Page 17 of 52 FirstFirst ... 713141516171819202127 ... LastLast
Results 161 to 170 of 512

Thread: Thử đối chiếu sấm Trạng Tŕnh với những biến cố đă và đang xảy ra

  1. #161
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    Quote Originally Posted by Đại Lăn View Post
    ....
    Tầu muốn xâm lược VN ,dù nước Tầu to gấp nhiều chục lần VN ,nhưng nước Tầu đang là đất chết ,sông ng̣i vừa dơ bẩn ,đầy những chất hoá học độc hại ,lại cạn dần ṃn chơ cả đáy ,hiện có gần hai phần ba diện tích trong toàn quốc thiếu nước ,nước giống như máu trong cơ thể ,thiếu nước th́ chết ,dân Tầu sẽ chết v́ thiếu nước .Đất đai nước Tầu đang bị huỷ hoại v́ hàng ngày ,hàng triệu tấn chất độc đă thải ra từ hàng triệu nhà máy ,sản xuất mọi mặt hàng cho toàn Thế Giới , những chất độc kim loại đă phá huỷ các tầng đá vôi ,gây nên những hang động ngầm dưới mặt đất ,xụp đường ,đổ nhà bất cứ lúc nào không cần chờ động đất ,đất bị nhiễm chất độc kim loại không c̣n cầy cấy được ,mọi sản phẩm nông nghiệp đều bị nhiễm độc ,xuất cảng qua nhiều nước bị trả về .Đất đai giống như da thịt ,da thịt khô héo th́ người chết ,dân Tầu sẽ chết v́ đất đai khô héo ,nhiễm độc .Do đó Tầu cần xâm chiếm VN ,(nhưng không công khai bằng chiến tranh như họ giả vờ hù hạp )để tạm thời t́m nguồn nước sạch ,t́m vùng đất tốt trước khi họ t́m được cách cải tạo môi trường trong nước của họ ,mà đảng cộng sản VN lại là tôi tớ trung thành của đảng cộng sản TQ th́ c̣n ǵ dễ dàng hơn là ṃ mẫm lại gần Mỹ để ăn bom "siêu nguyên tử " chết không c̣n một mống ?
    Cơ hội duy nhất có thể giữ được Đất Nước ,chống được ư đồ xâm lăng tiêu diệt Dân Tộc Việt Nam của Trung Quốc là giải thể đảng cộng sản Việt Nam ,chỉ c̣n con đường duy nhất này mà thôi .

    Quote Originally Posted by HangChot View Post
    .....
    Khi những địa tầng như vậy nứt găy th́ " Thế gian biến cải vũng nên đồi " ( Nguyễn Bĩnh Khiêm )
    ...hoặc ngược lại đất liền thành sông thành biễn cũng chẳng có chi là lạ !


    HangChot kính !
    ...
    ....Lẽ trời không thể quá (cực đoan) được măi, hễ quá th́ sẽ phải sụp vào chỗ hiểm
    Vâng Kính thưa Cụ Trạng ! Đă hiểu ư nghĩa chữ khảm rồi ạ !

    Nhiều Đuờng phố tại Bắc Kinh ,Thượng Hải ,Hàng Châu sụp đổ ,lún sâu
    http://www.vietlandnews.net/forum/sh...ad.php?t=18671
    Last edited by bussoni128; 02-03-2012 at 07:54 AM.

  2. #162
    HangChot
    Khách

    "NGỘ" à nhe !!

    HangChot cũng nghiền ngẫm Kim Dung, nhưng diễn giải sự kiện trong tiểu thuyết Kim Dung như kiểu cái post #159 (Đỉnh Hoa Sơn, hiện hữu Dương Quá, Bắc Cái Tây Độc, đồng qui ư tận !) th́ quả là lần đầu tiên mới thấy !

    (Tiếng "Dương Quá" đă được xài để nêu trạng thái, nơi chốn..., không hàm nghĩa chỉ nhân vật, chữ Quá c̣n khai mở 1 ẩn ư khác, th́ ra nó được diễn mở ở Post dưới )

    Thể theo tinh thần " Biết người Biết ta " (như Bác bussoni128 từng đề cập) không phải quảng cáo giùm văn hóa và lịch sử Trung Hoa, HangChot xin mạn phép bày ra đây những sưu tầm cóp nhặt được . ( sẽ t́m link đầy đủ phục vụ bạn đọc sau)

    Dương Quá: Bắn chết Mông Kha

    Dương Quá là nhân vật nam chính trong Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung, vốn người thông minh, đa mưu. Dương Quá cùng vợ chồng Quách Tĩnh – Hoàng Dung chống quân Mông Cổ, giữ vững thành Tương Dương, lập nhiều chiến công cho nhà Tống.

    Trong một trận chiến đấu với quân Mông Cổ để giữ thành Tương Dương, Dương Quá đă giết được đại hăn Mông Kha bằng công phu Đạn chỉ thần công do Đông Tà Hoàng Dược sư truyền dạy.

    Với vơ công trác tuyệt, Dương Quá được tôn là Tây Cuồng - một trong “thiên hạ ngũ tuyệt” (danh xưng thay cho “vơ lâm ngũ bá” trước đó).

    Về sau, Dương Quá lui khỏi vơ lâm, cùng Tiểu Long Nữ - sư phụ và cũng là vợ ḿnh - đi sống ẩn dật rồi tuyệt tích giang hồ.

    Theo sử sách, Dương Quá (1236-1367) là tướng lĩnh cuối đời Nam Tống. Dương Quá đam mê vơ nghệ, rất giỏi thuật xạ tiễn (bắn tên), trong quân được xưng là “Phi tướng quân”.

    Năm 1259, khi quân Mông Cổ bao vây Hợp Châu, Dương Quá dùng tên bắn chết đại hăn Mông Kha khiến quân Mông đại bại, được phong Tương Dương thành thủ bị sứ.

    Năm 1267, quân Mông Cổ lại bao vây Tương Phàn, Dương Quá quyết tử giữ thành và đă chết trong chiến trận.



    Quách Tĩnh: Bị chém đầu

    Trong Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ và Ỷ Thiên Đồ Long kư của Kim Dung, Quách Tĩnh là nhân vật trung thực, thật thà, dũng cảm, học được vơ công của nhiều cao thủ và trở thành Bắc Hiệp trong “thiên hạ ngũ tuyệt”. Quách Tĩnh có công lớn trong việc bảo vệ thành Tương Dương chống quân Mông Cổ. Khi thành bị phá, vợ chồng Quách Tĩnh - Hoàng Dung đă tự vẫn.

    Tuy nhiên, trong thực tế, Quách Tĩnh (? - 1269 hoặc 1273) là binh sĩ của Lữ Văn Đức, quan An phủ sứ vùng Kinh - Hồ cuối đời Nam Tống. Quách câu kết với đạo sĩ tên Hoàng Dược Sư, tự xưng là luyện được thần thông, có thể làm phép điều khiển thần binh, thần tướng đánh đuổi quân Mông.

    Lữ Văn Đức rất tin tưởng Quách, ban cho quan chức. Quách lén đi các vùng, chiêu mộ bọn du thủ du thực làm “lục đinh, lục giáp”, lại nói rằng: “Chỉ cần 300 quân có thể đuổi hết quân Mông”.

    Sau đó, Quách khai thành giao chiến, cùng Hoàng Dược Sư ngồi làm phép. Khi quân Mông tràn vào thành như ong vỡ, Lữ Văn Đức than: “Làm lỡ việc quốc gia là ngươi, làm lỡ việc quốc gia cũng là ta!”, rồi chém đầu Quách Tĩnh và Hoàng Dược Sư, sau đó tự vẫn.


    Kiều Phong: Phá giải hận thù dân tộc

    Trong Thiên long bát bộ của Kim Dung, Kiều Phong (hay Tiêu Phong) là nhân vật chính bi tráng, đầy hào khí.

    Ông vốn là người Khiết Đan, xuất thân ḍng dơi tôn thất nhà Liêu. V́ mưu đồ phục Yên của Mộ Dung Bác, các cao thủ vơ lâm Trung Nguyên đă đón đầu sát hại mẹ Kiều Phong, khiến cha ông phải nhảy xuống vực sâu tự vẫn.

    Kiều Phong được các cao thủ Thiếu Lâm, Cái Bang mang về nuôi dưỡng, biến cải thành người Hán, truyền dạy vơ công và sau đó trở thành bang chủ Cái Bang.

    Tuy nhiên, hận thù giữa hai dân tộc Hán và Khiết Đan quá sâu sắc. Kiều Phong bị lộ tông tích Khiết Đan và bị truất phế ngôi vị bang chủ Cái Bang.

    Yêu tự do, ông đă đem cái chết của ḿnh để phá giải hận thù Hán - Khiết Đan, ngăn chặn chiến tranh giữa hai nhà Liêu - Tống.

    Theo Liêu sử, Tiêu Phong (1030-1065) là đại thần nhà Liêu, người Khiết Đan. Khi hoàng đế Liêu Đạo Tông (Gia Luật Hồng Cơ) lên ngôi, Tiêu Phong được phong Văn ban Thái bảo, rồi Đồng tri Khu mật viện sự.

    Năm 1048, ông tham gia đánh dẹp bộ tộc Trở Bốc, năm sau phá được bộ tộc Địch Liệt. Sau đó, ông phát hiện và mật tấu âm mưu tạo phản của cha con Gia Luật Trùng Nguyên - thân tộc của vua.

    Khi Trùng Nguyên dấy binh làm phản, Tiêu Phong tham gia khởi binh dẹp loạn, đuổi Trùng Nguyên về vùng sa mạc phía Bắc rồi bức phải tự sát.

    Nhờ lập được đại công nên Tiêu Phong được phong làm Nam Viện đại vương. Năm 1065, Tiêu Phong bị bệnh chết, được vua Liêu Đạo Tông truy phong là Liêu Tây quận vương.


    ( c̣n tiếp )

    HangChot
    Last edited by HangChot; 02-03-2012 at 12:57 PM.

  3. #163
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    Quẻ KHẢM (Việt tộc Văn Lang)

    Mời các bạn tham khảo về Quẻ KHẢM của tổ tiên Dân Việt với Kinh Dịch gắn liền nền văn Minh lúa nước

    Việt học
    Nguyễn thiếu dũng
    Vai tṛ quẻ khảm/thuỷ trong kinh dịchvai tṛ quẻ khảm/thuỷ trong kinh dịch

    Trong số 64 quẻ kép của Kinh Dịch, mỗi quẻ đơn như Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều có 16 vị trí, 8 vị trí ngoại quái (quẻ trên/quẻ ngoài) và 8 vị trí nội quái (quẻ dưới/quẻ trong).

    Quẻ Khảm h́nh thành các quẻ sau:quẻ

    số 3 Thuỷ Lôi Truân,

    số 4 Sơn Thuỷ Mông,

    số 5 Thuỷ Thiên Nhu,

    số 6 Thiên Thuỷ Tụng,

    số 7 Địa Thuỷ Sư,

    số 8 Thuỷ Địa Tỷ,

    số 29 Thuần Khảm,

    số 39 Thuỷ Sơn Kiển,

    số 40 Lôi Thuỷ Giải,

    số 47 Trạch Thuỷ Khốn,

    số 48 Thuỷ Phong Tỉnh,

    số 59 Phong Thuỷ Hoán,

    số 60 Thuỷ Trạch Tiết,

    số 63 Thuỷ Hoả Kư Tế,

    số 64 Hoả Thuỷ Vị Tế

    Vậy là số quẻ khảm đă được chia đều cho hai phần, phần Thượng kinh có 8 quẻ Khảm và phần Hạ kinh cũng có 8 quẻ Khảm.

    Ở phần Thượng kinh sau quẻ Càn và quẻ Khôn bàn về trời và đất là liên tục 6 quẻ đều có quẻ Khảm. Ở phần Hạ kinh gần như cứ cách 10 quẻ lại có hai quẻ Khảm (quẻ 39, 40 – 47, 48 – 59, 60). Đầu Kinh nặng về quẻ Khảm (quẻ 3,4,5,6,7,8) th́ cuối Kinh, Khảm cũng đổ dồn về (quẻ 59, 60, 63, 64).

    Tại sao có sự phân bổ vị trí quẻ Khảm trong toàn cục 64 quẻ Kinh Dịch như vậy?Với cách bố trí đó các tác giả Kinh Dịch muốn nói lên điều ǵ?

    Trước hết phải thấy rằng các tác giả Kinh Dịch/Diệc đă chú trọng đặc biệt đến vai tṛ của quẻ Khảm thế nên mới dành cho quẻ Khảm những vị trí quan trọng như vậy, đưa lên hàng đầu kinh và liên tục một loạt quẻ Khảm, rồi đặt Khảm vào giữa Kinh, sau cùng cho quẻ Khảm chiếm giữ gần như tuyệt đối các vị trí cuối Kinh.Như thế cái bóng của quẻ Khảm gần như bao trùm và rải đều khắp không gian Kinh Dịch. Đây là nỗi ám ảnh rất ấn tượng của các nhà làm Dịch thể hiện mối bận tâm hàng đầu về Khảm Thuỷ, đó chính là vấn đề nước.Vấn đề sinh tử của cư dân thời sơ cổ, cư dân Văn Lang.

    Các nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc trong suốt hai ngh́n năm đă không thấy được chủ ư của các nhà sáng tạo Kinh Dịch Văn Lang, nên đă bỏ qua vấn đề này, họ đă cày nát các quẻ Khảm, làm đứt đoạn mối giây liên kết giữa chúng, tạo ra một truyền thống giảng Dịch rời rạc quẻ này độc lập với quẻ kia, thậm chí trong cùng một quẻ các hào cũng chẳng có liên hệ với nhau.”Tự quái” một phần của Dịch Truyện đă giải thích thứ tự các quẻ theo cách đó:

    “Có trời đất , sau đó vạn vật mới được sinh ra. Đông đầy giữa trời đất, duy có vạn vật, cho nên gọi là Truân, Truân nghĩa là đầy.

    Truân là vật mới sinh.Vật mới sinh tất c̣n mông muội, cho nên gọi là Mông, Mông là non tơ.

    Vật c̣n non tơ không thể không nuôi dưỡng, v́ vậy mới có quẻ Nhu. Nhu là cái đạo ẩm thực.

    Tranh nhau ăn uống tất sinh kiện tụng, nên có quẻ Tụng.

    Tụng tất có nhiều người tham gia, nên sinh ra quẻ Sư, Sư là đông người.

    Đông người tất có sự so sánh, nên sinh ra Tỉ.Tỉ là so sánh”.

    Mỗi quẻ được định dạng một chủ đề, chủ đề trước làm phát sinh chủ đề sau, nhưng vẫn giữ tính đơn lập. Từ quẻ 3 đến quẻ 8, các sự kiện được Kinh Dịch móc nối với nhau bằng mắc xích Khảm đă bị vất bỏ. Điều nầy cũng có thể giải thích được v́ các nhà Dịch học Trung Quốc cho rằng trước tiên Dịch là sách bói, nên mỗi quẻ cần phát huy tính đơn lập của nó. Nhưng như đă nói Dịch/Diệc chính là cuốn “ sử văn hoá của Văn lang” mà người Trung Hoa giảng như vậy đă xoá mất sử tính của Kinh, gây mù sương che khuất cội nguồn của Dịch /Diệc tạo điều kiện cho huyễn thoại Kinh Dịch là của Trung Quốc lưu hành, tồn tại cho đến ngày nay.Tự quái đă thành kim chỉ nam, lối giảng chủ đạo quyền uy cho các nhà Dịch học kế tiếp nhau ở Trung Quốc,từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác như Vương Bật, Khổng Dĩnh Đạt, Chu Hy, Vương Thuyền Sơn …không có nhà chú giải Kinh Dịch nào bước ra khỏi quỷ đạo này.Tính nhất quán độc đạo (về vấn đề này) của Dịch học Trung Quốc đă được Cao Hanh tổng kết: “Quẻ Khảm tuy có liên quan đến nước, nhưng không nói về nước”. Những chủ đề liên tiếp do Tự Quái đặt định cho các quẻ từ quẻ 3 đến quẻ 8 không nói đến nước, cho dầu có sự hiện diện thường trực của quẻ Khảm/Thuỷ.

    Dịch Truyện có một nhận xét chính xác : “Dịch là tượng”,thế mà tượng Khảm /Thuỷ (nước) của sáu quẻ liên tiếp lại đứng ở đầu Kinh đă không được xét đến,vô t́nh hay cố ư ? Không một giọt nước nào trong 6 quẻ Dịch được rỉ ra, các nhà Dịch học Trung Quốc b́nh thản sa mạc hoá không gian mở đầu Kinh Dịch. Cách làm này đă tạo điều kiện thuận lợi để đưa Văn Vương, một người không có liên hệ ǵ với Dịch trở thành tác giả Kinh Dịch. V́ Văn Vương sinh trưởng nơi vùng khô hạn, đêm ngày chỉ mong ngóng nước trời tuôn xuống, làm sao viết nên sáu quẻ đầu kinh lai láng nước gợi lên khí hậu của vùng đất quanh năm lũ lụt dâng tràn.

    Hăy xem thơ Thiệu Mân (Đại Nhă) trong Kinh Thi phản ánh cảnh trời đất vùngTây Bắc, quê hương Văn Vương:

    I.

    Mân thiên tật uy Trời hành uy ngược khắt khe
    Thiên đốc giáng tang Trời gieo ḷng loạn nặng nề xiết bao!
    Điên ngă cơ cẩn Khiến ra đói kém khổ đau.
    Dân tốt lưu vong Chết dần lưu lạc dăi dầu dân gian
    Ngă cư ngữ tốt hoang Cơi bờ trong nước hoang tàn

    IV.

    Như bỉ tuế hạn Như năm hạn hán đương th́
    Thảo bất hội mậu Cỏ cây tàn úa c̣n ǵ tốt tươi…

    VI.

    Tŕ chi kiệt hĩ, Ao đà cạn nước đi rồi
    Bất vân tự tân, Không hề nói nước bờ ngoài chẳng vô
    Tuyền chi kiệt hĩ. Nguồn mà ḍng nước cạn khô
    Bất vân tự trưng Nước không tươm nữa chẳng cho v́ là…


    (Bản dịch Tạ Quang Phát)

    Nếu so sánh khí hậu trong Kinh Thi và Kinh Dịch th́ quả là hai hệ khí hậu đối lập nhau, Ở Kinh Thi ,phần Đại Nhă cho thấy quê hương Văn Vương thường bị hạn hán hơn là lũ lụt, trong khi đó Kinh Dịch phản ánh một vùng khí hậu luôn ẩm ướt do mưa lụt, trong hào Thượng lục quẻ Khôn ta thấy nước lênh láng báo hiệu một trận bảo lũ kinh hoàng, quẻ Truân chính là một thiên kư sự về trận Đại Hồng Thủy mà tổ tiên Văn Lang đă lưu lại đă bị người Trung Hoa nhận ch́m xuồng để diễn giảng thành một thời khó khăn con người cần nương tựa vào nhau để khởi nghiệp, quẻ Mông không phải là chuyện trẻ con ngu tối cần phải dạy dỗ mà là câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh được kể bằng hào quẻ, phản ánh từng bước khó khăn trong công cuộc trị thủy của người Văn lang. Quẻ Tụng, quẻ Kiển, quẻ Giải, quẻ Hoán chỉ là chuyện lụt và lụt, quẻ nào cũng mênh mông nước là nước, đó không phải là nỗi ưu tư khắc khoải của Văn Vương là người không can dự ǵ đến việc khai sinh Kinh Dịch.

    http://www.anviettoancau.net/anviett...k=view&id=1415


  4. #164
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    Nữa đùa nữa...

    HangChot cũng nghiền ngẫm Kim Dung, nhưng diễn giải sự kiện trong tiểu thuyết Kim Dung như kiểu cái post #159 (Đỉnh Hoa Sơn, hiện hữu Dương Quá, Bắc Cái Tây Độc, đồng qui ư tận !) th́ quả là lần đầu tiên mới thấy !
    Có ǵ lạ đâu bác , cứ thoăi mái thay thế chữ Hoa bằng bất cứ loại hoa ǵ cũng được Ví dụ một người ở Bắc Phần ( Bắc bộ VN) thích hoa Đào th́ "

    ĐÀO - BAMA ( Hoa Sơn)

    (o là Kính ngữ trong trong Japanese Lang nên không cần cho vào, cũng như Công là Kính ngữ trong Hoa Văn - để gọi người có chức sắc, do đó HAMA công bỏ chữ công đi là HAMA cũng như BAMA - trong Japanese Lang nó vậy đó. Khi đùa th́ dùng tiếng xứ người , nói việc nghiêm trang th́ xoay sang tiếng mẹ đẻ. Ha ha)

    ĐÀO - BAMA đă "Dương Quá" đến mức đó Hi Hi


    Ha ha Ha ha

  5. #165
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    Bảo Giang vi thần (1)

    cũ...Xem lại.. (#101) ) = http://danlambaovn.blogspot.com/2012...guyen-phu.html

    Các tác động mới:

    Miến bị mất cúp vàng về tay Vịt
    Phong trào đông đảo cổ động viên đ̣i đội tuyển thi đấu theo Luật quốc tế .
    Lối vừa đá bóng vừa thổi c̣i đă bắt đầu bị tẩy chay và gây phản ứng ngược mạnh mẻ khó bề kiểm soát.

    Phương tŕnh phản ứng Quá- ọc :

    Lục Thất + Bảo Sơn_ ==> Lục Bảo + Thất Sơn
    Bảo Sơn + Bảo Giang ==> Bảo Bảo + Giang Sơn ( ...Có vẻ giống mấy vụ "đi Băo" rồi đoán BảoBảo... )
    Lục Thất + Bảo Giang ==> "Lục Gian"+ Thất Sơn
    Lục Thất + Bảo Sơn_ + Bảo Giang ==> Lục Thất-Giang-Sơn .

  6. #166
    HangChot
    Khách

    Hành tŕnh đi t́m sự thật ...

    Thuở thiếu thời tôi có tật tự hỏi " Phải vậy hông ? " khi đứng trước mọi vấn đề ...khi có Internet tôi đă hiểu câu : " Sự thật sẽ giải phóng con "
    Hăy giử đầu bạn ở trạng thái thật " lạnh " , xong, mời bạn :

    Đôi lời: Không nói ra mà ai cũng hiểu, rằng lịch sử luôn chứa đựng những bí ẩn, khuất lấp, sai lạc, vừa do biến động của thời gian, lầm lẫn chủ quan của chính con người hoặc do những mục đích chính trị mà bóp méo sự thực. Hệ quả của những sai lạc đó th́ khôn lường. Để rồi con người trong lúc vừa háo hức hướng tới tương lai, nhưng lại vẫn vô vọng trở ngược thời gian t́m lại chính ḿnh.

    Xin giới thiệu hai bài viết, một của độc giả BS gởi tới, một được đăng trên Tạp chí Xưa & Nay số 332, tháng 5-2009 , cả hai đều chạm đến một vấn đề rất hệ trọng của văn hóa-lịch sử Việt Nam, Trung Hoa.


    Giả và thực

    Kinh Dịch của người Việt ?


    Rất nhiều người Việt hiện mang năo trạng đầy mặc cảm tự ti khi so sánh giữa ta và Tàu. Quy mô to lớn đă đành rồi, c̣n về chất, về tŕnh độ th́ ta thua kém Tàu, họ xem như là chuyện đương nhiên vậy.

    Sở dĩ có trạng thái tâm lư này v́ bao năm qua cả thế gian bị chi phối bởi những thông tin giả chứa đựng trong ngụy sử, ngụy thư mà người Hán đă tạo ra. Từ tấm bé đă được nghe kể chuyện, lớn lên được học và được đọc, ngụp lặn trong biển thông tin giả tạo ấy khiến tư tưởng người Việt bị vây hăm, tâm trí bị đè nặng đến nỗi không dám nghĩ đến sự to lớn và rực sáng của đất nước cũng như văn minh ḍng giống Việt thời xa xưa, măi tận hôm nay trong cái bầu khí như thế nếu có ai đó dám nói ngược rằng Lạc Việt là suối nguồn của văn hoá văn minh Trung Hoa ắt sẽ bị không ít người coi là hoang tưởng, thần kinh có vấn đề.

    Với Lịch sử Trung Quốc đang lưu hành, rơ ràng Hán tộc đă thành công thậm chí rất thành công trong thủ đoạn dùng ngọn Ngũ Hành sơn kinh văn đè ép vây hăm tâm trí người Việt. Hùng khí vốn có trong bản thân người họ Hùng bị triệt tiêu dưới sức đè triệu triệu cân của ngọn núi Ngũ hành….GIẢ, ảo giác về sự lớn mạnh và rực rỡ của văn minh ‘Trung Quốc’ đă tạo ra nơi người Việt trạng thái tâm lư tự ti nặng nề, thôi đành khuôn theo thân phận nhỏ bé và lạc hậu của một chư hầu bao đời nay rồi.

    Tự trong thâm tâm đă mang mặc cảm tự ti thấp bé như thế th́ cái nh́n nếp nghĩ làm sao có thể hùng tráng được, không có những cái đầu hùng tráng th́ không thể có quốc gia hùng mạnh được. Với năo trạng ấy con người ta chỉ có thể nh́n nhận và xử lư mọi vấn đề kể cả chuyện quốc gia đại sự theo kiểu gà què ăn quẩn cối xay.

    Giải tỏa trạng thái tâm lư tự ti phải là ưu tiên số 1 trong việc phục hoạt Hùng tính nơi con dân Lạc Việt, chi Việt duy nhất c̣n lại của Bách Việt Hùng tráng xưa.

    Trong dân gian râm ran truyền miệng:

    - Người Tàu dùng pháp thuật trấn yểm khiến khí thiêng sông núi không thể phát tác được.
    - Người tàu phá các long mạch khiến đất Việt không c̣n minh chúa để dẫn dắt dân tộc đi lên.
    - Bảo khí Trấn Quốc là nỏ thần làm từ móng Rùa đă bị tráo hàng giả.
    - Mũ đâu mâu thần thông sáng suốt cũng bị tráo đổi mất rồi.
    - “Trạng” tức bậc hiền tài dặn con: lúc cha chết nhớ chôn nằm sấp để khi người Tàu cướp nước, chúng lật ngược xác lên sẽ trở thành nằm ngửa, như vậy ṇi hiền tài nước ta sẽ không bị dứt. Nào ngờ con quá thương bố không dám làm theo lời dặn nên xác ‘trạng’ bị lật úp khiến nước ta

    hết người tài.

    Những đồn đại như trên cứ dai dẳng truyền từ đời này sang đời kia như một cách dẫn dắt luồng suy nghĩ vậy.

    Cái ǵ quư giá lắm đă bị tráo mất?

    Lộn ngược thi thể là muốn nói điều ǵ?

    Có thực là người Tàu dùng pháp thuật trấn yểm để triệt tiêu nguồn linh khí nước Việt?

    Những điều này có thực hay không? Câu hỏi cứ day dứt ám ảnh tâm trí người Việt bao đời nay chợt nhận ra là hoàn toàn thực nhưng thực theo nghĩa bóng chứ không phải nghĩa đen.

    Gạt bỏ lớp vỏ huyền hoặc thần bí ngụy trang th́ điều người xưa muốn nói với lớp người đi sau thực sự lộ rơ. Cơ sở của nền minh triết và khoa học Việt là Dịch lư đă bị tráo đổi, phần tinh anh nhất của trí tuệ tiền nhân Việt bị biến thành mớ hỗn độn không tài nào hiểu nổi và công dụng duy nhất giúp đời chỉ là bói toán t́m câu trả lời, hên xui may rủi.

    Lịch sử và địa lư nước Việt cũng đă bị tráo đổi lộn ngược lộn xuôi, thủ đoạn xem ra chẳng có ǵ cao siêu nhưng lại rất hiệu quả. Vua Càn long đă làm càn ,dùng tiền bạc thu mua, thu mua không xong th́ tước đoạt thu hết sách vở và bản đồ đang có trong nước mang về cạo sửa, cạo sửa không nổi th́ đốt phi tang.

    Có khi nào ta đặt câu hỏi : Càn Long hành động như thế để làm ǵ? Phải chăng là sự tiếp nối và hoàn tất công việc vĩ đại do ông nội Khang Hy khởi xướng, mục tiêu nhằm đến là xóa sạch dấu vết về gốc gác Bách Việt của nền văn minh Trung Hoa để rồi đi tiếp bước sau là đồng hóa Trung Hoa là Hán, Hán là Trung Hoa, tất cả là thành tựu trí tuệ của người Hán, chỉ người Hán mới văn minh?

    Trong lịch sử Bách Việt, việc diệt chủng về mặt văn hóa không phải chỉ bắt đầu từ thời Măn Thanh mà đă có từ thời Quang Vũ nước Đông Hán hay Đông Hăn quốc ở đầu công nguyên, chuyện Mă Viện thu trống đồng đúc ngựa ở Lạc Việt chỉ là phần nổi của toàn bộ vấn đề ăn cướp thành tựu tri thức của người họ HÙNG trong đó kinh Thư và kinh Dịch là phần nổi cộm nhất, áp dụng luật Hán thay cho luật Việt không phải chỉ là chuyện thi hành pháp luật mà thực ra là sự đồng hóa cưỡng bức thay đổi lối sống, thay đổi mọi hành vi ứng xử tức văn hoá.

    - Bằng thủ đoạn ăn cướp thô bạo của cặp đôi Quang vũ – Mă Viện khiến chữ nghĩa sử sách nói chung là cả nền văn minh người họ HÙNG trước công nguyên đă biến thành gia sản của Hán tộc.(* )

    - Công tŕnh văn hóa hết sức to lớn của hai ông cháu Khang Hy – Càn Long đă biến mọi thành tựu của văn minh Bách Việt sau công nguyên thành văn minh của người Hán – Măn(* ), thành công vượt sự mong muốn. Chỉ một thời gian sau ‘tứ khố toàn thư’ th́ tộc người Bách Việt ở Hoa nam coi như bị xóa sổ, thân xác Việt c̣n đấy nhưng hồn Việt th́ đă ‘thăng thiên’ mất rồi. Với người Hoa nam th́ nay Hoa là từ đồng nghĩa của Hán; là hai tên gọi của một tộc người có gốc gác cội nguồn ở lưu vực Hoàng Hà chẳng c̣n ai biết tới vua HÙNG nữa cả.(* )


    Sự tráo đổi cạo sửa lịch sử Trung Hoa cũng chẳng có ǵ là tinh vi ghê gớm nhưng có lẽ là ‘cơ trời vận nước’ nên con cháu Lạc - Hồng bao năm qua nh́n không ra.

    Nhân cảnh "tai trời ách nước" thời Vương Măng khiến nơi nơi đói kém, người Man ở vùng Hoàng Hà tụ tập lập đảng cướp ở núi Lục Lâm, người đời khinh thường gọi là bọn ‘Lục lâm thảo khấu’, nghĩa là bọn giặc cỏ núi Lục lâm, nhưng tiểu nhân đắc thời, giặc cướp nhẩy lên làm vua xưng là Canh thủy đế triều Tiền hay Tây Hăn quốc (Man ngữ gọi vua là Hăn, nước của Hăn là Hăn quốc, quân của Hăn là Hăn quân), thủ đô là Tây An –Thiểm Tây ngày nay , nhưng chỉ sau vài năm th́ bị những người Trung hoa theo đạo Lăo nổi dậy gọi là quân Xích My đánh bại chiếm mất vùng kinh đô

    Tây an. Lưu Tú, một tướng lănh của Thảo khấu trước đây lập ra Đông hăn hay Hậu hăn quốc ở Hà bắc, sử gọi ông ta là Quang Vũ đế. Ở đây chữ đế là thừa và Hán sử chỉ có ‘quan vũ’ chứ không có ‘Quang Vũ’, là danh hiệu không phải tên riêng, ‘quan vũ’ nghĩa là vua của nước ở phía nam Trung Hoa. Năm 25 Quan Vũ đánh bại quân Xích My và định đô Hăn quốc của ông ta ở Lạc Dương – Hà Nam ngày nay.

    Người Hán đă lấy tên triều Tiền hay Tây Hăn quốc của Canh thuỷ đế gán cho Triều đại Trung hoa do Lư Bôn hay Lưu Bang kiến lập tạo ra sự tiếp nối liền lạc giữa Tiền Hán và Hậu Hán , gắn cái đầu lịch sử và văn minh của Trung hoa lên cái ḿnh Hán hay Hăn tộc qua cái cổ tiền – hậu hay tây- đông.

    Về địa lư những chuyên viên tráo đổi đă nghĩ ra chiêu di dời Hạo kinh, là kinh đô nhà Tây Chu về Tây an cùng địa điểm với thủ đô của Canh thủy đế –Tây hăn quốc, dời kinh đô Đông Chu về Lạc dương bên bờ Hoàng Hà là kinh đô của Đông hay Hậu hăn quốc ; họ đem một đông một tây đô của Trung hoa đặt chồng lên một đông một tây đô của Hán tộc. Hành động này công dụng như thuốc xóa thẹo làm mờ đi chỗ ‘tháp – gắn’ đă tạo ra lịch sử đầu Hoa ḿnh Hán. Rơ ràng là cả hai Trung tâm quan trọng bậc nhất của lịch sử và văn minh dân tộc đều nằm trong vùng quê hương người Hán ở Hoàng Hà cách đất Bách Việt xa, việc dời chuyển dối trá này tạo ra hiệu ứng tổng hợp hỗ trợ rất đắc lực cho sự tráo đổi ‘tiền- hậu’, khiến biết bao người đă mù c̣n thêm mờ.

    Nhưng khi thực hiện việc tráo đổi và di dời này th́ phát sinh vấn đề: không trùng khớp với những thông tin về địa lư đă có về các nước chép trong sách sử xưa, thế là vua tôi ‘họ Hăn ’cho … lộn ngược hai phương Bắc và Nam, nam biến thành bắc, ngược lại bắc hóa ra nam. Vậy là coi như xong mọi chuyện, khớp đúng hoàn toàn. Chẳng cần để ư tới điều quái gở như: phương BỨC – BẮC mà lại… tuyết dầy và phương NAM là phương của dân theo quan niệm chính thống Trung hoa lại ở hướng Xích đạo tức hướng mặt trời đi. Quả thực đáng phục bội phần khi Hán tộc không những biết mà đă thực hiện quan niệm dân là trời, tức quan niệm dân chủ khi tŕnh độ chính trị chung của nhân loại chắc chỉ vừa mới nghe thấy từ ‘vua’.

    Thực hiện đủ 3 phép trên, người Man – Hán đă thành công trên cả tuyệt vời. Thiên hạ bị lừa suốt bao năm không một ai lên tiếng nghi ngờ tính trung thực của Hán sử. Chính ‘Ngụy sử’ đầu Hoa ḿnh Hán này là ‘lá bùa’ trù ếm làm suy sụp tinh thần người Việt, long mạch chính là hùng khí trong tinh thần bị ngọn Thái sơn triệu triệu cân…giả đè bẹp dí. Mặt đất này nào khác chi chốn rừng hoang trong cuộc cạnh tranh sinh tồn. Việt tộc luôn phải đối mặt với anh chàng láng giềng khổng lồ đă cao to mà c̣n đẹp đẽ, trí tuệ rực sáng cả vùng trời Đông hỏi làm sao tránh khỏi tâm lư kiêng dè nể sợ?

    Cơ sự này hoàn toàn chỉ là trạng thái tâm lư chứ không có một tí sức nặng thực nào dù là cỏn con đi nữa, sử thuyết họ HÙNG đă chỉ ra Trung Hoa thời nhà Chu chính là nước Văn Lang trong ḍng sử Việt (xem bài Hùng Chiêu vương – quốc tiên lang trong sử thuyết họ HÙNG ) mà nếu tính toán ra th́ hầu hết những ǵ tiêu biểu cho văn minh Trung Hoa đều Xuất phát từ triều đại Chu-Văn lang này.Từ kinh văn sách vở cho tới những nhân vật kiệt xuất, hết thảy đều ra đời vào thời ấy. Thử hỏi văn minh Hán tộc có ǵ để lấy đè người ? Đúng là cáo mượn oai hùm, oái oăm là ở chỗ đối tượng bị dọa lại chính là con hùm mà nó đă mượn oai, ông hùm sợ cái bóng của chính ḿnh, bịt mắt cụp tai nên măi không nhận ra sự thực.

    Ngày nay thiên hạ ai cũng biết văn minh Trung quốc sáng như trăng đêm rằm nhưng không người nào biết đó chỉ là ánh sáng phản chiếu lại nguồn sáng thực phát ra từ mặt trời Việt đang ch́m khuất ở góc trời bên kia.

    Từ ngày Sử thuyết họ Hùng ra đời th́ chân thành chân, giả ra giả, tṛ lộng giả thành chân hết tác dụng; lịch sử chân thực của Việt tộc đă thẳng tay xé toạc ‘lá bùa’ bấy lâu nay đè nặng lên tâm trí người Việt. Sự thật đă phơi bày, sức nặng triệu triệu cân phút chốc bốc hơi, nhẹ như mây khói, tâm hồn.

    Việt lại thung dung tự tại và chắc chắn chỉ qua thời gian ngắn trấn tĩnh thoát ‘choáng’ là hùng khí lại bốc cao ngút trời. Nỏ thần đă trở về tay chủ cũ ; Kiểu ( kinh) bị dời đến đất man cũng đă hoàn Cổ lũy (thành Cổ loa), nh́n từ Lạc ấp, phương đông đang hừng sáng, mặt trời đang dần lên trong tiếng trống đồng đón chào rộn ră.

    http://disanviet.vn/viewthread.php?topicId=5945
    Tạp chí Xưa & Nay số 332, tháng 5-2009[/B]

    (* ) (HangChot Chú thích ) : Những việc " động trời " ??... Khà khà thú vị !!
    Bó tay với nghề lường lọc, gian nhân dối trá có thâm niên từ cả ngàn năm nay ...??? Hô hô hô
    Tôi cho rằng thật may v́ đă quan sát kỷ "tay Phải" khi Đức Phật dùng "tay Trái" chỉ Trăng...!
    Last edited by HangChot; 04-03-2012 at 11:45 PM.

  7. #167
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    HỎA THỦY VỊ TẾ - Bảo Giang vi thần (2)

    http://www.vietlandnews.net/forum/sh...18164&page=117

    64. QUẺ HỎA THỦY VỊ TẾ

    Trên là Ly (lửa), dưới là Khảm (nước)

    ...Vị tế: chưa qua sông, chưa xong, chưa hết.
    Vị tế: Hanh. Tiểu hồ ngật tế, nhu ḱ vĩ, vô du lợi.
    Dịch: chưa xong, chưa cùng: được hanh thông. Con chồn nhỏ sửa soạn vượt qua sông mà đă ướt cái đuôi, không qua được, không có ǵ lợi cả.
    Giảng: Quẻ này trái hẳn quẻ trên: lửa ở trên nước, nước và lửa không giao nhau, không giúp được nhau; cả 5 hào đều ở trái ngôi cả; dương ở vị âm, mà âm ở vị dương, cho nên gọi là vị tế: chưa xong.
    Vị tế chứ không phải là bất tế, chưa qua sông được chứ không phải là không qua được, sẽ có thời qua được, lúc đó sẽ hanh thông. Thời đó là thời của hào 5, có đức nhu trung, biết thận trọng mà ở giữa quẻ Ly (thời văn minh). Vả lại tuy 5 hào đều trái ngôi, nhưng ứng viện nhau cương nhu giúp nhau mà nên việc: thêm một lẽ hanh thông nữa.
    Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đă làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc ǵ lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.
    Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, th́ mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.

    ...http://vnthuquan.net/(X(1)S(e5uiby45...a3q3m3237nqn2n
    Đây là khởi đầu, đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền...không bao lâu nữa ==> I. Quẻ Thuần Càn

  8. #168
    HangChot
    Khách

    Hành tŕnh đi t́m sự thật ...(tiếp theo)

    Niềm tự hào dân tộc việt

    Đề: Văn hóa cổ sử việt nam - niềm tự hào dân tộc việt

    Có 1 số bạn hỏi tôi, v́ sao 18 vua Hùng Vương lại lâu như vậy, nên tôi sẽ post lại ở đây bài đă post trước đó, mà từ trước tới nay sách lịch sử nước nhà lại không hề thay đổi, làm cho mọi người cứ nhầm tưởng là 18 Vua Hùng Vương chỉ vỏn vẹn có vài trăm năm. Âu cũng là 1 phần dân ta hiểu thêm sử ta vậy.

    Một vấn đề nữa chúng ta cần bàn luận, đó là sự phát triển của môn cờ tướng thật sự có nguồn gốc từ Trung Quốc hay không?
    Các bạn lưu ư rằng: Trong bàn cờ tướng có 1 quân "Tượng". Nhưng từ xưa đến giờ các bạn có bao giờ thấy Trung Quốc nuôi voi chưa? Đó là chưa kể các bạn xem bao nhiêu phim kiếm hiệp hoặc cổ trang của Trung Quốc, cũng chẳng thấy mang voi đi đánh trận bao giờ? Việt Nam ta đă nhiều lần dùng voi đi đánh trận trong các trận chiến lịch sử.

    Và voi chỉ xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á. Mà nền văn minh gần Trung Quốc lúc bấy giờ là nền Văn Minh Lạc Việt ở Bờ Nam sông Dương Tử (sông Trường Giang hiện tại ) hơn gần 5.000 năm văn hiến. Có thể cờ tướng đă mất cùng lúc với kinh dịch và học thuyết vũ trụ cao cấp là Âm Dương - Ngũ Hành ( Cho đến tận bây giờ, Trung Quốc cũng chưa chứng minh được Âm Dương - Ngũ Hành của ḿnh sai sót chỗ nào? Trong khi các nhà nghiên cứu nước ta đă t́m ra được và đang dần hồi phục lại 1 học thuyết cổ xưa đă mất )

    => Tàu khựa rất giỏi trong việc ăn cắp và đạo lại văn minh của người khác, rồi la làng đó là của ḿnh.

    Vấn đề thứ 2: Triều đại Hùng Vương kéo dài 2621 năm (từ năm 2879 TCN đến 258 TCN) Có thứ tự như sau:

    1. Đức Kinh Dương Vương - Lộc Tục, tức Lục Dục Vương : sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL) lên ngôi năm 41 tuổi , Hai ngàn tám trăm bảy chín (2879 tcn), trị v́ trong 86 năm , từ năm Nhâm Tuất (2879 tr.TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL) so ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng (?).

    2. Lạc Long - Sùng Lăm, Thiên nhân -Di Lặc - Phật Tổ :năm ra đời :18/3/Bính Th́n (2825 tr. TL), năm 33 tuổi lên ngôi, hiệu Hùng Hiền Vương , 269 năm tại ngôi từ năm Mậu Tư (2793 tr. TL) đến năm Bính Th́n (2525 tr. TL) , Thủ lĩnh khoảng độ mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế)

    3. Hùng Lân - Hiệu Hùng Quốc Vương : sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL), lên ngôi năm 18 tuổi, trị v́ 271 năm từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL, truyền khoảng hơn 10 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.

    4. Bửu Long - hiệu Hùng Hoa Vương : lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), trị v́ trong 342 năm từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Th́n (1913 tr. TL), kéo dài hơn mười đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quưnh nhà Hạ.

    5. Bửu Lang - hiệu Hùng Hy Vương : sinh năm Tân Mùi(2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi , trị v́ trong 199 năm từ năm Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tư (1713 tr. TL) ,Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ . Ngang với Trung Quốc vào thời Lư Quư (Kiệt) nhà Hạ.

    6. Long Tiên Lang - hiệu Hùng Hồn Vương: sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL) , lên ngôi khi 29 tuổi , trị v́ trong 80 năm từ năm Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến năm Kỷ Dậu (1632 tr. TL) ,Thủ lĩnh truyền kế hai đời , Ngang với Trung Quốc vào thời -c Đinh nhà Thương.

    7. Quốc Lang - hiệu Hùng Chiêu Vương : sinh năm Quư Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, trị v́ 200 năm từ năm Canh Tuất (1631 tr. TL) đến năm Kỷ Tỵ (1432 tr. TL) ,kéo dài 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.

    8. Vân Lang - hiệu Hùng Vi Vương : sinh năm Nhâm Th́n (1469 tr. TL) lên ngôi khi 39 tuổi , trị v́ 99 năm từ năm Canh Ngọ (1431 tr.TL) đến năm Kỷ Dậu(1332 tr. TL), 5 đời kế thừa . Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.

    9. Chân Nhân Lang huư – hiệu Hùng Định Vương: sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi năm 45 tuổi, trị v́ 80 năm từ 1331 đến 1252 tr.TL , truyền thừa 3 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.

    10. Hoàng Long Lang - hiệu Hùng Uy Vương :37 tuổi lên ngôi , trị v́ 90 năm từ 1251 đến 1162 tr.TL ,truyền thừa 3 đời

    11. Hưng Đức Lang - hiệu Hùng Trinh Vương : sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, trị v́ 107 năm từ năm Canh Tư (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 tr. TL), truyền được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.

    12. Đức Hiền Lang - hiệu Hùng Vũ Vương : sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, 85 năm trị v́ từ năm Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến năm Nhâm Tuất (969 tr. TL) ,3 đời làm Thủ lĩnh . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

    13. Tuấn Lang - hiệu Hùng Việt Vương : sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), 23 tuổi lên ngôi, 105 năm nắm quyền từ năm Quư Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL), truyền 5 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.

    14. Viên Lang - hiệu Hùng Anh Vương : sinh năm Đinh Măo (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổI, 99 năm trị v́ từ 853 đến 755 trTL, trải qua 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời B́nh Vương nhà Đông Chu.

    15. Cảnh Chiêu Lang - hiệu Hùng Triệu Vương : sinh năm Quư Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi , 94 năm làm thủ lĩnh từ năm Đinh Hợi (754 tr. TL) đến năm Canh Thân (661 tr. TL), cả thảy 3 đời Cha Con . Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu

    16. Đức Quân Lang -hiệu Hùng Tạo Vương, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), 91 năm trị v́ từ năm Tân Dậu (660 tr. TL) đến năm Nhâm Th́n (569 tr. TL), 3 đời truyền nhau . Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu

    17. Bảo Quang Lang - hiệu Hùng Nghi Vương : sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) ,9 tuổi lên ngôi, 159 năm trị v́ từ năm Quư Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 tr. TL) , được 4 đời . Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu

    18. Huệ Lang - hiệu Hùng Duệ Vương : sinh năm Canh Thân (421 tr. TL) , 14 tuổi lên ngôi, trị v́ 150 năm từ năm Quư Dậu (408 tr. TL) đến năm Quư Măo (258 tr. TL) , truyền khoảng 6 đời . Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noăn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.

    => với 1 nền văn minh thịnh trị như vậy? Liệu mấy chú châu chấu ở miền Bắc sông Dương Tử có dám xông vào phá phách đá xe không, đó là chưa kể đó là triều đại đầu tiên và có lẽ duy nhất trên thế giới tồn tại lâu đến như vậy => phải có cở sở hạ tầng vững chắc, và những kiến trúc thượng tầng cấp cao th́ mới bền vững lâu đến như vậy. Mà thuyết bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực là thuyết Âm Dương Ngũ Hành, từ Y lư, lịch số, phong thủy, kinh dịch... mà nay chỉ c̣n lại những ứng dụng rời rạc và được Tàu sử dụng, nhưng vẫn sai sót nhiều, lúc được, lúc không, rồi ông này lại phát minh ra học thuyết mới, nhưng cũng từ học thuyết cũ, rồi ông khác cũng phát minh ra cái khác ông kia cũng từ học thuyết cũ đó => vậy là không thống nhất với nhau. Bởi v́ sai từ nguyên lư khởi nguyên của nó, nên không thống nhất với nhau được. Ông cha ta có lẽ đă tiên liệu con cháu 5.000 năm sau sẽ t́m lại học thuyết cổ xưa nhất, học thuyết vũ trụ siêu cấp Âm Dương Ngũ Hành như lời Vanga đă dự đoán chăng?..

    Nguồn : http://sinhviennganhang.com/diendan/...#ixzz1oJdtJaIG
    http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?t=11289
    Các nhà nghiên cứu và sử học nước nhà đă chứng minh được kinh dịch là của người Việt Nam, đến khi nào thế hệ sau mới thấu hiểu được, hay phải cứ xem phim Trung Quốc rồi ngộ nhận Kinh Dịch là của Trung Quốc?

    Đó là chưa kể sách giáo khoa lịch sử c̣n ghi "18 đời vua Hùng Vương", trong khi những văn bản, cổ tự đă ghi lại là : "18 thời Vua Hùng Vương" có niên đại hơn 2622 năm. Chỉ khác nhau 1 chữ "đời" và "thời" đă thay đổi cách nh́n nhận về cổ sử? Liệu hâu thế có biết điều này trong những sách giáo khoa đă biên soạn?..???

    Nguồn: http://sinhviennganhang.com/diendan/...o-dan-toc-viet

  9. #169
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    Điềm báo quái dị !?

    KỲ LẠ CHUYỆN GÀ TRỐNG TRUNG QUỐC CŨNG ĐẺ TRỨNG NHƯ GÀ TRỐNG NGHỆ AN

    http://vnexpress.net/gl/doi-song/201...ung-o-nghe-an/
    http://www.tienphong.vn/Quoc-Te/5678...rung-tpod.html
    http://phamvietdao2.blogspot.com/201...g-e-trung.html

    Quote Originally Posted by GPD. View Post
    115.
    .........
    335.Dù trai ai chửa biết tường
    Nhất thổ thời sĩ(* ) khảm Phương thuở này
    Ư ra lục thất gian nay,
    Thời vận đă định thời nầy hưng vương

    .........

    (* )"thổ" và "sĩ" : sự trái ngược "chân" thành "tay" và ngược lại .

  10. #170
    Member
    Join Date
    06-05-2011
    Posts
    403

    "Nói nhẹ nhàng với cây gậy cầm trong tay" (TT Theodore Roosevelt )

    Obama: Không ngần ngại dùng vũ lực với Iran
    .....
    Mỹ bí mật chuyển 15.000 quân tới Kuwait

    Thời báo Los Angeles dẫn lời quan chức quốc pḥng Mỹ cho biết, Ngũ Giác Đài bí mật điều động 15.000

    lính cùng tàu chiến đến Kuwait.
    Đây là lần điều động với quy mô lớn nhất trong ṿng một thập kỷ qua của quân đội Mỹ tới quốc gia này.
    Tư lệnh quân đội Mỹ tại Trung Đông cho rằng họ cần tăng cường thêm lực lượng để đối phó với Iran và các mối đe dọa tiềm tàng khác.
    Trên thực tế, Tham mưu trưởng Thủy quân lục chiến Mỹ, Tướng James F. Amos cho hay, Ngũ Giác Đài đă nhận được lệnh tăng cường lực lượng đến

    khu vực này từ ṭa Bạch Ốc vào cuối năm 2011, nhưng Ngũ Giác Đài vẫn hành động một cách từ từ
    ..............
    Mới đây, HKMH Carl Vinson cũng được điều đến biển Arab để phối hợp với HKMH John.C.Stennis khi mà căng thẳng xung quanh eo biển Hormuz leo

    thang. Đây là eo biển có vị trí đặc biệt quan trọng tại Vịnh Ba Tư một lượng lớn dầu mỏ trên thế giới phải vận chuyển qua đây.
    ....
    Toàn Bài :
    http://baomai.blogspot.com.au/2012/0...u-luc-voi.html
    Thông điệp Syria khá rơ khi phải chọn lựa để bị "khảm"khảm" hay "thông hành" phút (4:50)
    http://www.youtube.com/watch?v=wqGHN...er_profilepage


    Bắc Kinh cho di tản công nhân khỏi Syria

    Bắc Kinh cho di tản công nhân khỏi Syria
    Thứ năm 07 Tháng Ba 2012
    Mai Vân


    Theo Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc vào hôm nay, 07/03/2012, nước này đă bắt đầu cho rút công

    nhân của họ ra khỏi Syria, chỉ để lại khoảng 100 người để canh giữ cơ sở và thiết bị của các tập đoàn Trung Quốc tại đây. Theo giới quan sát, Trung

    Quốc rút kinh nghiệm ở Libya trước đây, khi phải di tản gấp rút và trong hỗn loạn hàng chục ngàn kiều dân của ḿnh.

    ..........
    Toàn Bài :
    http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20120...han-khoi-syria
    http://www.pagewash.com/nph-index.cg...una-xubv-flevn


    Trung Quốc rút người khỏi Syria
    Thứ 08/03/2012 3:26



    Chính quyền Trung Quốc ngày 7.3 thông báo bắt đầu đưa công nhân về nước nhằm tránh lặp lại t́nh trạng cập rập như hồi ở Libya.

    Theo Reuters, chỉ khoảng 100 công nhân ở lại để canh giữ tài sản. Giới quan sát cho rằng động thái này không có nghĩa là Trung Quốc đă thay đổi

    quan điểm về vấn đề Syria mà chỉ là biện pháp pḥng ngừa. Tương tự, Bộ Ngoại giao Nga tuyên bố phương Tây “đừng mơ tưởng” nước này sẽ đổi ư

    sau khi tổ chức xong bầu cử tổng thống.

    ...................
    http://www.thanhnien.com.vn/pages/20...hoi-syria.aspx
    Đoài phương Khảm phương một cuộc đấu trí lực dành Quyền trả nợ với Càn phương ??? Tốt ! ...hà......

    (* )"thổ" và "sĩ" : sự trái ngược "chân" thành "tay" và ngược lại : 1 khả năng là" lộn ngược" "Trồng chuối" hi hi : chữ thiên


    336.Nhất thổ thời sĩ(* ) khảm Phương(* ) thuở này : Chú ư các "ông vua" đang tụ ở phương " Đông bắc" :

    điềm có thay đổi ...
    (* )( khảm Phương :Phương Đông bắc -Trung Thiên Đồ)

    115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy : nồi sâm sôi sùng sục, có biến động sụp hiểm. Vở miến bể nồi sâm ?

    Chà chà ???... #56

    336 - 115 = 221 ==> 2+2+1 = 5 (5 : Th́n - thổ - hướng trung ương)
    (nhâm Th́n)2012 ==> 2+0+1+2 = 5 ( Nhâm Th́n - nhâm : nhất thổ) phản ứng dây chuyền tới hướng trung ương :"khảm cung rồng dấy")


    Cho nên, nếu ai biết thắc mắc sẽ thấy trong 12 con giáp chỉ có 11 con (vật) mà mọi người đều biết, với:

    7 con quen thuộc ở trong nhà vườn nên gọi là “gia súc” : 1/Sửu, 2/Măo, 3/Ngọ, 4/Mùi, 5/Dậu, 6/Tuất, 7/Hợi ;
    và 4 con ở ngoài đồng hay trong rừng là : 1/Tư, 2/Dần, 3/Tỵ, 4/Thân ;
    và 1 con mà chưa hề ai đă thấy để nhận dạng, đó là Th́n (Long/Rồng), nhưng tiền nhân lại bảo là nó vừa ở dưới đáy biển nên gọi là “thanh long”, vừa

    bay lên trời nên gọi “thiên long” hay “thăng long”, và vị trí của nó lại đặc biệt là thứ 5 trong 12. Như thế là tại sao và có nghĩa là ǵ không?
    ................
    Th́n tức Long là con Rồng. Theo truyền thuyết qua huyền thoại là một trong 4 con thú thần gọi là “tứ linh” : Long, Ly, Quy, Phụng mà ta thường nghe

    nói là con Rồng, con Lân, con Rùa, con Phượng, nên Th́n hay Long chỉ là con vật tạo nên do óc tưởng tượng, chứ không ai thấy hay biết. Nhưng quẻ

    Càn trong Kinh Dịch nói là : “long phi tại thiên” có nghĩa là “rồng bay trên trời”, như vậy có nghĩa tương tự như câu : “tại thiên thành tượng” . Nên biểu

    tượng “Rồng” nói lên khả năng biến hóa, vận chuyển đổi dời như Trời Đất, từ vực sông (con cá chép) đáy biển lên đến trời cao (hóa rồng) với hoạt lực

    vô biên, vô cùng, vô tận. Do đó tất cả mọi biến cố tự nhiên như thiên tai, động đất, băo lụt, giông tố, núi lỡ, hang sụp,… tiền nhân nói là “long giáng

    hạ”, bằng cớ hiển nhiên đó đă tồn tại cho đến ngày nay và đă được công nhận là kỳ quan thế giới với vịnh “Hạ-Long”. Nên hiểu rộng với cái nh́n thấu

    triệt th́ “Th́n” chính là ư nghĩa “Đại Ngă Tâm Linh” với chiều kích vô biên khi con người ư thức và sống trọn vẹn được cái Nhân Tính cũng chính là Thiên

    Tính nơi ḿnh, th́ ḿnh chính là Nhân Hoàng như Thiên Hoàng và ngự tại “Hoàng Cung Trung Thổ” ở trên đời này vậy.
    ............
    Theo Nguyễn Sơn Hà (An viet toan cau)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •