Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ, người bị Nhà nước Cộng sản Việt Nam truy tố về tội được gọi là “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam” sẽ bị đem ra xử tại Ṭa án Nhân dân Thành phố Hà Nội ngày 24/03 (2011).

Khác với tất cả các vụ án chính trị trước đây có cùng tội trạng của một số người đấu tranh dân chủ, bất bạo động, kể cả Linh mục Nguyễn Văn Lư, người vừa măn hạn tạm tha một năm để chữa bệnh vào ngày 15/3 (2011), nhưng vẫn c̣n được tạm trú ở Ṭa Tổng Giám mục Huế, ông Vũ thuộc ḍng dơi “con nhà ṇi” có cha là Nhà Thơ Cù Huy Cận (Huy Cận), nguyên Bộ trưởng Canh Nông và từng là “môn đệ” của Hồ Chí Minh.

Mẹ ông Vũ, Bà Ngô Thị Xuân Như, từng là Bác sĩ Viện Y học cổ truyền Việt Nam là em ruột của Nhà thơ Ngô Xuân Diệu, thuộc ḍng họ Ngô Đức Kế. Nhà Thơ Xuân Diệu c̣n là cha nuôi của Tiến sỹ Vũ.

Tài liệu trên mạng lưới Internet toàn cầu viết : “Sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (chuyên ngành tiếng Pháp), từ năm 1979, Cù Huy Hà Vũ làm việc tại Ban Thông tin Học viện Quan hệ Quốc tế. Trong thời gian 5 năm làm việc ở học viện này, Cù Huy Hà Vũ thường xuyên sang Pháp để tiếp tục học tiếng Pháp và học thêm các chuyên ngành quản lư nhà nước, quan hệ quốc tế, luật kinh tế.

Ông tốt nghiệp Học viện Hành chính công tại Pháp. Ông c̣n là Thạc sĩ văn chương, Tiến sĩ Luật (đại học Sorbonne) và họa sĩ - Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam. Dù ông Vũ không có giấy phép hành nghề luật sư, gia đ́nh ông có Văn pḥng luật sư mang tên Cù Huy Hà Vũ, do vợ ông là luật sư Nguyễn Thị Dương Hà làm trưởng văn pḥng. Văn pḥng luật sư Cù Huy Hà Vũ từng bào chữa cho tướng công an Phạm Xuân Quắc trong vụ án Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải liên quan vụ tham nhũng PMU18.”

Với một tiểu sử sáng chói như thế, nếu ở cương vị người khác th́ có lẽ ông đă có vai vế lớn trong đảng CSVN từ lâu rồi. Ngược lại ông Vũ đă không những chỉ quay lưng với “mâm cao cỗ đầy” của hệ thống cầm quyền “cha truyển con nối” mà c̣n hiên ngang đối đầu với cái đảng mà cả Cha và Bác ḿnh đă góp công xây dựng và phục vụ từ khi nhiều người lănh đạo bây giờ chưa mở mắt chào đời.

Trước ngày ông bị bắt đêm mồng 4 rạng ngày 5 tháng 11 năm 2010 tại pḥng 101, khách sạn Mạch Lâm phường 11, quận 6, TP Hồ Chí Minh, nơi nghỉ qua đêm trong một chuyến vào Sài G̣n lo chuyện gia đ́nh, Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ là người bất đồng chính kiến nổi tiếng của Việt Nam.

Màn kịch dàn dựng phao tin bỉ ổi ông Vũ đă liên hệ với “gái mại dâm, quan hệ bất chính, sử dụng ma túy, t́m thấy hai bao cao su đă qua sử dụng” để cuối cùng biến thành vụ án chính trị buộc ông đă có hành động và tàng trữ nhiều tài liệu có nội dung “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo điều 88 của Bộ Luật h́nh sự.

Nạn nhân trong vụ này là Bà Hồ Lê Như Quỳnh, một người bạn của gia đ́nh được ông Vũ nhờ đi mua giúp một số qùa đem về tặng vợ chẳng may đă có mặt trong pḥng với ông Vũ khi Công an ập vào làm biên bản.
Sau đó, Bà Như Quỳnh đă nhờ Luật sư Trần Đ́nh Triển của Văn pḥng Luật sư V́ Dân ở Hà Nội bay vào Sài G̣n cố vấn cho Bà đi kiện một Tờ báo ở Sài G̣n đă đăng tin làm mất danh dự của Bà.

Khi tin ông Vũ bị bắt được loan báo, không ai ở Việt Nam và ngoài nước tin Nhà nước đă nói thật về những chuyện bịa đặt nhằm bôi nhọ thanh danh một người thuộc gia đ́nh Văn học nổi tiếng của Việt Nam.

VI PHẠM LUẬT NÀO?

Có thể ngắn gọn những việc làm nổi bật nhất đă khiến Nhà nước không chịu đựng được như là ông Vũ đă kiện Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng ra ṭa v́ lạm quyền kư lệnh thực hiện dự án khai thác Bauxite trên Tây Nguyên sai luật chỉ làm lợi cho ngoại bang (trường hợp này là Trung Hoa), nhưng nguy hiểm đến an ninh quốc gia và ô nhiễm môi trường cơ cơ nguy làm thiệt hại đến hoa mầu, sinh vật và sức khỏe của người dân Việt Nam.

Ông Vũ cũng lên án việc một số quan chức đầu tỉnh lạm quyền cho các Công ty Tầu, Đài Loan và Hồng Kông thuê đất rừng dài hạn 50 năm trồng cây kỹ nghệ tại những vùng đất chiến lược quốc pḥng đầu nguồn tiếp giáp với biên giới Tầu.

Về Nhà nước, ông đ̣i đảng CSVN phải trả quyền làm chủ đất nước cho dân, chấp nhận đa nguyên đa đảng, bỏ Điều 4 Hiến pháp để chấm dứt vài tṛ độc quyền lănh đạo của đảng.

Ông c̣n lên án Nhà nước đàn áp những người hoạt động dân chủ, đ̣i tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do lập đảng chính trị, tự do lập hội.

Đặc biệt ông đ̣i nhà nước thả hết tù nhân chính trị và tất cả những quân-cán-chính của miền Nam c̣n bị giam giữ, tổ chức truy điệu và ghi công các chiến sỹ Hải quân VNCH đă hy sinh trong cuộc chiến chống Quân Tầu xâm lăng chiếm Quần đảo Hoàng Sa năm 1974.

Ông Vũ cho rằng thật bất công và vô ơn đối các chiến sỹ VNCH, những người Việt Nam khác chiến tuyến khi chiến tranh c̣n tiếp diễn đă hy sinh tính mạng bảo vệ giang sơn của Tổ Quốc lại không được truy điệu và biết ơn như những binh sỹ của Hài quân CSVN đă hy sinh trong trận chống quân Tầu xâm lăng đánh chiếm 8 đảo nhỏ của Việt Nam trong quần đào Trường Sa năm 1988.

Nói tóm lại, ông đă can đảm nói ra những điều làm chói tai đảng, nhưng lại được sự ủng hộ công khai và âm thầm của nhiều tầng lớp người dân trong nước.

Một số Lăo thành Cách mạng, cựu viên chức, tướng lănh cao cấp nghỉ hưu đảng viên đảng Cộng sản đă lên tiếng ca ngợi ḷng yêu nước và ư chí can trường của ông Vũ. Họ nói rằng, ông Vũ đă nói lên nhiều điều họ muốn nói nhưng chưa kịp nói hay không dám nói.

Do đó, nhiều Trí thức trong nước, tiêu biểu như nhóm chủ trương Bauxite Việt Nam đă đưa ra Lời Khuyên Chân T́nh gửi đảng và Nhà nước ngày 13-01-2011, trong đó có đoạn như sau:

“Thưa quư vị lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam,

Chúng tôi trân trọng gửi quư vị văn bản này, vừa có lời bàn bạc cùng quư vị, vừa có mấy điều thỉnh cầu quư vị về vụ Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ.

Thưa quư vị,

Những công dân Việt Nam có tinh thần trách nhiệm ở trong nước và nhiều kiều dân Việt Nam ở nước ngoài, cùng với đông đảo bè bạn thuộc nhiều quốc tịch ở khắp nơi trên thế giới, vẫn theo dơi với một nỗi lo lắng sâu sắc vụ bắt và khởi tố Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ.

Nỗi lo lắng này là cho cả hai phía: lo cho sức khỏe của Luật gia Cù Huy Hà Vũ và cái bản án có thể đến với vị Tiến sĩ Luật c̣n trẻ và sung sức này – nỗi lo lắng đó không chỉ dừng lại ở một phía bên này, nỗi lo lắng cũng hướng sang cả phía những người đang nắm vận mệnh Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ trong tay, lo rằng một hành động khôn ngoan hay thiếu khôn ngoan, một thái độ công minh đúng mực đúng lúc hay một thái độ cố t́nh đàn áp ông Cù Huy Hà Vũ sẽ để lại hoặc là tiếng khen và ḷng biết ơn hoặc là để lại tiếng xấu khó gột rửa trong muôn đời con cháu, hơn thế c̣n tiếp tục đào sâu hố ngăn cách giữa người quan tâm đến vận mệnh đất nước và kẻ cai trị chỉ bằng quyền lực tuyệt đối…”

Nhưng lời khuyên hăy để cho ông Vũ được tại ngoại v́ bệnh tim đă không được Nhà nước nghe theo. Và sau hai lần tự ư gia hạn tạm giữ 4 tháng, Nhà nước CSVN đă quyết định đưa ông dối diện với pháp luật vào ngày 24 tháng 3 (2011).

Nhưng vụ án Cù Huy Hà Vũ không đơn giản như Nhà nước nghĩ, dù có thể tuyên án từ 3 đến 12 năm là mức án tù cao nhất của Điều 88. Bởi lẽ con mắt của cả Thế giới đang hướng về Hà Nội để xem cái Nhà nước tự khoe có “pháp quyền” sẽ đối xử với ông ra sao.

Có hai lư do khiến Hoa Kỳ, nhất là Quốc hội Mỹ; Liên hiệp Châu Âu và các Tổ chức Báo chí và Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và Tư nhân quan tâm đến vụ án Cù Huy Hà Vũ;

1.- Ông Vũ đă thực thi đúng quyền hạn của một công dân theo đúng Hiến pháp qua các thời kỳ:

Hiến pháp năm 1992, Điều 69 viết: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu t́nh theo quy định của pháp luật.”

Hiến Pháp 1980 viết trong Điều 67: “Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu t́nh, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xă hội và của nhân dân.

Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó. Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.”

Hiến pháp năm 1959 viết trong Điều 25: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu t́nh. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”

Hiến Pháp năm, 1946 viết trong Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.”

2.- Việt Nam từng rêu rao ngày đêm là nước có dân chủ và tự do và mọi công dân được luật pháp bảo vệ khi thực hiện quyền này khi Việt Nam, vào ngày 24-09-1982, đặt bút kư vào “CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ, 1966”, trong đó có đoạn quan trọng ghi ở LỜI NÓI ĐẦU sau đây:

“Các quốc gia thành viên Công ước này,

Xét rằng, theo những nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, việc công nhận phẩm giá vốn có và những quyền b́nh đẳng và bất di dịch của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lư và hoà b́nh trên thế giới;

Thừa nhận rằng, những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người;

Thừa nhận rằng, theo Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người th́ chỉ có thể đạt được lư tưởng về con người tự do không phải chịu sợ hăi và thiếu thốn, nếu tạo được những điều kiện để mỗi người có thể hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh tế, xă hội văn hoá của ḿnh;

Xét rằng, theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do của con người;

Nhận thấy rằng, mỗi cá nhân, trong khi có nghĩa vụ đối với người khác và đối với cộng đồng của ḿnh, phải có trách nhiệm phấn đấu cho việc thúc đẩy và tôn trọng các quyền đă được thừa nhận trong Công ước này;
Ng̣ai ra các Điều sau đây c̣n rang buộc Việt Nam phải tôn trọng như :

Điều 1.

“1. Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của ḿnh và tự do phát triển kinh tế, xă hội và văn hoá.

2. V́ lợi ích của ḿnh, mọi dân tộc đều có thể tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cải của ḿnh, miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc.

3. Các quốc gia thành viên Công ước này, kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lư các Lănh thổ uỷ trị và các Lănh thổ Quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc.”

Điều 2.

“1. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lănh thổ và thẩm quyền tài phán của ḿnh các quyền đă được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xă hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác.

2. Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiện bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, th́ mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với tŕnh tự pháp luật nước ḿnh và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này.

3. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết:

a) Bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước này đều nhận được các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành vi của những người thừa hành công vụ gây ra.

b) Bảo đảm rằng bất kỳ người nào có yêu cầu về các biện pháp khắc phục sẽ được các cơ quan tư pháp, hành pháp hoặc lập pháp có thẩm quyền hoặc bất kỳ cơ quan nào khác có thẩm quyền do hệ thống pháp luật của quốc gia quy định, xác định quyền lợi cho họ và sẽ mở rộng khả năng áp dụng các biện pháp khắc phục mang tính tư pháp.

c) Đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền sẽ thi hành các biện pháp khắc phục đă được đề ra.”

Điều 3.

“Các quốc gia thành viên Công ước này cam kết đảm bảo quyền b́nh đẳng giữa nam và nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị mà Công ước đă quy định.”

Như vậy, trong trường hợp Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, ông đă phạm tội ǵ ngoài việc can đảm nói lên nguyện vọng của một công dân cho chính bản thân ông và cho nhiều người khác trong cộng đồng dân tộc?

Và từ ngày kư Công ước này (năm 1982) đến nay, Chính phủ Việt Nam đă chu ṭan nghĩa vụ quốc tế của ḿnh đối với nhân dân chưa, hay đă lấy Luật rừng để đối xử với công dân của ḿnh?

Nếu Nhà nước Việt Nam chưa trả lời được câu hỏi này th́ việc đưa ông Cù Huy Hà Vũ ra ṭa với tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam” chẳng qua cũng chỉ là cái cớ để cưỡng chế ông bằng cường quyền.

Chính phủ Việt Nam v́ vậy đă vi phạm nghiêm trọng vào những điều mà ḿnh đă cam kết tôn trọng trong “CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ, 1966” của Liên Hiệp Quốc.

Do đó tuy ông Vũ không cao lớn ǵ, nhưng với 54 tuổi của một Tiến sỹ Luật tốt nghiệp từ Đại học danh tiếng Pháp, Sorbonne, ông cũng là “khúc xương” khó nuốt cho Nhà nước Việt Nam trong phiên ṭa ngày 24 tháng 3 năm 2011, dù kết qủa có thế nào chăng nữa. -/-

Phạm Trần
(03/011)

* Source: http://tiengnoitudodanchu.org/module...ticle&sid=9539