Page 2 of 17 FirstFirst 12345612 ... LastLast
Results 11 to 20 of 168

Thread: Lê Duẩn đă nói ǵ về " bọn bành trướng Bắc Kinh " ?

  1. #11
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546

    Lê Duẩn thâu tóm quyền lực - BBC phần 2

    Trong các lãnh đạo cộng sản, ông Lê Duẩn được xem là người có kinh nghiệm hoạt động lâu nhất ở ba miền và ở tù lâu nhất
    Tháng 2-1951, diễn ra Đại hội lần thứ Hai của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu việc Đảng Cộng sản ra công khai sau khi đã tuyên bố “tự giải tán” vào tháng 11-1945.

    Cũng tại Đại hội Hai tổ chức ở Tuyên Quang, Đảng Cộng sản thông qua quyết định đổi tên thành Đảng Lao Động.

    Năm 1957, Đảng Lao động Việt Nam điều ông Lê Duẩn ra Hà Nội và chọn ông làm quyền Tổng Bí thư và vào Thường vụ Bộ Chính trị.

    Quyết định đề bạt khá bất ngờ này phản ánh lo ngại ngày càng gia tăng của Đảng về tình hình ở miền Nam.

    Sau này, viết trong tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (tháng Bảy 1969), nhà cách mạng miền Nam Trần Văn Giàu xác nhận giai đoạn 1957-59 là “những ngày đen tối nhất” cho phong trào cách mạng ở miền Nam.


    Nghị quyết 15

    Tuy vậy, mặc dù cho phép gia tăng vũ lực một cách hạn chế ở miền Nam, chính sách của Đảng Cộng sản lúc này không xem việc đẩy mạnh bạo lực cách mạng là ưu tiên. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 14 vào tháng 11-1958, Ban Chấp hành TƯ không xem xét tình hình ở miền Nam, mà đề ra kế hoạch ba năm cho phát triển kinh tế và văn hóa ở miền Bắc. Kế hoạch sau đó được Quốc hội và Bộ Chính trị thông qua.

    Ông Lê Duẩn không tham dự các buổi họp bàn này. Một tháng trước đó, Bộ Chính trị cử ông vào miền Nam để đánh giá tình hình. Khi quay về Hà Nội tháng Giêng 1959, cùng đi với Lê Duẩn là nhiều bí thư đảng bộ ở miền Nam, trong đó có Hai Xô, Trần Lương và Võ Chí Công.


    Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường vận chuyển vũ khí và người từ Bắc vào Nam

    Tại phiên họp lần thứ 15 của Ban Chấp hành TƯ, những người này đã mô tả về “phong trào đấu tranh của đồng bào miền Nam chống Mỹ - Diệm” và thúc giục Ban Chấp hành TƯ ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang.

    Theo nhận định trong một bài viết gần đây về Lê Duẩn của giáo sư Pierre Asselin, Đại học Chaminade, Honolulu, báo cáo của ông Lê Duẩn và các đồng chí miền Nam “nắm bắt cảm giác thất vọng của những người chiến đấu và ủng hộ cuộc cách mạng ở miền Nam.”

    “Họ cũng thể hiện sự gấp rút trong lòng những người kháng chiến miền Nam muốn có phản ứng trước sự ủng hộ ngày càng tăng của Mỹ dành cho chính quyền Sài Gòn.”

    Hội nghị Trung ương lần thứ 15 kết thúc và ra nghị quyết, trong đó một mặt vẫn nhấn mạnh cách mạng ở miền Nam “có khả năng hoà b́nh phát triển”, nhưng mặt khác, chuẩn bị theo phương hướng “khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm.”

    Nghị quyết 15 sau này được xem là nền tảng chỉ đạo cho công cuộc vũ trang ở miền Nam vào cuối thập kỷ 1950.

    Quyết định tái tục đấu tranh vũ trang ở miền Nam được quyết định tại Hội nghị Trung ương 15 tổ chức tháng Giêng 1959, nhưng chỉ được chính thức công bố một tuần sau việc chính phủ tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59 vào tháng Năm.

    Hà Nội cũng đồng ý chính thức đóng góp cho mặt trận ở miền Nam bằng việc gửi quân và tiếp viện. Ngày 19-5, đoàn tiếp vận mang bí số 559 được thành lập để “mở đường tiếp vận cho mặt trận phía nam.” Tháng Tám năm ấy, đơn vị quân miền Bắc đầu tiên lên đường vào Nam qua tuyến vận tải dọc dãy Trường Sơn (‘đường mòn Hồ Chí Minh’).

    Có thể nói nghị quyết 15 là một thắng lợi cho những lãnh đạo cách mạng miền Nam, trong đó có Lê Duẩn. Khi Bộ Chính trị thông qua nghị quyết này, vẫn còn có nhiều người trong Ban Chấp hành TƯ phản đối. William Duiker (trong quyển ‘Hồ Chí Minh’, 2000) nhận xét đa số lãnh đạo trong Đảng “đồng ý rằng đấu tranh vũ trang có thể là cần thiết nếu mọi lựa chọn khác đã thất bại.” Tuy nhiên, vào lúc thông qua nghị quyết 15, nhiều người ở miền Bắc không tin rằng các “lựa chọn” khác đã được cân nhắc kỹ, và cảm thấy chưa chín muồi để chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang.

    Pierre Asselin cho rằng “nếu không có sức ép lớn của miền Nam lên ban lãnh đạo miền Bắc, thì Nghị quyết 15 – quyết định tái bắt đầu chiến sự sau sáu năm gián đoạn – đã không được thông qua.”


    Tổng Bí thư chính thức


    Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ Ba vào tháng Chín 1960. Nghị quyết đại hội kết luận cách mạng Việt Nam sẽ đồng thời thực hiện hai mục tiêu: “tiến hành cách mạng xă hội chủ nghĩa ở miền Bắc” và “giải phóng miền Nam.”


    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Ba từ ngày 5 đến 10-9-1960
    Tại Đại hội Ba năm 1960, ông Lê Duẩn chính thức được bầu làm Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản

    576 đại biểu dự đại hội đã chọn Lê Duẩn làm tổng bí thư và là người đứng đầu Bộ Chính trị.

    Vì sao lại là ông Lê Duẩn, mà không phải đại tướng Võ Nguyên Giáp, người được quốc tế biết đến nhiều nhất chỉ sau ông Hồ Chí Minh?

    Theo giải thích của ông Bùi Tín trong quyển Hoa xuyên tuyết, ưu thế của ông Lê Duẩn là v́ “một tiêu chuẩn tất nhiên hồi ấy, ở tù lâu năm, một bằng cấp cần thiết để được giao quyền cao chức trọng, v́ từ đó được coi là được thử thách nhiều hơn, đáng tin cậy hơn.”

    Hoàng Tùng, trong bài viết năm 2002 trên Tạp chí Cộng sản, cũng nói Lê Duẩn là người "hoạt động cách mạng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam lâu dài nhất, thời gian ở tù lâu nhất" và có "quan hệ rộng với các đồng chí thuộc cả hai thế hệ trong những năm hoạt động bí mật."

    Tuy nhiên, “nhược điểm” ở tù ít của ông Giáp không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến việc ông Duẩn được chọn.

    Tính chất của các mục tiêu đề ra ở Đại hội khiến Lê Duẩn trở thành một ứng cử viên thích hợp hơn. Thứ nhất, niềm tin của ông Lê Duẩn vào phương thức phát triển Sô viết và các nguyên tắc kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” (Nghị quyết Đại hội Ba.) Thứ hai, và quan trọng hơn cả, thời gian hoạt động của Lê Duẩn ở miền Trung và Nam Việt Nam thể hiện kiến thức và uy tín có thể giúp mục tiêu “giải phóng miền Nam” và điều hòa sự hợp tác giữa cán bộ hai miền.

    Ralph Smith (trong quyển “An International History of the Vietnam War”, 1983) cũng ghi nhận thêm một chi tiết: thành công của ông Lê Duẩn ở Đại hội Ba chỉ là một phần trong sự tái tổ chức cơ cấu lãnh đạo mà sẽ kéo dài ở Bắc Việt trong cả một thập niên sau đó.


    [Lúc này] quanh Lê Duẩn vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam.

    Pierre Asselin

    Ralph Smith chỉ ra rằng các thay đổi trong bộ máy nhà nước đã được loan báo ngày 15-7-1960 vào cuối phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới bầu ra. Ông Phạm Văn Đồng tiếp tục là thủ tướng, với năm phó thủ tướng (trong đó có Võ Nguyên Giáp và Phạm Hùng); nhưng ông Trường Chinh không còn là phó thủ tướng mà chuyển sang làm chủ tịch Quốc hội. Những người thân cận của ông cũng bị đưa ra khỏi chính phủ, trong đó Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương không còn có mặt trong Bộ Chính trị.

    Tại Đại hội Ba, một Bộ Chính trị mới 11 người được hình thành gồm các ông: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và Hoàng Văn Hoan. Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng được bầu là thành viên dự khuyết.

    Pierre Asselin ghi nhận ban đầu sự kiểm soát của ông Lê Duẩn đối với công việc của Đảng Lao động và chính phủ còn hạn chế.

    “Xung quanh ông vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, phong độ và được quần chúng yêu mến hơn, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam dẫu rằng Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết 15.”

    Kết quả là khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.

    Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao mặc dù Nghị quyết 15 đã được thông qua từ năm 1959, nhưng ngay cả sau Đại hội Ba năm 1960, vị tân Tổng Bí thư cũng chần chừ chứ chưa thúc ép ban lãnh đạo thực hiện ngay nghị quyết này. Ông Hồ Chí Minh và nhiều lãnh đạo khác cảm thấy còn nhiều vấn đề cản trở việc vạch ra một chiến lược cụ thể, chẳng hạn tác động có thể có đối với Moscow, Bắc Kinh và Washington.

    Tuy nhiên, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao động nhanh chóng thay đổi. Chỉ sau vài năm kể từ lúc trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn đã xác lập uy quyền tối thượng tại Bắc Việt.


    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet...mergence.shtml

  2. #12
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546

    Lê Duẩn cô lập Hồ Chí Minh và Vơ Nguyên Giáp - Những đấu đá trong nội bộ - BBC phần 3

    Trong thập niên 1960, nhóm của ông Lê Duẩn phê phán 'chủ nghĩa xét lại hiện đại'

    Như phần hai của loạt bài này đã nói, khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.

    Một câu chuyện minh họa cho ảnh hưởng có mức độ của ông Lê Duẩn thời kì đầu được Thượng tướng Trần Văn Trà kể lại trong quyển Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng (1992).

    Một ngày của năm 1959, ông Trần Văn Trà nghe bản tin của BBC về cuộc chạm súng giữa một trung đội quân Việt Nam Cộng Hòa và nhóm quân của những người kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Theo bản tin, hai bên rút đi sau hai giờ giao tranh mà không có thương vong. Ông Trà rất ngạc nhiên và kết luận hoặc bản tin của BBC sai lạc, hoặc khả năng tác chiến của những cán bộ kháng chiến miền Nam cần được cải thiện.

    Ngày hôm sau, đi cùng một người bạn, ông Trà đến gặp ông Lê Duẩn và nói cần đưa cán bộ tập kết vào Nam để tăng cường đào tạo cho các đồng chí ở đấy. Ông Duẩn được cho xem đề nghị gửi 100 cán bộ trẻ từ Bắc vào Nam.

    Ông Lê Duẩn ngẫm nghĩ rồi nói sẽ khó thực hiện vì Bộ Chính trị chưa quyết. Khi ông Trà nhấn thêm, ông Duẩn hỏi liệu có giảm số lượng được không.

    Con số mới đưa ra là 50. Ông Duẩn lại bảo ông sẽ tự chịu trách nhiệm nếu con số nhỏ hơn nữa. Cuối cùng, họ đồng ý về con số 25 người.

    Tuy vậy, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao Động Việt Nam sau đó bị phá vỡ.


    Chiếm ưu thế

    Những nghiên cứu gần đây đã cho biết rõ hơn làm thế nào ông Hồ Chí Minh mất dần ảnh hưởng trong tiến trình ra quyết định của Đảng Lao Động kể từ đầu thập niên 1960.


    Ảnh hưởng của ông Hồ Chí Minh trong tiến trình ra quyết định của đảng thập niên 1960 bị suy giảm

    Nói như William Duiker, trong cuốn Hồ Chí Minh (2000), vai trò của ông Hồ ngày càng bị hạn chế ở tư cách “một nhà ngoại giao kỳ cựu và cố vấn cho chính sách ngoại giao, đồng thời làm tròn hình ảnh người cha tinh thần của nhân dân và linh hồn của cuộc cách mạng.” Uy tín cùng mối quan hệ rộng rãi – chẳng hạn, ông Hồ có quan hệ hữu hảo với Mao Trạch Đông – khiến nhóm lãnh đạo trẻ hơn trong Đảng Lao Động Việt Nam, dù muốn hay không, cũng không thể loại hẳn ông ra khỏi tiến trình chính trị và ngoại giao.

    Dù vậy, tính đến thời điểm khi Mỹ chính thức đổ quân vào miền Nam năm 1965, vai trò của ông Hồ Chí Minh ở trong đảng chủ yếu chỉ còn mang tính lễ nghi.

    Một trong những người thân nhất của ông Hồ, ông Võ Nguyên Giáp, cũng bị cô lập sau này. Đối với dư luận quốc tế đương thời, Võ Nguyên Giáp là người anh hùng thứ hai, chỉ sau ông Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Nhiều người trong và ngoài Việt Nam thừa nhận ông là kiến trúc sư tạo nên thắng lợi lẫy lừng ở Điện Biên Phủ, và với quân đội miền Bắc, vị đại tướng có uy tín lớn.

    Sau việc ký kết Hiệp định Geneva 1954, Lê Duẩn và nhiều người khác ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam, trong khi ông Giáp thuộc nhóm chủ trương kiềm chế và thận trọng.

    Ông Giáp, giống như ông Hồ, chấp nhận chủ trương “chung sống hòa bình” mà Liên Xô đưa ra lúc bấy giờ, và đồng thời tin rằng phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước khi nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam.


    Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo trung thành.

    Pierre Asselin

    Thái độ này của tướng Giáp đặt ra một thách thức lớn cho ông Lê Duẩn. Nhưng cuối cùng, ông Lê Duẩn đã giảm bớt được ảnh hưởng của ông Giáp trong bộ máy lãnh đạo của đảng. Việc cô lập tướng Giáp – cùng nhiều đảng viên cao cấp khác – đóng vai trò quan trọng cho việc tìm hiểu ông Lê Duẩn vì nó cho thấy người anh hùng trên chiến trường chưa hẳn là người chiến thắng trên chính trường.

    Trong tiểu luận “Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an Independent Vietnamese State”, trình bày lần đầu ở hội nghị quốc tế về Việt Nam học ở Hà Nội năm 1998, Pierre Asselin nhận xét: “Giống như Mao và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng.”

    “Ký ức về Hiệp định Geneva năm 1954 cũng có thể đã khiến Lê Duẩn tin rằng để cách mạng thành công, ông phải loại bỏ hết những ai không tin vào chiến thắng bằng mọi giá.

    Nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là một phần tiền đề tạo nên cái gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng.”


    Tranh cãi tư tưởng

    Hồi ký “Tử tù tự xử lí” của Trần Thư, người bị dính vào vụ được quen gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, mô tả không khí lúc bấy giờ là “tâm lý chủ chiến bao trùm xã hội miền Bắc” và “nếu có ai chủ trương chung sống hòa bình và thi đua hòa bình giữa hai miền thì cũng chẳng dám nói ra.”

    Mâu thuẫn giữa nhóm của ông Lê Duẩn và những người chỉ trích đạt đỉnh cao ở Hội nghị TƯ 9 năm 1963 và sau đó, tăng tốc với đợt bắt giữ nhiều người ở Hà Nội vào năm 1967.

    Tháng Giêng 1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội và ra một tuyên bố chung phản ánh quan điểm của Liên Xô và ca ngợi chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất.”

    Nhưng sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai nhóm tạm gọi là “thân Liên Xô” và “thân Trung Quốc” trong đảng Lao Động căng thẳng hơn. Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm cho tuyên bố chung của Novotny và bị thay bằng ông Xuân Thủy.

    Sử dụng tư liệu giải mật của Đông Đức, Martin Grossheim, trong bài nói về “chủ nghĩa xét lại” ở Bắc Việt, đăng trong tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, dẫn lời sứ quán Đông Đức ở Hà Nội năm 1963 nói các vị trí chủ chốt ở Bộ Ngoại giao, Thông tấn xã…đã được giao cho các cán bộ “theo sát đường lối Trung Quốc.”

    Đây là các biện pháp chuẩn bị cho chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ, đến Hà Nội tháng Năm 1963. Chuyến thăm đưa Hà Nội đến gần hơn Trung Quốc, với tuyên bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào cộng sản quốc tế.

    Tư liệu giải mật cho biết sứ quán các nước Đông Âu có quan điểm gần Liên Xô như Đông Đức, Hungary và Tiệp Khắc, trong năm 1963, đã báo cáo rằng báo chí ở miền Bắc ngày càng phản ánh quan điểm “thân Trung Quốc.”

    Sứ quán Đông Đức tháng Tám năm ấy kết luận “các nhân tố thân Liên Xô” trong đảng Lao Động đã bị cô lập một cách có hệ thống.

    Đến tháng Chín, một bài báo của ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong đó, tác giả nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng.

    Phía Đông Đức lúc bấy giờ kết luận bài báo của ông Lê Đức Thọ là “một sự tấn công trực diện nhắm đến các đồng chí chia sẻ quan điểm thân Liên Xô,” và là một bước lớn trong sự chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 sắp tiến hành.

    Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của đảng Lao Động ở Hà Nội diễn ra cuối năm 1963 trong bối cảnh vừa xảy ra cuộc đảo chính giết chết tổng thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, đã tạo nên câu hỏi có nhân cơ hội này để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở miền Nam hay không. Đồng thời, cuộc cãi vã giữa Liên Xô và Trung Quốc trên trường quốc tế ngày càng căng thẳng, đặt Hà Nội trong tình cảnh khó xử, vì đảng Lao Động hiểu rằng để đạt mục tiêu thống nhất đất nước, họ sẽ phải dựa vào hai đồng minh này.

    Tại Hội nghị TƯ lần thứ 9, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam.

    Sau Hội nghị TƯ 9, nhóm do ông Lê Duẩn đứng đầu tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Xô, dưới thời Khrushchev, cổ vũ, nhưng Trung Quốc thì chỉ trích).

    Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của ông Lê Đức Thọ, được đăng sau Hội nghị TƯ 9, có sự thừa nhận rằng một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm…những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn ở Hội nghị TƯ 9.

    Ông Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị TƯ 9.

    Sứ quán Đông Đức khi ấy có được trong tay nội dung của các lớp học này, theo đó, các học viên phải hiểu sâu sắc sự khác biệt giữa “chủ nghĩa Mác - Lê chân chính” và “chủ nghĩa xét lại.”

    Nhà nghiên cứu Martin Grossheim nhận xét chiến dịch chỉnh huấn này “không chỉ để đối phó các quan điểm bất đồng trong đảng, mà còn là công cụ tuyên truyền để chuẩn bị cho tinh thần của người ở miền Bắc trước diễn biến chiến tranh leo thang.”


    Diễn biến 1967-68

    Những tranh cãi trong nội bộ đảng không dừng lại ở năm 1963-64 mà sẽ tiếp tục trong giai đoạn 1967-68.

    Ban đầu, vì lo ngại sẽ đánh mất sự hỗ trợ của Liên Xô, nhóm của ông Lê Duẩn thận trọng không đưa ra các tuyên bố công khai phản ánh thái độ bài Liên Xô và thân Mao. Vì lẽ đó, dự thảo nghị quyết của Hội nghị TƯ 9 ban đầu đã kèm cả đoạn văn lên án trực tiếp Khrushchev, nhưng do yêu cầu của Lê Duẩn, đoạn này được bỏ đi.

    Tuy nhiên, Khrushchev mất chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1964, quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, và miền Bắc bắt đầu bị đánh bom năm 1965 – những diễn biến này đã đưa Hà Nội và Moscow gần nhau hơn. Kể từ đó, ông Lê Duẩn và các đồng minh cảm thấy đủ tự tin để theo đuổi chiến dịch loại bỏ chủ nghĩa xét lại một cách công khai và gay gắt hơn.


    Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng trí thức có vai tṛ quan trọng trong xă hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức

    Sophie Quinn-Judge

    Nghiên cứu gần đây nhất về sự kiện này, được Sophie Quinn-Judge công bố trên tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, ước lượng trong sự biến 1967-68, khoảng 30 nhân vật cao cấp bị bắt, và có lẽ có tới 300 người tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí luận, giáo sư, văn nghệ sĩ và phóng viên truyền h́nh được đào tạo ở Moscow. Một trong những người bị bắt đầu tiên là Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, bị bắt tháng 7-1967 và bị tống giam.

    Cần nói rằng người ta vẫn còn biết rất ít về quá trình ra quyết định của Đảng Cộng sản Việt Nam mấy chục năm qua.

    Riêng trong vụ án xét lại 1967-68, không một ai liên lụy được mang ra xét xử. Cho đến thập niên 1990, một số người còn sống và gia đình người đã khuất vẫn gửi các thư và thỉnh nguyện xin phục hồi danh dự. Và như Sophie Quinn-Judge nhận định, “cho đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn công bố rất ít các tài liệu về việc ra quyết định ở cấp cao hơn từ thư khố của chính họ.”

    Có nhiều cách diễn giải khác nhau về sự kiện năm 1967-68.

    Tài liệu có tiêu đề “Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối” do Đảng Cộng sản phổ biến năm 1994, cáo buộc ông Hoàng Minh Chính và nhiều người dính líu vụ án chống Đảng là đã nắm một biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung và định gửi ra ngoại quốc, đồng thời họ bị cho là thu thập tài liệu để tiến tới một chương tŕnh hoặc phác thảo đối lập để chống đối Đảng.

    Trong khi đó, nhiều người bị tù thời kì ấy cho rằng một nguyên nhân của “vụ án chống Đảng” là vì ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ uy tín của ông Võ Nguyên Giáp. Chia sẻ phân tích này, Judith Stowe, trong bài “Revisionism in Vietnam” (1995) nói ông Võ Nguyên Giáp “là đối tượng chính của chiến dịch bài trừ khuynh hướng xét lại.”

    Pierre Asselin, trong bài viết về Lê Duẩn, nói thêm “do quá nguy hiểm nếu công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến đội ngũ ủng hộ vị tướng, đặc biệt những người thân cận và trung thành nhất trong hàng ngũ cấp cao của Đảng và chính phủ.”

    Sophie Quinn-Judge lại cho rằng vụ án chống Đảng 1967-68 thể hiện một cuộc đấu tranh tư tưởng, chứ không đơn thuần mang tính cá nhân, trong nội bộ đảng.

    “Đó là cuộc cạnh tranh giữa [một bên là nguyện vọng] thống nhất dân tộc (trong khuôn khổ liên minh yêu nước), phát triển khoa học và tiến bộ kĩ thuật với [phía bên kia là] khát vọng cách mạng của quần chúng và sức mạnh biến đổi của cách mạng bạo lực. Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng trí thức có vai tṛ quan trọng trong xă hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức.”


    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet...an_part3.shtml

  3. #13
    chuot_congus
    Khách
    Tài ? Tôi không nghỉ như vậy .Nếu đứng ở Vn , ngó chung quanh người Vn th́ có thể cho là Lê Duẩn hay hcm tài giỏi .C̣n nếu như ḿnh gặp ngoài đời , đọc sách , biết gốc gác sự việc th́ chắc là chẳng khen .
    Tất cả hệ thống tư tưởng chính trị csvn đều có cố vấn quan thầy chỉ điểm , copy nguyên bản , thực hiện sau các phong trào cs thế giới , 100% nguyên tắc thuộc ḷng .Chỉ c̣n cái phần văn chương chữ nghĩa khi áp dụng th́ phiên dịch chủ nghĩa cs th́ có phần hay , văn phong dịch chữ rất sâu sắc với người Vn .
    Tài giỏi khi người ta buông th́ ḿnh có thể tồn tại thăng tiến, đằng nầy quan thầy cố vấn biến mất th́ csvn ló cái dạng chậm trí ngay lập tức , tự lập không được , phát triển không được , sáng kiến không có , đông đặc tại thời điểm đó cho dù đồng hồ vẩn tic tac .

  4. #14
    Member
    Join Date
    24-03-2011
    Location
    New England
    Posts
    710

    ~

    Tôi nghỉ đám Lê Duẫn bị sập bẩy của MỸ và Tàu tạo ra . Bẩy này gài thực chất là gài Nga Xô .Trong phe CS Bắc Việt, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ chủ chiến để đánh VNCH bằng mọi giá . Phe VNCH th́ Ngô Đ́nh Nhu biết tỏm cái kế của MỸ nên chủ trương hoà với Bắc Việt để không ai đánh ai . Ngô Đ́nh Nhu nga theo thân Tây Âu ( Pháp) va` chống lại chính sách của MỸ mang quân đổ vào Miền Nam mà không có một hiệp ước pḥng thủ nhứ đă làm với Nhật và Nam Hàn . Chính v́ thế mà anh em ôm Diệm bị chết thăm, các kế hoạch dán điệm ngoài bắc cũng tiêu luôn .

    Nếu Lê Duẫn không chủ chiến th́ khó ḷng lọt vào cái bẩy và kết cuộc Bắc Việt sẽ không bị lệ thuộc Tàu đến sâu nạng như thế đễ dẫn đến cuộc chiến 1979 va sau này .

    Về mưu mẹo th́ Lê Duẫn và Lê Đức Thọ rất mưu kế nhưng tham lam bị che mắt . Nếu tôi là Lễ Duẫn th́ tôi sẽ không đánh Miền Nam bằng mọi giá .

  5. #15
    vnvn
    Khách
    Quote Originally Posted by chuot_congus View Post
    Tài ? Tôi không nghỉ như vậy .Nếu đứng ở Vn , ngó chung quanh người Vn th́ có thể cho là Lê Duẩn hay hcm tài giỏi .C̣n nếu như ḿnh gặp ngoài đời , đọc sách , biết gốc gác sự việc th́ chắc là chẳng khen .
    Tất cả hệ thống tư tưởng chính trị csvn đều có cố vấn quan thầy chỉ điểm , copy nguyên bản , thực hiện sau các phong trào cs thế giới , 100% nguyên tắc thuộc ḷng .Chỉ c̣n cái phần văn chương chữ nghĩa khi áp dụng th́ phiên dịch chủ nghĩa cs th́ có phần hay , văn phong dịch chữ rất sâu sắc với người Vn .
    Tài giỏi khi người ta buông th́ ḿnh có thể tồn tại thăng tiến, đằng nầy quan thầy cố vấn biến mất th́ csvn ló cái dạng chậm trí ngay lập tức , tự lập không được , phát triển không được , sáng kiến không có , đông đặc tại thời điểm đó cho dù đồng hồ vẩn tic tac .
    CSVN cái ǵ củng dỡ và ngu. Mà không biết tại sao tụi nó dí Tui chạy từ Á sang Mỹ Châu. Tụi nó củng không xin tiền mà sao Tui cứ gởi tiền về nuôi tụi nó. Mỹ củng vậy bị tụi nó đánh cho xiễn niễng giờ củng lại bang giao rồi Hillary bênh tụi nó, no understand !!!!!. Everybody i x́ tú bịt............. ....

  6. #16
    chuot_congus
    Khách
    Quote Originally Posted by vnvn View Post
    CSVN cái ǵ củng dỡ và ngu. Mà không biết tại sao tụi nó dí Tui chạy từ Á sang Mỹ Châu. Tụi nó củng không xin tiền mà sao Tui cứ gởi tiền về nuôi tụi nó. Mỹ củng vậy bị tụi nó đánh cho xiễn niễng giờ củng lại bang giao rồi Hillary bênh tụi nó, no understand !!!!!. Everybody i x́ tú bịt............. ....
    Coi thằng thầy của nó đi ṛi muốn nói ǵ th́ nói .Giờ thầy nó tát tai nó hoài ḱa , bạn có biết ai bị xáng mấy bạt tai mà không dám kêu đau quá hông .:D

  7. #17
    chuot_congus
    Khách
    Quote Originally Posted by trọng tài View Post
    Bạn viết bài như vầy phe CS mà đọc được th́ mừng lắm, v́ có cảm giác bạn đá gị lái VNCH ? nhất là đoạn cuối !!!

    Cẩn thận khi phản biện, trừ khi bạn là CS.

    Theo ư bạn là phản biện phải theo lề phải ?

  8. #18
    chuot_congus
    Khách
    Quote Originally Posted by trọng tài View Post
    Không phải, tôi không có quan tâm là lề trái hay phải, chỉ nói cái đúng- sai.

    Khi bạn viết câu này:

    Bạn nên ghi rơ vấn đề. Nếu không người đọc sẽ hiểu nhầm bạn đá gị lái VNCH, tại v́ khi Mỹ bỏ VNCH th́ chỉ có 2 năm miền Nam đă bị mất.

    Chỉ vài ḍng góp ư, không dám dạy khôn, đừng hiểu nhầm ư tôi.
    bạn có phê ś ke ǵ hông vậy , tui đang nói về Lê Duẩn và csvn .

  9. #19
    vnvn
    Khách
    Quote Originally Posted by trọng tài View Post
    Không phải, tôi không có quan tâm là lề trái hay phải, chỉ nói cái đúng- sai.

    Khi bạn viết câu này:

    Bạn nên ghi rơ vấn đề. Nếu không người đọc sẽ hiểu nhầm bạn đá gị lái VNCH, tại v́ khi Mỹ bỏ VNCH th́ chỉ có 2 năm miền Nam đă bị mất.

    Chỉ vài ḍng góp ư, không dám dạy khôn, đừng hiểu nhầm ư tôi.
    Câu nói " Không phải, tôi không có quan tâm là lề trái hay phải, chỉ nói cái đúng- sai."... là bạn nói sai sự thật. Chính bạn mới là người suy nghĩ một chiều theo một lề.
    Đúng như lời của cựu PTT Nguyển Cao Kỳ nói: " VN cần phải Thống Nhất, ḿnh không làm được, người anh em miền Bắc làm được ḿnh nên ũng hộ". Lê Duẫn là người đă chủ trương và đă làm được. Có thể nói HCM chĩ là biểu tượng của ĐCSVN là chiếc xe lửa và Lê Duẫn là đầu tàu. Như Dr Trần nói, chưa có người nào có lư luận sắt bén tài giơi như ông ta, cho dù có ghét nhưng củng phải công nhận LD là người có công trong việc dựng nước và giữ nước.

  10. #20
    Member
    Join Date
    24-03-2011
    Location
    New England
    Posts
    710
    Quote Originally Posted by vnvn View Post
    Câu nói " Không phải, tôi không có quan tâm là lề trái hay phải, chỉ nói cái đúng- sai."... là bạn nói sai sự thật. Chính bạn mới là người suy nghĩ một chiều theo một lề.
    Đúng như lời của cựu PTT Nguyển Cao Kỳ nói: " VN cần phải Thống Nhất, ḿnh không làm được, người anh em miền Bắc làm được ḿnh nên ũng hộ". Lê Duẫn là người đă chủ trương và đă làm được. Có thể nói HCM chĩ là biểu tượng của ĐCSVN là chiếc xe lửa và Lê Duẫn là đầu tàu. Như Dr Trần nói, chưa có người nào có lư luận sắt bén tài giơi như ông ta, cho dù có ghét nhưng củng phải công nhận LD là người có công trong việc dựng nước và giữ nước.
    Cái ngu của Lê Duẫn là thốgn nhất đất nước bằng mọi giá . Hậu qu?A hôm nay là cái ngu đó .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 19-11-2011, 10:22 AM
  2. Replies: 1
    Last Post: 09-11-2011, 10:20 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 12-07-2011, 10:22 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 07-05-2011, 11:06 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •