanh vẫn ngồi yên không nói. Tôi đứng dậy rót cho bạn 1 ly nước, đến ngồi gần bên ân cần:
    - Có việc gì hả Oanh?
    Sau một phút ngập ngừng, Oanh nói khẽ thật khẽ như sợ có ai nghe thấy:
    - Ta nói cái này, đừng giật mình nhé...Mình có bầu.
    Tôi giật thót mình, hai lỗ tai lùng bùng.
    - Oanh nói gì? Ai có bầu?
    - Mình.
    - Hả?
    - Mình có bầu thật đấy, vừa đi khám bác sĩ về xong.
    Tôi trân trối nhìn Oanh, vẫn không tin ở hai tai mình. Biết vậy, Oanh mới tỉ tê khai:
    - Hôm Tết rồi đi thăm ông Cường, trại cho ở lại một đêm...Tôi thở phào như trút được cho chính mình gánh nặng nghìn cân. Oanh nói tiếp:
    - Oanh ơi, dẫn mình đi phá đi, mới được khoảng hai tháng thôi, phá chắc dễ.
    Tôi ngỡ ngàng hỏi lại:
    - Phá? Sao lại phá?
    - Chứ để thì làm sao coi được. Ai đời cô giáo có chồng đi tù mà lại mang bầu. Đâu có ai hiểu...
    - Thì nói ra cho mọi người biết.
    - Ai tin? Bạn bè, rồi còn học trò nữa chứ. Eo ôi, nghĩ đến là ta rùng mình rồi.
    Tôi chợt thấy Oanh có lý. Ừ, ai mà tin nổi, nhất là thời buổi này. Toàn ban giám hiệu đều là người cách mạng, họ sẽ có cớ để bêu riếu, để bôi tro trát trấu lên đầu lên cổ vợ con “ thằng ngụy”. Tôi thở dài:
    - Ừ, để mình tính xem.
    Nói vậy cho Oanh yên lòng chứ thật ra tôi cũng chẳng biết tính làm sao. Tối đến, trong bữa cơm gia đình, tôi nói chuyện với mẹ tôi về việc Oanh muốn tôi chia sẻ. Mẹ tôi bảo:
    - Ngày mai Oanh có ghé, con gọi mẹ, mẹ hỏi cô ấy một tí.
    - Mẹ hỏi gì hả mẹ?
    - Có phải Oanh toàn con gái không?
    - Vâng, 7 đứa, bỏ 1 còn 6, toàn là gái cả.
    - Mẹ muốn tính xem lần này có bầu, Oanh sẽ sinh trai hay gái.
    - Trai hay gái thì thay đổi được gì hả mẹ. Cũng bia miệng mà thôi.
    - Mình sẽ nghĩ cách giùm cô ấy. Vả lại, vì sợ bia miệng mà phá bỏ đi một đứa con cuả mình thì sẽ mang tội con ạ.

    Mẹ tôi đặc biệt có một cách tính rất tài tình để biết người mẹ sẽ sinh trai hay gái. Cụ có dạy cho tôi một bài toàn chữ Hán, tôi học mãi không thuộc(vì mình có biết tí teo chữ Hán nào đâu). Tôi đã chép vào 1 cuốn sổ để dành nhưng qua hết đợt bố ráp này đến đợt bố ráp khác nó đã không cánh mà bay.
    Dẫu rằng cả Oanh và anh Cường đều không mang tư tưởng “ nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” nhưng cha mẹ nào mà chả mong ước mình có đủ cả trai lẫn gái.
    Sau khi gặp mẹ tôi, Oanh mừng lắm, không còn nghĩ đến việc phá thai nữa vì tin tưởng rằng lần này sẽ sinh được một quý tử.

    Thông thường, cứ mỗi đầu tháng, các giáo viên chúng tôi đều phải họp toàn trường để kiểm điểm công việc dạy và thực hiện các chỉ thị của Phòng hoặc Sở giáo dục. Tôi xúi Oanh trong phiên họp kỳ này lấy cớ báo cáo 1 công việc gì đó rồi bôi mặt cám ơn nhà nước đã cho chúng tôi được gặp mặt, tiếp tế cho chồng ở trại giam lại còn gia ân cho ở lại trại 1 ngày 1 đêm nhân dịp Tết vừa qua nữa. Việc đó quả nhiên hiệu nghiệm. Oanh tuy bị trêu chọc song đã thoát được cơn hiểm nguy. Cũng may mắn cho Oanh, chỉ vài tháng sau khi cái bụng bầu của Oanh lộ rõ thì anh Cường được về.

    Một hôm tôi vừa từ chợ về nhà thì đã thấy anh Cường ngồi đợi. Không kịp để tôi hỏi han câu nào, anh đã vào đề liền:
    - Oanh sinh rồi chị, ở Bệnh viện Hùng Vương, con trai.
    - Ồ, chúc mừng anh. Chắc là Oanh vui lắm. Kỳ này hai ông bà có quý tử, phải ăn mừng thôi
    Không trả lời câu nói đuà cuả tôi, anh chìa ra mảnh giấy cỏn con nói:
    - Oanh gửi chị cái này.
    Tôi vội vàng mở mảnh giấy đọc” Oanh ơi, cứu bồ, cho mình mượn 50 đồng để đóng tiền bệnh viện nhé”.
    Tôi vừa đi giao hàng về nhưng cũng chỉ có trong tay 30 đồng. Tôi vội vã đạp xe lại ngay nhà chị bạn cùng trường. Tuy chẳng giầu có gì nhưng chị tương đối khá giả hơn chúng tôi vì những tháng ngày xa xưa trước 75, chị là con kiến biết lo xa, ki cóp mua vàng để dành,( trong khi tôi lại là con ve, kêu ra rả hết muà hè, chỉ biết rong chơi ca hát , cho nên khi đông về thì đói rã răng). Chị lại có lòng tốt nên bạn bè khi cơ nhỡ chị đều sẵn sàng san sẻ.

    Trao cho anh Cường năm chục bạc xong, tôi biết ngày mai không có tiền chợ cho con song trong lòng vẫn vui vì mừng cho bạn, càng mừng hơn vì thấy cách tính cuả mẹ tôi thật chính xác, không làm cho Oanh mừng hụt. Nhưng người mừng nhất ắt hẳn là anh Dương Hùng Cường. Anh đặt tên cho cháu là Phụng Hoàng, Dương Phụng Hoàng, con chim quí.

    Khoảng 3,4 năm sau khi ra tù, anh Cường liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang cư ngụ tại Pháp xin lên tiếng kêu gọi Văn Bút Quốc Tế can thiệp và giúp đỡ cho một số các gia đình văn nghệ sĩ Miền Nam còn kẹt lại quê nhà, đang gặp rất nhiều khó khăn cả về 2 mặt vật chất lẫn tinh thần. Ít lâu sau đó, mỗi năm gia đình chúng tôi nhận được từ 1đến 3 thùng thuốc tây gửi từ Pháp về(nhưng có lẽ đó là do chính tiền cuả anh TTTiệp, chứ không phaỉ cuả VBQT). Song song với thùng quà đôi khi còn có cả 1,2 tờ báo Kháng Chiến nữa. Rồi anh bảo anh em bên nhà viết bài gửi sang. Những thùng quà tuy ít ỏi này cũng đã giúp được gia đình chúng tôi qua những cơn vô cùng bĩ cực. Nhưng oan nghiệt thay, cũng chính những thùng quà này lại đưa chồng tôi, Khuất Duy Trác, anh Dương Hùng Cường và một số các văn nghệ sĩ khác như các nhà văn Dzoãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thuỷ, Hiếu Chân, các nhà thơ Lý Thụy Ý, Trần Ngọc Tự... vào tù lần thứ hai. Bọn Công an thành phố còn viết nguyên một cuốn truyện đầy tính bịa đặt và vu cáo có tên Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, hòng bôi bẩn và hạ giá nhóm văn ngệ sĩ trên, sửa soạn dư luận cho một bản án thật nặng nề. Chúng đem giam một số tại nhà giam Chí Hoà, số còn lại tại trại giam Phan Đăng Lưu, có ông xã tôi và anh Cường. Oanh và tôi lại có cùng một địa chỉ để tới lui. Số phận chúng tôi cứ gắn chặt với nhau trong những hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.

    Do từ việc bỏ bánh kẹo cho các căn tin trường học, Oanh lần hồi biết được cách thức để đấu thầu toàn bộ cả căn tin cuả mỗi trường. Oanh rủ tôi làm công việc này. Thế là hai chúng tôi cùng khởi sự tại một ngôi trường Tàu trong Chợ Lớn. Sau này rành rẽ rồi thì mỗi đưá làm ở mỗi trường khác nhau.

    Cứ vào cuối mỗi năm học, giáo viên các trường đều phải điều chỉnh lại tờ lý lịch đã khai từ những ngày đổi đời 30/4/75. Năm 1980, con gái thứ hai cuả tôi đi vượt biên, tôi không khai. Đến khi ông xã tôi bị bắt lại lần 2 tôi cũng không khai. Ban giám hiệu nhà trường chắc hẳn không biết nên tôi vẫn được yên thân. Bất ngờ, vào đầu năm 87, hiệu trưởng mời tôi lên nói chuyện. Bà hỏi han tôi về tình hình gia đình, chồng con, công việc v..v.. và cuối cùng bà hỏi tôi có up to date lý lịch đầy đủ cho mỗi năm không. Tôi manh nha thấy điều gì đó không ổn. Tuần lễ sau tôi xin nghỉ bệnh và tuần kế tiếp tôi tống tiếp lá đơn xin thôi việc. Ở thời điểm này, chiến dịch tống khứ gia đình vợ con tù cải tạo đi kinh tế mới đã chấm dứt vì hoàn toàn thất bại. Từ các vùng kinh tế mới, biết bao gia đình đói rách tả tơi, bệnh hoạn, người sống kẻ chết, lũ lượt kéo về thành phố, nằm la liệt tại các công viên,chợ, nhà thờ, chùa...chính quyền không thể xua đuổi vì họ không còn nơi chốn để dung thân nữa. Do đó tôi không còn lo sợ vì phải lên rừng lập nghiệp.Lại nữa tống khứ đi được một con vợ “ngụy”, cũng nhẹ gánh lo cho ban giám hiệu nên họ nhận đơn mà không hỏi han gì cả.

    Thời gian này rộ lên rất nhiều tin tức về việc Mỹ sẽ đón các sĩ quan QLVNCH bị tù cải tạo. Tuy rằng chỉ là tin đồn miệng, chẳng có một nguồn xác thực nào nhưng chúng tôi vẫn cứ nuôi hy vọng trong lòng để tiếp tục sống và tiếp tục chịu đựng.

    Một ngày đầu tháng 12 năm 1987, lúc đó khoảng 2-3 giờ trưa tôi đang ở nhà thì cô cháu gái cuả Oanh đến, mặt mũi phờ phạc, nói như đứt hơi:” Cô ơi, chú Cường mất rồi, cô con đang xỉu ở nhà, cô xuống mau đi cô”
    Khi tôi bước chân vào đến nhà thì thấy Oanh đang vật vã vừa khóc vừa gào: “Tôi không sống một mình đâu, trời ơi là trời”. “Anh Cường ơi, em không sống một mình đâu” !! Tôi ôm lấy tấm thân gầy guộc của bạn, lòng đau xót từng cơn và nước mắt cứ mặc tình tuôn chảy… Không biết bao lâu sau, khi kêu gào đã quá mệt, tôi đỡ Oanh nằm xuống giường rồi bảo với các con Oanh: “ để yên cho mẹ nghỉ một chút “
    Hàng xóm xung quanh nghe tiếng khóc, vài ba người lấp ló ngoài cửa.
    Bình tâm trở lại, tôi hỏi thăm cháu Linh, cháu tỉ tê kể : “ Sáng nay cháu ở nhà, công an khu vực tới đòi gặp mẹ. Cháu bảo mẹ đang dạy ở trường, anh ấy nhắn bảo mẹ ra phường gấp có giấy báo cuả bố”. Khi cháu ra trường bảo cho mẹ biết thì mẹ vẫn nghĩ là tin mừng. Mẹ bảo “ chắc bố được thả…ồ, hay là…Mỹ đón”. Mẹ bảo cháu về trước, chuẩn bị đồ vest cho Bố. Đến khi hai mẹ con ra đến phường nhận giấy mới vỡ lẽ…Họ bảo sáng ra đến giờ tập họp, không thấy bố ra, đến đập cửa phòng cũng không thấy bố cháu trả lời, họ mở khoá ra thì thấy bố cháu đã mất rồi.
    Oanh được phép đến trại giam Phan Đăng Lưu để nhận diện xác chồng trước khi được phép chôn cất. Đám tang phải làm gấp ngày hôm sau và chỉ cho 2 người mang áo quan vào lấy xác tại khám Chí Hoà mà thôi. Hôm sau tôi đi cùng với Oanh nhưng phải ngồi chờ ngoài gốc cây trước cổng trại cùng với các con nhỏ cuả Oanh. Số bạn bè và họ hàng thân thuộc đến đưa tiễn đều không được tập trung một nơi mà phải phân tán rải rác dọc theo con đường Hoà Hưng, chờ đợi khi xe tang ra đến đầu đường rồi mới được tháp tùng theo. Ôi, quân Cộng sản sao mà độc ác. Người sống chúng không tha đã đành, người chết chúng cũng không cho chôn cất tử tế…Huyệt mộ đã lấp lại rồi nhưng Oanh vẫn đứng trơ trơ như một bức tượng. Nước mắt đâu? Có lẽ nó đã chảy ngược vào lòng. Tôi chợt nhớ đến bài thơ “Đi nhận xác chồng” của Lê Thị Ý:
    .................... ....
    Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
    Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu

    Thật tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh ra trong thời đại chúng tôi.
    Vết thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt ruột
    đẩy đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một chuyến vượt biển với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối cùng Oanh nắm đ̣ược bàn tay nhỏ bé cuả con: chuyến tàu chở cháu Thi đã không bao giờ tới bến. Chỉ trong vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người thương yêu nhất đời mình lên chùa...

    Rồi giòng đời lại tất bật trôi đi. Oanh vội vã bịt kín những vết thương, dấu chặt nó vào tận cùng trái tim để ngày ngày phải đối mặt với những cam go cuả cuộc sống, với tương lai cuả bầy con còn lại. Thời gian sau này chúng tôi ít gặp nhau hơn vì mỗi đứa thầu riêng mỗi trường mà công việc thì quá đa đoan, tất bật, cần đến rất nhiều thời gian, Oanh lại vẫn theo đuổi công việc dạy học.
    Mùa hè năm 1989, giữa chúng tôi có vài chuyện không vui, tôi giận Oanh. Biết mình không đúng, xin lỗi tôi không xong, Oanh nhờ một cô bạn khác đến năn nỉ, tôi vẫn gan cùng mình không chịu làm hoà. Gần 2 tháng trời chúng tôi không gặp nhau. Một buổi trời đã chạng vạng tối, một anh bạn tù cuả ông xã tôi, hốt hoảng đến báo tin Oanh bị đụng xe, đã đưa vào bệng viện Trưng Vương, nhưng tình trạng hình như không được ổn. Tôi tức tốc vào thẳng nhà thương trong tâm trạng rối bời và thật hồi hộp.
    Oanh nằm đó, bất động, đôi mắt đã khép lại vĩnh viễn...Tôi bật lên khóc nức nở, nắm lấy tay bạn, sờ lên mặt bạn, vuốt trên người bạn, tôi muốn gào lên “ Oanh ơi. Oanh ơi, mình đây, mình đang ở bên Oanh đây, mình không còn giận Oanh nữa đâu, tỉnh dậy đi Oanh ơi “!!! Tôi đưa tay bứt mớ tóc trên đầu xem mình có thật sự tỉnh không, có phải đây là sự thật không...Nỗi hối hận trong tôi trào lên, tôi giận tôi, tôi ghét tôi, tôi là con bạn tồi, sao tôi cố chấp thế...Tuy đã cố dằn vì chỗ đông người, cổ họng tôi vẫn bật lên tiếng gọi “ Oanh ơi. Oanh ơi. Dậy đi, mình thương Oanh lắm, có nghe mình nói không?”

    Tôi ngồi bên Oanh như thế, nước mắt tiếp tục chảy không thôi, biết bao điều muốn vuột ra khỏi trái tim nên lồng ngực đau thắt.....Lâu lắm, chợt nghe tiếng bà dì Oanh nói “Cô phụ tôi thay quần áo cho Oanh nhé. Người bây giờ còn mềm, thay dễ “.
    Tôi nâng đầu Oanh dậy tay chạm ngay vết thương sau ót, máu còn dính bết vào tóc. Đến lúc thay áo lại phát hiện ra phần dưới cũng bị thương, hình như vỡ xương hông thì phải. Ôi, đau đớn biết bao!
    Măi sau này các cháu con Oanh mới kể rằng, sáng hôm đó, một cậu nhỏ mới quen đến chở Oanh về Thủ Đức để đi hỏi vợ giùm cho cậu ta. Buổi chiều, trên đường về, đã gần đến nhà, đang băng qua con lộ Lý Thường Kiệt để vào ngõ thì bị một xe hơi do người tài xế say rượu đâm phải.

    Oanh là thế đấy, hay làm chuyện bao đồng để giúp người .
    Oanh mất đi bỏ lại bầy con 5 đứa. Con chim quý, Phụng Hoàng, cuả vợ chồng Oanh sinh bất phùng thời, mới 10 tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng như một định luật bù trừ, hai con lớn cuả Oanh tiếp tục công việc cuả mẹ, không những đã duy trì được mức sống đầy đủ cho gia đình mà các cháu còn dìu giắt nhau học hành tới nơi tới chốn nữa. Nếu người ta tin có linh hồn thì chính linh hồn người Mẹ, day dứt lúc ra đi đã quay trở lại thế gian này để phù trợ cho các con vươn lên trong cuộc sống.

    Hôm nay ngồi viết những giòng hồi tưởng này về một phần đời không nhỏ của bạn tôi, Vũ Hoàng Oanh, người phụ nữ tâm tính hiền lành, hay giúp đỡ người khác nhưng số phận cay nghiệt đã dành cho cuộc đời bao tang thương, oan trái. Khi sống, tâm tư luôn mòn mỏi vì lo toan cơm áo, còn mang nặng những vết thương không cơ hàn gắn. Đến lúc lià đời, lại ra đi trong một cơn mê khốc liệt với thân thể đớn đau, với cõi lòng đứt đoạn vì bầy con thơ dại.

    Oanh ơi, những giòng hồi ức hôm nay cũng còn là những nén hương muộn màng mình thắp lên để nhớ đến Oanh, nhớ đến một quãng đời hai chúng ta cùng chung bước trải dài từ tuổi học trò cho đến khi vĩnh biệt.
    Ngủ đi Oanh, hỡi bạn hiền,
    Ngủ cho say nhé, triền miên giấc nồng
    Chuông chùa vọng giữa thinh không
    Đưa hồn an lạc về vùng tịnh yên.
    Hai mươi năm, ngày giỗ bạn
    21/6/1989 – 21/6/2009
    Ấu Oanh

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 11 users browsing this thread. (0 members and 11 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •